Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Thiết kế,chế tạo nguồn kích thích âm thanh dùng cho việc nghiêncứu điện thế gợi thính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 81 trang )

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
1
CHƯƠNG 1. MỤC TIÊU LUẬN VĂN

Theo thống kê, bệnh điếc – suy giảm thính lực chiếm khoảng 10% - 15% dân số
[3]. Đặc biệt tỉ lệ mắc bệnh điếc ở trẻ sơ sinh là 2/1000, trẻ không những bò khuyết đi thế
giới âm thanh mà còn khuyết luôn cả chức năng ngôn ngữ [2,3], vì câm là hệ quả của điếc.
Việc chẩn đoán sớm để phục hồi thính giác và phát triển khả năng ngôn ngữ cho các em là
vấn đề hết sức cần thiết và có ý nghóa xã hội lớn. Tuy nhiên, các phương pháp chẩn đoán
trước đây cần có sự cộng tác của bệnh nhân nên gây nhiều khó khăn khi áp dụng đo trên
trẻ nhỏ.
Hiện nay, trên thế giới đã ứng dụng rộng rãi phương pháp đo điện thế gợi thính
(Auditory Evoked Potentials – AEPs) trong việc chẩn đoán, riêng tại Việt Nam những
nghiên cứu về vấn đề này chưa phổ biến và những ứng dụng của nó còn rất hạn chế [2].
Cho đến nay, chỉ mới có một báo cáo về kết quả khảo sát “Các chỉ số của điện thế gợi
thính giác thân não (BAEPs – Brainstem Auditory Evoked Potentials) trên người Việt Nam
bình thường” của bệnh viện Điều dưỡng – Phục hồi chức năng Bưu Điện II do bác só
Nguyễn Hữu Công và bác só Nguyễn Thò Thu Thảo thực hiện. Phương pháp này giúp chúng
ta khảo sát tính toàn vẹn của hệ thống dẫn truyền thính giác từ tai trong qua dây thần kinh
thính giác (dây thần kinh số VIII) vào trong cầu não lên trung não qua dải dọc bên (lateral
lemniscus) cùng bên tới củ não sinh tư dưới (inferior colliculus) bên đối diện và kết thúc ở
vỏ não thính giác.
Để tiến hành phương pháp phải cần có các thiết bò chuyên dụng bao gồm: nguồn
kích thích âm, thiết bò thu nhận tín hiệu và phần mềm xử lý vì điện thế này rất nhỏ khoảng
vài microvolt nằm lẫn trong nền nhiễu có điện thế khoảng milivolt. Các bác só ở bệnh viện
ĐD – PHCN BĐ II đã sử dụng máy Neuropack của hãng Nihon Kohden để đo đạc. Hiện
tại, phòng thí nghiệm của bộ môn Vật lý y sinh có thiết bò MP30 của hãng Biopac có khả
năng thu nhận tín hiệu điện sinh học và kết hợp xử lý với phần mềm đi kèm. Dựa vào thiết
bò này, chúng ta có thể thực hiện các thí nghiệm về đo điện tim (ECG), điện cơ (EMG),


From www.bme.vn
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
2
điện thế gợi thính (AEPs)... nhằm giúp sinh viên hiểu rõ hơn lý thuyết đã học. Tuy nhiên,
các thí nghiệm trên cần phải có nguồn kích thích phù hợp để tạo ra đáp ứng sinh học.
Đề tài thiết kế nguồn kích thích âm với dải tần số rộng và âm lượng thay đổi đã
được chọn nhằm phục vụ cho mục tiêu tìm hiểu và nghiên cứu điện thế gợi thính (Auditory
Evoked Potentials - AEPs). Kết hợp việc sử dụng MP30 làm bộ thu tín hiệu, chúng ta có
thể thực hiện các thí nghiệm về đo điện thế gợi thính ở các tần số khác nhau.
Các kết quả thí nghiệm có so sánh đối chiếu với kết quả chuẩn cho thấy, nguồn kích
chế tạo hoàn toàn có thể phục vụ cho việc đo điện thế gợi thính tại phòng thí nghiệm của
bộ môn Vật lý kỹ thuật y sinh. Điều này góp phần vào việc xây dựng thêm các bài thí
nghiệm cho sinh viên, đồng thời cũng tạo điều kiện cho các nghiên cứu theo hướng chẩn
đoán các vấn đề về tai sau này.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
3
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN

2.1 Cấu tạo của tai
Chức năng của bộ tiền đình-ốc tai (vestibulocochlear) liên quan đến việc giữ thăng
bằng và thính giác. Cơ quan này được cấu tạo bởi 3 phần: tai ngoài tiếp nhận sóng âm; tai
giữa, dẫn truyền sóng âm từ không khí đến xương và từ xương đến tai trong; và tai trong,
nơi các rung động được chuyển đổi thành các xung thần kinh đặc hiệu theo dây thần kinh
thính giác về hệ thần kinh trung ương, ngoài ra còn có cơ quan tiền đình tai có vai trò giữ
thăng bằng.
2.1.1 Tai ngoài

Tai ngoài (auricle, or pinna) cấu tạo bởi mô sụn chun có hình dạng tấm không đồng
đều với da phủ ngoài ở các mặt.
Ống tai ngoài (external auditory meatus) có dạng hình ống dẹp, hình thành từ bề
mặt của xương thái dương. Đầu trong của ống tai ngoài có màng nhó. Biểu mô ống tai ngoài
là biểu mô lát tầng có sừng, liên tục với biểu bì bên ngoài. Ở tầng dưới niêm của ống tai
ngoài có nang lông, tuyến bã và các tuyến ráy tai (ceruminous gland) (một biến thể của
tuyến mồ hôi). Các tuyến ráy tai là tuyến ống xoắn chế tiết ra chất ráy tai (cerumen,
earwax) màu vàng nâu, hơi cứng, là hỗn hợp của mỡ và sáp. Lông và ráy tai có vai trò bảo
vệ ống tai ngoài. Đoạn 1/3 ngoài của thành ống tai ngoài được nâng đỡ bởi mô sụn chun,
còn đoạn trong được nâng đỡ bởi xương thái dương.
Đầu cuối ống tai ngoài có một màng hình bầu dục, gọi là màng nhó (tympanic
membrane, eardrum). Mặt ngoài màng nhó có biểu bì mỏng, mặt trong màng nhó có phủ lớp
biểu mô vuông đơn tiếp liền với biểu mô của hòm tai. Xen giữa 2 lớp biểu mô này là một
lớp mô liên kết chắc được cấu tạo bởi các sợi collagen và sợi keo cùng các nguyên bào sợi.
Màng nhó là cấu trúc truyền sóng âm đến các xương con ở trong tai giữa.
Chức năng của tai ngoài là bắt âm thanh và hướng nó vào màng nhó. Cũng giống
như ăngten parabol bắt sóng điện từ, tai ngoài hoạt động như một bộ bắt sóng âm thanh rất
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
4
hiệu quả và tập trung âm thanh vào ống tai ngoài. Không phải ở tất cả mọi hướng tai ngoài
đều thu nhận tốt âm thanh. Tai ngoài chỉ thu tốt âm thanh có các tần số khác nhau khi
nguồn âm thanh nằm ở những vò trí đặc biệt so với đầu. Khả năng đònh vò nguồn phát âm
thanh trong môi trường xung quanh, đặc biệt dọc theo trục đứng phụ thuộc rất lớn vào đặc
tính hợp âm của tai ngoài.


