Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Khóa luận vai trò của truyền thông đại chúng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.23 KB, 69 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG VÀ VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG
ĐẠI CHÚNG TRONG CUỘC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM
NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..............................................................8
1.1. Nhận thức chung về truyền thông đại chúng và vai trò của truyền thông
đại chúng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng...............................8
1.2. Đặc điểm của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và yêu cầu đặt ra
đối với truyền thông đại chúng ở Việt Nam....................................................25
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY
VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG TRONG CUỘC
ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY....................................................................................................41
2.1. Thực trạng vai trò của truyền thông đại chúng trong cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam............................................................41
2.2. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả của truyền thông đại chúng trong
công cuộc phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam thời gian tới.........................56
KẾT LUẬN....................................................................................................64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................66


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Hệ thống chính trị

: HTCT

Nhà xuất bản

: NXB



Phương tiện truyền thông đại chúng

: PTTTĐC

Truyền thông đại chúng

: TTĐC


MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Tham nhũng đang là một trong những vấn đề nóng, nan giải và bức
xúc nhất trong nền chính trị ở tất cả các nước trên thế giới trong đó có Việt
Nam. Tham nhũng hiện đã trở thành quốc nạn đe dọa đến sự tồn vong của
Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Chính sự gia tăng của tình trạng
tham nhũng đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến thanh danh của Đảng, làm suy
giảm niềm tin của nhân dân. Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của
Đảng chỉ ra bốn nguy cơ của cách mạng Việt Nam: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn
về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát
thấp; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được
những lệch lạc trong chỉ đạo thực hiện; nạn tham nhũng và quan liêu; âm mưu
và hành động diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch”[9,tr.198]. Trong đó,
nguy cơ nạn tham nhũng và quan liêu là nguy cơ nguy hiểm nhất.
Hiện nay, tình hình tham nhũng vẫn diễn ra rất phức tạp, ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển của đất nước. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI (tháng 1-2011), Đảng ta đã xác nhận tình trạng suy thoái về tư tưởng

chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn
với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí là nghiêm trọng; đồng thời cảnh báo
“Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn
lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của
Đảng” [11,tr.172,185]. Đại hội chỉ rõ: “Công tác phòng, chống tham nhũng
chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm
trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi,
gây bức xúc xã hội”. Chính vì vậy, phòng, chống tham nhũng là công việc
khó khăn, phức tạp, cần sự quyết liệt và kiên trì, là vấn đề ưu tiên hàng đầu
cần phải giải quyết và là nhiệm vụ trọng tâm của toàn xã hội.

1


Tham gia vào cuộc chiến tham nhũng, bên cạnh các cơ quan chức năng
và quần chúng nhân dân còn có sự tham gia tích cực và mạnh mẽ của các cơ
quan truyền thông đại chúng (TTĐC). Với thông tin nhanh chóng, chính xác,
trung thực, khách quan và đa chiều, TTĐC đã trở thành một kênh thông tin
quan trọng của nhân dân. Đánh giá tầm quan trọng của TTĐC đối với sự
nghiệp cách mạng, Đại hội XI Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Chú
trọng nâng cao tính tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo
dục, tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì
lợi ích của nhân dân và đất nước…”[11,tr 225].
Thực tế cho thấy, nhiều vụ tham nhũng lớn trong nước được phát hiện,
phanh phui đưa ra ánh sáng nhờ TTĐC và đã tạo được sự hưởng ứng tích
cực từ nhân dân. TTĐC không chỉ đưa tin về tham nhũng, nó còn tuyên
truyền, phê phán, cổ động quần chúng nhân dân tích cực trong cuộc phòng,
chống tham nhũng nhằm làm trong sạch bộ máy nhà nước.
Để tìm hiểu rõ ràng về vai trò của TTĐC trong cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng giúp cho Đảng, Nhà nước có những chính sách phù hợp

nhằm nâng cao hơn nữa vai trò to lớn của TTĐC đối với cuộc đấu tranh tham
nhũng; nâng cao nhận thức, tính tích cực của quần chúng trong công tác phòng,
chống tham nhũng, tác giả đã lựa chọn vấn đề “Vai trò của truyền thông đại
chúng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”
làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu.
Thứ nhất, nhóm công trình về TTĐC và vai trò của TTĐC trong phòng,
chống tham nhũng, tiêu biểu là:
+ Mikhailốp X.A (2004), Báo chí hiện đại nước ngoài: những quy tắc
và nghịch lý, Nxb Thông tấn, Hà Nội. Cuốn sách dịch từ tiếng Nga là một
trong số sách nghiệp vụ báo chí được xuất bản nhằm đào tạo, bồi dưỡng
những kiến thức cơ bản về báo chí. Nội dung công trình này đề cập đến các
vấn đề: báo chí và xã hội, những xu hướng phát triển của báo chí trên thế giới,
2


luật pháp và sự tự điều chỉnh của báo chí, những đặc điểm dân tộc trong sự
phát triển của báo chí.
+ Lê Thanh Bình (2008), Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội,
Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách tập trung làm rõ các vấn đề: Truyền thông đại
chúng tham gia quản lý xã hội: các vấn đề chung và những lĩnh vực đặc thù
trong thời đại khoa học - công nghệ phát triển, hội nhập quốc tế; vai trò ngành
quan hệ công chúng; từ quan điểm truyền thông đại chúng phân tích các nhân
vật, tác phẩm, sự kiện điển hình. Đồng thời cuốn sách cũng phân tích vai trò
của truyền thông đại chúng trong chống tham nhũng trên thế giới…
+ Nguyễn Văn Dũng (2011), Báo chí và dư luận xã hội, Nxb Lao động,
Hà Nội. Công trình nghiên cứu khá sâu về mối quan hệ giữa báo chí và dư
luận xã hội, phân tích bản chất dư luận xã hội, bản chất hoạt động báo chí, đặc
điểm báo chí hiện đại; mối quan hệ tác động của báo chí và dư luận xã hội; cơ
chế tác động của báo chí vào dư luận xã hội; vai trò của nhà báo trong quan

hệ với dư luận xã hội.
+ Vũ Đình Hòe (chủ biên) (2000), Truyền thông đại chúng trong công
tác lãnh đạo, quản lý, Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách giới thiệu những vấn
đề lý luận cơ bản về truyền thông và truyền thông đại chúng, các phương
tiện truyền thông đại chúng, những vấn đề về truyền thông đại chúng hiện
đại. Điểm đáng lưu ý nhất là các tác giả đã phân tích vấn đề lãnh đạo, quản
lý và ứng xử với các phương tiện truyền thông đại chúng: mục đích và
nguyên tắc, mối quan hệ giữa sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước đối với các phương tiện truyền thông đại chúng, luật pháp với các
phương tiện truyền thông đại chúng, hoạch ;và thông tin từ các phương tiện
truyền thông đại chúng.
+ Dương Xuân Sơn (1996), Báo chí nước ngoài, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội. Cuốn sách giới thiệu khái quát về nền báo chí- lịch sử hình thành
và phát triển, tình hình kinh tế - xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng;

