Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THAM GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.78 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA CHÍNH TRỊ HỌC

TIỂU LUẬN
Môn: Quyền lực Chính trị

ĐỀ TÀI: GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THAM
GIA CỦA NGƯỜI DÂN TRONG PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Học viện thực hiện: Nguyễn Thị Hòa

Hà Nội - 2016
1


Các biện pháp chống tham nhũng dựa trên những khuyến khích tạo cho
hành vi tham nhũng. Những điều kiện nhất định khuyến khích các quan chức tìm
kiếm và chấp nhận tham nhũng. Những lợi nhuận mong đợi thu được từ tham
nhũng nhiều hơn chi phí cho tham nhũng.
Ở những nước có tham nhũng nặng nề và quản trị yếu kém, những ưu tiên
cho các nỗ lực chống tham nhũng là thiết lập sự cai trị của luật pháp, tăng cường
các thể chế tham gia và trách nhiệm giải trình, hạn chế sự can thiệp của chính phủ
tập trung vào những sự ủy quyền căn bản. Đối với những nước có tham nhũng
vừa phải và quan trị khá, những ưu tiên là phân quyền và cải cách kinh tế, quản
trị dựa vào kết quả và đánh gia, và thực hiện những khuyến khích cạnh tranh
trong cung cấp dịch vụ công. Còn đối với những nước ít tham nhũng và quản trị
tốt, các ưu tiên là các chiến lược và chương trình chống tham nhũng rõ ràng, quản
trị tài chính mạnh mẽ hơn và tăng cường nhận thức của công chúng và chính phủ,
không có hối lộ và những nỗ lực để bắt “những con cá lớn”.1
Ở Việt Nam, tham nhũng được xếp ở mức phổ biến, có tính hệ thống, vì


vậy, các ưu tiên cho phòng chống tham nhũng cũng không nằm ngoài các yếu tố
kể trên. Để phòng, chống tham nhũng một cách căn bản, đúng hướng cần tập
trung vào những giải pháp xây dựng và thiết lập sự cai trị của luật pháp, xây dựng
và hoàn thiện các thể chế trách nhiệm, và các thể chế tham gia của người dân. Để
làm được các mục tiêu cơ bản này, cần phải thiết kế và thực thi các giải pháp sau:
1. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế ủy quyền của dân
Một trong các quyền quan trọng thể hiện quyền lực thuộc về nhân dân
trong các nhà nước dân chủ là quyền quyết định của nhân dân lựa chọn các đại
diện thực hiện ý chí của mình và đi đôi với nó là quyền phế truất khi người được
ủy quyền không thi hành được ý nguyện của dân chúng. Vì vậy, hệ thống bầu cử
theo nhiệm kỳ luôn là công cụ kiểm soát quan trọng, thể hiện rõ ràng nhất quyền
quyết định tối cao của nhân dân. Tuy nhiên, ở nước ta như phần trên đã phân tích,

1

Jeff Huther and Anwar Shap, Anti – Corruption Policies and programs, a framework for Evaluation,
policy research working paper, the World Bank, 12/2000.

2


bầu cử Quốc hội được thực hiện theo cơ chế Đảng cử, dân bầu. Toàn dân bầu
Quốc hội nhưng là bầu cho những ứng cử viên đã được định trước theo sự sắp
xếp của cấp ủy, của Đảng. Thực chất cơ chế ủy quyền này ngay từ khâu ủy quyền
đầu tiên đã chưa đảm bảo thực chất quyền quyết định của nhân dân đối với các
đại diện của mình.
Để khắc phục tình trạng uỷ quyền hình thức và là nguyên nhân dẫn đến sự
chồng chéo trong hoạt động của Đảng và Nhà nước, Đảng phải chủ động tự hạn
chế quyền sắp đặt, quyết định của mình trong việc giới thiệu các ứng cử viên mà
thực chất là quyết định các đại diện được bầu. Đảng giới thiệu cán bộ của Đảng ra

tranh cử cùng với các ứng cử viên tự ứng cử, các ứng cử viên do nhân dân đề cử.
Đảng tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng cho tất cả các ứng cử viên.
Chỉ có thông qua môi trường cạnh tranh thực sự mới tìm được người tài giỏi ra gánh
vác công việc của đất nước. Danh sách ứng cử viên cần nhiều hơn số lượng cần bầu ít
nhất là gấp đôi để mở rộng sự lựa chọn của nhân dân. Nhân dân mới có quyền quyết
định xem ai là người xứng đáng được giao trọng trách quản lý đất nước. Đảng phải
tôn trọng quyền quyết định này của dân. Làm như thế không những Đảng nâng cao
được uy tín, tính chính đáng cho quyền lãnh đạo của mình mà còn có thêm sức mạnh
của dân cùng tham gia xây dựng bộ máy nhà nước.
Việc thiết kế hệ thống bầu cử là yếu tố quan trọng tiếp theo sau khi Đảng
đã quán triệt được vai trò quyết định của nhân dân trong việc lựa chọn các đại
diện. Trong phạm vi nghiên cứu này không thể đi sâu vào các thiết kế cụ thể mà
chỉ đưa ra những yêu cầu có tính nguyên tắc chung, đó là:
- Luật bầu cử nên được xây dựng và quy định cụ thể trong Hiến pháp; phải lập
ra Ủy ban giám sát bầu cử có vị thế độc lập với các ảnh hưởng bên ngoài. Các biện
pháp này nhằm đảm bảo phản ánh một cách trung thực lá phiếu của người dân.
- Do còn nhiều hạn chế về trình độ nhận thức, về việc tiếp cận thông tin
cũng như năng lực duy lý, cộng theo tâm lý đám đông nên sự lựa chọn của người
dân vẫn có khả năng không hợp lý. Vì vậy, cần có những quy định, biện pháp
ngăn cấm, hạn chế việc tuyên truyền, vận động có tính chất mị dân. Đồng thời, có
3


