Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Chinh sach doi ngoai cua Viet Nam doi voi ASEAN tu 19861995

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.04 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Mục lục MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH 1. Những nét khái quát về ASEAN……………………………………………... 2. Quan hệ Việt Nam – ASEAN trước năm 1986…………………………. 2.1.Từ năm 1967 đến 1974 2.2.Từ năm 1975 đến 1978 2.3Từ năm 1979 đến trước 1986 CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỚI ASEAN TỪ NĂM 1986-1995 1. Chính sách giai đoạn 1986-1991………………………………….. Bối cảnh lịch sử……………………………………………………………… Đổi mới tư duy đối ngoại Việt Nam- ASEAN từ 1986-1991………………. Giải quyết vấn đề Campuchia………………………………………………. Thành tựu chính sách đối ngoại đạt được………………….. 2. Chính sách giai đoạn 1992-1995……………………………………. 2.1 Bối cảnh lịch sử……………………………………………………………….. 2.2 Đổi mới tư duy đối ngoại Việt Nam- ASEAN từ 1992-1995………………… 2.3 Thành tựu chính sách đối ngoại đạt được…………………….. 2.4 Ý nghĩa của việc Việt Nam gia nhập ASEAN CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ KẾT LUẬN DANH MỤC, TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> MỞ ĐẦU Cựu bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh ông Palmerston đã từng nói: “ Chúng ta không có đồng minh vĩnh viễn, cũng không có kẻ thù vĩnh viễn. Chúng ta chỉ có lợi ích vĩnh viễn mà chúng ta cần phải theo đuổi”. Chính vì đặt “lợi ích quốc gia là trên hết” 1 ngay trong Nghị Quyết 13, Đại hội Đảng VI năm 1986 thể hiện rõ nét sự thay đổi sâu sắc trong đổi mới tư duy đối ngoại, đặc biệt là chính sách đối với các nước láng giềng, khu vực. Chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với ASEAN từ 1986-1995 có vai trò rất quan trọng trong việc mở rộng và phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa hai bên. Đồng thời là những bước chuẩn bị cơ bản nhất cho quá trình gia nhập ASEAN vào năm 1995. Sự đổi mới tư duy trong chính sách đối ngoại giai đoạn này đã gặt hái được nhiều thành công bên cạnh đó cũng thể hiện được đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng từ sau năm 1986 và từ đó ta cũng đúc rút được nhiều kinh nghiệm hơn cho công tác hoạch định chính sách những giai đoạn kế tiếp. Chính vì những lí do đáng kể trên mà trong bài tiểu luận dưới đây tôi sẽ đi sâu nghiên cứu chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với ASEAN từ năm 1986 đến 1995. Bài viết dưới đây gồm có ba chương và sẽ xoay quanh câu hỏi nghiên cứu:” Chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN thời kỳ này ra sao? Cơ sở của những chính sách đó và triển khai trên thực tế như thế nào? Chúng ta đã thu được những thành tựu và rút ra được những bài học gì?” Lời cảm ơn Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và hết sức chu đáo của giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Phú Tân Hương để em có thể hoàn thành tốt bài tiểu luận này. Bên cạnh đó em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến những thầy cô người đã có công biên soạn nên những cuốn sách đắt giá, nguồn tài liệu không thể thiếu giúp em có thể hoàn thành bài tiểu luận một cách xuất sắc nhất.. 1 Hoàng Tú, 2007, tr.69.