3


cơ cấu và các điều kiện phát triển báo chí các nước: Anh, Đức, Pháp, Tây Ban
Nha, Mỹ, Hà Lan, Thụy Điển…
+ Tạ Ngọc Tấn (2001), Truyền thông đại chúng, Nxb CTQG, Hà Nội.
Công trình này trình bày khá toàn diện về các mặt, các lĩnh vực, các vấn đề
của truyền thông đại chúng, như: truyền thông và truyền thông đại chúng;
sách và xuất bản sách; báo in; phát thanh, truyền hình, quảng cáo; các loại
hình truyền thông đại chúng khác (điện ảnh, hãng tin tức và internet); những
vấn đề truyền thông đại chúng trong thế giới hiện đại; lãnh đạo quản lý và
giao tiếp với các phương tiện truyền thông đại chúng.
Thứ hai, nhóm công trình về phòng, chống tham nhũng, tiêu biểu là:
+ Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực (2010), Nhận diện tham nhũng và
các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, Nxb CTQG, Hà

Nội. Công trình đã làm rõ nguồn gốc của tham nhũng, bản chất của tham
nhũng, cách tiếp cận và phân loại tham nhũng, nhận diện tham nhũng theo các
cấp độ hành vi (tội phạm và chưa là tội phạm) và hiện tượng, những tác hại
của tham nhũng…Từ đấy đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm phòng chống
tham nhũng ở Việt Nam.
+ Nguyễn Xuân Yêm, Nguyễn Hòa Bình, Bùi Minh Thanh (2007),
Phòng chống tham nhũng ở Việt Nam và thế giới, Nxb. Công an nhân dân.
Công trình nghiên cứu về tham nhũng dưới góc độ tội phạm học. Trong công
trình này, tham nhũng được coi là một loại tội phạm liên quan đến chức vụ và
tội phạm kinh tế. Các tác giả đã phân tích chi tiết các hành vi cấu thành tội
phạm tham nhũng và cách nhận dạng các tội phạm đó. Ngoài những kiến thức
chung về tham nhũng, cuốn sách còn cung cấp những kỹ năng điều tra, đấu
tranh với loại tội phạm nguy hiểm này.
+ Ban Nội chính Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Một số
bài nghiên cứu về tham nhũng và phòng, chống tham nhũng. Cuốn sách này
tập hợp nhiều bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và một số

4


nhà khoa học vè đường lối, chính sách phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
qua các giai đoạn khác nhau.
Thứ ba, nhóm công trình về vai trò của TTĐC trong phòng, chống
tham nhũng, tiêu biểu là:
+Trần Danh Lân (2007), Báo chí trong công cuộc đấu tranh chống
tham nhũng ở Việt Nam hiện nay (Luận văn thạc sỹ). Công trình nghiên cứu
về lý luận và thực tiễn bảo chất, chức năng, vai trò và nhiệm vụ của báo chí
Việt Nam hiện đại trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng; những thành tựu
và hạn chế của báo chí và đội ngũ các nhà báo nước ta trong cuộc đấu tranh
chống tham nhũng qua hơn 20 năm Đổi mới, nhất là trong những năm gần

đây; phân tích những nguyên nhân khách quan và chủ quan cùng những bài
học kinh nghiệm đã tạo nên những thành tựu của báo chí và các nhà báo nước
ta trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng; đưa ra các giải pháp nhằm tiếp tục
nâng cao và phát huy tác dụng, hiệu quả của báo chí nước ta trong cuộc đấu
tranh chống tham nhũng.
+Trần Quang Nhiếp (chủ biên) (2005), Nâng cao hiệu quả của báo chí
trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng ở nước ta hiện nay, Nxb
CTQG, Hà Nội. Công trình đã cung cấp cho chúng ta những nghiên cứu về
báo chí với chống quan liêu, tham nhũng; thực trạng của việc nâng cao hiệu
quả của báo chí trong đấu tranh cống quan liêu, tham nhũng ở nước ta hiện
nay và những biện pháp chính nhằm nâng cao hiệu quả của báo chí trong cuộc
đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng ở nước ta hiện nay.
Những công trình nghiên cứu trên đã có cách tiếp cận về tham nhũng,
vai trò của TTĐC ở nhiều mức độ, phạm vi khác nhau, trong chừng mực nhất
định đã góp phần sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng về vai
trò của TTĐC đối với phòng, chống tham nhũng. Tuy nhiên, xét ở góc độ
Chính trị học, cho đến nay vẫn chưa có công trình chuyên sâu nào nghiên cứu
về vai trò của TTĐC trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ơ Việt
Nam một cách có hệ thống. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa và phát huy những kết

5


quả nghiên cứu trước đó, đề tài sẽ nghiên cứu sâu hơn về những vấn đề lý
luận và thực tiễn về vai trò trò của TTĐC trong cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng ở Việt Nam, từ đó đề ra những giải pháp góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động này.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn vai trò của TTĐC

trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, khóa luận
kiến nghị một số giải pháp nhằm phát huy vai trò tích cực của TTĐC trong
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, tác giả tập trung giải quyết các nhiệm vụ
cơ bản sau đây:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về TTĐC; tham nhũng; phòng, chống
tham nhũng; vai trò của TTĐC trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
- Phân tích thực trạng của TTĐC trong cuộc đấu tranh phòng, chống
tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò TTĐC trong
cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu là vai trò
của TTĐC trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vai trò của TTĐC, trong cuộc đấu tranh
phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam từ năm 2005 (từ khi Luật phòng, chống
tham nhũng năm 2005 ban hành) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Cở sở lý luận

6


Trong quá trình nghiên cứu, tác giả khóa luận dựa vào chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về TTĐC, về tham nhũng, phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam…
để luận giải, phân tích các vấn đề lý luận và thực tiễn.
5.2 Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện khóa luận, tác giả sử dụng các phương pháp:
hệ thống- cấu trúc; lôgic - lịch sử; phân tích - tổng hợp; so sánh; thống kê; thu
thập và tìm kiếm thông tin tổng hợp từ các báo cáo; các tài liệu tham nhũng;
các cơ quan báo chí và các thông tin mới nhất về phòng, chống tham nhũng
trên mạng Internet; phương pháp nghiên cứu tài liệu…
6. Những đóng góp về khoa học của đề tài
- Đề tài hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn của TTĐC
trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng và vai trò của TTĐC đối với
vấn đề này ở Việt Nam hiện nay.
- Đánh giá những mặt tích cực và hạn chế của hoạt động này, đồng thời
đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của TTĐC trong cuộc đấu
tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời kỳ xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận khóa luận có kết cấu gồm 2 chương, 4 tiết
Chương I: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về truyền thông đại
chúng và vai trò của truyền thông đại chúng trong cuộc đấu tranh phòng,
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
Chương II: Thực trạng và giải pháp nhằm phát huy vai trò của truyền
thông đại chúng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay.
CHƯƠNG 1

7


MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TRUYỀN THÔNG
ĐẠI CHÚNG VÀ VAI TRÒ CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
TRONG CUỘC ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1.