các hình thức giáo dục, tuyên truyền, nâng cao sự hiểu biết của dân chúng để
người dân có được sự lựa chọn hợp lý.
- Nên có sự nghiên cứu, khảo sát cụ thể để thiết lập các đơn vị bầu cử một
thành viên trên toàn quốc. Nó sẽ khắc phục được nhiều điểm hạn chế của đơn vị
bầu cử nhiều thành viên và hình thành đoàn đại biểu quốc hội như hiện nay. Thứ
nhất, nó làm giảm chi phí thông tin và giám sát của cử tri đối với đại biểu mà họ
bầu ra. Với đơn vị bầu cử nhiều thành viên như hiện nay, cử tri không có đủ thời

gian cũng như khả năng cần thiết để tiếp cận thông tin, tìm hiểu được nhiều ứng
cử viên cùng một lúc. Nếu không có sự đầu tư thích đáng sẽ dẫn tới khả năng
quyết định lựa chọn của cử tri không hợp lý. Ngay bản thân cử tri cũng không
thấy hành vi bầu cử có ý nghĩa gì, một khi quyết định lựa chọn của họ không dựa
trên những căn cứ, thông tin cần thiết. Việc thiết lập đơn vị bầu cử một thành viên
sẽ làm giảm bớt tình trạng “bỏ phiếu cho cái không biết” đã xảy ra ở nhiều nơi
hiện nay. Hơn nữa, sự quan tâm và giám sát của cử tri đối với một đại diện sẽ sát
sao và hiệu quả hơn thay vì phải để mắt tới nhiều đại diện cùng một lúc. Thứ hai,
nó gắn kết và tăng cường trách nhiệm của đại biểu quốc hội đối với cử tri, Quốc
hội và trách nhiệm của cử tri đối với đại biểu của mình. Khắc phục tình trạng
“cha chung không ai khóc” thường xảy ra khi có nhiều đại diện, có đoàn đại diện
(đoàn đại biểu quốc hội). Do đó, nó làm tăng tính đại diện của đại biểu quốc hội
vì lợi ích thiết thực của cử tri đơn vị bầu cử đã bầu ra họ.
Khi bầu cử dân chủ thực sự thì kết quả bầu cử là người ngoài Đảng hay là
đảng viên không phải là vấn đề quan trọng. Điều quan trọng là những người đó
có sự tín nhiệm thực sự của nhân dân. Cũng như vậy, các thành viên của cơ quan
hành pháp và tư pháp không nhất thiết phải có tiêu chí là đảng viên mà quan
trọng là đáp ứng tốt công việc.
Người đứng đầu quốc gia, đứng đầu chính quyền cấp cơ sở (xã, phường,
thị trấn) cần được toàn dân trực tiếp bầu. Vì là cấp giải quyết công việc hàng
ngày, trực tiếp liên quan đến lợi ích của người dân, được toàn dân trực tiếp ủy

4


quyền sẽ tạo nên sự đồng thuận trong việc thực thi quyền lực, hiệu quả thực thi
quyền lực cao hơn.
2. Xây dựng cơ chế bãi miễn của nhân dân
Cụ thể hóa quyền bãi nhiệm của nhân dân đối với các đại biểu được bầu,
nếu họ không làm chọn nhiệm vụ của mình. Quyền bãi nhiệm các đại biểu được

bầu của nhân dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp cũng như trong Luật tổ chức
Quốc Hội. Nhưng quy trình bãi nhiệm đại biểu Quốc hội của nhân dân vẫn chưa
cụ thể, rõ ràng và có nhiều công đoạn phức tạp. Theo quy định của Luật tổ chức
Quốc hội, cử tri bãi nhiệm đại biểu quốc hội chỉ khi có đề nghị của Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cách thức lại do UBTVQH quyết định. Cách
thức đó được tiến hành như thế nào, quy định ở đâu, thì vẫn chưa có chỉ dẫn cụ
thể. Về vấn đề này, có thể tham khảo Hiến pháp 1946. Hiến pháp có quy định rõ
ràng, cụ thể về quyền bãi miễn của nhân dân: khi có ¼ tổng số cử tri tỉnh hay
thành phố đề nghị bãi miễn nghị viên họ đã bầu, thì Nghị viện phải xét vấn đề bãi
miễn nghị viên đó. Nếu có 2/3 tổng số nghị viên đồng ý thì nghị viên đó bị bãi
miễn.
Trong bối cảnh hiện nay, có thể quy định thành các thủ tục đơn giản, dễ
dàng hơn để cử tri có thể thực hiện được quyền đã hiến định của mình. Chẳng
hạn, khi đã thiết lập được đơn vị bầu cử một thành viên, có thể chỉ cần 1/5
tổng số cử tri đã bầu ra đại biểu đó đề nghị bãi miễn, Quốc hội phải xét vấn
đề bãi miễn đại biểu đó và chỉ cần tỷ lệ phiếu quá bán đồng ý ở Quốc hội, đại
biểu đó sẽ bị bãi miễn. Điều này dựa trên cơ sở phân tích tại sao quy trình lựa
chọn người lãnh đạo, đại diện cho lợi ích chung cần phải được thiết kế cẩn
trọng, sao cho đó là quá trình rất khó khăn, trong khi quá trình phế truất lại
dễ dàng hơn rất nhiều (có khi chỉ cần một biểu hiện rõ ràng về sự không đáp
ứng các tiêu chí về đạo đức, tinh thần phục vụ nhân dân). Một trong các lý do
chính là tính bất đối xứng của hai loại quyết định này: việc nhận biết người
tốt (hiểu theo nghĩa rộng là phù hợp với mục tiêu cụ thể) sẽ đòi hỏi thời gian
dài, nhiều kiến thức và nhiều thông tin hơn là việc nhận biết người xấu. Cũng
5