Hình 2.1: Cấu trúc giải phẫu của tai
2.1.2 Tai giữa

Tai giữa (middle ear, tympanic cavity) là một khoang không đều, nằm bên trong
thành xương thái dương ở đoạn giữa màng nhó và bề mặt xương của tai trong. Tai giữa ở
phía trước thông nối với hầu qua vòi tai (auditory tube) hay vòi eustachio (Eustachian tube),
ở phía sau thông với các xoang khí trong mõm chũm của xương thái dương. Tai giữa có
biểu mô lát đơn nằm bên trên lớp đệm mỏng và gắn chặt vào màng xương ở sát bên dưới.
Ở cạnh vòi tai và vùng trong tai giữa, biểu mô lát đơn lót tai giữa dần dần chuyển dạng
thành biểu mô trụ giả tầng có lông chuyển. Tuy thành thường xuyên bò xẹp song vòi tai mở
ra trong quá trình nuốt vào, tạo sự thăng bằng áp suất trong tai giữa đối với áp suất khí
Tai ngoài Tai giữa Tai trong
Loa tai
Xương tai
Xương thái
dương

Cửa ovan
Sụn
Màng nhó
Tónh mạch
cảnh trong
Cửa
tròn
Ống tai
Đi vào hầu
Xương mê
đạo

Dây TK tiền đình (VIII)
Dây TK mặt (VII)
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007


SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
5
quyển. Ở thành xương trong của tai giữa có 2 vùng hình chữ nhật có màng phủ ngoài và
không có xương gọi là cửa sổ bầu dục (oval window) và cửa sổ tròn (round window).

Hình 2.2: Xương búa, xương đe, xương bàn đạp
Màng nhó được nối vào cửa sổ bầu dục bởi một chuỗi 3 xương tai (auditory ossicle)
nhỏ là xương búa (malleus), xương đe (incus) và xương bàn đạp (stape). Chúng giữ vai trò
truyền các âm thanh thành dao động cơ học do màng nhó tạo ra đến tai trong. Xương búa tự
vùi vào màng nhó còn xương bàn đạp gắn vào cửa sổ bầu dục. Các xương tai kết nối vào
nhau bằng các khớp hoạt dòch, giống như các cấu trúc khác trong hòm tai, các xương con
cũng có biểu mô lát đơn. Bên trong tai giữa có 2 cơ nhỏ gắn vào xương búa và xương bàn
đạp, có chức năng điều chỉnh sự dẫn truyền âm thanh.
2.1.3 Tai trong
Tai trong (internal ear) hay mê đạo (labyrinth) cấu tạo bao gồm 2 mê đạo. Mê đạo
xương (bony labyrinth) bao gồm một chuỗi các tế bào (hốc) trong phần xương đá của
xương thái dương và chứa mê đạo màng (membranous labyrinth) bên trong. Mê đạo màng
bao gồm một chuỗi các hốc thông nhau và được lót bởi biểu mô có nguồn gốc ngoại bì. Mê
đạo màng có nguồn gốc từ túi thính giác (auditory vesicle) phát triển từ ngoại bì ở 2 bên
đầu của phôi. Trong thời kỳ phôi thai, các túi thính giác lõm vào mô liên kết bên dưới và
không còn liên hệ với ngoại bì vùng đầu nữa, di chuyển sâu vào bên trong vùng mô xương
phôi thai sẽ trở thành xương thái dương sau này. Trong thời kỳ này, túi thính giác trải qua
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
6
một loạt các biến đổi phức tạp về hình thái, tạo ra 2 vùng đặc biệt của mê đạo màng là túi
bầu dục (utricle) và túi nhỏ (saccule). Các ống bán khuyên (semicircular duct) có xuất
nguồn từ túi bầu dục, còn ốc tai (cochlea) có xuất nguồn từ túi nhỏ. Ở các vùng kể trên,
biểu mô biệt hóa tạo nên các cấu trúc cảm giác như vết thính giác (maculae) ở túi bầu dục

và túi nhỏ, mào thính giác (cristae) ở ống bán khuyên, và cơ quan Corti (organ of Corti) ở
ống ốc tai.
Mê đạo xương (bony labyrinth) là các hốc bên trong xương thái dương. Đây là một
khoang trung tâm không đều, gọi là tiền đình tai (vestibule), chứa túi bầu dục và túi nhỏ.
Phía sau tiền đình tai có 3 kênh bán khuyên (semicircular canal) vây quanh các ống bán
khuyên; phía trước ngoài ốc tai (cochlea) có các ống ốc tai (cochlear duct).
Ốc tai có tổng chiều dài khoảng 35 mm, quấn 2 vòng rưỡi quanh một mô xương gọi
là trụ ốc tai (modiolus). Trụ ốc tai có các hốc chứa các mạch máu, thân và các sợi nhánh
của các nơron nhánh thính giác của dây thần kinh sọ số VIII (hạch xoắn). Hai bên trụ ốc tai
nhô ra các gờ xương mảnh gọi là các lá xoắn (osseous spriral lamina). Các lá xoắn đi qua
ốc tai đến vùng đáy nhiều hơn vùng đỉnh.
Mê đạo xương có chứa đầy ngoại dòch (perilymph) có thành phần ion giống như một
chất gian bào ở các cơ quan khác, song có rất ít protein. Mê đạo màng có chứa nội dòch
(endolymph) có đặc điểm ít sodium (natri) và nhiều potassium (kali), nồng độ protein ít.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
7

Hình 2.3: Cơ quan tiền đình ốc tai
Mê đạo màng
• Túi nhỏ và túi bầu dục:
Túi nhỏ và túi bầu dục có cấu tạo là bao mô liên kết mỏng có biểu mô lát đơn. Mê
đạo màng gắn chặt vào màng xương ngoài của mê đạo xương bởi một dải mô liên kết
mỏng cũng có chứa mạch máu nuôi dưỡng biểu mô của mê đạo màng. Trong thành của túi
nhỏ và túi bầu dục có thể nhìn thấy các vùng nhỏ, gọi là vết thính giác (maculae), các tế
bào thần kinh – biểu mô đã biệt hóa có tiếp nhận các nhánh của dây thần kinh tiền đình.
Vết thính giác của túi nhỏ nằm ở sàn của túi, còn vết thính giác của túi bầu dục nằm ở
thành bên, nên các vết thính giác thẳng góc với nhau. Các vết thính giác ở cả 2 vò trí khác
nhau đều có cấu trúc mô học giống nhau. Vết thính giác được tạo bởi một thành dày với 2

loại tế bào tiếp nhận thính giác, một số tế bào nâng đỡ và các tận cùng thần kinh đến và đi.
Các tế bào tiếp nhận thính giác, hay tế bào lông (hair cell), có đặc điểm cấu tạo với
40-80 lông giả dài và cứng, là các vi nhung mao biệt hóa cao, và 1 lông điển hình. Các
lông giả sắp xếp thành dải với chiều dài tăng dần, cái dài nhất là khoảng 100µm và nằm
Trước
Mào lược nằm trong
ống bán khuyên
Dây TK
tiền đình

