Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

vận dụng tư tưởng hồ chí minh trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.42 KB, 32 trang )

LỜI CẢM ƠN
Đề hoàn thành đề tài tiểu luân này em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến
TS. Lê Thị Vân Anh – giảng viên bộ môn đã truyền đạt những kiến thức, kinh
nghiệm quý báu trong thời học tập để em có thể vận dụng những kiến thức đã
tiếp thu được để vận dụng vào bài tiểu luận này.
Trong q trình học tập và nghiên cứu để hồn thiện bài tiểu luận này
cũng không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, em rất mong muốn
nhận được những góp ý của thầy cơ.
Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
LỜI CẢM Ơ

PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.........................................................................................1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................1
3. Mục đích thực hiện đề tài............................................................................1
4. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................1
5. Ý nghĩa nghiên cứu.....................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................2
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG, TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHỊNG CHỐNG THAM NHŨNG................2
1.1. Khái niệm tham nhũng.............................................................................2
1.2. Đặc trưng cơ bản của tham nhũng...........................................................2
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phịng, chống tham nhũng....................3
Chương 2. THỰC TRẠNG THAM NHŨNG VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH TRONG CƠNG TÁC PHỊNG, CHỒNG THAM NHŨNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................10
2.1. Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay........................................10
2.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước trong cơng tác phịng, chống tham


nhũng.............................................................................................................14
2.3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đấu tranh phịng,
chống tham nhũng ở Việt Nam.....................................................................20
Chương 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHÒNG, CHỐNG THAM
NHŨNG..............................................................................................................25
3.1. Nguyên nhân của tệ nạ tham nhũng.......................................................25
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng.........25
KẾT LUẬN........................................................................................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................30


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây ở nước ta, tham nhũng và phòng chống tham
nhũng đang là vấn đề vơ cùng nóng bỏng, được cả Nhà nước và xã hội quan
tâm. Nhận thức được những hậu quả mà tham nhũng gây ra, Nhà nước và Quốc
hội đã đặc biệt xem trọng vấn đề này, đã xây dựng các văn bản luật, có các biện
pháp ngăn ngừa, xử lý tệ nạn này. Trong quá trình thực hiện, Đảng và Nhà nước
ta đã học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc kiên quyết phịng, chống tham
nhũng. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
trong cơng cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: phịng, chống tham nhũng, tư tưởng Hồ Chí
Minh về phịng, chống tham nhũng, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng
chồng tham nhũng ở Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: cơng tác phịng, chống tham nhũng ở Việt nam hiện
nay
3. Mục đích thực hiện đề tài
Việc nghiên cứu giúp ta hiểu được thế nào là tham nhũng, tư tưởng Hồ
Chính Minh về phịng, chống tham nhũng; vì sao phải tiến hành đấu tranh

phòng, chống tham nhũng, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào cơng tác phịng,
chống tham nhũng.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân
tích – tổng hợp, phương pháp so sánh,…
5. Ý nghĩa nghiên cứu
Đề tài góp phàn làm rõ thế nào là tham nhũng, tư tưởng Hồ chú Minh về
phòng, chống tham nhũng. Việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.

1


NỘI DUNG
Chương 1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG, TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ PHỊNG CHỐNG THAM NHŨNG
1.1. Khái niệm tham nhũng
Tham nhũng là gì? Có khá nhiều khái niệm về định nghĩa về tham nhũng
với những ưu điểm riêng của nó như:
Theo Từ điển bách khoa thư Wikipedia: dẫn theo Tổ chức Minh bạch
Quốc tế (Transparency International – TI), tham nhũng “là hành vi của người
lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi
ích cá nhân”. Nhận định trên ngắn gọn, dễ hiểu nhưng tính chính xác chưa cao,
khơng bao quát hết tác động của hành vi này đến các đối tượng khác.
Trong khoản 2, Điều 1 của Luật Phịng, chống tham nhũng của Nhà nước
ta (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/6/2006) đã ghi: “Tham nhũng là hành vi của
người có chứcvụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
Như vây, tham nhũng có thể được hiểu như sau: “Tham nhũng là hành vi
suy đồi phẩmchất của cán bộ công chức sử dụng bộ máy công quyền đoạt chiếm

các giá trị của cá nhân và xã hội”.
1.2. Đặc trưng cơ bản của tham nhũng
Căn cứ theo quy đinh của pháp luật Việt Nam, tham nhũng có những đặc
trung cơ bản sau:
- Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn, họ thường là
những người có q trình cơng tác và cống hiến nên có nhiều kinh nghiệm, là
những chuyên gia trên nhiều lĩnh vực khác nhau; là những người có quan hệ
rộng và có uy tín xã hội nhất định. Điều này gây khó khăn cho việc phát hiện,
điều tra, xem xét, xét xử hành vi tham nhũng
- Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao; những đối
tượng này lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi. Khi thực hiện hành vi tham
nhũng, các đối tượng phải sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình như một
phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình hoặc cho người khác.
2


Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi tham nhũng. Một người có chứ vụ,
quyền hạn nhưng khơng lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó thì khơng thể có hành
vi tham nhũng.
- Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi: hành vi tham nhũng là hành
vi cố ý, vụ lợi. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần
mà người có chức vụ, quyền hạn, đã đạt được hoặc có thể đạt được thơng qua
hành vi tham nhũng. Khi xử lý về hành vi tham nhũng không bắt buộc chủ thể
tham nhũng phải đạt được lợi ích.
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phịng, chống tham nhũng
a) Quan điểm vè phòng, chống tham nhũng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham nhũng là căn bệnh xấu xa trong xã hội,
vì thế chúng ta cần phải xố bỏ tận gốc, nhằm giúp đỡ, ngăn chặn và hướng tới
xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng viên trong sạch. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng: “Chúng ta làm cách mạng là để tiêu diệt chế độ thực dân, phong kiến, xây

dựng dân chủ mới. Đó là một xã hội tự do, bình đẳng, một xã hội cần, kiệm,
liêm, chính, cho nên phải tẩy cho sạch hết những thói xấu của xã hội cũ, phải
chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu”.
Ở nước ta hiện nay, phòng chống tham nhũng là một vấn đề nóng bỏng.
Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người đã có sự quan tâm rất sớm,
rất kiên quyết về phòng, chống tham nhũng ngay từ những ngày đầu thành lập
chính quyền. Ngày 27/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh ấn định hình
phạt tội đưa và nhận hối lộ sẽ bị phạt từ 5 đến 20 năm khổ sai và phải nộp phạt
gấp đôi số tiền nhận hối lộ. Ngày 26/01/1946, Người lại ký “Quốc lệnh”, khép
tội trộm cắp của cơng vào tội tử hình và nói rõ “phải thẳng tay trừng trị những
kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”. Người cho thấy rõ
khi để xảy ra tham nhũng là có phần trách nhiệm thuộc về lãnh đạo, về chính
sách dùng người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến vấn đề này và việc
phải làm gì để chống lại tham nhũng, lãng phí và quan liêu đã trở thành một
trong những nội dung quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người.
Hồ Chí Minh coi “ quan liêu, tham ô, tham nhũng” là các tệ nạn, nhắc nhở
3