Nhận thức chung về truyền thông đại chúng và vai trò của

truyền thông đại chúng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng
1.1.1 Khái niệm, chức năng và đặc điểm của truyền thông đại chúng
1.1.1.1 Khái niệm
Truyền thông là sự trao đổi thông điệp giữa các thành viên hay các
nhóm người trong xã hội nhằm đạt được sự hiểu biết lẫn nhau [38,tr.7,8]. Nói
một cách ngắn gọn, truyền thông là một quá trình truyền đạt thông tin
[38,tr.10].
Đại chúng (mass) là đông đảo quần chúng nhân dân trong phạm vi
quốc gia, quốc tế.
Tuyền thông đại chúng là một khái niệm có nội hàm rộng, hiện nay trong
giới khoa học chưa có định nghĩa thống nhất. Từ nhiều góc độ, cách tiếp cận
khác nhau (cơ chế tác động, chức năng, mục đích sử dụng…) mà TTĐC được
hiểu khác nhau.
Theo Tạ Ngọc Tấn định nghĩa, TTĐC là hoạt động giao tiếp xã hội
rộng rãi, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng [38,tr.10].
Theo Mai Quỳnh Nam, TTĐC là toàn bộ những phương tiện lan truyền
thông tin như báo chí, truyền hình, phát thanh... tới những nhóm công chúng
lớn. Đặc điểm của các phương tiện TTĐC là các tin tức từ hệ thống này được
truyền đến công chúng một cách nhanh chóng, đều đặn và gián tiếp [25,tr.3].
Theo Trần Hữu Quang, TTĐC là một quá trình truyền đạt thông tin một
cách rộng rãi đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện TTĐC
như báo chí, phát thanh, truyền hình. TTĐC là một quá trình xã hội, gồm ba
thành tố: hoạt động truyền thông (như săn tin, chụp hình, biên tập, xuất bản,
phát sóng...); các nhà truyền thông (bao gồm các tổ chức truyền thông và

8



những người làm công tác truyền thông) và đại chúng (các tầng lớp công
chúng rộng rãi) [26,tr.12,13].
Tóm lại, có thể hiểu, TTĐC là hoạt động truyền đạt các thông tin có
tính phổ biến trong xã hội một cách rộng rãi và công khai thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng
Như vậy, TTĐC có 2 nội dung cơ bản: 1- Hoạt động truyền tải thông
tin cho công chúng: TTĐC giúp truyền tải những thông tin chính trị - xã hội
một cách rộng rãi, trên quy mô lớn. Những thông tin này được truyền đi một
cách nhanh chóng, chính xác, công khai, đều đặn tới đông đảo quần chúng
nhân dân chứ không dành cho một số ít người. 2- Sử dụng phương tiện truyền
thông đại chúng: TTĐC là hoạt động giao tiếp xã hội rộng rãi, thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng. Những sự kiện và vấn đề được xã hội hóa
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng liên quan tới nhiều người có
mối quan hệ xã hội rộng lớn, được nhân dân quan tâm, mong đợi và có khả
năng xâm nhập, lan rộng nhanh trong cộng đồng.
Các phương tiện truyền thông đại chúng (PTTTĐC) là các phương tiện
truyền tải thông tin đến công chúng, bao gồm: báo, tạp chí, đài truyền hình, đài
phát thanh, internet… Theo nghĩa rộng, các phương tiện thông tin đại chúng là
các thiết chế xã hội đặc thù với sự trợ giúp của các công cụ kỹ thuật đặc biệt
nhằm chuyển tải thông tin đến đông đảo công chúng. Các phương tiện thông
tin đại chúng như truyền hình, đài phát thanh, báo chí và gần đây là máy vi tính
tạo ra những mắt xích quan trọng nối người này với người khác. Những
phương tiện này có một đặc tính quan trọng là có khả năng truyền đạt nhiều
thông điệp từ một nguồn đơn lẻ đến rất nhiều người khác nhau trong cùng một
lúc.
Ngày nay, khi nói đến các PTTTĐC, trước hết người ta đề cập đến báo
chí (báo in, báo phát thanh, báo hình, báo điện tử). Đó là các kênh cơ bản
nhất, cốt lõi nhất, tiêu biểu cho sức mạnh, bản chất, xu hướng vận động phát

triển của truyền thông đại chúng. Bởi vì, do những đặc tính vốn có của mình,
báo chí là kênh TTĐC phổ cập và phát tán thông tin một cách nhanh chóng và
9


kịp thời nhất, tác động đến đông đảo người nhất, phong phú và sinh động
nhất, thường xuyên và liên tục nhất, định kỳ và đều đặn nhất.
1.1.1.2 Chức năng truyền thông đại chúng
Thứ nhất, chức năng thông tin
Thông tin là chức năng cơ bản đầu tiên của TTĐC bởi báo chí ra đời
chính là đáp ứng nhu cầu thông tin - giao tiếp của con người, nhu cầu thông
báo của cơ quan công quyền đối với mọi tầng lớp nhân dân và nhân dân cũng
có nhu cầu muốn biết những quyết định của chính quyền liên quan đến cuộc
sống, thậm chí vận mệnh của họ.
Xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống cũng trở nên đa dạng và phức
tạp hơn, những sự kiện xã hội cũng tăng lên theo cấp số nhân với trình độ
phát triển của xã hội. Và theo lôgic thông thường thì nhu cầu thông tin của
mọi người cũng tăng lên. Ngoài ra, công chúng còn đòi hỏi thông tin được
thường xuyên hơn, cập nhật hơn: hàng tuần, hàng tháng thậm chí hàng giờ.
Nó phản ánh tính thời sự, tính định kỳ của TTĐC. Điều đó cũng có nghĩa là
nhu cầu thông tin tăng cả về số lượng, nội dung lẫn cả số lần được thông tin.
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, cũng như thông tin đã
vượt qua khái niệm không gian và thời gian, hầu hết các sự kiện, hoạt động
quan trọng xã hội đều được đưa tin một cách nhanh chóng, chính xác bằng
nhiều phương tiện truyền thông khác nhau. Đặc biệt, TTĐC luôn chú trọng
cung cấp, phân tích những thông tin mang tính chính trị. Đó là các thông tin
có ý nghĩa chính trị - xã hội thu hút sự chú ý quan tâm của các cơ quan nhà
nước hoặc gây áp lực đến các cơ quan nhà nước. Những thông tin đó không
chỉ được phát một cách máy móc, rập khuôn mà thường kèm theo những nhận
định, bình luận. Tức là, TTĐC sắp xếp các sự kiện và giải thích các quan