Dây TK tiền đình
ốc tai
Dây TK mặt
Nhánh TK ốc tai
Ống ốc tai
Vết rãnh
Ốc tai
Ống ốc tai
Vết trong túi nhỏ
Vòn nhó
Sau
Bên
Vết trong túi bầu
dục

Màng tiền đình
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
8

sát lông điển hình. Lông điển hình có thể đáy và 9 + 2 vi ống ở đoạn gần, sau đó 2 vi ống
trung tâm sẽ mất đi. Lông điển hình này thường được gọi là lông rung (kinocilium), song có
lẽ không chuyển động. Có 2 loại tế bào lông được phân biệt theo kiểu tiếp nhận tận cùng
thần kinh đến. Các tế bào lông I có các tận cùng thần kinh có hình chén và to, bao quanh
hầu hết phần đáy của tế bào; các tế bào lông II có nhiều tận cùng thần kinh đến. Cả 2 loại
tế bào lông I và II đều có tận cùng thần kinh đi có lẽ có tính ức chế.
Các tế bào nâng đỡ nằm xen kẽ giữa các tế bào lông là các tế bào hình trụ có các vi
nhung mao ở mặt đỉnh. Bao phủ bề mặt các tế bào thần kinh biểu mô này là một lớp dạng
keo glycoprotein dày, có lẽ do các tế bào nâng đỡ chế tiết ra, ở bề mặt có các tinh thể
carbonate calcium gọi là nhó mạch (otolith, otoconia).
• Ống bán khuyên
Các ống bán khuyên (semicircular duct) có hình dạng tương ứng với các phần của
mê đạo xương. Các vùng tiếp nhận thính giác ở bóng (ampulla) ống bán khuyên có dạng
các gờ dài được gọi là các mào bóng (cristae ampulares). Các gờ này thẳng góc với trục
của ống bán khuyên. Các mào bóng có cấu tạo giống như các vết thính giác nhưng có lớp
dạng keo glycoprotein dày hơn, lớp này có chỗ dạng hình nón gọi là đài (cupula) mào bóng
và không có lớp nhó thạch. Đài mào bóng nằm suốt chiều dài bóng ống bán khuyên và tiếp
xúc với thành bóng đối diện.
• Ống và túi nội dòch
Ống nội dòch (endolymphatic duct) ở đoạn khởi đầu có biểu mô lát đơn, gần về phía
túi nội dòch (endolymphatic sac) biểu mô dần dần chuyển sang trụ đơn cao với 2 loại tế bào;
1 trong số 2 loại tế bào này có vi nhung mao ở bề mặt và có nhiều hạt ẩm bào và không
bào ở bào tương vùng đỉnh. Người ta cho rằng loại tế bào này có vai trò hấp thụ nội dòch,
nhập bào các vật lạ và các mảnh vụn tế bào có trong nội dòch.
• Ống ốc tai
Ống ốc tai (cochlear duct) là phần lồi ra của túi nhỏ, được biệt hóa cao để tiếp nhận
âm thanh. Ống ốc tai dài khoảng 35 mm và được bao quanh bởi khoang ngoại dòch. Dưới
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG

9
kính hiển vi quang học, ốc tai (ở trong mê đạo xương) được chia làm 3 khoang là: vòn tiền
đình (scala vestibuli) ở trên; vòn giữa (scala media) là ống ốc tai, nằm ở giữa; và vòn màng
nhó (scala tympani). Ống ốc tai, có chứa nội dòch, chấm dứt ở vùng đỉnh ốc tai. Hai vòn còn
lại chứa ngoại dòch, và thực ra là ống dài bắt đầu từ cửa sổ bầu dục (oval window) và chấm
dứt tại cửa sổ tròn (round window); hai vòn thông nhau tại vùng đỉnh ốc tai bởi 1 lỗ thông
gọi là khe vòn (helicotrema).
Màng tiền đình (vestibular membrane) hay màng Reissner (Reissner’s membrane)
có cấu tạo bởi 2 lớp biểu mô lát, một có nguồn gốc từ vòn giữa và một có nguồn gốc từ vòn
tiền đình. Các tế bào ở các biểu mô này có nhiều hình thức liên kết chặt nên chúng giúp
giữ được sự sai biệt gradient lớn ở khu vực 2 bên màng. Vết màng (stria vascularis) là chỗ
biểu mô có nhiều mạch máu, nằm ở thành bên của ống ốc tai. Vết mạch có các tế bào có
nhiều chỗ lõm màng bào tương đối khá sâu ở mặt đáy tế bào với nhiều ti thể. Các đặc điểm
hình thái này cho biết chúng là các tế bào có tính năng chuyên chở ion và nước, và người ta
cho rằng chúng tạo ra thành phần cấu trúc ion của nội dòch.
Trong cấu trúc của tai trong có chứa các thụ thể thính giác đặc hiệu gọi là cơ quan
Corti (organ of Corti) có các tế bào lông đáp ứng các tần số âm thanh khác nhau. Cơ quan
Corti nằm trên một lớp chất nền gọi là màng nền (basilar membrane). Có thể phân biệt
được các tế bào nâng đỡ và 2 loại tế bào lông. Có khoảng 3-5 hàng tế bào lông ngoài
(outer hair cell) được gọi tên như trên do có vò trí xa phần đáy của cơ quan Corti, và 1 hàng
tế bào lông trong (inner hair cell). Đặc điểm mô học chính của các tế bào này là có dạng
chữ W (các tế bào lông ngoài) hay lót (tế bào lông trong) với các lông giả. Thể đáy hiện
diện ở trong vùng bào tương ở sát các lông giả cao nhất. Khác với ở tiền đình tai, các tế
bào lông ở ốc tai không có lông điển hình. Việc không có lông rung điển hình mang lại tính
cân đối cho tế bào lông rất quan trọng trong việc dẫn truyền thính giác.
Ngọn của các lông giả cao nhất ở các tế bào lông ngoài cắm vào màng mái
(tectorial membrane) là lớp chất tiết giàu glycoprotein của một số tế bào của rìa xoắn ốc
(spiral limbus).
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007


SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
10
Trong số các tế bào nâng đỡ có tế bào trụ (pillar cell) là đặc biệt nhất. Các tế bào
trụ có rất nhiều siêu ống giúp cho chúng trở nên cứng chắc; chúng tạo nên một khoảng
trống hình tam giác nằm giữa lớp các tế bào lông ngoài và lông trong được gọi là đường
hầm trong (inner tunnel) có vai trò trong sự dẫn truyền âm.
Các tế bào lông ngoài và lông trong đều có các tận cùng thần kinh đến và đi; trong
đó các tế bào lông trong có nhiều tận cùng thần kinh đến hơn và sự khác biệt này chưa
được hiểu rõ. Thân của các nơron hai cực đến cơ quan Corti nằm ở bên trong lõi xương của
trụ ốc tai và tạo nên hạch xoắn.