đội ngũ cán bộ, đảng viên cần phải tránh xa các tệ nạn này, nâng cao đạo đức
cách mạng, xứng đáng là những người đày tớ trung thành của nhân dân. Hồ Chí
Minh đã khơng sử dụng từ “tham nhũng” mà à “tham ô”, nhưng thực chất, tham
ô chỉ là một các diễn đạt dễ hiểu, phổ biến của tham nhũng. Theo Hồ Chí Minh,
người mắc tội tham ơ được nhìn nhận như loại người đã lạm dụng “cái ơ” quyền
lực (quyền hạn) được trao các cán bộ, đảng viên có chức quyền, chức trách để
nhũng nhiễu, vịi vĩnh nhân dân, những người dưới quyền hòng đòi ăn “của đút”,
ăn “hối lộ”
Giữa các tệ nạn này thì tệ quan liêu được coi là nguên nhân cơ bản dẫn
đến tệ tham ô, lãng phí. Người đã nêu rõ: “bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng,
che chở cho nạn tham ô, lãng phí”. Giữa tham ơ và lãng phí thì tệ mãng phí có

khi lại cịn tai hại hơn. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Lãng phí tuy khơng lấy của cơng
đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ.
Các tệ nạn quan liêu, thâm ơ, lãng phí được Hồ Chí Minh nhìn nhận là các
loại “giặc” làm hại nhân dân. Người đã chỉ rõ: “Tham ô, lãng phí, quan liêu là
một thứ giặc ở trong lịng”, “ tham ơ, lãng phí, quan liệu có hại cho dân cho
nước”. Các tệ nạn này là “kẻ thù của nhân dân…kẻ thù khá nguy hiểm” và được
đẻ ra từ chủ nghĩa cá nhân – kẻ thù nguy hiểm nhất trong quá trình xây dựng xã
hội mới, tiến bộ vì con người.
Chủ nghĩa cá nhân là căn nguyên đẻ ra xá tệ nạn quan liêu, tham ơ, lãng
phí chính là do quyền lực được trao của cán bộ, đảng viên có chức trách trong
bộ máy nhà nước đã bị tha hóa lại khơng được kiểm sốt chặt chẽ. Do đó, để
loại trừ, kiểm sốt tệ nạn này phải loại trừ chúng từ “gốc”
b) Một số phương pháp phòng, chống tham nhũng
Theo Hồ Chí Minh có một số biện pháp để phịng, chống những tệ nạn đó
như sau:
Thư nhất, phả dung “phép luật của nhân dân” để thực hiện phòng, chống
các tệ quan liêu, tham ơ, lãng phí
Vai trị to lớn của pháp luật trong việc phòng, chống các tệ nạn này đã
được Hồ Chính Minh chỉ rõ: “Phép luật là phép luật của nhân dân, dung để ngăn
4


cản những hành động có hại cho nhân dân, để bảo vệ lới ích chung của đại đa số
nhân dân”. Theo Người, sử dụng pháp luật trong việc phòng, chống các tệ nạn
này cần phải được coi trọng, được thực thi một cách kịp thời. Có luật pháp rõ
ràng, đầy đủ và thực hiện nghiêm minh là cơ sở quan trọng để có thể loại trừ các
tệ nạn do chính những người có quyền lực trong bộ máy cơng quyền gây ra.
Hồ Chí Minh nhận thấy rằng, nếu khơng co pháp luật nghiêm minh, việc
thống tham ơ, lãng phí sẽ khơng có hiệu quả, vì “đảng viên thường xem pháp
luaatjm chính quyền…là việc trong nhà”. Người đã thẳng thắn phê bình các

khiếm khuyết khi xử lý các vụ việc về quan liêu, tham nhung, lãng phí khơng
nghiêm theo pháp luật như “có cán bộ đảng viên lợi dụng quyền thế của Đảng và
Nhà nước làm những việc trái với chính sách và pháp luật, xâm phạm đến lợi ích
vật chất và quyền tự do dân chủ của nhân dân, nhưng cũng chức bị xử lý kịp
thời… như vậy là kỷ luật chưa nghiêm”
Thứ hai, sử dụng phương thức bầu cử dân chủ để thực hiện, phòng chống
các tệ nạn quan liêu, tham ơ, lãng phí
Phịng chống các tệ nạn này khơng chỉ cần phải có luật pháp rõ rang, đầy
đủ, thực hiện nghiêm minh mà cịn cấn phải có cách thức bầu cử đảm bảo dân
chủ. Hồ Chí Minh đã coi các công việc tổ chức bầu cử một các dân chủ là rất
quan trọng để tạo ra cơ chế kiểm sốt sự tha hóa quyền lực của những người
được bầu ra.
Bầu cử theo một quy tình dân chủ kết hợp với luật pháp rõ rang, nghiêm
minh sẽ làm cho những người bầu ra luôn phải bị giám sát, kiểm sốt; họ buộ
phải biết nhìn nhận mình, biết chịu trách nhiệ về cương vị đã được nhân dân trao
cho. Bầu cử dân chủ có thể được coi là cách thức để bảo đảm thức chất cho nhân
dân vừa là “ông chủ năm chính quyền” lại vừa có thể kiểm sốt được sự tha hóa
quyền lực của những người có “chức trách” mà chính họ đã bầu ra.
Về phương thức bầu cử dân chủ, Hồ Chí Minh đã đưa ra quy trình bãi
miễn dân cử, đưa ra một số cách thức bầu cử cụ thể trong từng tổ chức của hệ
thống chính trị. Chằng hạn, như trong các cơ quan của bộ máy nhà nước, thì
người Chủ tịch Ủy ban hành chính có thể được nhân dân bầu ra trực tiếp hoặc
5


gián tiếp thông qua đại biểu Hội dồng nhân dân; cịn trong Đảng, theo Người
việc kiểm sốt quyền lực người có chức vụ thể hiện ở việc quần chúng đảng viên
cử hoặc không cử vào cơ quan lãnh đạo đơi với các tổ chức quần chúng. Người
cũng đã nêu cụ thể: “Ở quần chúng, khai hội, phê ình và bày tỏ ý kiến, bầu cử
các ủy bạn, các hội đồng…đó là những cách quần chúng kiểm soát những người