điểm của mình, từ đó hình thành quan điểm trong nhân dân về những vấn đề
mà họ đưa ra.
Thứ hai, chức năng giáo dục
Hoạt động thông tin của TTĐC chỉ có thể kích thích mọi người tích cực
tham gia hoạt động chính trị - xã hội, đánh giá các sự kiện chính trị khi nó
10


thực hiện chức năng giáo dục. Như vậy, từ chỗ chỉ là phương tiện truyền tin,
TTĐC đã trở thành một phương tiện giáo dục có hiệu quả.
Xã hội ngày càng phát triển, con người ngày càng bị cuốn hút vào
guồng máy kinh tế - chính trị của quốc gia cũng như quốc tế và yêu cầu về
học tập, nâng cao trình độ hiểu biết cũng vì thế mà tăng lên. Nhà trường
không thể đáp ứng hết yêu cầu này và TTĐC là phương tiện lý tưởng để hỗ
trợ, thay thế thông qua những hình thức đa dạng, hấp dẫn, dễ dàng trong cách
tiếp cận. TTĐC chủ yếu chỉ chuyển tải những kiến thức phổ thông nhưng có
hệ thống ở mọi lĩnh vực (chính trị, kinh tế, văn hoá, lịch sử, tôn giáo, pháp
luật...) mang đến cho công chúng cái nhìn toàn diện, bức tranh toàn cảnh về
hiện thực đời sống xã hội. Từ đó truyền thụ những giá trị văn hoá - lịch sử khoa học, tích cực và tiến bộ của nhân loại.
Một nội dung quan trọng của chức năng giáo dục đó là giáo dục chính
trị - tư tưởng, tạo lập cho quần chúng một thế giới quan, nhân sinh quan đúng
đắn, toàn diện, hình thành ở họ những quan điểm, lập trường, thái độ chính trị
tiến bộ, tích cực. Giáo dục không chỉ dừng lại ở chỗ cung cấp kiến thức mà
còn tuyên truyền cái mới, cái chân - thiện - mỹ, đồng thời phê phán cái lỗi
thời, cái xấu, cái ác, định hướng những tiêu chí, giá trị, chuẩn mực, hành vi,
giúp mỗi cá nhân thích ứng, hoà đồng trong hoạt động xã hội. Với chức năng
này, TTĐC luôn đi đầu trong cuộc đấu tranh vì tiến bộ của con người chống
lại những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, cảnh tỉnh dư luận về những gì đi
ngược lại đạo lý và phi văn hoá.
Thứ ba, chức năng định hướng

Trong quá trình con người tiếp cận với những thông tin phong phú, đa
dạng mà các PTTTĐC mang lại, tất yếu sẽ hình thành ý thức xã hội, trong đó
dư luận xã hội là một yếu tố quan trọng bậc nhất. Dư luận xã hội là nhận thức,
là phản ứng của nhân dân trước các sự kiện, hiện tượng, vấn đề thời sự hoặc
một nhân vật nào đó được thông qua TTĐC. Dư luận xã hội có ý nghĩa đặc

11


biết quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội, là điều kiện sống còn
trong sự phát triển xã hội. Hơn nữa, đời sống xã hội hiện thực luôn sinh động
và biến đổi phù hợp với sự vận động của lịch sử hiện đại, sự nhận thức của
con người là dòng chảy không ngừng, theo đó yêu cầu về dư luận xã hội cũng
cần thiết, thường xuyên được cập nhật.
Tuy nhiên, sự định hướng này không phải áp đặt mà là giáo dục đi đôi
với thuyết phục bằng lý lẽ. Để hình thành dư luận xã hội đúng đắn và tích
cực, TTĐC còn phải phân tích, lý giải, chỉ ra bản chất, tính quy luật của các
biến cố thời sự, định hướng cho nhân dân nhận thức và ứng xử hợp lý những
vấn đề đó.
Thứ tư, chức năng giám sát và quản lý xã hội
Từ các chức năng thông tin, giáo dục, định hướng, TTĐC đã thực hiện
chức năng phản biện, kiểm tra, giám sát xã hội. Giám sát và quản lý được coi
là hai mặt của một vấn đề cùng đảm bảo sự phát triển hợp lý và tích cực của
xã hội. Với chức năng này, TTĐC giám sát cũng như phát hiện và cảnh báo
kịp thời những nguy cơ ảnh hưởng đến sự phát triển chung; giúp hoàn thiện
cách chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong một số trường hợp, TTĐC còn có khả năng huy động lực lượng,
cổ động, kích lệ nhân dân tham gia hoạt động chính trị xã hội.
Thứ năm, chức năng phát triển văn hoá
Hoạt động của TTĐC có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát

triển nền văn hoá. TTĐC là kênh truyền bá, phổ biến một cách sinh động các
loại hình và các tác phẩm văn hoá - văn nghệ để nâng cao trình độ hiểu biết
chúng của nhân dân, khẳng định và phát huy những hía trị văn hóa tốt đẹp,
hình thành và không ngừng hoàn thiện lối sống tích cực trong xã hội
[33,tr41]. Trong điều kiện toàn cầu hoá TTĐC hiện nay, với lợi thế của mình,
hàng ngày, hàng giờ các phương tiện TTĐC liên tục phổ biến những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời giúp nhân dân tiếp cận có chọn lọc
những tinh hoa văn hoá nhân loại. Qua đó, TTĐC vừa giúp mỗi thành viên
trong xã hội nâng cao vốn tri thức, làm phong phú thêm đời sống tinh thần