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> CHƯƠNG I: CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH 1. Những nét khái quát về ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations – ASEAN) được thành lập ngày 8 tháng 8 năm 1967 trên cơ sở Tuyên bố Băng-cốc, với 5 nước thành viên ban đầu là In-đô-nê-xi-a, Ma-lay-xi-a, Phi-líp-pin, Xin-ga-po và Thái Lan. Năm 1984 Vương quốc Brunei bắt đầu gia nhập vào tổ chức này. Tuyên bố Băng Cốc- bản tuyên ngôn ASEAN đã nêu lên bảy điểm xác định mục tiêu của ASEAN là phát triển kinh tế và văn hóa, hợp tác thức đẩy tiến bộ xã hội của các nước thành viên trên tinh thần duy trì hòa bình và ổn định của khu vực. Có hai điều quan trọng nhất trong tuyên bố trên đó là trong điều thứ nhất và điều thứ tư đã nhấn mạnh: “ Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tính thần bình đẳng và hợp tác nhằm tăng cường cơ sở cho một cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á hòa bình và thịnh vượng” và “ Hiệp hội này mở rộng cho tất cả các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á tán thành tôn chỉ, nguyên tắc và mục đích nói trên tham gia”2. Ba động lực tạo ra ASEAN là mục đích xây dựng đất nước, tinh thầnh chống cộng, và mục tiêu phát triển kinh tế. Các quốc gia trong vùng khi đã mất tin tưởng vào vào các cường quốc bên ngoài đã tìm đến nhau trong bối cảnh của thập niên 1960 hầu hỗ trợ lẫn nhau. Chính vì vậy tổ chức này được lập ra chính là để người Đông Nam Á tự làm chủ vận mệnh của mình thoát khỏi sự chi phối và tác động từ các nước bên ngoài.. 2. Quan hệ Việt Nam – ASEAN trước năm 1986 2.1 Từ năm 1967 đến 1974 Trong giai đoạn từ năm 1967-1974 đây là giai đoạn bắt đầu hình thành tổ chức ASEAN và cũng là giai đoạn Việt Nam đang trên đường đấu tranh thống nhất đất nước. Việt Nam đang là một quốc gia chưa ổn định về chính trị vì vậy trong giai đoạn này mọi 2 Xem tuyên bố Băng- Cốc(1967) để hiểu rõ hơn về các quan điểm của ASEAN..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> mối quan hệ với ASEAN gần như không. Chưa hết Việt Nam luôn coi ASEAN như là một tổ chức phản động, chống cộng và ASEAN được đánh giá như một SEATO trá hình. Hơn thế nữa trong giai đoạn Việt Nam đấu tranh giành độc lập, thống nhất một số quốc gia thuộc ASEAN cũng đã nhúng tay can thiệp gián tiếp vào trận chiến ví dụ như : Thái Lan có hai sư bộ binh, Philippin có 2000 công dân vụ, Malaysia là nơi huấn luyện cảnh vụ cho Mỹ… Điều đó càng làm phần nào xấu đi mối quan hệ giữa hai bên.. 2.2 Từ 1975 đến 1978 Sau khi Việt Nam dành độc lập thống nhất đất nước vào năm 1975 mặc dù bước đầu cả hai bên đều quan ngại và có quan niệm tư duy lối mòn về nhau song dưới sự tác động của bối cảnh quốc tế quan hệ giữa hai bên đã có chút khởi sắc. Điển hình như đối với các nước chưa có quan hệ ngoại giao từ trước đã bắt đầu cử các đoàn thứ trưởng ngoại giao, thứ trưởng ngoại thương, Bộ trưởng Ngoại giao và thủ tướng Việt Nam đi thăm ASEAN. Bước đầu có quan hệ về kinh tế. Năm 1978 thủ tướng Việt Nam ông Phạm Văn Đồng đã đã có chuyến thăm đến các nước ASEAN. Bên cạnh đó các bên còn ký các hiệp ước không xâm lược lẫn nhau. 2.3 Từ 1979 đến trước năm 1986 Đứng trước vấn đề Việt Nam đưa quân tình nguyện sang Campuchia hầu hết các nước lớn và ASEAN đều bao vây, cô lập và cho rằng Việt Nam có mưu đồ xâm chiếm Campuchia. Trong bối cảnh mở rộng quan hệ quốc tế đây chính là rào cản lớn lao ngăn cản Việt Nam tiến đến hội nhập quốc tế. Để giải quyết tình thế bị bao vây cô lập Việt Nam cũng đã có nhiều động thái để làm dịu đi những mâu thuẫn trước đó như: Trong đại hội V đã đề cập: “ Thiết lập quan hệ láng giềng tốt đẹp với ASEAN, sẵn sàng cùng ASEAN xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định.” Bên cạnh đó Việt Nam cũng đã có những động thái rút quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia. Tuy nhiên những động thái trên của Việt Nam chưa mang nhiều kết quả đáng kể. Quan hệ giữa Việt Nam với ASEAN vẫn rất căng thẳng..