lãnh đạo”
Cùng với thực hiện các quy trình bãi miễn đối với những đại biểu dân cử,
việc bầu cử bảo đảm dân chủ có vai trị rất lớn để phịng, chồng các tệ nạn quan
liêu, tham nhũng, lãng phí phát sinh từ loại giặc nội xâm mà sinh thời Hồ Chí
Minh đã cho là rất nguy hiểm. Người đã từng nêu rõ: “Về mặt chính trị thì nhân
dân dùng lá phiếu mà chống với quân địch. Một lá phiếu cũng có sức mạnh như
một viên đạn”
Thứ ba, sử dụng cơ chế kiểm sốt quyền lức nhà nước nói chung và cơ
chế kiểm soát quyền lức được trao của đội ngũ cán bộ, đảng viên, những người
có chức trách trong các tổ chức của hệ thống chính trị nói riêng để thức hiện
phịng, chống quan liêu, tham ơ, lãng phí. Cơ chế kiểm sốt quyền lực được thực
hiện thơng qua các cách thức sau:
- Kiểm soát quyền lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên có chức trách từ bên
trong nhà nước, thiết lập tổ chức bộ máy nhà nước hợp lý, khoa học, có thể kiểm
sốt nội bọ giữa các cơ quam cá nhân có quyền lực trong bộ máy đó. Đây có thể
được coi là cách thức kiểm sốt bằng việc xây dựng thể chế nhà nước theo
hướng nhà nước pháp quyền, mà ngay từ những năm đi tìm đường cứu nước,
Người đã đề nghị với nhà cầm quyền Pháp trong Bản yêu sách của người dân An
Nam về vấn đề này. Hiến pháp năm 1946 cũng thể hiện điều này, khi trong cơ
cấu quyền lực của bộ máy nhà nước bao gồm các cơ quan có quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp tương đối độc lập về mặt tổ chức, thể hiện sự phân quyền
theo chiều ngang khá rõ. Đảng được coi là lực lượng “cầm quyền”, Đảng cầm
quyền thông qua sự lãnh đạo, quản lý trực tiếp của đội ngữ đảng viên giữ các vị
trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước.
Đội ngũ đảng viên đó đều phải do nhân dân bầu ra trực tiếp hoặc gián
6


tiếp. Đảng cầm quyền như vậy cũng tức là nhân dân cầm quyền, bởi nhân dân
“là ơng chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành

chính quyền ấy”. Do vậy, việc áp dụng thể chế “Đảng cầm quyền” ở nước ta
cũng chính là một phương pháp để có thể kiểm sốt được quyền lực của đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước khỏi bị tha hóa.
Ngồi ra, Người cịn thiết lập ra một số ban Thanh tra, Tịa án thể hiện
tính độc lập như “Ban Thanh tra đặc biệt”, “Tòa án đặc biệt”. Chẳng hạn, Sắc
lệnh số 261/SL ngày 28-3-1956 về việc thành lập Ban Thanh tra Trung ương của
Chính phủ, trong đó đã quy định rõ nhiệm vụ của Ban này là “thanh tra việc
thực hiện kế hoạch nhà nước, việc sử dụng, bảo quản tài sản nhà nước, chống
phá hoại, tham ơ và lãng phí”.
- Kiểm sốt quyền lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên có chức trách từ bên
ngồi nhà nước, tức kiểm sốt từ nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội, thơng qua các hình thức dân chủ trực tiếp hay gián tiếp như bầu cử,
bãi miễn, phê bình, giám sát, bằng các phương tiện truyền thơng. Hồ Chí Minh
đã từng nêu rõ: “… chỉ có chế độ của chúng ta mới thật sự phục vụ lợi ích của
nhân dân, trước hết là nhân dân lao động, bảo đảm mọi quyền lợi của nhân dân,
mở rộng dân chủ để nhân dân thật sự tham gia quản lý nhà nước”.
Thứ tư, sử dụng phương pháp “khéo léo” để kiểm soát sự tha hóa quyền
lực của những người có chức trách trong hệ thống chính trị thực hiện phịng,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Đây có thể được coi là phương pháp tổng hợp các phương pháp khác
nhau, nhưng kết hợp với phương pháp khéo léo, tức sử dụng nghệ thuật lãnh
đạo, quản lý trong phòng, chống các tệ nạn này. Hồ Chí Minh đã đúc kết rằng:
“Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được
thi hành khơng, thi hành có đúng khơng; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua
chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát. Khéo kiểm soát, bao nhiêu khuyết
điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”.
Khéo léo trong kiểm tra, kiểm sốt tức là thực hiện các cơng việc này phải dựa
trên cơ sở khoa học, có cơ chế chặt chẽ, phương pháp kiểm tra linh hoạt, đa
7



dạng về hình thức như: kiểm tra, giám sát, phê bình và tự phê bình; kết hợp giữa
tính giáo dục và răn đe nghiêm khắc, giữa kiểm tra từ dưới lên, từ trên xuống;
kiểm tra thường xuyên, định kỳ, bất thường; kiểm tra trực tiếp, gián tiếp, đi đến
tận nơi.
Theo Hồ Chí Minh, sử dụng phương pháp khéo léo để phịng chống các tệ
nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí được thể hiện rõ nhất trong “khéo” lãnh
đạo, quản ý đối với cơng tác này. Điều đó có nghĩa là, những người lãnh đạo quản lý (gọi chung là người có chức trách) cần phải biết dám vượt qua những sai
lầm, tư duy giáo điều, bỏ đi cái “nếp cũ” và áp dụng những phương pháp “mới”
trong phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Chẳng hạn, như phịng, chống các tệ nạn này bằng cách thực hiện đổi mới
thể chế, tăng cường sự minh bạch, hay đảm bảo tôn trọng “sự thật” trong quá
trình lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước.
Hồ Chí Minh đã từng nêu rõ: "Lãnh đạo khéo, tài nhỏ có thể hóa ra tài to. Lãnh
đạo khơng khéo, tài to cũng hóa ra tài nhỏ"; hơn nữa: "Nếu lãnh đạo khéo thì
việc gì khó khăn mấy và to lớn mấy, nhân dân cũng làm được".
Hiện nay, tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí ở nước ta là vấn đề
nổi cộm và “nóng” nhất, gây ra nhiều bức xúc trong xã hội. Việc thực hiện
phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí theo các phương pháp của Hồ Chí
Minh như được phân tích ở trên là có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
Theo đó, để phịng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí đạt được hiệu
quả, rất cần phải đổi mới phương pháp theo hướng loại trừ được căn nguyên từ
gốc rễ sinh ra các tệ nạn này. Điều đó đồng nghĩa với việc phải tiếp tục có sự đổi
mới thể chế chính trị, xã hội. Thể chế chính trị, xã hội có nhiều bất cập được coi
là căn nguyên gốc rễ dẫn đến các tệ nạn này. Ở nước ta hiện nay, thể chế chính
trị, xã hội đang được đổi mới cùng với đổi mới về kinh tế.
Thể chế chính trị, xã hội hiện vẫn cịn khơng ít những bất cập, chưa phù
hợp với thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường theo hướng hiện đại. Do vậy,
theo chúng tôi, tiếp tục đổi mới thể chế chính trị, xã hội theo hướng tập trung
xây dựng, hồn thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và xã hội