2.2 Chức năng nghe của tai
2.2.1 Âm thanh
Âm thanh là sóng cơ học có biên độ nhỏ mà thính giác của con người có thể nhận
biết được. Thí dụ: sóng âm phát ra từ một nhánh âm thoa, một dây đàn, một mặt trống đang
rung động. Mỗi âm đơn có một tần số riêng.
Đơn vò tần số là Hertz (viết tắt là Hz). Hertz là tần số của một quá trình dao động
âm mà cứ mỗi giây vật thực hiện được một dao động. Dao động âm có tần số khoảng từ 20
- 20.000 Hz. Những dao động cơ có tần số dưới 20 Hz gọi là hạ âm, trên 20.000 Hz gọi là
siêu âm.
f < 20 Hz 20 Hz < f < 20.000 Hz f > 20000 Hz
Hạ âm Âm (nghe được) Siêu âm
Về phương diện vật lý, âm nghe được hay không nghe được không có gì khác nhau
về bản chất. Chúng chỉ khác nhau về phương diện tác dụng sinh lý đối với màng nhó. Thực
nghiệm chứng tỏ âm thanh đi thành tia và nó cũng bò phản xạ, khúc xạ, nhiễu xạ và hấp thụ
như tia sáng. Vì vậy, ta có thể nghe được tiếng động phản xạ từ vách đá, tiếng động bên
ngoài đi vào trong một ngôi nhà đóng kín cửa; Hai người cách nhau một bức tường có thể
trò chuyện với nhau dễ dàng.
www.bme.vn
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007


SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
11
Cường độ của âm là một tính chất mà dựa vào đó ta có thể phân biệt một âm mạnh
hay yếu. Rõ ràng cường độ âm gắn liền với biên độ và năng lượng của dao động âm. Ví dụ
như ta đánh mạnh vào dây đàn thì âm thanh phát ra sẽ to và dễ cảm nhận hơn là đánh nhẹ
vào nó.
Nhiều thực nghiệm xác nhận: Cảm giác âm thanh ở tai chúng ta không chỉ phụ
thuộc vào cường độ âm mà còn phụ thuộc vào tần số của âm thanh.

Hình 2.4: Đường biểu diễn ngưỡng âm lượng ờ tai người
Hình 2.4 diễn tả khả năng thu nhận âm thanh theo tần số và cường độ âm thanh
được tai tiếp nhận. Tai ta nghe được âm thanh nằm ở giữa hai đường biểu diễn. Đường phía
trên là ngưỡng đau, nếu cường độ âm nằm phía trên ngưỡng đau âm thanh có khả năng làm
hỏng tai.
Đường phía dưới là ngưỡng nghe, nếu cường độ âm nằm phía dưới ngưỡng nghe, có
nghóa là âm thanh có độ rung quá yếu (thầm thì) tai ta không nghe được. Khoảng tần số ở
giữa (từ 1000 - 4000 Hz) là khu vực mà tai ta nghe rõ nhất.
Đơn vò đo cường độ âm là decibel. Có 2 loại đơn vò decibel về âm thanh mà ta cần
phân biệt rõ là decibel áp âm (decibel sound pressure level – dB SPL) và decibel ngưỡng
nghe (decibel normal hearing level – dB nHL).
• Decibel áp âm (dB SPL) là đơn vò đo cường độ âm thanh dựa vào mối quan hệ giữa
công suất âm thanh tạo ra với công suất âm thanh chuẩn và được tính theo công thức logarit.

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
12
Dựa theo đơn vò này, người ta lập ra đồ thò ngưỡng nghe và ngưỡng đau cho người
bình thường như hình sau.


Hình 2.5: Đồ thò ngưỡng nghe, ngưỡng đau ở người theo đơn vò dB SPL
Theo đồ thò, ta thấy ngưỡng nghe của tai người ở các tần số khác nhau sẽ ứng với
các mức âm lượng khác nhau. Ở tần số càng thấp (dưới 100Hz), để tai người nghe được thì
cần phải có âm lượng càng lớn. Tai người nghe tốt ở khoảng tần số từ 1000Hz – 4000Hz
với mức âm lượng ngưỡng khoảng từ 0dB – 20dB. Ở tần số càng cao, tai người cũng phải
cần âm lượng lớn tương ứng để có thể nghe được. Cường độ trên 120 dB là ngưỡng đau của
tai người.
Sau đây là hình và bảng minh họa cường độ âm của các âm thanh trong môi trường.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
13

Hình 2.6: Mức âm lượng của các âm thanh trong môi trường
Bảng 2.1: Một số ví dụ về âm lượng của các âm thanh trong môi trường
Nguồn âm Âm lượng (dB SPL)
Động cơ máy bay (cách 50m) 140
Ngưỡng đau 130
Ngưỡng khó chòu 120
Cưa máy (cách 1m) 110
Vũ trường (cách loa 1m) 100
Động cơ xe tải (cách 10m) 90
Khu đô thò sầm uất 80
Máy hút bụi (cách 1m) 70
Âm thoại (cách 1m) 60
Âm thanh trong nhà 50
Thư viện yên tónh 40
Phòng ngủ (ban đêm) 30
Âm nền của TV 20

Lá cây xào xạc 10
Ngưỡng nghe 0
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
14
• Decibel ngưỡng nghe (dB HL) là đơn vò âm lượng được suy ra từ decibel áp âm.
Người ta dựa vào đồ thò âm lượng ngưỡng nghe ở người bình thường tính theo đơn vò dB
SPL để quy chiếu ra thang đo cho đơn vò dB HL. Tất cả các giá trò âm lượng trên đường
này đều được quy ra là 0 dB HL với các tần số tương ứng. Người ta xây dựng thính lực đồ
cho bệnh nhân dựa trên đơn vò dB HL.

Hình 2.7: Quy trình chuyển đổi từ dB SPL sang dB HL và sang thính lực đồ
2.2.2 Chức năng nghe
Các sóng âm tác động đến màng nhó làm cho các xương tai di động. Sự khác biệt
diện tích rất lớn giữa màng nhó với chân của xương bàn đạp đảm bảo cho việc truyền đi
hiệu quả sự dao động cơ học từ trong môi trường không khí sang môi trường dòch ở tai trong.
Hai cơ có ở tai giữa là cơ nhó (tensor tympani) (gắn vào xương búa) và cơ bàn đạp
(stapedius) (gắn vào xương bàn đạp); các âm thanh lớn có thể làm cho các cơ này phản xạ
co lại, làm hạn chế sự di chuyển theo chức năng của màng nhó và xương bàn đạp, ngăn cản
việc làm tổn thương cho tai trong. Tuy vậy, các phản xạ này xảy ra chậm nên cần cẩn trọng
đối với các âm thanh lớn xảy ra đột ngột như tiếng súng nổ.
Sau đây là cách giải thích theo từng bước việc làm sao các sóng âm được biến đổi
thành các xung điện thế ở trong tai trong. Các sóng âm là loại sóng dài với các khoảng nén
(compression) và giãn (rarefaction). Khoảng nén làm cho xương bàn đạp di chuyển vào
trong. Do dòch ở tai trong hầu như không thể nén được, sự thay đổi áp suất được truyền qua
màng tiền đình và màng nền, làm cho chúng bò lệch xuống dưới về phía vòn hòm tai. Sự
thay đổi áp suất này cũng làm phần phía trên cửa sổ tròn trồi ra ngoài, qua đó giúp giảm áp
suất. Do các đỉnh của các tế bào trụ đóng vai trò 1 cái trục, sự lệch xuống của màng nền
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007


SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
15
được biến đổi thành sự cắt ngang các lông giả của các tế bào lông vào màng mái. Đầu chóp
các lông giả lệch về phía trụ ốc tai và rời khỏi thể đáy.
Trong thời điểm có khoảng giãn sóng âm, mọi thứ diễn ra ngược lại: xương bàn đạp
di chuyển ra ngoài, màng nền di chuyển lên trên về phía vòn tiền đình, và các lông giả của
các tế bào lông bẻ gập về phía vết mạch và thể đáy. Sự di lệch theo hướng này gây ra sự
khử cực tạo điện thế ở các tế bào lông, dẫn đến sự giải phóng chất dẫn truyền thần kinh
(thành phần hóa học chưa được biết rõ), tạo ra điện thế hoạt động ở các nơron 2 cực của
hạch xoắn (sự kích thích).
Sự nhận biết các tần số âm thanh này tùy thuộc vào sự đáp ứng của màng nền. Sự
đáp ứng của màng nền đối với tần số âm thanh bằng sự di dời khác biệt về vò trí và độ dài.
Các âm tần cao được phát hiện bởi đầu dưới của màng nền, các âm tần thấp được phát hiện
ở vùng đỉnh cơ quan Corti. Sự dò tần số theo vò trí (tonotopic localization) này có liên quan
đến bề rộng và độ cứng của màng nền: màng nền hẹp và cứng ở vùng đáy có đáp ứng tốt
nhất đối với các âm thanh có tần số cao.
Các loại điện thế trong ốc tai [4]:
• Điện thế liên tục: mỗi bộ phận của ống ốc tai có một điện thế liên tục riêng biệt, thí
dụ điện thế của nội dòch là +80 V, của tế bào giác quan có lông là -80 V, của tế bào
Hensen của màng Resne -20 V.
Màng mái không có điện thế (0 V).
Nguồn cung cấp điện thế là vân mạch (strie vasculaire) và tế bào giác quan có lông.
Sự có mặt của oxi, ion kali và ion natri ở tỷ lệ nhất đònh rất cần thiết cho sự ổn đònh của các
điện thế kể trên
• Điện thế vi âm hay điện thế microphonic là một dòng điện xoay chiều, thể hiện một
cách trung thành những rung động của màng đáy do ảnh hưởng của sóng âm được truyền từ
tai vào trong.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007


SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
16
Người ta có thể so sánh điện thế vi âm với dòng điện phát sinh trong micrô khi
chúng ta nói trước máy phóng thanh. Nếu chúng ta đưa dòng điện này vào loa điện thì loa
sẽ phát ra tiếng của người nói trước micrô.
Nguồn gốc của điện thế microphonic là ở tế bào giác quan có lông. Khi các lông
này bò uốn cong, bò kéo căng hoặc đè nén thì điện thế liên tục trong ốc tai sẽ biến đổi, lúc
tăng, lúc giảm, lúc âm, lúc dương do hiện tượng khử cực hoặc thay đổi điện trở. Những biến
đổi này tạo ra một dòng điện xoay chiều gọi là điện thế microphonic.
Như vậy điện thế microphonic là sự biến lượng của những rung động âm thành một
dòng điện xoay chiều.
Điện thế microphonic tăng một cách đồng biến với cường độ âm thanh đối với
cường độ nhỏ và vừa. Nhưng khi cường độ lên quá 105dB thì nó lại không tăng nữa. Một số
thuốc độc đối với tai như streptomyxin, quinin… có tác hại trực tiếp đến lông của tế bào
giác quan và ảnh hưởng đến điện thế vi âm.
• Điện thế cộng (summation potential)
Điện thế cộng gồm hai dòng điện một chiều: một âm tính và một dương tính. Sóng
điện xuất hiện khi lông của tế bào giác quan bò đè một cách kéo dài bởi màng mái. Nó chỉ
xuất hiện khi cường độ âm thanh đạt 20dB cao hơn cường độ gây ra điện thế microphonic.
Cường độ của nó tăng cùng với cường độ của âm thanh trong một phạm vi nhất đònh. Nó có
tác dụng tu chỉnh đối với điện thế microphonic.
• Điện thế hoạt động (action potential – AP) người ta gọi điện thế này là luồng thần
kinh thính giác.
Nguồn gốc: các điện thế microphonic và điện thế cộng tác động vào tế bào giác
quan và giải phóng một chất trung gian hoá học ở cực dưới của tế bào. Chất trung gian này
được giải phóng theo nhòp rung của màng nền và tạo ra ở khớp thần kinh (synapse) bao vây
chung quanh tế bào giác quan, những xung điện cùng nhòp chạy dọc theo các sợi của dây
thần kinh ốc tai gọi là điện thế hoạt động (giả thuyết của Davis).
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007


SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
17
Điện thế hoạt động chứng minh sự hoạt động của các nơron của dây thần kinh ốc tai.
Nó chòu sự chỉ đạo của thần kinh trung ương. Thí dụ khi chúng ta kích thích bó ly tâm
Rasmussen (đi từ vỏ não xuống ốc tai) thì điện thế hoạt động bò ức chế. Trong gây mê sâu
điện thế hoạt động cũng không xuất hiện được.
Luồng thần kinh, tức điện thế hoạt động, phát sinh từ cơ quan Corti được đưa về vỏ
não bằng con đường khá phức tạp, nó phải đi qua ba nơron hướng tâm [4].
• Nơron thứ nhất đi từ tế bào giác quan của cơ quan Corti đến nhân thính giác ở hành
não (nhân lưng và nhân bụng). Thân nơron nằm ở hạch xoắn đuôi gai đi từ phía tế bào giác
quan và dây trục đi về phía nhân thính giác. Các dây trục tập trung lại thành các dây thần
kinh ốc tai. Các thân nơron tập trung lại thành hạch Corti.
• Nơron thứ hai là nơron hành não đồi thò rất phức tạp, vì nó gồm nhiều tầng và đa số
các dây trục đều bắt chéo ở phía trên nhân thính giác. Do đó chúng ta thấy có những nơron
ngắn, nơron dài, nơron đi thẳng, nơron bắt chéo; nơron liên lạc với trám cầu, với thể than
với cấu tạo lưới.
Tất cả những nơron này đều dẫn đến hai thể gối trong. Mỗi thể gối đều tiếp nhận
những xung điện của cả hai tai. Sự liên lạc của nhân lưng với cấu tạo lưới có tác dụng giúp
cho tai phân biệt được rõ ràng các âm hơn bằng ức chế độ nhạy cảm của sợi thần kinh kế
cận tần số được kích thích. Thể gối đóng vai trò nhân thính giác dưới vỏ não.
Thể gối và đồi thò có khả năng hiểu nhận tiềm tàng những tín hiệu đơn giản thay
cho vỏ não.
• Nơron thứ ba được gọi là nơron đồi thò vỏ não, nó đi từ thể gối trong và tận cùng ở
vỏ não thuỳ thái dương tại vùng thính giác, vùng này ở dọc trên đáy là bờ sau của rãnh
Sylvius, mang tên vùng Heschl (tức là vùng 52 và vùng 41 của Brodman). Ở phía sau vùng
Heschl còn có một vùng cận thính giác mang tên vùng A1 và A2. mỗi vùng thính giác và
cận thính giác nhận những xung điện của cả hai tai, nhưng có ưu tiên cho bên đối diện.
Những tín hiệu xuất phát từ cơ quan Corti do các điện thế hoạt động đưa đến dưới dạng mật
mã, nó được giải mã và ghi nhớ tại vùng thính giác và cận thính giác. Hiện tượng này được
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007


SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
18
gọi là hiểu nhận. Nhờ có hiểu nhận được các tín hiệu nên chúng ta mới phân biệt được
cường độ, âm sắc, tần số mới phân biệt được một tiếng động với một tiếng nói, mới nhận ra
được giọng người quen, giọng người lạ, giọng vui, giọng buồn…
Nếu vùng thính giác và cận thính giác bò hủy diệt thì dòng điện hoạt động vẫn có
thể đến tận não nhưng bệnh nhân sẽ không hiểu được ý nghóa của các tín hiệu, không phân
biệt được lời nói với tiếng động, giọng bỗng với giọng trầm…
Ngoài các nơron hướng tâm đã nói, còn có các nơron ly tâm đi từ vỏ não đến thể gối
trong, đến củ não sinh tư sau, đến dãy Rây, đến ốc tai. Rasmussen và M. portmann có tả bó
trám ốc tai đi từ trám trên của cầu não đến tận tế bào giác quan có lông của cơ quan Corti.
Những bó ly tâm này có nhiệm vụ kìm chế, điều chỉnh dòng điện thế hoạt động mà người
ta còn gọi là luồng thần kinh thính giác, giảm bớt sự nhạy cảm đối với tạp âm, thích ứng độ
nhạy cảm của cơ quan Corti với cường độ tiếng âm.

2.3 Điện thế gợi thính
Điện thế gợi thính (Auditory evoked potentials – AEPs) là một phân lớp của ERPs.
ERPs (Event-related potentials) là những đáp ứng của não theo thời gian đối với các sự
kiện. Sự kiện ở đây có thể là kích thích giác quan (như là dùng ánh sáng hay là âm thanh),
một sự kiện về thần kinh (như là sự nhận ra một kích thích tại một vò trí đặc trưng). Đối với
AEPs, sự kiện ở đây là âm thanh. AEPs là những điện thế rất nhỏ (khoảng vài microvolt)
nằm lẫn trong tín hiệu điện não (từ vài chục đến vài trăm microvolt) được thu nhận ở da
đầu khi có kích thích âm thanh. Bằng phương pháp lấy trung bình, chúng ta hoàn toàn có
thể trích ra được những tín hiệu điện rất nhỏ này. Những tín hiệu điện này khá phức tạp và
có thể được thu nhận trong khoảng thời gian giữa hai kích thích. Tín hiệu AEP là một dạng
sóng phản ánh chức năng điện sinh lý của một phần nào đó trong hệ thống thần kinh thính
giác trung ương đáp ứng lại với âm kích thích [5].
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007


SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
19
Người ta chia điện thế gợi thính (AEPs) thành 4 nhóm khác nhau dựa vào thời gian
tiềm (latency), là thời gian kể từ khi bắt đầu kích thích âm ở tai cho tới lúc xuất hiện đỉnh
của sóng tương ứng (peak latency).
• Điện ốc tai (Electrocochleogram – EcoG) là điện thế gợi xuất hiện sớm nhất trong
khoảng 5ms đầu tiên, phản ánh hoạt động của ốc tai và dây thần kinh số VIII.
• Điện thế gợi được sử dụng phổ biến nhất là đáp ứng thính giác thân não (Auditory
brain stem response – ABR) xuất hiện trong 10ms đầu sau khi có kích thích. ABR phản
ánh hoạt động thần kinh từ dây thần kinh số VIII đến não giữa.
• Middle latency response – MLR xuất hiện trong khoảng 50ms, phản ánh hoạt động
tại vỏ não thính giác.
• Late latency response – LLR xuất hiện trong khoảng 250ms sau khi có tín hiệu,
phản ánh hoạt động của vùng thính giác và các vùng liên đới khác trên vỏ não.
Đo điện thế gợi thính (AEPs) là một phương pháp khách quan để đánh giá tính toàn
vẹn của hệ thống thần kinh thính giác trung tâm và ngoại vi. Vì vậy, phương pháp đo điện
thế gởi thính (AEPs) trở thành công cụ hữu hiệu trong việc đo thính giác ở trẻ nhỏ và những
đối tượng không thể hoặc không hợp tác trong quá trình kiểm tra. Đây cũng là công cụ
chẩn đoán vô giá trong việc đánh giá chức năng của các cấu trúc hệ thống thần kinh thính
giác.
Có 4 ứng dụng chủ yếu của việc đo điện thế gợi thính (AEPs):
• Tiên lượng độ nhạy thính giác
• Sàng lọc thính giác trẻ sơ sinh
• Chẩn đoán đánh giá chức năng của hệ thống thần kinh thính giác trung ương và
• Theo dõi chức năng hệ thống thần kinh thính giác trong quá trình phẫu thuật cắt bỏ
khối u ở dây thần kinh số VIII.
Phương pháp đo điện thế gợi thính (AEPs) trong chẩn đoán độ nhạy thính giác và
sàng lọc thính giác trẻ sơ sinh có ảnh hưởng rất lớn vào khả năng xác đònh những hư hỏng
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007


SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
20
về thính giác ở trẻ em. ABR được sử dụng trong những trường hợp sàng lọc trẻ sơ sinh để
xác đònh trẻ nào cần phải kiểm tra thêm hoặc tiên lượng độ nhạy thính giác ở trẻ em với
nghi ngờ hư hỏng về thính giác.
Đánh giá chẩn đoán thường được thực hiện với ABR, MLR và LLR. ABR nhạy hơn
với các rối loạn của dây thần kinh số VIII và thân não thính giác và thường được dùng kết
hợp với phương pháp chẩn đoán hình ảnh nhằm hỗ trợ cho việc chẩn đoán những khối u và
các rối loạn thân não. Theo dõi trong giải phẫu thường được tiến hành với ECoG và ABR.
Các điện thế gợi này được theo dõi suốt quá trình cắt bỏ khối u ở dây thần kinh số VIII.
2.3.1 Điện thế ốc tai (ECoG)
Đây là đáp ứng với thành phần chính là điện thế hoạt động phức hợp xuất hiện tại
những vùng ngoại biên của dây thần kinh số VIII. Một xung vuông ngắn (click) nhanh và
mạnh làm cho các bó sợi của dây thần kinh số VIII phóng điện đồng bộ. Kết quả của đáp
ứng trên tạo ra điện thế hoạt động (action potential – AP) bao gồm 2 thành phần: cochlear
microphonic (CM) – đáp ứng từ ốc tai giả (bắt chước) kích thích, summating potential (SP)
– đáp ứng trực tiếp phản ánh hình bao của kích thích.
ECoG là một đáp ứng trường gần, nên để thu được tín hiệu tốt nhất ta phải đặt điện
cực gần nơi sinh ra đáp ứng, khác với ABR, MLR và LLR là các đáp ứng trường xa. Do đó,
việc thu nhận EcoG bằng điện cực dán là rất khó. Để có kết quả tốt nhất, người ta sử dụng
điện cực kim đặt xuyên qua màng nhó lên phía trên phần lồi ra của xương thái dương. Bởi
vì ECoG chỉ đo chức năng ngoại vi của hệ thính giác và có xâm hại cơ thể bệnh nhân nên
những ứng dụng còn rất hạn chế, chỉ dùng cho một số chẩn đoán đặc biệt.
2.3.2 Điện thế thân não (ABR)
ABR là một kiểm tra chức năng thính giác thân não trong đáp ứng với các kích thích
âm thanh. Được Jewett và Williston mô tả lần đầu tiên vào năm 1971, phương pháp đo
thính lực ABR là ứng dụng phổ biến nhất của các đáp ứng thần kinh thính giác.
Phương pháp ABR liên quan đến một điện thế thần kinh sinh ra bởi một tiếng click
hoặc pip được tạo ra từ một tai nghe bên ngoài. Sóng đáp ứng được đo bằng điện cực dán
www.bme.vn

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
21
tại đỉnh đầu và dái tai. Tín hiệu có biên độ rất nhỏ (khoảng microvolt) thu được từ phép lấy
trung bình. Các đỉnh sóng được đánh dấu từ I-V. Các sóng này thường xuất hiện khoảng
10ms sau các kích thích có cường độ cao (70-90dB nHL – normal hearing level).
Phương pháp ABR sử dụng một kích thích âm tạo ra một đáp ứng từ vùng đáy của
ốc tai. Tín hiệu truyền từ nhân ốc tai đến củ não dưới. Sóng ABR I và II tương ứng với các
điện thế hoạt động (AP). Các sóng sau phản ánh hoạt động của hậu synapse tại trung tâm
thính giác thân não. Các đỉnh dương phản ánh hoạt động hướng tâm và ly tâm từ sợi thần
kinh đến thân não.

Hình 2.8 Minh họa hoạt động thần kinh tạo ra các sóng AEP
Các thành phần sóng [10]:
• Sóng I: Là đặc trưng trường xa của điện thế hoạt động thần kinh thính giác phức
hợp ở vùng ngoại biên của dây thần kinh số VIII. Đáp ứng này bắt nguồn từ hoạt động
hướng tâm của các neurons bậc nhất tại dây thần kinh số VIII khi chúng truyền đi từ ốc tai
đến ống tai trong.
Củ não sinh tư dưới
Sóng V
Sóng III
Sóng I
N1, P2
Cầu não
Dây thần kinh thính giác
Hạch xoắn ốc
Ốc tai
Thể hình thang
Rãnh âm phía sau

Thể gối giữa
Nhân bầu dục trên
I
II
III
IV
V
Rãnh âm ở giữa
Vỏ não
thính giác
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
22
• Sóng II: Được tạo ra bởi đầu gần của dây thần kinh số VIII khi nó vào thân não.
• Sóng III: Xuất hiện từ hoạt động của neuron bậc hai (sau dây thần kinh số VIII) ở
bên trong hoặc gần nhân ốc tai.
• Sóng IV: Thường có chung đỉnh với sóng V, xuất hiện từ các neuron hầu hết tập
trung tại vùng liên hợp bầu dục cấp cao, nhưng cũng có một phần từ nhân ốc tai và các
nhân của dải cảm giác bên.
• Sóng V: Phản ánh hoạt động của nhiều cấu trúc giải phẫu của hệ thống thính giác.
Đây là yếu tố được phân tích nhiều nhất trong các ứng dụng y học của ABR. Sóng V được
tạo ra từ vùng lân cận của củ não dưới. Hoạt động của neuron bậc 2 cũng góp phần tạo ra
sóng V. Củ não dưới là một cấu trúc phức tạp, với hơn 99% là các sợi trục thần kinh từ
những vùng thân não thính giác ở phía dưới đi ngang dải cảm giác bên đến củ não dưới.

Hình 2.9: Dạng sóng của AEPs
2.3.3 • Middle latency response
Đáp ứng thời gian tiềm giữa (Middle latency response – MLR) được đặc trưng bởi
hai đỉnh sóng dương kế tiếp nhau. Đỉnh thứ nhất là Pa xuất hiện sau khi kích thích khoảng

25-35ms và đỉnh thứ hai Pb sau khoảng 40-60ms. MLR được tạo ra bởi sự kết hợp các điện
thế sinh ra tại vỏ não thính giác và các vùng lân cận. Mặc dù MLR là dạng tín hiệu AEP
khó thu nhận nhất nhưng đôi khi nó vẫn được sử dụng kết hợp trong việc chẩn đoán rối
loạn thính giác.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
23
2.3.4 • Late latency response
Đáp ứng thời gian tiềm trễ (Late latency response – LLR) được đặc trưng bởi một
đỉnh sóng âm N1 tại thời gian tiềm 90ms, tiếp theo là một đỉnh dương P2 tại thời gian tiềm
180ms. Điện thế này dễ bò tác động bởi trạng thái chủ quan. Vì thế việc thu nhận đạt kết
quả tốt nhất khi bệnh nhân thức và chú ý đến âm thanh kích thích. Ở trẻ từ 8 đến 10 tuổi có
những tác động phát triển quan trọng lên LLR. Ở trẻ lớn hơn hoặc người trưởng thành, đáp
ứng mạnh và tương đối dễ ghi nhận. Sự bất thường hoặc thiếu sót LLR đều liên quan đến
rối loạn xử lý thính giác trung tâm.

2.4 Ứng dụng điện thế gợi thính trong y học
Điện thế gợi được sử dụng cho vài đánh giá hệ thống thính giác vì nó không phụ
thuộc vào trạng thái ý thức của người được đo. ABR hiện nay được dùng để kiểm tra sơ bộ
thính giác của trẻ sơ sinh có nguy cơ giảm thính lực và đánh giá mức độ suy giảm đó. Điện
thế gợi thính có thể được thu nhận khi phẫu thuật để theo dõi chức năng của những thay đổi
cấu trúc xảy ra suốt quá trình cắt bỏ khối u ở dây thần kinh số VIII.
2.4.1 Tiên lượng độ nhạy thính giác
Các nhà thính học phải đối mặt với hai khó khăn thường được đặt ra khi dùng điện
thế gợi thính để tiên lượng độ nhạy thính giác. Khó khăn chủ yếu là đo độ nhạy thính giác
của trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ, là đối tượng không thể hợp tác tốt khi đo bằng phương pháp
thính lực đồ. Khó khăn khác là tiên lượng độ nhạy thính giác trong những trường hợp giả
điếc. Tuy nhiên, mục đích của việc kiểm tra là thu được kết quả tiên lượng điện sinh lý của
độ suy giảm và đường dốc giảm thính lực.