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Trong lĩnh vực kinh tế- xã hội: Trong những năm 80 nền kinh tế thế giới vẫn chưa thoát khỏi biến chứng của cuộc khủng hoảng năng lượng những năm 70. Trong khi hệ thống xã hội chủ nghĩa đang lộ ra những bất đồng và mâu thuẫn bên trong các nước. Sản xuất trì trệ và nền kinh tế tụt lại một cách đáng báo động ở các nước Đông Âu và Liên xô cũng phần nào báo hiệu những nguy cơ tiềm ẩn. Bên cạnh đó cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc với Trung Quốc năm 1979 và vấn đề Campuchia cùng với những khó khăn bước đầu trong quá đổi mới nền kinh tế, sự giảm sút trong đầu tư về kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa lớn như Liên Xô, Trung Quốc… Đã làm tăng thêm những khó khăn cho Việt Nam trong giai đoạn này. CHƯƠNG II: CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỚI ASEAN TỪ NĂM 1986-1995 Triển khai chính sách đối ngoại Việt Nam từ năm 1986-1995 có thể chia nhỏ ra hai giai đoạn: Giai đoạn một ( 1986-1991), giai đoạn hai( 1992-1995). Cơ sở để phân chia hai giai đoạn trên là ở chỗ trong giai đoạn một bắt đầu từ năm 1986- Việt Nam bắt đầu đổi mới cho đến cuối năm 1991 Việt Nam cử đoàn cấp cao sang thăm các nước ASEAN, mở ra giai đoạn mới trong quan hệ với các nước trong khu vực. Giai đoạn hai bắt đầu từ năm 1992 với sự kiện Việt Nam tham gia hiệp ước Ba Li, và trở thành quan sát viên của ASEAN cho đến năm 1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức này.. 1. Chính sách giai đoạn 1986-1991 1.1 Bối cảnh lịch sử 1.1.1 Tình hình thế giới: Chiến tranh lạnh đang dần đi vào suy yếu. Xu thế chung trong quan hệ quốc tế giai đoạn này là “ đối thoại và hòa dịu” thay vì đối đầu căng thẳng. Nhiều quốc gia trên thế giới tích cực mở rộng mối quan hệ hợp tác trên nhiều phương diện. Hầu hết các quốc gia đều từ bỏ suy nghĩ lối mòn để bắt kịp với xu thế chung của thời đại..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Bên cạnh đó, cũng trong thời kỳ này khoa học- công nghệ phát triển nhanh chóng đã thúc đẩy tiến trình khu vực hóa, toàn cầu hóa và có tác động mạnh mẽ đến chiến lược phát triển của các quốc gia. Đặc biệt là các nước lớn: Giảm thiểu chạy đua vũ trang, tập trung mọi nguồn lực cho công cuộc phát triển kinh tế, phát triển khoa học kỹ thuật nhằm tăng cường sức mạnh của quốc gia. 1.1.2 Khu vực Đông Nam Á: Ngày 23/2/1983 Hội nghị cấp cao Việt Nam, Lào, Campuchia tại Viên Chăn tuyên bố: “Hàng năm một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam sẽ rút khỏi Campuchia”. Vấn đề Campuchia đã bớt căng thẳng hơn tạo tiền đề để xoa dịu những rạn nứt trong quan hệ giữa các nước những năm trước đó. Các quốc gia đang dần có xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại, xây dựng khu vực Đông Nam Á “ổn định, hòa bình, phát triển” 1.2 Đổi mới tư duy đối ngoại Việt Nam- ASEAN từ 1986-1991 Tại Đại hội Đảng VI (1986), ta đã đề ra việc