8


dân sự cần phải được coi là giải pháp thực hiện từ gốc để đạt được hiệu quả cao
trong phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.
Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự khi được xây dựng hoàn chỉnh, thì
có thể ví nước ta như một người có thể chế kinh tế thị trường hiện đại đang được
hoàn thiện với hai (đôi) “chân” chắc khỏe, cân xứng kết hợp hài hịa giữa “cơng
hữu” và “tư hữu”, lại có thêm đôi "tay" chắc khỏe, cân xứng bao gồm "nhà nước
pháp quyền" và "xã hội dân sự" tạo nên "cơ chế" hợp lý trong việc kết hợp hài
hòa giữa hai mặt "quyền" và "lợi", tức giải quyết hiệu quả những mâu thuẫn,
xung đột, tiêu cực (trở ngại) phát sinh trong q trình phát triển đi lên của đất
nước.
Nói cách khác, Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và xã hội
dân sự được xây dựng hoàn chỉnh ở nước ta sẽ chính là cơ chế hiệu quả để kiểm
sốt sự tha hóa của quyền lực phát sinh từ thể chế kinh tế thị trường, đáp ứng
yêu cầu dân chủ hóa xã hội, đồng thời trợ giúp những người yếu thế, giải quyết
hài hịa về lợi ích giữa các giai tầng, các nhóm, các cá nhân, tạo lập sự công
bằng trong xã hội.
Cùng với phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, việc xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và xã hội dân sự phù hợp
với đặc điểm cụ thể ở nước ta chính là các giải pháp thiết thực, hiệu quả, thực
hiện một cách đồng bộ cả đổi mới kinh tế và chính trị, xã hội, tạo động lực mới
cho đất nước phát triển bền vững để hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” như Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp năm
2013 đã xác định.

9



Chương 2
THỰC TRẠNG THAM NHŨNG VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH TRONG CƠNG TÁC PHỊNG, CHỒNG THAM NHŨNG Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay đang mang đến rất nhiều
nguy hại, hành vi tham nhũng khơng cịn chỉ dừng lại là hành vi của một cá
nhân có chức có quyền mà nó đang dần lan tràn, trở thành hành vi của cả một
tập thể ban lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Tham nhũng không chỉ diễn ra một cách
ngấm ngầm trong nội bộ một cơ quan, mà nó cịn là sự cấu kết một cách có tổ
chức, có liên kết với một vài cơ quan, đơn vị khác,…. Các ý kiến phát biểu tại
phiên thảo luận về tham nhũng trong Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ giữa
kỳ ngày 9/6/2006 đã nhận định: “Tham nhũng ở Việt Nam đến mức báo động”.
Theo công bố của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) công bố năm 2017,
chỉ số CPI của Việt Nam đã tăng nhẹ trong 2 năm 2016 và 2017, đạt 35/100
điểm và xếp hạng 107/180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Chỉ số CPI
tăng cho thấy những nỗ lực cố gắng phòng, chống tham nhũng những năm vừa
qua của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã đạt được những hiệu quả tích cực.
Tuy nhiên, khi xét trên thang điểm 100 của CPI, số điểm 35 của Việt Nam vẫn bị
coi là vơ cùng nghiêm trọng.
Theo TS Đăng Hồng Giang, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu phát
triển và Hỗ trợ cộng đồng (CECODES), chỉ số xếp hạng và nhận định của Tổ
chức Minh bạch Quốc tế đã phản ánh đúng vấn đề tham nhũng tại Việt Nam
những năm vừa qua. Có thể nói, mỗi người dân tại nước ta đều phải trải nghiệm
vấn đề tham nhũng ở khu vực cơng khi đến cơ quan hành chính, khi đi bệnh
viện, khi đến trường học, và thậm chí là di chuyển giao thông trên đường. Theo
ông Giang: “Năm 2016, chúng tôi đã công bố chỉ số hiệu quả quản trị và hành
chính cơng cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI), tỉ lệ người dân cho biết họ phải chi "lót
tay" cho công chức để làm xong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tiếp tục
tăng lên. Ngồi ra, hiện trạng vịi vĩnh trong khu vực công ngày càng phổ biến.”

10


Ngành Xây dựng cơ bản đứng đầu bảng tham nhũng và thứ hai là
ngành Giao thông - Vận tải.
Sau chiến tranh, kiến thiết quốc gia, ngành Xây dựng cơ bản có vai trị
quan trọng hàng đầu. Ngành Xây dựng cơ bản được ví là xương sống, thứ đến là
ngành Giao thông - Vận tải được xem là huyết mạch của công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội. Hai ngành này có những cơng lao, thành tích rất to lớn, vẻ vang,
đã dựng xây những cơng trình ngang tầm khu vực và thế giới, góp phần làm cho
đất nước ta đàng hoàng, to đẹp hơn mười ngày xưa.
Tuy vậy, về khuyết điểm, đây cũng được đánh giá là 2 ngành xà xẻo, rút
ruột công quỹ lớn nhất.
Như chúng ta đã biết, với mọi cơng trình xây dựng, việc hệ trọng trước
tiên là xác lập định mức tiêu chuẩn kỹ thuật cơ bản, thậm chí cịn gia thêm hệ số
an tồn để đảm bảo độ bền vững lâu dài. Thế nhưng, cả 2 ngành này đều có
nguy cơ tham nhũng lớn ngay từ khâu đầu tiên khi làm dự toán thiết kế đề án.
Những “quan tham” thường kê khai nguyên vật liệu tăng cao gấp nhiều lần định
mức tiêu chuẩn kỹ thuật đã được xác lập. Qua đó, tham ơ một lượng lớn tiền, tài
sản của Nhà nước. Quá trình thi công lại tiếp tục ăn cắp nguyên vật liệu hoặc
đánh tráo ngun vật liệu, khiến cho cơng trình bị kém chất lượng. Nhà nước
buộc phải chi thêm tiền duy tu, sửa chữa, đội vốn đầu tư, kéo dài thời gian thi
công. Không chỉ ngân sách bị thiệt hại lớn, mà nguy hại hơn nhiều là gây bao
thương tật, cái chết cho con người, làm mất uy tín của Đảng và Nhà nước.
Qua các vụ án kinh tế cho thấy tình hình tham nhũng của các dự
án thường gắn chặt trong một móc xích với các vấn đề về hối lộ và tham ô bất
động sản.
Về ngành Xây dựng cơ bản, vụ án Trịnh Xuân Thanh là một điển hình về
“siêu chạy hối lộ” bằng ma lực đồng tiền, liên quan đến nhiều ban, bộ ở Trung
ương và lãnh đạo, ngành ở địa phương.