12


của mình, vừa góp phần hình thành nhân cách, hướng quần chúng nhân dân
vào những giá trị chân- thiện- mỹ, có lối sống văn minh, lành mạnh nhằm
mục tiêu phát triển con người một cách toàn diện.
Thứ sáu, chức năng giải trí và một số chức năng khác
Đến đây có lẽ không thể bỏ qua chức năng “xuyên suốt” của TTĐC là
giải trí. Có thể nói, cùng với chức năng thông tin, giải trí đã làm cho truyền
thông trở thành “Đại chúng”.
Giải trí luôn là một nhu cầu thực tế của con người. Xã hội càng hiện
đại, nhịp độ cuộc sống càng gia tăng thì nhu cầu giải trí càng trở nên phong
phú, sinh động và cấp thiết hơn. Nó giúp cho con người xoá đi những căng
thăng thần kinh, khắc phục những ức chế tâm lý do công việc tạo ra, đồng
thời sử dụng thời gian nhàn rỗi một cách hiệu qủa nhất, đem lại sự thoải mái
để con người có thể tiếp nhận cái mới và tái tạo sức lao động. Chính vì thế
giải trí luôn có mặt trong hầu hết các hoạt động của các TTĐC đặc biệt là
truyền hình. Ngoài ra, với sự phát triển không ngừng của xã hội hiện đại,
TTĐC còn mang chức năng dich vụ và thương mại.
Như vậy, TTĐC với các chức năng của nó đã ảnh hưởng trực tiếp hoặc

gián tiếp đến những bình diện khác nhau của cuộc sống con người và nó
không thể thiếu trong sự vận động phát triển của xã hội hiện đại. Đặc biệt,
TTĐC có mối quan hệ rất gần gũi với chính trị, nó không chỉ có tác động to
lớn đến ý thức giác ngộ chính trị của quần chúng mà còn tham gia tích cực
vào các hoạt động chính trị, các tiến trình chính trị.
1.1.1.3 Đặc điểm của truyền thông đại chúng
Thứ nhất, có tính chất công khai và rất phong phú về tin tức.
Đối tượng tác động của TTĐC là đông đảo công chúng, cư dân ở một
vùng rộng lớn hoặc phạm vi quốc gia, quốc tế. Đó là tính chất công khai của
TTĐC. Công khai tức là “không giữ kín, mà để cho mọi người có thể biết”
[17]. Đặc điểm công khai của TTĐC là TTĐC thông tin sự kiện, xã hội hóa sự
kiện, vấn đề và làm cho nói trở thành sự kiện và vấn đề xã hội, thậm chí là
toàn cầu, được mọi người quan tâm. Sự kiện đó sẽ tác động vào nhận thức,
13


thái độ và hành vi của hàng triệu người, lay động, chi phối, thậm chí lũng
đoạn hàng triệu người. Đó chính là nguồn gốc sức mạnh xã hội của TTĐC.
Đặc điểm phong phú của TTĐC được biểu hiện ở chỗ, đối tượng phản
ánh của TTĐC là các sự kiện và vấn đề đã và đang diễn ra trên tất cả mọi lĩnh
vực đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa….Và đối tượng tác động mà
TTĐC hướng tới hết sức phong phúc, đa dạng. Chính đối tượng tác động này
quy định đặc điểm phong phú và đa dạng của TTĐC, bởi vì TTĐC cần hướng
tới thỏa mãn nhu cầu thông tin của công chúng, phục vụ công chúng xã hội.
Thứ hai, rất nhanh chóng, kịp thời, có tính chất định kỳ, đều đặn.
TTĐC có khả năng cung cấp cho công chúng nhiều thông điệp một
cách nhanh chóng, kịp thời nhất, phong phú và sinh động nhất, từ thông tin
nhanh đến thông tin chi tiết, từ miêu tả đến phân tích, bình luận…Với sự phát
triển của cách mạng khoa học – kỹ thuật và công nghệ thông tin, TTĐC đã
không ngừng phát triển và thể hiện tính phong phú, đa dạng trong nội dung,

hình thức, phương thức và sản phẩm thông tin – giao tiếp.
Định kỳ có thể được hiểu là “từng khoảng thời gian nhất định, sau đó
sự việc lại xảy ra”. Trong báo chí, theo đó, cứ sau một khoảng thời gian, sản
phẩm báo chí được xuất bản, được truyền phát đi. Cứ như thế, định kỳ, đều
đặn lặp đi lặp lại. Với tính định kỳ này đã quy định nề nếp làm việc của cơ
quan báo chí cũng như phong cách hoạt động của nhà báo.
Thứ ba, tính dễ nhớ, dễ hiểu và dễ làm theo.
Tính chất giao tiếp đại chúng yêu cầu thỏa mãn trình độ chung của
công chúng. Do đó, các thông điệp phát ra phải đảm bảo để công chúng hiểu
ngay lập tức và cùng hiểu như nhau để có thể chia sẻ, nhận thức hoặc xử ly
kịp thời, hiểu quả. Điều này đòi hỏi thông điệp phải được thiết kế phù hợp để
người nông dân có trình độ trung bình tiếp nhận không thấy khó hiểu và nhà
khoa học không thấy nhàm chán.
Thứ tư, nội dung thông điệp có tính mục đích rõ rệt.

14


Mục đích chính trị, tính định hướng của hoạt động TTĐC rất rõ ràng.
Người sử dụng cũng như công chúng tiếp nhận đều ý thức về mục đích và
tính định hướng của các thông điệp. Trong những tình huống khác nhau, mục
đích của TTĐC không như nhau, nhưng dù mục đích nhằm trực tiếp vào văn
hóa, giải trí, kinh tế hay xã hội, thì mục đích xuyên suốt và bao trùm của nó
vẫn là mục đích chính trị - xã hội. Bởi vì TTĐC liên quan đến đông đảo công
chúng xã hội, đến việc tập hợp lực lượng và thu phục những “bạn đồng minh”
như V.I.Lênin đã khẳng định từ đầu thế kỷ XX.
Thứ năm, tính gián tiếp.
Hầu hết các kênh TTĐC, trong quá trình chuyển tải thông điệp, không
có sự tiếp xúc trực tiếp giữa chủ thể và khách thể mà dùng các phương tiện kỹ
thuật làm vật trung gian truyền dẫn. Do đó, muốn nâng cao năng lực và hiểu

quả truyền thông, không thể không tính đến việc đầu tư và đổi mới công nghệ,
hình thức và phương thức truyền dẫn thông điệp; mặt khác, cần nắm vững các
đặc trưng của mỗi kênh giao tiếp để có thể khai thác triệt để.
Thứ sáu, các sự kiện và vấn đề đăng tải trên TTĐC luôn hướng tới việc
thỏa mãn, phục vụ nhu cầu, mong đợi của công chúng xã hội và nhân dân.
Những sự kiện được thông tin liên quan mật thiết đến việc giải thích và giải
đáp, tháo gỡ những vấn đề bức xức trong cuộc sống của đông đảo cư dân.
Trong xã hội thông tin thời đại số hóa, TTĐC đã và đang trở thành diễn đàn
chia sẻ thông tin, tư tưởng, tình cảm, kỹ năng và kinh nghiệm của đông đảo
nhân dân.
Xã hội ngày càng phát triển, con người càng văn minh, khoa học công
nghệ càng hiện đại đã tác động đến nhu cầu thông tin của con người.
Lĩnh vực hoạt động giao tiếp của TTĐC rất rộng, bao trùm các lĩnh vực
của đời sống xã hội. [13,tr.10] Bản thân thuật ngữ TTĐC gợi mở cho thấy quá
trình và hoạt động, quy mô và phạm vi truyền thông: đại chúng về nguồn phát
(nhà báo, chính khách, doanh nghiệp, chuyên gia, công chúng…); đại chúng