đổi mới tư duy đối ngoại, trong đó ta đã có sự thay đổi cái nhìn đối với các nước ASEAN chuyển từ đối đầu sang đấu tranh cùng tồn tại hòa bình với ASEAN. “Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực, thương lượng và giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác.” (Văn kiện Đại hội Đảng VI). Nghị quyết 13, Bộ Chính trị (Tháng 5/1988) đã xác định rằng: cần một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh và một nền đối ngoại rộng mở. Tức là lúc này ta đã đặt mục tiêu phát triển lên hàng đầu nên cần phải mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ phát triển kinh tế. Chính vì vậy việc gia nhập ASEAN là điều hết sức cần thiết. Bên cạnh đó hội nghị với chủ đề “ giữ vững hòa bình và phát triển kinh tế” cũng đã nhấn mạnh nhiệm vụ ngoại giao là phục vụ ổn định chính trị, ưu tiên phát triển kinh tế là hàng đầu đồng thời bảo vệ tổ quốc. Nghị quyết cũng đưa ra các chủ trương cụ thể để thực hiện việc chuyển hướng đối ngoại, sắp xếp các đối tượng quan hệ có vai trò quan trọng, ưu tiên giải quyết vấn đề Campuchia và cải thiện quan hệ với ASEAN..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Giai đoạn khó khăn nhất của chủ nghĩa xã hội là từ năm 1988-1989, khi hầu hết các nước Đông Âu và Liên Xô rơi vào tình trạng khủng hoảng và dẫn đến mất quyền lãnh đạo. Đảng và nhà nước đã nhanh nhạy trước tình hình mới và có những chuyển biến để Việt Nam tránh bị “ hụt hẫng” trong đường lối đối ngoại cũng như giúp Việt Nam thoát khỏi vết xe đổ của các nước xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết 13, Đại hội Đảng VI đã xác định rõ rằng ngoại giao phải ưu tiên giữ vững hòa bình để phát triển kinh tế. Nghị quyết này cũng nhấn mạnh tư duy “thêm bạn bớt thù”3 trong chính sách đối ngoại. Như vậy, nghị quyết 13 về đối ngoại của Bộ chính trị là sự đổi mới mạnh mẽ trong đề ra mục tiêu và hướng đi cho toàn bộ chiến lược đối ngoại của Việt Nam.Sự đổi mới này là:”Sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lenin và vận dụng chủ nghĩa và kết hợp chủ nghĩa quốc tế chân chính với chủ nghĩa yêu nước trong sáng trong tình hình mới” ( nghị quyết 13, Đại hội Đảng VI). Tháng 1/1989, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam ông Nguyễn Văn Linh tuyên bố Cộng hòa Xã hộ Chủ nghĩa Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước ASEAN và các nước khác trong khu vực. Đến tháng 2/1989, Việt Nam tuyên bố sẵn sàng tham gia Hiệp ước hợp tác và thân thiện Bali. Ngày 31/10/1991, thứ trưởng Vũ Khoan nói tại Singapore:” Việt Nam muốn trở thành hội viên ASEAN. Sau khi ký hiệp định Pari Việt Nam hy vọng sẽ tham dự vào các cuộc đối thoại hàng năm giữa các bộ trưởng ngoại giao ASEAN. Phải mất một thời gian dài thì Việt Nam mới trở thành hội viên chính thức của ASEAN”4. Mặc dù từ 1986 – 1991, chúng ta đã tăng cường quan hệ nhiều mặt với các nước ASEAN nhưng Việt Nam chưa thể gia nhập ASEAN vào thời điểm này do vấn đề Campuchia vẫn chưa được giải quyết, giữa Việt Nam và ASEAN vẫn tồn tại một khoảng cách nhất định. Cuối năm 1991, vấn đề Campuchia được giải quyết triệt để, ta đã bình thường hóa hoàn toàn trong quan hệ với các nước ASEAN, mở ra cho ta cơ hội gia nhập vào tổ chức này. 3 Xem tập bài giảng môn chính sách đối ngoại Việt Nam II để có thông tin đầy đủ về đổi mới trong tư duy và chính sách tập hợp lực lượng. 