Trịnh Xuân Thanh là một cán bộ không có gì xuất sắc, được bầu làm Phó
Tổng Giám đốc Tổng Cơng ty Xây lắp dầu khí (PVC) và nhanh chóng làm Chủ
tịch Hội đồng Quản trị (HĐQT) PVC của Tập đồn Dầu khí Việt Nam (PVN) do
11


ông Đinh La Thăng làm Chủ tịch Hội đồng Thành viên.
Năm 2012, PVC thua lỗ hơn 1.800 tỷ đồng, nhưng được tuyên dương
danh hiệu Anh hùng Lao động!
Trịnh Xuân Thanh được điều lên làm Phó Chánh Văn phịng Bộ Cơng
Thương, rồi được điều về làm Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang. Thường vụ
Tỉnh ủy Hậu Giang bầu Trịnh Xuân Thanh làm Tỉnh ủy viên. Đặc biệt, ô tô riêng
của Trịnh Xuân Thanh được Công an Hậu Giang cấp biển số xe công.
Năm 2013, PVC lỗ lũy kế gần 3.300 tỷ đồng. Vốn điều lệ 4.000 tỷ đồng
chỉ còn 2,7 tỷ đồng vì Trịnh Xuân Thanh đã rút vốn khá lớn của PVC để ơng
Đinh La Thăng đầu tư ngồi ngành, trong đó có 800 tỷ đồng của PVN góp vốn
vào Ngân hàng Đại Dương (Ocean Bank).
Khi sự kiện Đinh La Thăng vỡ lở, chấn động dữ dội dư luận, việc chạy
chức, chạy cấp, chạy khen thưởng, chạy luân chuyển, chạy quyền thế, chạy danh
vọng của Trịnh Xuân Thanh bị phanh phui. Y làm cú chạy ngoạn mục ra nước
ngoài, rồi sau đó tự thú. Theo đó, cơ quan bảo vệ pháp luật mới xét xử được.
Phần ông Đinh La Thăng, dính vào 2 vụ án, đã lĩnh 30 năm tù, bắt buộc
phải bồi thường 600 tỷ đồng cho PVC. Số tiền bồi thường quá lớn. Cơ quan thi
hành án cịn xác minh thơng tin về nhà, đất trước đây của ông Đinh La Thăng
sinh sống tại khu đô thị Sơng Đà - Sudico, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ
Liêm, Hà Nội.
Vụ án Phan Văn Anh Vũ (“Vũ nhôm”) cũng động trời khơng kém.
Có biệt danh “Vũ nhơm” vì Phan Văn Anh Vũ từng làm nghề nhơm kính.
“Vũ nhơm” được xem là một bố già, trùm bất động sản ở Đà Nẵng. Y là Chủ
tịch Hội đồng Thành viên The Sunrise Bay Đà Nẵng, Chủ tịch HĐQT Công ty

Cổ phần Xây dựng Bắc Nam 79 ở Đà Nẵng (10% cổ phần Ngân hàng Đông Á
Bank), Chủ tịch Công ty Cổ phần NOVA Bắc Nam 79 ở thành phố Hồ Chí
Minh, Chủ tịch Hội đồng Thành viên Cơng ty IVC. Y sở hữu hàng chục ngôi
nhà, đất công ở trung tâm Đà Nẵng.
Dư luận xôn xao “Vũ nhôm” làm chủ nhiều khu “đất vàng” ở trung tâm
thành phố Đà Nẵng có sự ưu ái “nhúng chàm” của một số lãnh đạo chủ chốt của
12


Đà Nẵng.
Từ 8/4 đến 14/5/2017, Tạp chí Giao thơng Vận tải điện tử cho đăng 8 kỳ
bài của nhà báo Dương Hằng Nga, Trưởng Văn phòng đại diện của Tạp chí ở
khu vực Miền Trung và Tây Nguyên, phanh phui những sai phạm nghiêm trọng
của dự án khu đô thị quốc tế Đa Phước (The Sunrise Bay Đà Nẵng).
Khoảng tối của “Vũ nhôm” không ai dám đụng đến dần được đưa ra ánh
sáng.
Tháng 9/2017, theo chỉ đạo của Chính phủ, Cơ quan An ninh Điều tra Bộ
Công an vào cuộc, tiến hành điều tra 9 dự án đầu tư và 31 nhà, đất cơng sản ở
trung tâm Đà Nẵng.
Ơng Nguyễn Xuân Anh đã nhận cái gọi là “quà tặng” liên quan đến “Vũ
nhôm” gồm 1 ô tô xịn và 2 ngơi nhà… Ơng đã mất tất cả, mất chức Bí thư
Thành ủy Đà Nẵng và chức Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII.
Hai ơng Trần Văn Minh, Văn Hữu Chiến - nguyên Chủ tịch UBND thành
phố cùng nhiều cán bộ khác dính vào vụ án “Vũ nhơm”.
Ơng Trần Văn Minh, ngun Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI. Ơng
được điều động giữ chức Phó Trưởng ban Tổ chức Trung ương, nghỉ hưu tháng
1/2016 theo chế độ. Ông bị bắt tạm giam để điều tra vì trong số 9 dự án và 31
nhà, đất công sản đều xảy ra dưới thời ông làm Chủ tịch UBND thành phố. Chỉ
riêng với “Vũ nhôm” ông đã ký quyết định liên quan đến 3 dự án lớn và hơn
chục tịa nhà, đất cơng sản ở các đường Bạch Đằng, Lê Duẩn, Nguyễn Thái Học,

Hoàng Văn Thụ, Trần Phú… với giá chuyển nhượng rất rẻ.
Ông Văn Hữu Chiến, người kế tiếp ông Trần Văn Minh làm Chủ tịch
UBND thành phố Đà Nẵng, bị cấm đi khỏi nơi cư trú.
Năm 2016, “Vũ nhôm” đã tặng Công an thành phố Đà Nẵng 50 xe mô tô
Yamaha Exciter 1500cc và thêm 4 mô tô đặc chủng đang đặt hàng với tổng số
tiền hơn 4 tỷ đồng.
Khơng cịn thế lực nào bảo kê, “Vũ nhôm” đã trốn sang Singapore. Nhưng
lưới trời lồng lộng khơng thốt thân, hiện đang lĩnh án 9 năm tù.
Tình trạng tham nhũng diễn ra ngày càng phức tạp, tham nhũng xảy ra
13


trên tất cả các lĩnh vực từ dầu tư xây dựng, giao thông vận tải, kinh tế và cả giáo
dục. Đảng và Nhà nước ta đã có những quan điểm, biện pháp trong cơng tác
phịng, chống tham nhũng, vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về
phịng, chống tham nhũng
2.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước trong công tác phòng, chống
tham nhũng
Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành rất nhiều chỉ thị, nghị quyết để lãnh
đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Nghị quyết 14/NQ-TW ngày 15-51996 về quan điểm chỉ đạo và một số giải pháp để đấu tranh chống tham
nhũng của Bộ Chính trị khóa VII đã chỉ rõ: Đấu tranh chống tham nhũng là một
bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng của
Đảng và nhân dân ta hiện nay. Nó góp phần nâng cao vai trị lãnh đạo của Đảng,
tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng Đảng và kiện toàn bộ máy nhà
nước trong sạch, vững mạnh, thực hiện quyền dân chủ của nhân dân… Đấu
tranh chống tham nhũng phải gắn liền và phục vụ cho đổi mới kinh tế - xã hội,
giữ vững ổn định chính trị, tăng cường đại đồn kết tồn dân, thực hiện thắng lợi
hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đề ra nhiều chủ trương,

giải pháp nhằm đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, trong đó
xác định: “Đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ trọng
tâm của công tác xây dựng Đảng, nhiệm vụ trực tiếp, thường xun của cả hệ
thống chính trị và tồn xã hội”[1]. Đại hội yêu cầu “Thành lập các ban chỉ đạo
phòng, chống tham nhũng trung ương và địa phương đủ mạnh, có thực quyền,
hoạt động có hiệu quả”2.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Hội nghị lần thứ
ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ra Nghị quyết về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí. Đây là
Nghị quyết đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề cập một cách toàn
diện, tập trung về cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí. Nghị quyết
14