15


về phương tiện truyền tải, kênh truyền tin và công nghệ thông tin (sách, báo,
tạp chí, phát thanh, truyền hình, điện ảnh, internet, truyền thông đa phương
tiện, kỹ thuật truyền sóng, kỹ thuật số…); đại chúng về đối tượng tiếp nhận
thông tin (là các nhóm, cộng đồng xã hội đủ mọi giới, nam, nữ, nghề nghiệp,
dân tộc, tôn giáo…); đại chúng về hiệu quả, phạm vi ảnh hưởng (không chỉ bó
hẹp trong vùng, khuôn khổ một quốc gia dân tộc mà còn vượt ra cả khu vực,
thậm chí toàn cầu).
1.1.2 Bản chất, nguyên nhân và tác hại của tham nhũng
1.1.2.1 Bản chất của tham nhũng
Tham nhũng (corruption) là một hiện tượng trong xã hội trong đó tổ

chức, tập đoàn, cá nhân…lợi dụng những ưu thế về chức vụ, cương vị, uy tín,
nghề nghiệp, hoàn cảnh của mình hoặc người khác, lợi dụng những sơ hở của
pháp luật để làm lợi bất chính. Đây không chỉ là vấn đề của riêng một quốc
gia mà là vấn nạn chung của cả thế giới.
Có rất nhiều khái niệm về tham nhũng được đưa ra. Trước hết, Tài liệu
hướng dẫn của Liên hợp quốc về chống tham nhũng cho rằng: “tham nhũng –
đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng”.
Công ước Luật dân sự về chống tham nhũng của Hội đồng châu Âu
(thông qua tại cuộc họp thượng định lần thứ hai ở Strasbourg tháng 10/1997)
đưa ra định nghĩa: Tham nhũng là việc đòi hỏi, gợi ý, đưa hoặc nhận trực tiếp
hoặc gián tiếp của hối lộ hoặc lợi thế bất chính khác hoặc triển vọng của hối
lộ hay lợi thế bất chính đó, làm ảnh hưởng đến sự thực hiện đúng đắn nhiệm
vụ hoặc công việc của người nhân hối lộ hoặc lợi thế bất chính hoặc triển
vọng về của hối lộ bất chính đó [31,tr.223].
Tổ chức Minh bạch quốc tế cho rằng: Tham nhũng là hành vi của người
lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ lợi ích
cá nhân [9].
Ở Việt Nam khái niệm tham nhũng cũng được tiếp cận từ nhiều góc độ
khác nhau:

16


Trong từ điển tiếng Việt: “Tham nhũng là sự lợi dụng quyền hành để
nhũng nhiễu dân, lấy của dân” [7,tr.1523].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhiều lần đề cập đến hiện tượng tham
nhũng. Người cho rằng, tham ô là “lấy của công làm của tư. Là gian lận tham
lam”, “tham ô là trộm cướp” [22,tr.488].
Ở đề tài này, tác giả xin lấy khái niệm tham nhũng trong Luật phòng,
chống tham nhũng được Quốc hội thông qua năm 2005, ở Khoản 2 Điều 1

làm cơ sở khái niệm tham nhũng: “Tham nhũng là hành vi của người có chức
vụ, quyền hạn, đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”[16].
Tham nhũng đã xuất hiện từ xưa, nó gắn liền với sự tư hữu cá nhân, khi
xã hội phân chia thành giai cấp, ra đời và tồn tại song song cùng với sự phát
triển của Nhà nước. Đây là một hiện tượng xã hội phản ánh các yếu tố chính
trị, kinh tế, văn hóa, truyền thống, tập quán của một dân tộc, một quốc gia;
tham nhũng bao gồm những hành vi nguy hiểm ở mức độ cao cho xã hội, nhà
nước và nhân dân.
Thực chất, tham nhũng là do tha hoá quyền lực chính trị và quyền lực
nhà nước. Nguyên nhân gốc rễ của nó là do việc tổ chức và sử dụng sai lệch
quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước. Từ đó, tự giác hay không tự giác tạo
ra các hành vi lạm quyền, chuyên quyền, nhược quyền, vô quyền…Vì vậy,
trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước, chủ thể tham nhũng sử dụng các
lợi thế về cấp bậc, chức vụ, vị trí thuận lợi trong hệ thống Nhà nước vào
những hành vi vụ lợi. Mặt khác, do thiếu quyền lực từ phía các cơ quan nhà
nước không có lợi thế, cơ quan cấp dưới, người dân, các tổ chức xã hội công
dân hoặc doanh nghiệp thiếu hay không có khả năng kiểm soát quyền lực nhà
nước, họ rơi vào trạng thái phải hối lộ để thực hiện các mục tiêu của mình.
Chủ thể tham nhũng là những người có chức vụ và quyền hạn bao gồm:
cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp
nhà nước…Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ và quyền hạn được giao để
mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình mình và cho người khác. Mục đích
của hành vi tham nhũng là vụ lợi về lợi ích vật chất và tinh thần.
1.1.2.2 Nguyên nhân tham nhũng
17