4 Nguyễn Vũ Tùng, vấn đề thành viên ASEAN, tr210.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> 1.3 Giải quyết vấn đề Campuchia và khai thông quan hệ với các nước ASEAN Sau khi Việt Nam hoàn toàn giải phóng với chính sách bốn điểm của Đảng và nhà nước ta hoàn toàn có thể tham gia vào các quan hệ hợp tác với tất cả các nước có thiện chí khác. Tuy nhiên việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia làm nhiệm vụ quốc tế đã ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ của Việt Nam với các nước đặc biệt là ASEAN. Hầu hết các nước lớn điển hình như Mỹ, Trung Quốc… cũng đã dùng cớ trên để cô lập và làm đóng băng mối quan hệ với Việt Nam. Để thoát khỏi tình thế bị bao vây, cô lập về nhiều mặt đòi hỏi cấp bách Việt Nam phải giải quyết vấn đề Campuchia. Nghị quyết Đại hội VI đã nêu rõ: “ Chính phủ chúng ta chủ trương tiếp tục rút quân tình nguyện Việt Nam khỏi Campuchia, đồng thời sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên đi tới giải pháp chính trị đúng đắn về Campuchia.” Tháng 7/1982 đến ngày 26/09/1989 Việt Nam đã rút hoàn toàn quân tình nguyện của mình khỏi Campuchia trước thời hạn 1990. Đây là một trong những yếu tố tác động không nhỏ đến quan hệ của Việt Nam với các nước, là một trong những bằng chứng nhằm gỡ bỏ mối nghi ngại và “cái cớ” của các nước. Ngày 23/01/1986 hội nghị ngoại trưởng Việt Nam, Lào, Campuchia lần thứ mười hai đã nhóm họp tại Phnom Penh bàn về giải quyết mặt quốc tế của vấn đề Campuchia. Trong hội nghị đã đề cập rõ: “Thỏa thuận về rút quân tình nguyện Việt Nam đi đôi với việc chấm dứt sự can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia, tiến tới hòa bình và ổn định ở Đông Nam Á. Ngày 17/08/1986 Hội nghị Ngoại trường Việt Nam, Lào, Campuchia lần thứ mười ba khẳng định lại Việt Nam sẽ rút hết quân tình nguyện vào năm 1990”5. Đến ngày 23/10/1991 Hội nghị quốc tế về Campuchia(vòng thứ hai) có 19 nước tham dự, ký kết các hiệp định về một giải pháp chính trị toàn bộ về Campuchia là cơ sở để Việt Nam bình thường hóa quan hệ với ASEAN. Việc giải quyết triệt để vấn đề Campuchia có ý nghĩa to lớn trong việc thúc đẩy tiến trình bình thưởng hóa quan hệ của Việt Nam đối với nhiều quốc gia trên thế giới 5 Xem đại sử ký, tr 511.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> đồng thời làm “tan băng” quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN và là cơ sở cho việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN.. 1.3 Thành tựu chính sách đối ngoại đạt được Sau quá trình nỗ lực bình thường hóa quan hệ với ASEAN Việt Nam cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể. Trước hết đó là việc giải quyết triệt để vấn đề Campuchia. Ngày 23/10/1991 các văn kiện về giải pháp toàn bộ cho vấn đề Campuchia được kí kết, nó đánh dấu bước chuyển quan trọng “ Kể từ giai đoạn này các nước ASEAN tách dần khỏi lập trường của Trung Quốc về vấn đề Campuchia, vượt qua chính sách bao vây cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam để đi vào cải thiện quan hệ với Việt Nam- Đông Dương”. Thực tế để thực hiện chủ trương dùng phương pháp thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác. Việt Nam đã có những động thái tích cực nhằm nỗ lực gia nhập ASEAN. Ngày 29/07/1987 Việt Nam đã mời ngoại trưởng Indonesia sang thăm và ký thông cáo chung. Đó không chỉ góp phần vào việc cải thiện mối quan hệ song phương giữa hai nước mà còn là tiền đề cho sự phát triển ổn định cho khu vực. Ngày 24/10/1991 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt bắt đầu chuyến thăm ba nước ASEAN: Indonexia, Thái Lan, Singapore. Tại cuộc viếng thăm này Việt Nam đã kí kết được một số hiệp định về hợp tác về các mặt như nông nghiệp, dầu khí…. 