Trung ương ba khóa X đã đưa ra những nhận định, đánh giá về cơng tác phịng,
chống tham nhũng, lãng phí; chỉ ra những ngun nhânchủ yếu của những thiếu
sót, khuyết điểm trong phịng, chống tham nhũng, lãng phí; đề ra những mục
tiêu, quan điểm chỉ đạo cơng tácphịng, chống tham nhũng, lãng phí.
Mục tiêu của cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí được nêu trong
Nghị quyết Trung ương ba khóa X là: “Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham
nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát
triển kinh tế - xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng #ảng, Nhà nước
trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, cơng chức kỷ cương, liêm chính”. Để
đạt được mục tiêu nêu trên, Nghị quyết đã đề ra 10 chủ trương, giải pháp như
sau:
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và ý thức trách
nhiệm của đảng viên, cán bộ, công chức và nhân dân về công tác phòng,
chống tham nhũng. Đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, phải nêu gương về đạo
đức, lối sống và kiên quyết chống tham nhũng.
Tăng cường tuyên truyền, phổ biến quan điểm, chủ trương, chính sách,

pháp luật của Đảng và Nhà nước về phịng, chống tham nhũng, lãng phí. Đưa
nội dung phịng, chống tham nhũng vào chương trình giáo dục. Mở chuyên mục
tuyên truyền, giáo dục về vấn đề này trên các báo, đài. Bảo vệ, biểu dương, khen
thưởng tập thể, cá nhân có thành tích đấu tranh chống tham nhũng.
- Nâng cao tính tiên phong, gương mẫu của tổ chức đảng và đảng viên,
tăng cường vai trò của chi bộ đảng trong quản lý, giáo dục đảng viên. Chi bộ
đảng phải nắm chắc việc thực hiện nhiệm vụ và quan hệ xã hội của đảng viên
trong chi bộ, giáo dục, nhắc nhở và kịp thời kiểm tra, xử lý những trường hợp có
dấu hiệu vi phạm, khơng được dung túng, bao che tham nhũng.
Nâng cao tính chiến đấu, thực hiện dân chủ, cơng khai trong tự phê bình
và phê bình theo phương châm "trên trước, dưới sau, trong trước, ngoài sau".
Trong sinh hoạt đảng và nhận xét, đánh giá đảng viên hằng năm phải có nội
dung về phịng, chống tham nhũng. Hằng năm, cán bộ chủ chốt cấp xã phải trực
tiếp tự phê bình và phê bình tại hội nghị đại diện nhân dân do Mặt trận Tổ quốc
15


tổ chức. Xây dựng và thực hiện cơ chế chất vấn trong sinh hoạt đảng.
- Tiếp tục hồn thiện cơng tác cán bộ phục vụ cơng tác phịng, chống tham
nhũng: sửa đổi, bổ sung các quy định về công tác cán bộ, bảo đảm công khai,
dân chủ; chấn chỉnh công tác thi tuyển, tiếp nhận cán bộ, công chức. Thực hiện
nghiêm túc việc chuyển đổi vị trí cơng tác trong hệ thống chính trị và việc xử lý
trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị để xảy ra tham nhũng.
Xây dựng lộ trình cải cách tiền lương trong những năm tới theo hướng
tăng thu nhập cao hơn cho cán bộ, công chức. Bảo đảm minh bạch tài sản, thu
nhập của đảng viên, cán bộ, công chức; đảng viên là cán bộ, công chức thuộc
diện kê khai tài sản phải công bố bản kê khai trong chi bộ, là cấp ủy viên thì cịn
phải cơng khai trong cấp ủy. Xây dựng và thực hiện quy tắc ứng xử nhằm bảo
đảm sự liêm chính của đảng viên, cán bộ, cơng chức. Rà soát, sửa đổi và bổ
sung Quy định những điều đảng viên không được làm; công bố công khai để

nhân dân giám sát.
- Bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ
chức, đơn vị: thực hiện nghiêm các quy định về công khai, minh bạch; bổ sung
quy định bảo đảm minh bạch quá trình ra quyết định, bao gồm cả chính sách,
văn bản quy phạm pháp luật và quyết định giải quyết một vụ việc cụ thể của cơ
quan nhà nước các cấp. Xem xét, sửa đổi các danh mục bí mật nhà nước nhằm
mở rộng cơng khai. Hồn thiện, cơng khai hóa và thực hiện đúng các chế độ,
định mức, tiêu chuẩn sử dụng lao động, ngân sách và tài sản công. Nghiên cứu
ban hành Luật bảo đảm quyền được thông tin của công dân.
- Tiếp tục hồn thiện cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế-xã hội: thực
hiện nghiêm các quy định về quản lý và sử dụng đất đai, công sở. Chấn chỉnh,
bảo đảm công khai, minh bạch trong quy hoạch và quản lý, sử dụng đất đai,
cơng sở. Hồn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, tài chính về đất đai, đăng ký
bất động sản.
Chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và hoạt động mua
sắm công. Công khai, minh bạch trong quyết định, chủ trương đầu tư. Công
khai, minh bạch hoạt động mua sắm công, kể cả việc cơng khai hóa các khoản
16


hoa hồng từ mua sắm. Thực hiện thí điểm mơ hình mua sắm cơng tập trung.
Chấn chỉnh cơng tác thu, chi ngân sách. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
các định mức, tiêu chuẩn, chế độ chi tiêu ngân sách, trang bị tài sản, phương tiện
đi lại, thiết bị làm việc. Tăng cường quản lý vốn, tài sản nhà nước và nhân sự tại
doanh nghiệp có vốn nhà nước.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán,
điều tra, truy tố, xét xử hành vi tham nhũng: tập trung kiểm tra, thanh tra, kiểm
toán một số lĩnh vực trọng điểm như: đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý đất đai,
thu, chi ngân sách, quản lý tài sản công và hệ thống ngân hàng thương mại.
Nghiên cứu tổ chức các cơ quan phòng, chống tham nhũng theo hướng

bảo đảm sự độc lập cần thiết với các cơ quan quản lý nhà nước theo cấp lãnh thổ
và sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Trung ương. Tăng cường cán bộ cho các
cơ quan thanh tra, kiểm tốn, điều tra, kiểm sát, tịa án và kiểm tra của #ảng,
đồng thời kiểm soát hoạt động của các cơ quan này.
Người có hành vi tham nhũng phải bị xử lý kiên quyết, kịp thời, nghiêm
minh về trách nhiệm chính trị, hành chính hoặc hình sự, bất kể người đó là ai và
ở cương vị nào. Chú trọng thu hồi tài sản tham nhũng. áp dụng chính sách khoan
hồng đối với những người phạm tội nhưng có thái độ thành khẩn, đã bồi thường
thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả kinh tế, hợp tác tốt với cơ quan chức năng.
Trừng trị nghiêm khắc những đối tượng tham nhũng có tổ chức, gây hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng.
- Thực hiện tốt cơng tác truyền thơng về phịng, chống tham nhũng: đề
cao vai trị, trách nhiệm của báo chí trong phịng, chống tham nhũng; khen
thưởng, động viên những người làm báo tích cực, dũng cảm đấu tranh chống
tham nhũng; xử lý nghiêm việc đưa tin sai sự thật, vu cáo, bịa đặt gây hậu quả
xấu.
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và các cơ quan
chức năng phải chủ động cung cấp cho cơng chúng những thơng tin có liên quan
đến tham nhũng.
- Xây dựng, kiện toàn các cơ quan, đơn vị chuyên trách về phòng, chống
17