như việc nhận biết một người ích kỷ (có thể chỉ cần quan sát một vài biểu
hiện) sẽ dễ dàng hơn rất nhiều so với việc khẳng định người đó là vô tư, vị
tha.

Tuy nhiên, đó vẫn là cơ chế nhân dân bãi nhiệm gián tiếp thông qua quyết
định trực tiếp của Quốc hội. Trong tương lai, khi có các điều kiện về kỹ thuật,
thông tin, trình độ dân trí, dân chủ của nhân dân có thể thiết lập cơ chế nhân dân
trực tiếp bãi nhiệm các đại biểu khi họ không còn sự tín nhiệm của nhân dân mà
không cần phải thông qua cơ chế gián tiếp hay đợi đến nhiệm kỳ bầu cử mới thực
hiện được ý nguyện này.
3. Ban hành và thực hiện cơ chế phúc quyết hiến pháp của
nhân dân
Trong chế độ dân chủ, Hiến pháp là bản khế ước giao kèo sự ủy quyền
của nhân dân cho Nhà nước. Vì vậy, quyền lập hiến không chỉ dừng lại ở
Quốc hội mà quyết định tối hậu phải thuộc về toàn dân. Việc sửa đổi Hiến
pháp cũng phải tuân theo quy trình chặt chẽ và thông qua trưng cầu dân ý để
dân quyết định. Ở nước ta, Hiến pháp 1946 đã có điều khoản quy định cụ thể
về vấn đề này. Các Hiến pháp sau do nhiều yếu tố chi phối đã không kế thừa
được tư tưởng tiến bộ này của hiến pháp 1946. Trong bối cảnh Việt Nam
đang thực hiện quyền dân chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, việc ghi nhận quyền phúc quyết Hiến
pháp của nhân dân trong Hiến pháp và tổ chức thực hiện là hết sức cần thiết.
Nó là cơ sở pháp lý căn bản để khẳng định quyền lực nhà nước là của nhân
dân, đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế trong quá trình hội nhập.
4. Ban hành Đạo luật về tự do thông tin
Giữa người dân và các quan chức, cơ quan nhà nước luôn có sự “bất đối
xứng về thông tin”. Chính sự khác biệt này đã tạo nên những lợi ích “độc quyền
tự nhiên” cho các quan chức, cơ quan nhà nước và do đó tăng chi phí giám sát
của người dân. Vì vậy, cần phải thiết lập những quy định, luật lệ để đảm bảo sự

6


minh bạch, công khai về thông tin. Chẳng hạn các đạo luật về thông tin, tự do

ngôn luận, quyền được tiếp cận thông tin của người dân.
Đạo luật về tự do thông tin – cho phép người dân yêu cầu các cơ quan công
quyền cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động và kết quả hoạt động của của
nhà nước. Tuy nhiên luật về tự do thông tin chỉ là bước khởi đầu, là điều kiện cần
chứ chưa đủ để minh bạch hoá các hoạt động công quyền. Sự ra đời của đạo luật
này sẽ tăng cường vai trò giám sát của người dân, nâng cao trách nhiệm giải trình
của các cơ quan công quyền.
Việc tiếp cận các thông tin của chính phủ là một điều kiện tiền đề cần thiết
nhằm đẩy mạnh sự minh bạch và công khai. Việc tiếp cận đó làm giảm thiểu sự
lạm dụng thông tin, quản lý sai trái và tham nhũng.
5. Ban hành luật bảo vệ người chống tiêu cực, tham nhũng
Nếu tham nhũng có tính hệ thống, người tố cáo tham nhũng có nguy cơ bị
cấp trên kỷ luật hoặc thậm chí có thể bị cáo buộc rằng chính họ là kẻ tham nhũng.
Khi đó, việc tố cáo tham nhũng là rất hiếm. Các phương tiện thông tin đại chúng
đã đề cập không ít trường hợp người tố cáo tham nhũng bị trù dập, từ tước đoạt
phương tiện sinh sống đến cả tính mạng. Vì vậy nếu không có sự bảo vệ hữu hiệu
từ luật pháp cho đến thực thi trên thực tế thì việc tố cáo các hiện tượng tiêu cực,
tham nhũng là khó xảy ra. “Xét về bản tính con người, nếu chúng ta có thể kiểm
soát được sự sinh sống của một người thì tức là chúng ta có thể kiểm soát được ý
chí của người đó”2.
Hành vi trả thù người tố cáo tham nhũng ngày càng tinh vi trong khi những
quy định về bảo vệ người tố cáo còn chung chung, mang tính nguyên tắc và nằm
rải rác tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau... Nhiều ý kiến nhận định như trên
tại hội thảo quốc tế về bảo vệ người chống tham nhũng do Văn phòng Ban Chỉ
đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (BCĐ PCTN) tổ chức ngày 3-11 tại
Hà Nội.
Alexander Hamilton, James Madision, John Jay (1959), Luận về hiến pháp Hoa Kỳ, Bản dịch
của Nguyễn Hưng Vượng, Sài gòn
2