2. Chính sách giai đoạn 1992-1995 Trong bối cảnh khu vực hóa, toàn cầu hóa Việt Nam cũng đã có những chính sách đối ngoại theo tinh thần “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Với phương châm trên Việt Nam càng tiến gần hơn đến tiến trình hội nhập ASEAN. Đặc biệt trong giai đoạn 1992-1995 Việt Nam đã có những bước đi đúng đắn để đẩy mạnh tiến trình gia nhập ASEAN và hội nhập kinh tế quốc tế..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> 2.1 Bối cảnh lịch sử 2.1.1 Bối cảnh thế giới Tình hình thế giới giai đoạn này có nhiều biến động. Sau khi Chủ nghĩa xã hội tan rã ở Đông Âu năm 1991 một cục diện thế giới mới được thiết lập. Trật tự thế giới mới – “trật tự thế giới đa cực” thay thế cho “trật tự thế giới hai cực” trước đây chính vì thế đã làm xuất hiện nhiều xu thế hợp tác và phát triển mới. Bên cạnh đó nhiều vấn đề toàn cầu nảy sinh và đòi hỏi sự chung tay của cả cộng đồng quốc tế. Ngoài ra xu thế liên kết khu vực, toàn cầu hóa càng ngày càng lan rộng và phát triển một cách nhanh chóng. Trong giai đoạn này lần lượt các tổ chức quốc tế lớn ra đời tạo tiền đề, cơ hội cho các nước mở rộng đa dạng hóa, đa phương hóa về mọi mặt, đặc biệt là kinh tế. Thế giới đang trên đà phát triển, khoa học công nghệ càng ngày càng thâm nhập vào đời sống kinh tế, chính trị xã hội của các quốc gia. Trong tiến trình phát triển ấy đòi hỏi các nước phải luôn đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức. 2..1.2Bối cảnh khu vực Ngày 23/10/1991 Hội nghị quốc tế Pari về Campuchia đã nhóm họp và giải quyết triệt để vấn đề Campuchia. Năm 1993 Mỹ cam kết rút khỏi hai căn cứ không quân ở Philippin điều này có tác động lớn đến tình hình Đông Nam Á. Một điều kiện mới rằng Đông Nam Á sẽ không có bất kỳ một căn cứ quân sự nào của quân đội nước ngoài hiện diện. Chính vì thế các nước trong khu vực có điều kiện thuận lợi để hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển.. 2.2 Đổi mới tư duy đối ngoại Việt Nam- ASEAN từ 1992-1995 Tại Đại hội Đảng VII: Nhấn mạnh phát triển quan hệ hữu nghị với Đông Nam Á và Châu Á –Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Ngày 15/10/1993 Đồng chí Đỗ Mười đã đưa ra chính sách bốn điểm6: 6 Xem Vấn đề thành viên ASEAN, tập bài giảng chính sách đối ngoại Việt Nam II, tr 213.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> i.. Chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa.. ii.. Phát triển quan hệ với từng nước và tổ chức ASEAN, sẵn sàng gia nhập ASEAN.. iii.. Sẵn sàng tham gia các diễn đàn đảm bảo hòa bình, an ninh, xây dựng khu vực Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, hợp tác, phát triển, không có căn cứ quân sự nước ngoài, không có vũ khí hạt nhân.. iv.. Thông qua thương lượng giải quyết vấn đề tồn tại, kể cả tranh chấp biển Đông.. Đại hội Đảng VIII cũng đã đề cập: “ Ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN.”. 