tham nhũng được thành lập theo Luật phòng, chống tham nhũng.
- Tăng cường giám sát của nhân dân và cơ quan dân cử: Hằng năm, Quốc
hội và hội đồng nhân dân các cấp nghe báo cáo và thảo luận, chất vấn về cơng
tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí.
Tăng cường công tác giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần
chúng; thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với cơng tác phịng, chống tham
nhũng, lãng phí; nâng cao hiệu quả của thanh tra nhân dân.

- Tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng: chủ động
tham gia các chương trình, sáng kiến, diễn đàn quốc tế về phòng, chống tham
nhũng phù hợp với điều kiện Việt Nam. Thực hiện các cam kết quốc tế về
phòng, chống tham nhũng, chú trọng tới các cam kết về xây dựng môi trường
đầu tư, kinh doanh minh bạch.
Cụ thể hoá Nghị quyết của Đảng, Chiến lược quốc gia về phòng, chống
tham nhũng đến năm 2020 đã đề ra quan điểm về phòng chống tham nhũng như
sau:
- Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới
sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của các ngành, các cấp, nhấn
mạnh trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò
của xã hội, các tổ chức, đồn thể và quần chúng nhân dân.
- Phịng, chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu
dài, xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
- Sử dụng tổng thể các giải pháp phịng, chống tham nhũng; vừa tích cực,
chủ động trong phòng ngừa, vừa kiên quyết trong phát hiện, xử lý với những
bước đi vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, trong đó phịng ngừa là cơ bản, lâu
dài; gắn phòng, chống tham nhũng với thực hành tiết kiệm, chống quan liêu,
lãng phí.
- Xây dựng lực lượng chuyên trách đủ mạnh, có phẩm chất chính trị, bản
lĩnh, đạo đức nghề nghiệp làm nịng cốt trong cơng tác phịng ngừa, phát hiện,
xử lý tham nhũng theo hướng chuyên môn hóa với các phương tiện, cơng cụ, kỹ
18


năng phù hợp, bảo đảm vừa chuyên sâu, vừa bao quát các lĩnh vực, các mặt của
đời sống kinh tế - xã hội.
- Đặt q trình phịng, chống tham nhũng trong điều kiện hội nhập, chủ
động hợp tác hiệu quả với các quốc gia, các tổ chức quốc tế; chú trọng tổng kết

thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngồi trong cơng tác
phịng, chống tham nhũng.
Chiến lược phòng, chống tham nhũng tiếp tục xác định một mục tiêu
chung và năm nhóm mục tiêu cụ thể:
- Mục tiêu chung:
Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, loại bỏ dần các cơ hội, điều
kiện phát sinh tham nhũng, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch,
vững mạnh, hoạt động hiệu quả; đội ngũ cán bộ, cơng chức liêm chính; lành
mạnh hóa các quan hệ xã hội thông qua việc thực hiện đồng bộ các giải pháp
phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng; củng cố lòng tin của nhân dân và
cộng đồng quốc tế, thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Ngăn chặn, làm triệt tiêu các điều kiện và cơ hội phát sinh tham nhũng
trong việc hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật, nhất là trong
quá trình ban hành và tổ chức thi hành các văn bản áp dụng pháp luật.
+ Tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước, ngăn
ngừa việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi trên cơ sở xây dựng nền công
vụ hiệu quả, minh bạch, phục vụ nhân dân và xã hội, với đội ngũ cán bộ, công
chức trung trực, công tâm, liêm khiết, tận tụy, chuyên nghiệp và được trả lương
hợp lý; các chuẩn mực đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp được củng cố và
phát triển.
+ Hoàn thiện thể chế, tạo lập mơi trường kinh doanh cạnh tranh bình
đẳng, công bằng, minh bạch nhằm thu hút đầu tư trong nước và nước ngồi, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của doanh
nghiệp; từng bước xóa bỏ tệ hối lộ trong quan hệ giữa doanh nghiệp với cơ quan
nhà nước và trong giao dịch thương mại.
19


+ Tính trách nhiệm, tính chuyên nghiệp, sức chiến đấu và hiệu quả hoạt

động của các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan, đơn vị chuyên trách chống
tham nhũng được nâng cao, giữ vai trò nòng cốt trong phát hiện và xử lý tham
nhũng.
Chính sách xử lý đối với tham nhũng, đặc biệt là chính sách hình sự,
chính sách tố tụng hình sự tiếp tục được hồn thiện; hệ thống đo lường, giám sát
tham nhũng được thiết lập.
+ Nâng cao nhận thức, vai trò của xã hội về tham nhũng, về chủ trương,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng;
thúc đẩy sự tham gia chủ động của các tổ chức, đoàn thể xã hội, các phương tiện
truyền thông và mọi công dân trong nỗ lực phịng, chống tham nhũng; xây dựng
văn hóa và tạo ra thói quen phịng, chống tham nhũng trong đời sống của cán bộ,
công chức và trong các tầng lớp nhân dân.
2.3. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong cơng cuộc đấu tranh
phịng, chống tham nhũng ở Việt Nam
Trong năm 2017, đầu năm 2018 có rất nhiều vụ đại án tham nhũng
nghiêm trọng đã được đưa ra ánh sáng. Năm 2017 đã thi hành kỷ luật đối với
hơn 300 tổ chức Đảng, hơn 18.600 đảng viên vi phạm, trong đó cơ hơn 700
đảng viên vi phạm về tham nhũng, cố ý làm trái.
Tệ tham nhũng ngày càng diễn biến tinh vi hơn, phức tạp hơn, quy mô lớn
hơn gây lên thất thoát rất lớn cho Nhà nước, cho Nhân dân. Do vậy chống tệ nạn
tham nhũng được coi là quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta. Chính vì
vậy những năm trở lại đây, nhất là trong hai năm trở lại đây, cuộc đấu tranh
chống tham nhũng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân rất quyết liệt. Những vụ
đại án thời gian qua lần lượt được đưa ra xét xử nghiêm minh, có cán bộ nguyên
là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng cũng chịu sự xét xử của
pháp luật. Công cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng của Đảng thể hiện rõ
khơng có “vùng cấm” nào.
Trong những năm qua, Đảng ta cũng đã xây dựng nhiều giải pháp cho
cơng tác phịng, chống tham nhũng. Toàn Đảng đang tập trung triển khai thực
20