Quá trình tiên lượng độ nhạy thính giác đơn giản chỉ là xác đònh cường độ kích thích
thấp nhất mà tại đó điện thế gợi thính có thể ghi nhận được. Loại kích thích thường được sử
dụng là click hoặc tone-burst. Cường độ kích thích được giảm dần cho tới khi đáp ứng
không còn xuất hiện nữa, mức độ này tương ứng với ngưỡng hành vi (ngưỡng nghe).
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
24
Việc kiểm tra trên trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ phải được tiến hành ở trạng thái ngủ hoặc
kết hợp với thuốc an thần nhẹ. Như thế việc kiểm tra bằng ABR mới đạt kết quả tốt nhất và
không bò ảnh hưởng bởi trạng thái của bệnh nhân. Trình tự thực hiện là xác đònh ngưỡng
ABR đối với các kích thích dạng click như một giá trò tạm thời của độ nhạy thính giác trong
dải tần số 1000Hz đến 4000Hz. Một khi ngưỡng ABR được thiết lập, ta sử dụng kích thích
tone-burst tần số thấp để tiên lượng mức độ suy giảm thính lực ở dải tần số thấp. Kết quả
kiểm tra ngưỡng ABR là ước lượng về độ suy giảm và đường dốc giảm thính lực.
Khi tiến hành kiểm tra ở bệnh nhân lớn tuổi hơn, ta dùng LLR với kích thích tone sẽ
cho kết quả tốt nhất. Trước tiên, ta xác đònh ngưỡng LLR đối với kích thích tone trong
khoảng tần số nghe được tương tự như đònh ngưỡng ABR. Kiểm tra LLR tương đối cần
nhiều thời gian, vì thế các bác só lâm sàng thường sử dụng kết hợp ngưỡng ABR sử dụng
kích thích click để tiên lượng thính lực ở tần số cao và ngưỡng LLR để tiên lượng ở tần số
thấp.
2.4.2 Kiểm tra sàng lọc thính lực trẻ sơ sinh
Mục đích của việc kiểm tra này là phân loại chức năng nghe bình thường hoặc bò
hỏng nhằm tìm ra những trẻ sơ sinh bò mất khả năng thính giác. Những trẻ có chức năng
nghe bình thường được loại ra, còn những trẻ bò nghi ngờ giảm thính lực sẽ được tiến hành
các kiểm tra khác.
ABR là điện thế gợi được chọn lựa cho việc kiểm tra sàng lọc thính giác ở trẻ sơ
sinh. Điện cực dán được sử dụng để thu tín hiệu và dễ dính lên da đầu của trẻ. Vì không bò
ảnh hưởng bởi trạng thái chủ quan, nên ABR có thể cho kết quả đáng tin cậy khi đo ở trạng
thái ngủ.

Một phương thức kiểm tra điển hình là tạo ra những kích thích dạng click ở một
cường độ xác đònh thường từ 30 đến 40dB và xác đònh xem có ghi nhận được đáp ứng sinh
ra hay không. Nếu ABR xuất hiện thì độ nhạy thính giác của đứa trẻ có thể bình thường
hoặc gần như là bình thường ở tần số 1000 đến 4000Hz. Với kết quả này, ta có thể giả đònh
thính lực của trẻ đủ để phát triển chức năng ngôn ngữ. Những trẻ vượt qua được kiểm tra
sàng lọc này được xếp vào nhóm nguy cơ thấp về rối loạn phát triển khả năng giao tiếp vì
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA TP.HCM – NĂM 2007

SVTH: TRẦN THÀNH NHÂN GVHD: ThS LÊ CAO ĐĂNG
25
suy giảm thính lực. Nếu ABR không xuất hiện thì ta có thể kết luận trẻ có nguy cơ cao bò
giảm chức năng thần kinh thính giác và cần phải được tiến hành các kiểm tra đánh giá khác
về thính giác.
Số lượng trẻ cần được trải qua kiểm tra sàng lọc ngày càng nhiều, vì thế việc kiểm
tra ABR đối với trẻ sơ sinh theo phương thức cũ đã được thay thế bằng phương thức tự động.
Thông thường, quy trình kiểm tra ABR tự động được thiết kế như sau: tạo ra những kích
thích dạng click ở một cường độ xác đònh để ghi lại các đồ thò ABR, và sau đó so sánh với
các kết quả mẫu chuẩn đã thiết lập. Tuy nhiên, nhiễu sinh lý hoặc môi trường có thể làm
sai lệch kết quả.
2.4.3 Ứng dụng trong chẩn đoán
Một trong những ứng dụng quan trọng của điện thế gợi là lónh vực chẩn đoán các rối
loạn của hệ thần kinh thính giác ngoại vi và trung tâm. Vào những năm cuối thập kỷ 70
đầu thập kỷ 80, ABR là một công cụ tốt nhất giúp xác đònh khối u ở dây thần kinh số VIII.
Tuy nhiên, sự phát triển của phương pháp chẩn đoán hình ảnh cho phép xác đònh những
thương tổn nhỏ hơn ở não mà phương pháp ABR không thể tìm ra được. Mặc dù vậy,
phương pháp đo điện thế gợi vẫn được dùng trong các chẩn đoán, thường với mục đích sàng
lọc.
ABR khá nhạy với các rối loạn chức năng của dây thần kinh số VIII và thân não
thính giác. Khi có một nghi ngờ về rối loạn thì ABR là kiểm tra đầu tiên trước khi tiến
hành các phương pháp chẩn đoán hình ảnh. Các sóng thành phần của ABR, đặc biệt là các

sóng I, III và V rất đáng tin cậy và dễ thu nhận. Thời gian xuất hiện các sóng này khá ổn
đònh, ở người trưởng thành, khoảng cách đỉnh sóng I-V xấp xỉ 4ms, độ sai lệch khoảng
0.2ms. Theo thống kê, 95% người trưởng thành có khoảng cách đỉnh sóng I-V là 4.4ms
hoặc ngắn hơn, nếu vượt quá ngưỡng này có thể xem là bất thường. Thời gian tiềm ở trẻ sơ
sinh dài hơn so với ở người trưởng thành. Khi đứa trẻ được 18 tháng tuổi, thì chỉ số thời
gian tiềm sẽ giống người trưởng thành. Vì thế ta có thể dựa vào các đánh giá về thời gian
tiềm để kiểm tra tính toàn vẹn của dây thần kinh số VIII và thân não thính giác. Để kết
luận kết quả ABR có bình thường hay không, ta thường dựa vào các đánh giá sau:

×