Tham nhũng xuất phát từ nhiều nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan:
Về nguyên nhân khách quan:
Xuất phát từ hệ thống chính trị (HTCT), bất kỳ HTCT thiếu khả năng

kiểm soát, yếu kém, chậm đổi mới, trình độ quản lý lạc hậu, phi dân chủ, mức
sống thấp, quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị bị phân chia tùy tiện,
không được kiểm soát, dể bị lạm dụng sẽ dẫn đến tình trạng nảy sinh và phát
triển tình trạng tham nhũng.
Tại các cuộc đàm phán về Công ước chống tham nhũng của Liên hợp
quốc trước đây, người ta đều khẳng định là nơi nào hệ thống pháp luật còn
lỏng lẻo, các quy trình ra quyết định và hoạch định chính sách còn thiếu minh
bạch, thủ tục hành chính còn rườm rà, lương công chức còn thấp… thì ở đó
tình trạng tham nhũng có xu hướng gia tăng cả về tính chất và mức độ, đồng
thời số vụ có tính chất xuyên quốc gia cũng xuất hiện ngày càng nhiều [32].
Về nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ Nhà nước bị suy
thoái, công tác quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên yếu kém. Một bộ phận
không nhỏ đảng viên, cán bộ, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm
chất đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành,
kể cả cán bộ lãnh đạo cao cấp còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn
phẩm chất đạo đức, chưa đi đầu trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Thứ hai, sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng ngừa và đấu tranh
chống tham nhũng ở một số nơi chưa chặt chẽ, sâu sát, thường xuyên; việc xử
lý tham nhũng chưa nghiêm. Với việc quản lý buông lỏng trong kiểm tra,
giám sát, lợi dụng những khẽ hở trong cơ chế, chính sách để làm những điều
phi pháp, chiếm dụng của công thành của riêng.
Thứ ba, chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan Nhà nước trong cuộc
đấu tranh chống tham nhũng chưa rõ ràng, chồng chất. Một số quy định của
Đảng và Nhà nước còn chưa đồng bộ, có nhiều thay đổi, chồng chéo, mâu
thuẫn, không có tính khả thi, dễ bị lợi dụng để làm trái trục lợi; cơ chế phân
cấp, phân quyền, trao quyền cho tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu
chưa rõ ràng, đầy đủ, trong khi chưa có cơ chế để kiểm tra, giám sát, kiểm
18



soát, xử lý kịp thời, chặt chẽ việc trao quyền và thực thi quyền lực được
trao của tổ chức, cá nhân, chưa có chế tài xử lý nghiêm minh vi phạm, kể
cả trách nhiệm liên đới, dẫn đến tình trạng dễ bị lợi dụng để trục lợi, tham
nhũng.
Thứ tư, thiếu các công cụ phát hiện và xử lý tham nhũng hữu hiệu
trong khi mức độ tham nhũng ngày càng lớn và tinh vi. Tính chất tham nhũng
ngày càng phức tạp và nghiêm trọng.
1.1.2.3 Tác hại của tham nhũng
Thứ nhất, tác hại về kinh tế
Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước, của tập thể
và của công dân. Hậu quả của hành vi tham nhũng không chỉ là việc tài
sản, lợi ích của Nhà nước, của tập thể hoặc của cá nhân bị biến thành tài
sản riêng của người thực hiện hành vi tham nhũng, mà nguy hiểm hơn,
hành vi tham nhũng còn gây thiệt hại, gây thất thoát, lãng phí một lượng
lớn tài sản của Nhà nước, của tập thể, của công dân. Việc một số cán bộ,
công chức quan liêu, sách nhiễu đối với nhân dân trong khi thực thi công
vụ, lạm dụng quyền hạn trong khi thi hành công vụ khiến cho nhân dân
phải mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc để có thể thực hiện được
công việc của mình như: xin cấp các loại giấy phép, giấy chứng nhận,
hoặc các loại giấy tờ khác...
Thứ hai, tác hại về chính trị
Tham nhũng phá hoại đội ngũ cán bộ, tầm thường hoá hệ thống pháp
luật, là nguyên nhân liên quan trực tiếp đến sự sống còn của Nhà nước. Tác
hại của tham nhũng không chỉ dừng lại ở phương diện thiệt hại vật chất hàng
ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu USD của Nhà nước mà tham nhũng sẽ làm tầm
thường hoá hệ thống pháp luật của Nhà nước, kỷ cương xã hội không thể giữ
vững, gây mất đoàn kết nội bộ, làm giảm uy tín của Nhà nước trước nhân dân
và là cơ hội để cho kẻ thù phá hoại, xâm lược. Tham nhũng tất yếu dẫn đến
phá hoại đội ngũ cán bộ Nhà nước bởi vì những kẻ tham nhũng sẽ lừa dối và

19


hư hoá cấp trên làm cho bộ máy trở thành quan liêu, chúng sẽ tăng cường đưa
thêm kẻ xấu vào guồng máy và triệt hại đội ngũ viên chức chưa tốt.Tham
nhũng sẽ làm cho quần chúng mất đi sự tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước và đây cũng là nguyên nhân căn bản nhất dẫn đến thất
bại của Đảng và Nhà nước. Công ước Liên châu Mỹ về chống tham nhũng
thừa nhận rằng: “Tham nhũng làm giảm tính chính đáng của các cơ quan
công quyền, xâm hại xã hội, nền tảng đạo đức và công lý cũng như sự phát
triển toàn diện của con người [33,tr.233].
Thứ ba, tác hại về xã hội
Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn
mực đạo đức xã hội, tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước.Trước
những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi tham
nhũng, nhiều cán bộ, công chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức
của người cán bộ cách mạng, không phục vụ nhân dân mà hướng tới các
lợi ích bất chính, bất chấp việc vi phạm pháp luật, làm trái công vụ, trái
lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy, tham nhũng không chỉ phát sinh
ở trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ
bản, quản lý đất đai… mà còn có xu hướng lan sang các lĩnh vực từ trước
tới nay ít có khả năng xảy ra tham nhũng như: văn hoá, y tế, giáo dục, thể
dục, thể thao...Thậm chí, cả những lĩnh vực lẽ ra không thể có tham
nhũng, cả dưới góc độ đạo đức và pháp luật, như lĩnh vực phúc lợi xã hội
hay bảo vệ pháp luật. Hành vi tham nhũng xảy ra không ít trong các
chương trình trợ cấp cho thương binh, liệt sĩ, các gia đình chính sách;
tham nhũng tiền, hàng hoá cứu trợ xã hội, trong cả xét duyệt công nhận di
tích lịch sử, văn hoá, thi đua khen thưởng. Thậm chí tham nhũng còn xảy
ra trong các cơ quan bảo vệ pháp luật.


20


Tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng, lãng phí gây ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả của việc thực hiện chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội
hoặc một nhiệm vụ quản lý nhất định của Nhà nước.
1.1.3.

