Vinacafe: Thua lỗ cả nghìn tỉ đồng và bài học thu được
Cập nhật lúc 09h13" , ngày 13/03/2006
Thua lỗ trầm trọng kéo dài nhiều năm qua khiến
phần lớn các công ty thành viên của Tổng công ty
Cà phê Việt Nam (Vinacafe) lâm vào tình thế bi đát
chưa từng có.
Quyết định mới đây của Thủ tướng Chính phủ về
việc sắp xếp lại tổng công ty - trong đó có 9 đơn vị
thành viên làm thủ tục giải thể, phá sản trong năm
2006-2007, có thể hiểu là bước đi đầu tiên nhằm
dọn dẹp, chống đỡ lại ngôi nhà cà phê (Tổng công
ty Cà phê Việt Nam) đã quá nhiều "rác" và rệu rã.
Tụt dốc
Thời điểm hoàng kim của ngành cà phê kéo dài
không lâu, chỉ trong khoảng thời gian từ 1997- 1999; ngắn ngủi vậy song cũng đủ cho toàn
ngành này dốc hầu bao vào các lĩnh vực hạ tầng hành chính (phi lợi nhuận) và triển khai hàng
loạt dự án cà phê lớn lao tập trung trên đất Tây Nguyên: Suốt từ năm 2000 đến nay, bất chấp
biến động khắc nghiệt của thị trường thế giới, tổng công ty vẫn tiếp tục dồn sức cho các dự án
"phát triển" mà đến nay, mức thâm thụt đã vượt qua con số nghìn tỉ như thừa nhận mới đây của
ông Phan Đăng Hiên, Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Cà phê Việt Nam.
Khoan nói đến các dự án mới, riêng "bảng phong thần" thua lỗ từ hoạt động sản xuất, kinh doanh
hầu như đã có mặt phần lớn các đơn vị thành viên: Dẫn đầu là Công ty cà phê Ia Sao (đơn vị
vừa hình thành năm ngoái trên cơ sở hợp nhất 5 nông trường độc lập tại Gia Lai và một công ty
tại Tp.HCM; sự hợp nhất như một đối sách chống giải thể) với số lỗ tới hơn 100 tỉ đồng. "Đồng
hạng" với Ia Sao còn có Công ty cà phê Đắc Uy 1 (Kon Tum).
Các thứ hạng tiếp theo thuộc về Công ty Vinacafe 2 Nha Trang (80 tỉ), Nông trường cà phê Đắc
Uy 4 (Kon Tum; gần 70 tỉ), Công ty cà phê Ia Grai (Gia Lai; gần 70 tỉ), Công ty Vinacafe 3
Tp.HCM (60 tỉ), các nông trường Ia Blang, 705 (Gia Lai), mỗi nơi 50 tỉ, Công ty Vinacafe 1 Hà Nội
(40 tỉ), rồi Nông trường Đắc Uy 3 (Kon Tum; 20 tỉ). Và dù có năng lực hơn, các đơn vị tại Đắc Lắc
cũng thua lỗ không dưới 30 tỉ đồng
Ngoài nguyên nhân chủ yếu "đánh quỵ" các đơn vị cà phê trong nước - biến động giá khiến hệ
thống cung ứng tư nhân "xù nợ", không cung ứng hàng như cam kết; các đơn vị thành viên của
Tổng công ty Cà phê VN buộc phải mua giá cao đáp ứng hợp đồng ngoại giữ uy tín - còn có
nguyên nhân "lịch sử" thể hiện sự non kém kinh nghiệm giao thương trong ngành hàng mà thời
gian tham gia "sân chơi" chung của VN (30 năm) chưa bằng một phần ba thế giới. Và, cả sự
vung tay quá trán của "ông chủ - Tổng công ty Cà phê VN"
"Cái gì cũng có, trừ cà phê"
"Đúc kết" chua chát này được Chủ tịch HĐQT (mới) của Tổng công ty Cà phê VN, ông Phan
Đăng Hiên phát biểu sau chuyến kiểm tra chất lượng các dự án (dự án) cà phê gần đây, rằng tại
hầu hết trong số 10 dự án ngốn ngót 1.000 tỉ đồng (phần lớn là vốn vay), "cái gì cũng có, từ trụ
sở, phương tiện đắt tiền nhưng cái cần nhất là cà phê lại không có".
1
Có khá nhiều ví dụ từ các dự án Tây Nguyên: dự án Việt - Đức (công ty từ Đắc Lắc sang thực
hiện tại Gia Lai) chẳng hạn, chỉ sau vài năm, diện tích cà phê từ 600ha chỉ còn hơn 250ha (vẫn
đang mất dần); mương tưới đầu tư gần 7 tỉ nhưng lại không có nước.
Dự án Đắc By thuộc Nông trường 701 (Kon Tum) chỉ trồng được 200 trên 600ha kế hoạch, trong
khi lại đầu tư xây nhà khách cho 6 đội sản xuất ngốn gần cả tỉ bạc. Chưa kể như nhiều dự án
khác, thường có trụ sở và nhiều công trình sai mục đích được xây rất to, rất tốn kém mà riêng cà
phê thì lại đầu tư nhỏ giọt. Đây cũng là nguyên nhân khiến các ngân hàng, các quỹ hỗ trợ dè
chừng, cùng với sự xuống giá của cây cà phê những năm sau đó, hầu hết dự án đều bị cắt vốn
ngang chừng, dù ngân hàng đã cam kết giải ngân theo tiến độ.
Có thể nói, việc triển khai rầm rộ các dự án đã tỏ ra kém hiệu quả ngay từ đầu (năm 1999-2000).
Vì khách quan một phần, song vì bệnh thành tích nhiều hơn; trong đó có cả "năng lực" xà xẻo
nguồn vốn dự án của một số người cầm trịch. Và hiện tại, "hầu hết các dự án đều đang bên bờ
phá sản", ông Hiên nói thêm.
(theo Lao động)
2