7


Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Khiếu nại tố cáo hay một số luật khác
đều có quy định để bảo vệ người tố cáo. Tuy nhiên, quy định chưa được cụ thể chi
tiết nên việc thực hiện còn gặp rất nhiều khó khăn, người tố cáo tham nhũng chưa
được bảo vệ đúng mức. “Phải cụ thể hóa những quy định hiện nay, ban hành chi tiết
những quy trình, quy chế để việc bảo vệ người tố cáo tham nhũng. Không nên coi
việc tố cáo sai là phạm luật hình sự mà nên xây dựng quy chế thông tin chặt chẽ để
hạn chế. Ở Mỹ có tới 25 văn bản quy phạm pháp luật để bảo vệ người tố cáo tham
nhũng, quy trình tố cáo rất dễ dàng, công khai trên mạng. Người tố cáo tham nhũng
được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân thân và họ còn được hưởng một tỉ lệ nhất
định từ số tiền thu được của vụ án tham nhũng đó.
Nghị định hướng dẫn Luật Tố cáo tới đây sẽ có chương riêng để bảo vệ
người tố cáo. Cạnh đó, khi phát hiện tham nhũng phải xử lý thật nhanh (thậm chí
cách ly khỏi xã hội như một số nước đã làm) để những người bị tố cáo không có
cơ hội trả thù”. Các điều luật cần quy định cụ thể, rõ ràng về hình thức bảo vệ,
đồng thời xử lý nghiêm các đối tượng trả thù và có chế độ thù lao, đãi ngộ xứng
đáng cho người tố cáo bị xâm hại, cũng như khen thưởng, biểu dương người phát
hiện, tố cáo tham nhũng.
Để bảo vệ người tố cáo trước hết là phải xem xét xử lý thông tin người ta
tố cáo nhanh chóng, kịp thời, triệt để. Ví như ở Trung Quốc, nếu có bằng chứng
tương đối cụ thể về người bị tố cáo tham nhũng thì họ sẽ thực hiện biện pháp
cách ly ra khỏi xã hội. Việc làm này để người bị tố cáo không có điều kiện liên hệ
với những người khác, không còn điều kiện để trả thù người tố cáo.
Một văn bản đang được trông đợi hy vọng sẽ bảo vệ người chống tham
nhũng một cách tích cực, đó là "Quy chế bảo vệ người tố cáo hành vi tham
nhũng” đang được Bộ Công an phối hợp với các bộ, ban, ngành khác xây dựng,
tuy nhiên đến giờ vẫn chưa được ban hành, trong khi nạn tham nhũng ngày càng
nóng và diễn biến phức tạp. Chính vì vậy, để an toàn hơn, tránh những tai họa

không mong muốn, nhiều người tố cáo tham nhũng đã lựa chọn giải pháp im
lặng. Như vậy, nếu không nhanh chóng có biện pháp bảo vệ sự an toàn cho những
người dám tố cáo hành vi tham nhũng bằng những điều luật cụ thể, rõ ràng; đồng
8


thời xử lý nghiêm các đối tượng trả thù; bên cạnh đó cần có chế độ thù lao, đãi
ngộ, khen thưởng xứng đáng cho người tố cáo. Đồng thời, nên có quy định biện
pháp xử lý đối với những người làm lộ thông tin, người xử lý thông tin của người
tố cáo tham nhũng.
Trong những cơ quan, tổ chức tiếp nhận và xử lý thông tin tố cáo hành vi
tham nhũng phải quy định trách nhiệm lẫn chế tài cụ thể đối với những người có
trách nhiệm tiếp nhận thông tin và bảo vệ thông tin đó. Cùng đó cũng phải có
những chế tài nặng đối với việc để lộ nguồn tin này trước khi nó được chuyển
đến các cơ quan liên quan xác minh, điều tra. Quy chế chỉ mới quy định chế tài
đối với cơ quan có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo mà chưa quy định chế tài đối
với cơ quan tiếp nhận nhưng lại để lọt tin tố cáo ra ngoài là chưa hợp lý. Để bảo
vệ việc tố cáo tham những, cần đề cao việc bảo mật thông tin cá nhân của người
tố cáo. Theo luật Hàn Quốc, người tiết lộ thông tin cá nhân của người tố cáo có
thể chịu án tù từ 3 năm, hoặc bị phạt tới 10 triệu won. Người gây bất lợi về vị trí
công tác, bất lợi tài chính hoặc hành chính cho người tố cáo có thể bị phạt tù hơn
1 năm hoặc 10 triệu won. Nếu người tố cáo bị đe doạ, luật của Hàn Quốc cho
phép Uỷ ban Chống tham nhũng yêu cầu cảnh sát các cấp bảo vệ người tố cáo.
Tại Mỹ, các thủ tục, quy trình tố cáo cũng được công bố công khai, rộng rãi trên
mạng.
Đó là chưa kể đến hiện nay chúng ta đang có những quy định hạn chế việc
tố cáo tham nhũng. Chẳng hạn những quy định cấm, không xem xét đối với
những thư tố cáo nặc danh, hay người hối lộ cũng bị xử lý… Trên thực tế vì tố
cáo chống tham nhũng thường bị trù dập nên phải mạo danh, nặc danh. Trong khi
đó ta lại không tính đến những tố cáo dưới hình thức này. Vô hình dung ngăn