Vai trò của truyền thông đại chúng trong cuộc đấu tranh

phòng, chống tham nhũng
1.1.3.1. Truyền thông đại chúng tham gia vào hoạch định đường lối
chính sách phòng, chống tham nhũng
Tham nhũng hiện nay vẫn là vấn đề nhức nhối của các quốc gia. Công
tác phòng, chống tham nhũng còn gặp nhiều khó khăn, hạn chế nhất vẫn trong
việc xây dựng thể chế pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Vì vậy, việc
xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách và thể chế pháp luật về chống tham
nhũng luôn được quan tâm.
Trong cuộc tác xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách và pháp luật
về chống tham nhũng, TTĐC đã có những đóng góp quan trọng trong việc
phòng, ngừa nạn tham nhũng. Thông qua các kênh thông tin, TTĐC đã tạo
điều kiện cho các nhà khoa học, các chuyên gia, quần chúng nhân dân có thể
tham gia trao đổi, đóng góp ý kiến của mình. Từ đấy, TTĐC là kênh thông tin,
nguồn tài liệu quan trọng cung cấp thông tin cho các nhà làm chính sách
chống tham nhũng để có thể đưa ra những chính sách hoàn thiện về phòng,
chống tham nhũng
Với sự ảnh hưởng vô cùng lớn của TTĐC cho nên các nhà làm chính
sách sẽ dựa vào TTĐC khảo sát, lất ý kiến của nhân dân để xây dựng chính
sách. Đồng thời, thông qua TTĐC sẽ tham dò ý kiến của dư luận về những
chính sách đó. Từ đấy, có sự bổ sung cũng như hoàn thiện hơn cơ chế, chính

sách và pháp luật phòng, chống tham nhũng trong thực tiễn. Thông qua
TTĐC, cán bộ, công chức được trang bị thêm những kiến thức cơ bản và mới
cả về lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Những vấn đề
lý luận, khoa học, những nguồn tư liệu thông tin quan trọng cho các cán bộ
chuyên môn và lãnh đạo tham khảo, vận dụng vào công tác phòng, chống
tham nhũng.
21


1.1.3.2.

Truyền thông đại chúng phát hiện hành vi tham nhũng

Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, TTĐC đã cùng với các
lực lượng tích cực phát hiện các vụ việc, đấu tranh mang lại những kết quả thiết
thực. TTĐC đã công khai và thẳng thắn đấu tranh phê phán mạnh mẽ những
tập thể cá nhân vi phạm pháp luật. TTĐC theo dõi, cảnh báo những nơi có
nguy cơ tham nhũng, vừa tham gia phát hiện và tạo nên dư luận mạnh mẽ, đòi
hỏi các cơ quan trong bộ máy nhà nước phải hoàn thiện cơ chế xây dựng, bồi
dưỡng cán bộ, đảng viên, công chức về nhân cách, đạo đức, lối sống để phòng
ngừa, ngăn chặn và xử lý tham nhũng. Một khi TTĐC phát hiện các nghị sỹ
quốc hội có những điều khuất tất, họ có quyền điều tra, tìm kiếm sự thật và
công bố sự thật đó trước công chúng [1,tr.134]. TTĐC đã đi tiên phong trên
mặt trận đầy khó khăn này. Nó được coi là “mũi nhọn”, là một trong những
công cụ, phương tiện hữu hiệu giữa cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng. Thực tế cho thấy nhờ có sự hỗ trợ tích cực và hiệu quả của TTĐC mà
nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng, phản động… được đưa ra ánh sáng, xử lý
kịp thời, đúng pháp luật.
Hiện nay, TTĐC là một trong những vũ khí quan trọng trong cuộc đấu
tranh chống hiện tượng tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy nhà nước. TTĐC

đã thực sự “nhập cuộc”, trở thành nơi cung cấp thông tin cho mọi tầng lớp
nhân dân về thực trạng tham nhũng, diễn biến đấu tranh chống tham nhũng và
kết quả của từng vụ việc sau quá trình đấu tranh ấy. TTĐC đã trở thành nơi
cung cấp thông tin một cách nhanh chóng, chính xác, cập nhật từng ngày,
từng giờ, thậm chí từng phút cho mọi tầng lớp nhân dân về thực trạng tham
nhũng, diễn biến đấu tranh chống tham nhũng và kết quả của từng vụ việc sau
quá trình đấu tranh ấy. Với nhiều kênh thông tin khác nhau, các cơ quan
truyền thông đại chúng đã đưa nhiều tin, bài, ảnh về công tác phòng chống
tham nhũng với số lượng ngày càng tăng. Không chỉ trực tiếp thông tin,
phanh phui các vụ việc tham nhũng, báo chí còn truyền bá kinh nghiệm chống
tham nhũng; cổ vũ các nhân tố tích cực đấu tranh chống tham nhũng ở trong
22


nước và chuyển tải đến công chúng tình hình đấu tranh bài trừ tham nhũng
trên thế giới.
1.1.3.3. Truyền thông đại chúng lên án hành vi tham nhũng
Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, TTĐC đã tiến hành
cuộc đấu tranh này một cách thường xuyên, kiên trì, cương quyết, dũng cảm
và trách nhiệm trước nhân dân. Bằng các địa chỉ, tên người, số liệu, tư liệu cụ
thể, xác thực, TTĐC đã nêu công khai trên công luận những vụ việc tiêu cực
để dư luận biết, lên án, giúp các cơ quan chức năng điều tra, xử lý; giúp các tổ
chức và cá nhân tự sửa chữa sai phạm của mình. Thực tế cho thấy nhờ có sự
hỗ trợ tích cực và hiệu quả của TTĐC mà nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng,
phản động… được đưa ra ánh sáng, xử lý kịp thời, đúng pháp luật.
Hầu hết đa đó người dân biết được các thông tin từ TTĐC. Thông qua
các bản tin, TTĐC cung cấp những vụ án tham nhũng đang xảy ra, từ đây tạo
sự thu hút chú ý từ quần chúng nhân dân. Khi sự tập trung của TTĐC vào một
vấn đề nào đó, buộc các quan chức phải chú ý và khi có sức ép quá lớn của
quần chúng thì vấn đề đó phải được quan tâm, tìm ra phương thức, phương

pháp giải quyết. Trên thực tế, khi TTĐC lên tiếng về những vụ việc tham
nhũng thì các cơ quan có thẩm quyền vào cuộc nhanh hơn để xem xét, xử lý.
Thông qua đó, TTĐC góp phần thúc đẩy hoàn thiện cơ chế quản lý, chấn
chỉnh sai phạm, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước.
1.1.3.4. Truyền thông đại chúng nêu gương những tấm gương điển hình
trong phòng, chống tham nhũng
Trước hết, để nhân dân hiểu rõ hơn về sứ mệnh của mình trong công tác
phòng, chống tham nhũng, TTĐC có vai trò tuyên truyền các quy định của
pháp luật về đấu tranh, phòng, chống tham nhũng và tác hại của tham nhũng
đến sự phát triển của xã hội để mọi người dân hiểu rõ. Trên cơ sở đó, mọi
người ý thức được trách nhiệm của mình trong đấu tranh phòng, chống tham
nhũng. TTĐC đã góp phần làm công chúng hiểu rõ, đấu tranh chống tham

23


×