hiện Nghị quyết Trung ương 4 về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ kết hợp với triển khai thực
hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh. Mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là những người có chức, có
quyền phải tự soi mình hàng ngày, đối chiếu các biểu hiện để rèn luyện, tu
dưỡng.
Để làm theo tư tưởng của Bác Hồ trong đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi
nguy cơ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, đồng thời tiếp tục quán triệt và thực
hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa X (2006-2011) Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng
tác phịng, chống tham nhũng, cần tập trung thực hiện một số vấn đề như:
1. Thường xuyên tự giác tu dưỡng, rèn luyện, phê bình và tự phê bình
Tự phê bình và phê bình phải nhằm mục đích để giúp nhau tiến bộ nên
động cơ phải trong sáng, dựa trên “tình đồng chí thương u nhau”; khơng vì
phê bình mà cơng kích áp đặt khuyết điểm cho nhau. Khi phê bình người khác
khơng được xoi mói “bới lơng, tìm vết” để tìm cơ hội “hạ bệ’ lẫn nhau; “tránh
cơng kích cá nhân, cãi bướng, trả thù, tiểu khí”. Thực hành tự phê bình và phê
bình phải dân chủ, khơng mệnh lệnh, áp đặt.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Tự phê bình và sữa chữa có khi dễ,
nhưng có khi cũng khó khăn, đau đớn vì tự ái, vì thói quen, hoặc vì ngun nhân
khác. Đó là một cuộc đấu tranh”. Vì thế thực hiện tự phê bình và phê bình phải
“Ráo riết, triệt để”, đúng mức, thật thà khơng nể nang, khơng thêm bớt.
Tự phê bình và phê bình phải “biết cách phê bình sáng suốt, khơn khéo,
như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để
tự mình sữa chữa”. Tự phê bình và phê bình phải được tiến hành trong tổ chức,
chứ khơng phải gặp đâu nói đó. Người đứng đầu phải rất công minh, tạo được
chỗ dựa tin cậy, khơi dậy được khơng khí dân chủ, thẳng thắn để ai cũng có thể

nói rõ chính kiến của mình.

21


2. Xây dựng và lựa chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý các cơ quan Đảng,
Nhà nước có tài có đức
Sinh thời Người cho rằng, Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây
chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, tồn bộ máy cũng tê
liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đồn thể thi
hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng khơng thể thực hiện
được. Chính vì cán bộ là cái gốc của mọi công việc nên việc lựa chọn cán bộ
phải tuân theo những tiêu chuẩn nhất định như phải có đạo đức cách mạng, phải
tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với sự nghiệp cách mạng của nhân
dân; có mối liên hệ mật thiết với nhân dân, hiểu biết nhân dân, ln chú ý đến
lợi ích của nhân dân; người cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương của Đảng, có trí tuệ, có trình độ chun mơn và nghiệp vụ
giỏi, chí cơng vơ tư.
3. Tăng cường cơng tác quản lý, kiểm tra, thanh tra và kê khai tài sản cá
nhân.
Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, thanh tra và kê khai tài sản cá
nhân được coi là giải pháp quan trọng trong cơng tác phịng, chống tham nhũng.
Việc kiểm tra giúp cho các cấp uỷ, chính quyền nắm chắc được tình hình chấp
hành nghị quyết, chính sách, biết ai làm đúng, ai làm sai. Nếu tổ chức kiểm tra
được chu đáo thì bao nhiêu ưu điểm và khuyết điểm của cán bộ lãnh đạo, quản
lý chúng ta đều thấy rõ. Việc kê khai tài sản cá nhân cũng phải được thực hiện
một cách nghiêm túc, trung thực, không được hình thức, qua loa.
Để phát huy tác dụng tích cực của việc kê khai và kiểm soát việc kê khai
tài sản trong cơng tác phịng, chống tham nhũng, Bộ Chính trị cũng đã yêu cầu
các cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện tốt một số việc như: Tăng cường lãnh đạo để

thống nhất nhận thức của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và của cơ
quan, tổ chức, đơn vị, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị về việc kê khai,
kiểm soát việc kê khai tài sản theo quy định của Đảng, Nhà nước; Lãnh đạo,
thực hiện nghiêm túc việc kê khai và công khai bản kê khai tài sản theo quy định
của pháp luật. Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thuộc diện kê khai tài
22


sản theo quy định của pháp luật phải kê khai trung thực, đầy đủ, rõ ràng, đúng
thời hạn. Chi ủy tổ chức việc công khai bản kê khai tài sản của đảng viên thuộc
diện phải kê khai trong sinh hoạt chi bộ. Cấp ủy tổ chức công khai bản kê khai
tài sản của cấp ủy viên trong sinh hoạt cấp ủy; Tăng cường lãnh đạo và tiến hành
công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện quy định của Đảng và Nhà
nước về kê khai, kiểm soát việc kê khai tài sản. Xử lý nghiêm minh những cơ
quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân chậm tổ chức việc kê khai; không kê khai, kê khai
không trung thực; không giải trình được nguồn gốc tài sản tăng thêm; khơng tổ
chức việc công khai bản kê khai; không chủ động xác minh hoặc không xử lý
kịp thời những vi phạm quy định về kê khai, kiểm soát việc kê khai tài sản…
4. Bổ nhiệm có thời hạn và luân chuyển cán bộ
Kinh nghiệm cho thấy việc bổ nhiệm có thời hạn khơng q lâu, việc ln
chuyển cán bộ, có tác dụng tích cực ít ra trên ba phương diện. Một là, góp phần
tăng cường tính năng động, tính đổi mới của bản thân cán bộ quản lý. Người
khơng có năng lực tương xứng sẽ nhanh bị đào thải. Hai là, khắc phục bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa, chủ quan, trì trệ của người đã được vào guồng máy. Ba
là, tạo cơ hội cho người khác vươn lên khẳng định mình. Nhờ vậy, bệnh quan
liêu sẽ được hạn chế tới mức tối đa. Do đó, cần phải đẩy mạnh hơn nữa cơng tác
bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý có thời hạn và luân chuyển cán bộ, góp phần
vào cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng.
Vấn đề quan trọng và mấu chốt đối với nhiệm vụ chống quan liêu, tham
nhũng chính là phải xử lý cán bộ lãnh đạo, quản lý vi phạm pháp luật một cách

kiên quyết, công minh, để người có khuyết điểm phải chịu kỷ luật, người có tội
phải bị xử tội, bất kể họ là ai, ở cấp bậc nào. Người đứng đầu một tổ chức, một
địa phương, một ngành đến toàn quốc đã để cho cán bộ tham nhũng có tính
nghiêm trọng, kéo dài thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và nhận kỷ luật
đầu tiên trước Đảng, trước dân.
Muốn đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng có hiệu quả phải sử dụng
những giải pháp đồng bộ cả về nhận thức tư tưởng và tổ chức, luật pháp và
chính sách; các giải pháp vừa có tính chiến đấu cao, vừa khoa học, vừa kiên
23


×