chặn sự tố cáo, chống tham nhũng của nhân dân. Vì chưa có cơ chế bảo vệ người
chống tiêu cực nên chẳng ai giám tố cáo cho dù biết đó là sự thật. Các nước khác,
chỉ cần có ý kiến phản ánh dù nặc danh hay không đều được quan tâm xem xét, là
dấu hiệu để thẩm tra, kiểm tra.
Người đưa hối lộ cũng bị xử lý nên chẳng ai giám tố cáo. Tư duy theo cách
này là không hợp lý. Bởi lẽ vì bất ký lý do gì người ta đưa hối lộ thì anh là người
9


có quyền có chức, anh ở vị thế chủ động có quyền nhận hoặc không, không ai có
thể ép buộc anh nhận. Còn việc người ta hối lộ có thể do rất nhiều nguyên nhân,
có thể đầu cơ trục lợi, cũng có thể vì bất đắc dĩ … Vì vậy, phải xử người bán chứ
không thể xử người mua cho dù vì bất kỳ động cơ nào. Đấy là chưa kể tới không
ít người “bị buộc” phải hối lộ nhưng sau đó muốn tố cáo để trừng trị kẻ ăn hối lộ
thì với quy định trên họ cũng không dám tố cáo. Quy định như trên càng khuyến
khích người nhận hối lộ vì biết chắc rằng dù nhận hay không thì người đưa cũng
không giám tố cáo mình.
Quy định xử lý người đưa hối lộ nhằm hạn chế người hối lộ, nhưng trên
thực tế lại chỉ hạn chế sự tố cáo. Nó khuyến khích việc nhận hối lộ, vì người
được hối lộ biết chắc rằng dù nhận hay không thì người hối lộ cũng không giám
tố cáo mình. Đó là chưa kể đến hiện nay chúng ta đang có những quy định hạn
chế việc tố cáo tham nhũng. Chẳng hạn những quy định cấm, không xem xét đối
với những thư tố cáo nặc danh, hay người hối lộ cũng bị xử lý… Trên thực tế vì
tố cáo chống tham nhũng thường bị trù dập nên phải mạo danh, nặc danh. Trong
khi đó ta lại không tính đến sự tố cáo dưới hình thức này. Vô hình dung ngăn
chặn sự tố cáo, chống tham nhũng của nhân dân. Vì chưa có cơ chế bảo vệ người
chống tiêu cực nên chẳng ai giám tố cáo cho dù biết đó là sự thật. Các nước khác,
chỉ cần có ý kiến phản ánh dù nặc danh hay không đều được quan tâm xem xét, là
dấu hiệu để thẩm tra, kiểm tra.
6. Ban hành Luật biểu tình

Cần sớm ban hành Luật biểu tình, là định chế để mọi công dân được quyền
biểu thị sự đồng tình hay không bằng hành động trước một vấn đề chính trị nào
đó của đất nước. Luật là cơ sở pháp lý để hoạt động biểu tình trở thành sinh hoạt
chính trị bình thường. Ngoài thước đo trình độ chất lượng dân trí và dân chủ, nó
còn là công cụ pháp lý – chính trị mà người dân dùng để buộc lãnh đạo đất nước
phải ra tay thanh lọc sự tha hoá quyền lực.

10


7. Cho phép các tổ chức của nhân dân được phòng chống
tham nhũng
Bên cạnh việc tìm các biện pháp để người dân tham gia phòng, chống tham
nhũng một cách tích cực và hiệu quả nhất. Mặt khác, chúng ta cũng cần nghiên
cứu, xây dựng cơ chế cụ thể nhân dân có thể chống tham nhũng. Hiện nay trong
các văn bản của hệ thống pháp lý Việt Nam về phòng chống tham nhũng chưa có
chỗ nào nói lên các tổ chức của cộng đồng, tự nguyện của người dân được phòng
chống tham nhũng
8. Xây dựng và ban hành luật giám sát của nhân dân
Sự giám sát từ các tổ chức chính trị xã hội, từ công dân mạnh lên cũng nên
phòng ngừa sự can thiệp một cách quá mức, quá thái của các tổ chức xã hội vào
hoạt động của nhà nước làm gián đoạn nhịp điệu hoạt động của nhà nước. Vì vậy
cần phải xây dựng luật giám sát của nhân dân và các tổ chức xã hội, đối với hoạt
động của các cơ quan nhà nước vừa tạo ra các điều kiện cho sự giám sát của nhân
dân vừa ngăn chặn những can thiệp thái quá có thể gây trở ngại, ách tắc cho hoạt
động của các cơ quan công quyền.
Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam là một Đảng duy nhất cầm
quyền. Điều này đồng nghĩa với việc thiếu một cơ chế phản biện cần thiết của
các đảng đối lập để tránh chủ quan, sai lầm. Trong bối cảnh đó, cơ chế phản
biện xã hội sẽ có vai trò rất quan trọng. Thực tiễn cho thấy, khi hoạt động của

