Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Tài liệu Những vấn đề về bệnh cá rô phi trong nuôi thâm canh doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.87 KB, 3 trang )

Những vấn đề về bệnh cá rô phi trong nuôi thâm canh

Nguồn: vietlinh.com.vn
Ở nước ta, hàng năm có khoảng 5.000-7.000 tấn cá rô phi được tiêu thụ nội
địa. Rô phi là một loài cá nuôi rất có kinh tế và là loài có sức đề kháng cao hơn so
với các loài khác.
Tuy nhiên với mô hình nuôi thâm canh mật độ dày dễ làm phát sinh dịch
bệnh. Bệnh ở cá rô phi gồm: bệnh do vi khuẩn, vi rút, nấm, và ký sinh trùng. Đặc
biệt là bệnh do vi khuẩn Streptococcus là nguyên nhân gây nên thiệt hại lớn cho cá
rô phi nói riêng và cá nước ngọt nói chung, làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế
của ngành nuôi trồng thủy sản.
Để khắc phục phần nào những thiệt hại về kinh tế do dịch bệnh gây ra với
cá rô phi nuôi thâm canh, các nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu NTTS II đã
thu mẫu phân lập vi khuẩn và gây cảm nhiễm ngược, xác định định tác nhân gây
bệnh cho cá nuôi ở các tỉnh Tây Ninh, An Giang, Vĩnh Long và Tiền Giang, nhóm
tác giả này đã đưa ra kết luận như sau:
Thời gian mà cá dễ mắc bệnh là vào mùa mưa. Tỷ lệ thiệt hại từ 7-10%, cá
thường mắc bệnh ở giai đoạn 1-4 tháng tuổi. Bệnh thường gặp là bệnh xuất huyết.
Hiệu quả điều trị bệnh đạt 25-50%. Hóa chất được sử dụng là muối ăn, vôi
(treo đầu bè), hoặc kháng sinh (trộn vào thức ăn).
Tác nhân gây bệnh chủ yếu trong các giai đoạn mùa khô (từ tháng 1 đến
tháng 4), giao mùa (tháng 5) và đầu mùa mưa (tháng 7).
Trong số các chủng vi khuẩn phân lập được thì chủng vi khuẩn
Streptococcus có tần suất cao nhất, chiếm 95-100% vào mùa khô (tháng 1) và giai
đoạn giao mùa (tháng 5 và tháng 11). Vào thời điểm mùa mưa (tháng 9) và thời
điểm giao mùa (tháng 11) thì chủng Aeromonas hydrophyla có tần suất xuất hiện
cao nhất (100%).
Có thể sử dụng các loại kháng sinh Erythromycin, Penicillin, Ampicilin
trong việc điều trị vi khuẩn Streptococcus. Với vi khuẩn Aeromonas hydrophyla
có thể sử dụng các loại kháng sinh Gentamycin, Neomycin, Oxytetracycline,
Trimethoprim-sulfamethoxazol, Kanamycin.


Có thể sử dụng các loại hóa chất như thuốc tím, iode, D4, BKC trong việc
xử lý nước để tiêu độc.
Về môi trường và mùa vụ nuôi cá:
Giai đoạn mùa khô (tháng 1-4) điều kiện môi trường nước là lý tưởng nhất.
Đây là giai đoạn thuận lợi nhất cho việc thả giống và nuôi cá. Nước chỉ đứng 1 lần
trong ngày, thời gian nước đứng ngắn, đảm bảo được nhu cầu oxy hòa tan cho cá.
Giai đoạn giao mùa (tháng 5-6) điều kiện môi trường nước là tương đối tốt,
tuy nhiên không nên thả cá vào giai đoạn này, vì cá sẽ phải chịu ảnh hưởng bất lợi
của môi trường vào các tháng sau của mùa nước lũ.
Giai đoạn mùa mưa (tháng 7-10) do ảnh hưởng của nước lũ từ thượng
nguồn đổ về nên hàm lượng phù sa nhiều và nước rất đục. Độ trong thấp, hàm
lượng ammonia trong nước cao hơn các thời điểm khác trong năm.
Giai đoạn giao mùa (tháng 11-12) là thời điểm cá dễ nhiễm bệnh do điều
kiện thời tiết thay đổi đột ngột. Nước đứng nhiều lần trong ngày, thời gian mỗi lần
nước đứng kéo dài vì vậy hàm lượng oxy hòa tan thấp hơn so với thời điểm khác
trong năm. Ngoài ra tháng 12 và tháng 1 là hai tháng chịu ảnh hưởng của gió mùa
đông bắc, thời tiết lạnh hơn nên gây sự kém ăn của cá, cá chậm phát triển so với
những thời điểm khác.
Lưu ý: Dịch bệnh nguy hiểm thường xảy ra ở cá rô phi nuôi thâm canh vào
hầu hết các tháng trong mùa mưa (từ tháng 7 đến tháng 10) và các tháng giao mùa,
gây ảnh hưởng lớn đến tình trạng sức khỏe của cá nên phải áp dụng các biện pháp
phòng bệnh chặt chẽ trong các tháng này. Cụ thể là: Tăng cường vitmin C để tăng
sức đề kháng cho cá, có chế độ bồi dưỡng đặc biệt, nhằm đảm bảo sức khỏe cho
cá. Định kỳ sử dụng các hóa chất như thuốc tím để tẩy trùng nước, tránh nuôi cá
ở mật độ dày.

×