nhà nước thiếu đi sự giám sát, sức ép từ phía nhân dân, công luận, sẽ dẫn đến
phát sinh nhiều vấn đề như duy ý chí, quan liêu, cửa quyền, tham nhũng. Vì
vậy, Đảng cần quán triệt quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền phải gắn
liền với phát triển xã hội công dân. Xã hội công dân mạnh sẽ là cơ sở chính trị
làm vững chắc nhà nước, tạo tính chính đáng cho nhà nước, thúc đẩy nhà nước
dân chủ.
Phát triển xã hội dân sự đồng nghĩa với việc nâng cao tính tự quản, tính tích
cực chính trị và trách nhiệm xã hội, đồng thời giảm bớt ngân sách ở những lĩnh
vực có thể xã hội hoá được. Việc cho phép và khuyến khích thành lập các tổ chức
11


dân sự, hội nghề nghiệp chính là khuyến khích người dân tham gia vào các hoạt
động bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, của xã hội một cách có tổ chức và có
trách nhiệm. Đảng và Nhà nước nên có những quy định thông thoáng hơn trong
việc cho phép thành lập hiệp hội. Việc quan trọng mà Nhà nước cần phải tính tới là
làm thế nào để quản lý chúng tốt hơn, chứ không phải là tìm cách hạn chế, ngăn
cản sự hình thành và phát triển của chúng trong xã hội.
Sự giám sát từ các tổ chức chính trị - xã hội, từ công dân mạnh lên cũng
nên phòng ngừa sự chi phối một cách quá mức, quá thái của các tổ chức xã hội
vào hoạt động của Nhà nước, làm gián đoạn nhịp điệu hoạt động của Nhà nước.
Do vậy, cần phải xây dựng luật giám sát của nhân dân và các tổ chức xã hội, đối
với hoạt động của các cơ quan nhà nước vừa tạo ra các điều kiện cho sự giám sát
của nhân dân, vừa ngăn chặn những can thiệp thái quá có thể gây trở ngại, ách tắc
cho hoạt động của các cơ quan công quyền.
9. Thay đổi nhận thức của người dân về tham nhũng, vai trò
của họ trong phòng chống tham nhũng và tạo môi trường cho sự
thay đổi
Thay đổi nhận thức về tham nhũng và vai trò của nhân dân trong chống
tham nhũng

Thực chất kẻ bị hại trong tất cả các quá trình tham nhũng là nhân dân. Cho
nên cần phải thay thuật ngữ "tham nhũng tài sản của nhà nước" bằng thuật ngữ
tham nhũng tài sản của nhân dân do nhà nước quản lý thì mới chính xác.
Tham nhũng về bản chất là vấn đề lạm dụng quyền lực công, quyền lực
nhà nước, vì vậy nhà nước không phải là chủ thế chống tham nhũng một cách
triệt để. Nhà nước sinh ra để điều hành đời sống dân sự, để hỗ trợ đời sống dân
sự, cho nên cần phải xác định rõ rằng chủ thể chống tham nhũng chính là
nhân dân, nhà nước có nhiệm vụ thực thi việc ấy theo tinh thần của nhân
dân.
Chống tham nhũng chính là thống nhất xã hội về mặt chính trị, thống nhất
xã hội về mặt tinh thần, thống nhất xã hội về mặt đạo đức. Để làm được việc đó,
xã hội phải hướng toàn bộ sức mạnh dân sự vào hiện tượng tham nhũng, tức là
12


biến vấn đề tham nhũng thành vấn đề của đời sống dân sự. Nếu chống tham
nhũng chỉ là sáng kiến của nhà nước, được thực thi bởi chỉ nhà nước, được kiểm
soát bởi nhà nước, được đánh giá bởi nhà nước thì không thể có hiệu quả. Vậy
nhân dân phải làm những gì để chống tham nhũng? Nhân dân phải tự sắp đặt
chương trình hành động xã hội của mình để chống tham nhũng, trong đó quan
trọng nhất là làm cho năng lực của mỗi một con người trở nên phù hợp với đòi
hỏi, với nhu cầu của thời đại. Đây là một nhiệm vụ căn bản và lâu dài. Nhiệm vụ
thứ hai là giám sát các hành vi chính trị, đây là một qui trình được đòi hỏi một
cách tất yếu để giám sát giai đoạn chuyên nghiệp của hiện tượng tham nhũng.
Xét dưới một giác độ nào đó, Nhà nước chỉ hoạt động tốt khi người dân
biết đòi hỏi và buộc nhà nước phải đáp ứng. Dân chủ là nhu cầu từ phía người
dân chứ không phải từ những người cầm quyền. Do đó mà ý thức về quyền lợi
cũng như trách nhiệm công dân, hiểu bết và biết cách hành động theo pháp luật,
văn hoá dân chủ trong quan hệ với nhà nước là những yếu tố, những đòi hỏi thiết
yếu của một xã hội phát triển. Vì vậy, ngoài tạo các điều kiện, thể chế cho người

dân phát huy vai trò của mình thì giáo dục, tuyên truyền nâng cao trình độ pháp
lý, văn hoá dân chủ cho người dân là một biện pháp quan trọng để tạo môi trường
cho sự thay đổi.
Tạo dựng các yếu tố môi trường cho sự thay đổi
- Nâng cao trình độ dân trí
Việc nâng cao trình độ dân trí, cùng với nó là sự phát triển của trình độ
pháp lý, văn hóa dân chủ là một giải pháp quan trọng, có tính chất liên tục và tác
dụng trong dài hạn.
Từ thời cổ đại Aristotle đã nhấn mạnh, một trong những chức năng quan
trọng của nhà nước là giáo dục phẩm hạnh công dân. Mục tiêu của nhà nước là
làm cho con người sống trong xã hội được sống tốt hơn. Muốn vậy, nhà nước
phải giáo dục cho công dân từ ý thức về sự bình đẳng, về công lý, đến nghĩa vụ
và trách nhiệm của mỗi công dân đối với nhà nước, với cộng đồng. Sau này đến
Rousseau, John Mill, Mác,… đã tiếp tục phát triển và nhấn mạnh yêu cầu này đối
với xã hội dân chủ.
13


Đối với nước ta, nền kinh tế vốn chủ yếu là sản xuất nông nghiệp với tập
quán canh tác tự cung, tự cấp kéo dài, lại sinh hoạt trong một không gian hẹp, khá
khép kín là làng xã. Tập quán và tư duy tiểu nông còn ăn sâu trong suy nghĩ,
trong hoạt động và ứng xử hàng ngày của đông đảo nhân dân. Tác động tiêu cực
của nó thể hiện hàng ngày trong đời sống chính tri, xã hội. Đó là sự thờ ơ, không
cần biết đến luật pháp và không có ý thức tôn trọng luật pháp; không có tinh thần
hợp tác, ý thức vì cái chung, vì cộng đồng, tập thể; cách ứng xử và quan hệ trong
xã hội thiên về cảm tính, thiếu tính duy lý, thiển cận,… Trong khi đó, nền giáo
dục của chúng ta thường nhấn mạnh đến truyền đạt tri thức khoa học, văn hóa,
đạo đức xã hội mà chưa quan tâm đúng mức đến giáo dục đạo đức công dân.
Phần lớn chúng ta thiếu kỹ năng sống và làm việc tập thể, vừa không biết hợp tác,
vừa không biết phát huy cái tôi của mình.

Trong quan hệ với Nhà nước, nhân dân còn thiếu sự hiểu biết cần thiết đối
với Nhà nước. Hiện tượng khá phổ biến là tâm lý lo lắng, e ngại của người dân
khi phải tiếp xúc với cơ quan công quyền, cán bộ nhà nước. Trong các tranh chấp
và những công việc liên quan đến Nhà nước, nhân dân thường tránh không tự giải
quyết trực tiếp với cơ quan nhà nước, mà tìm cách giải quyết khác hoặc phải tìm
người thân quen hoặc người có hiểu biết hơn giúp đỡ. Sự thiếu hiểu biết cần thiết
đó cũng có nghĩa là người dân không biết rõ về quyền của mình, không biết cách
sử dụng quyền cũng như cách bảo vệ các quyền đó.
- Giáo dục ý thức chính trị, pháp luật, trách nhiệm công dân phải đi cùng
với sự tạo dựng các chuẩn mực, các giá trị của cộng đồng, xã hội. Điều này phải
được định hướng, phát triển từ lúc hình thành nhân cách, kỹ năng sống của con
người từ khi còn ở trường phổ thông. Ở một số nước đã đưa chương trình giáo
dục liêm chính ở trường phổ thông. Hình thành giá trị cho các em để trở thành
một công dân trung thực, liêm chính và từ đó sẽ có ý thức tẩy chay, chống lại sự
dối tra, gian lận và sau này là tham nhũng trong xã hội. Các phương tiện truyền
thông cũng như các trương trình giáo dục cộng đồng nên chú trọng nhiều hơn đến
mục tiêu này.

14


10. Ý chí chính trị và quyết tâm phòng chống tham nhũng của
đảng, nhà nước
Sự tham gia tích cực của người dân và xã hội trong phòng chống tham
nhũng mới chỉ là một bên. Sự phản ứng của nhà nước bao gồm cả ý chí chính trị
và khả năng đáp ứng yêu cầu của công dân là một bên khác của phương trình
nhằm đảm bảo hiệu quả của việc kiểm soát tham nhũng.
Ý chí trính trị và quyết tâm phòng chống tham nhũng của đảng và nhà
nước phải được thể hiện bằng các cam kết chính trị, được tiến hành bằng các
chương trình, bước đi cụ thể.

11. Nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm của nhà nước
Minh bạch hoá các hoạt động của nhà nước là việc làm cho các hoạt động
của nhà nước phải đảm bảo tính rõ ràng, công khai, phù hợp với thực tiễn và pháp
lý. Chẳng hạn, việc ban hành quyết định cũng như trình tự lập pháp phải dựa trên
những nguyên tắc và thủ tục được xác định trước, Những nguyên tắc và thủ tục
đó là không thể bị sửa đổi giữa cuộc chơi. Một trong những nguyên tắc cơ bản
của việc ban hành quyết định là bảo đảm tính hợp pháp và tính hợp lý.
Minh bạch còn có nghĩa các chính sách, quyết định của đảng và nhà nước phải
thống nhất, rõ ràng, dễ hiểu. Tránh tình trạng chính sách, luật có thể hiểu và thực thi
theo nhiều cách. Vừa làm yếu hiệu lực của chính sách vừa dễ bị lạm dụng.
Tính minh bạch còn ở thể hiện ở việc người dân có quyền tiếp cận các
thông tư cũng như các tư liệu và số liệu là cơ sở cho việc quyết định.
Công khai tài sản của tất cả các quan chức, kể cả quan chức cao cấp là cần
thiết. Nếu như việc công khai tài sản của cán bộ nhà nước không được đặt ra như một
yêu cầu thì điều đó cho thấy chúng ta thiếu ý chí chính trị, thiếu cam kết và tinh thần
trách nhiệm trong việc tăng cường tính minh bạch, chống tham nhũng.
Tăng cường năng lực kiểm soát việc giao dịch, trao đổi, thanh toán hàng
hoá của toàn xã hội. Kết quả của tham nhũng dù biến tướng thế nào cũng là của

15


cải vật chất. Vì thế khi không kiểm soát được nguồn gốc của cải vật chất của xã
hội khó lòng phát hiện được tham nhũng.
- Tách biệt lĩnh vực chính trị (đại diện lợi ích) với lĩnh vực hành chính
(mang tính kỹ thuật, chuyên môn). Trên cơ sở tách biệt đó, chúng ta sẽ phân loại
được cán bộ chính trị theo chế độ bầu cử và công chức hành chính theo chế độ bổ
nhiệm. Cơ chế kiểm soát và các hình thức chịu trách nhiệm của các loại cán bộ
này được hình thành rõ ràng và minh bạch theo những cách thức khác nhau.
- Phải có sự đồng thuận ngày càng cao của những nhà họach định chính

sách về các điều kiện khác nhau để thúc đẩy các hình thức tham gia và tác động
của người dân.
- Các khu vực bầu cử thật sự dân chủ để tránh việc nắm giữ tiếng nói do
thu hẹp các nhóm lợi ích trong phạm vi cộng đồng.
- Vị trí pháp lý hoặc sự thừa nhận chính thức các đại diện phi nhà nước
trong các thể chế hoạch định chính sách
- Duy trì sự hiện diện của công dân được đảm bảo thông qua tiến trình vận
hành của các thể chế
- Quyền tiếp cận (được thiết kế) các nguồn tin, tài liệu chính thức
- Công dân có quyền gửi các bản báo cáo không chính thống một cách trực
tiếp tới các nhà cầm quyền như cơ quan lập pháp để phản đối việc thực hiện kiểm
soát tham nhũng yếu kém.
Những người sử dụng dịch vụ có quyền yêu cầu điều tra chính thức hoặc đòi
bồi thường hợp pháp đối với việc cung cấp dịch vụ kém hoặc không cung cấp.
12. Đảm bảo sự độc lập xét xử của hệ thống tư pháp
- Tổ chức tòa án theo cấp xét xử thay vì theo cấp đơn vị hành chính - lãnh
thổ. Cách tổ chức cũ trên thực tế không đảm bảo triệt để nguyên tắc độc lập của
tòa án với chính quyền địa phương. Mặt khác, để đảm bảo sự độc lập của từng
cấp xét xử không nên chuyển chức năng quản lý tòa án địa phương từ Bộ tư pháp
sang Tòa án nhân dân tối cao.

16


- Xác định quy trình tố tụng, thủ tục pháp lý cụ thể, công khai, minh bạch.
Hoạt động xét xử phải tuân theo một thủ tục pháp lý cụ thể, đảm bảo nguyên tắc
tranh tụng, bình đẳng của các bên khi tham gia tố tụng trước tòa.
- Nâng cao tính độc lập, tính chuyên nghiệp và công tâm của thẩm phán.
Thông qua việc đảm bảo nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phán theo chuyên môn; tăng
nhiệm kỳ thẩm phán với thời hạn dài hơn và không trùng với nhiệm kỳ của đại

biểu quốc hội; thẩm phán phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về các phán quyết của
mình bên cạnh tinh thần trách nhiệm, sự cảnh giác của phương tiện truyền thông
và xã hội.
- Viện kiểm sát không nên kiêm chức năng kiểm sát xét xử. Viện kiểm sát
vừa là chủ thể buộc tội, một bên của tố tụng, lại vừa đứng ra kiểm sát việc xét xử
là không hợp lý. Khi Viện kiểm sát không còn chức năng kiểm sát xét xử mà chỉ
thực hiện chức năng công tố. Viện kiểm sát nên đổi tên thành Viện công tố trực
thuộc Chính phủ. Như vậy, sẽ đảm bảo được tính công bằng, khách quan của quá
trình tranh tụng, tính độc lập của thẩm phán trong xét xử.
- Đổi mới và thúc đẩy hoạt động của toà án hành chính. Hoàn thiện những
quy định pháp luật liên quan bằng cách cụ thể hoá các quy định của pháp luật tố
tụng hành chính. Giai đoạn tiền tố tụng hành chính không nên bắt buộc đối với tất
cả các vụ kiện. Mặt khác, kiện toàn cách thức tổ chức của toà hành chính theo
hướng tách rời khỏi cơ cấu lãnh thổ hành chính nhất định; tạo ra những thiết chế
khác để đảm bảo tính độc lập của thẩm phán hành chính như chế độ bổ nhiệm
thẩm phán dài hạn, lương, phụ cấp cho thẩm phán hành chính. Nâng cao trình độ
chuyên môn của đội ngũ thẩm phán thông qua đào tạo, bằng những khuyến khích
vật chất khác. Đồng thời, tăng cường tuyên truyền, giáo dục, bằng những vụ việc
điển hình được xét xử và truyền hình trực tiếp trên các phương tiện truyền thông,
giúp cho người dân thay đổi quan niệm, định kiến của mình đối với tòa án này.
Từ đó nhân dân sẽ có những động thái tích cực hơn trong các công việc có quan
hệ tới chính quyền, tòa án.

17



×