2.3 Thành tựu đạt được trong triển khai chính sách đối ngoại Ngày 24/01/1992 Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm thăm Campuchia theo lời của chủ tịch Hội đồng Dân tộc tối cao Campuchia Xihanuc, ký thông cáo chung về củng cố qua hệ giữa hai nước. Liên tiếp trong tháng 2/ 1992 chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ông Võ Văn Kiệt đã có chuyến đến thăm Lào, Philippin và Brunei. Hội nghị cấp cao lần thứ tư tại singapore thể hiện bước chuyển mới về chính sách đối ngoại của các nước ASEAN đối với Việt Nam. Hội nghị chính thức bày tỏ thái độ hoan nghênh Việt Nam ký hiệp ước Bali, mở đường cho quá trình Việt Nam tham gia ASEAN. Và tính đến cuối năm 1992 Việt Nam đã ký với các nước ASEAN gần 40 hiệp định về kinh tế. Năm 1994 quan hệ giữa Việt Nam với ASEAN càng được phát triển nâng cao và dần đi mở rộng cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Đặc biệt vào tháng hai năm 1994 đã diễn ra nhiều chuyến viếng thăm hữu nghị của các nguyên thủ quốc gia Việt Nam- ASEAN như 02/03/1994 thủ tướng Singapore sang thăm Việt Nam, ngày 30/03/1994 tổng thống philipin sang thăm Việt Nam. Những chuyến viếng thăm kể trên đã gọp phần không nhỏ tạo dựng mối quan hệ ngày càng tốt đẹp hơn giữa Việt Nam với các nước trong khu vực. 2.4 Ý nghĩa của việc Việt Nam gia nhập ASEAN năm 1995.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Ngày 28/07/1995 Việt Nam gia nhập ASEAN. Đây cũng chính là mốc thời gian đánh dấu bước phát triển vượt bậc trong mối quan hệ giữa Việt Nam với ASEAN. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN sẽ mang lại cho Việt Nam một môi trường hòa bình, ổn định và giúp Việt Nam dễ dàng hòa nhập với cộng đồng quốc tế nói chung và khu vực nói riêng. “Rõ ràng là trong hoàn cảnh hiện tại chỉ có sức mạnh quân sự không thôi thì chưa đủ để bảo đảm vững chắc chủ quyền và an ninh quốc gia, cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ, mà cần có một sức mạnh tổng hợp hay là sức mạnh tổng lực bao gồm cả sức mạnh về chính trị, sự phát triển về kinh tế, sự ổn định về xã hội. thậm chí là bản sắc văn hóa”7. Theo xu thế chung của thời đại Việt Nam hoàn toàn có cơ hội chứng minh cho cả thế giới biết rằng: “ Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới”. ASEAN sẽ là bước khởi điểm cũng chính là cánh cửa mở ra tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam. Theo hiến chương ASEAN, khi Việt Nam gia nhập vào tổ chức này, Việt Nam đã cam kết giữ gìn ổn định ở Đông Nam Á, giải quyết tránh chấp thông qua thương lượng hòa bình là nhân tố hết sức thuận lợi cho Việt Nam trong công cuộc đấu tranh bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, an ninh quốc gia, tập trung nguồn lực vào phát triển kinh tế và xây dựng đất nước. Hơn thế nữa nó còn có tác động xóa bỏ những mối nghi ngại đã tồn tại cố hữu trong tư tưởng của các nước đối với Việt Nam từ trước đó. Khi trở thành một thành viên chính thức của ASEAN Việt Nam sẽ có quyền lợi như các nước khác trong tổ chức và sẽ mở đầu cho những cơ hội mà sau năm 1995 Việt Nam có được như năm 2010 Việt Nam là chủ tịch ASEAN… Năm 1995 có thể được coi là một năm đầy thành công của Việt Nam. Ghi dấu nhiều sự kiện có ý nghĩa quan trọng như Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Mỹ, … đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập ASEAN. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta có quan hệ bình thường với tất cả các nước lớn. Tạo cho ta môi trường tương đối hòa bình để phát triển kinh tế. CHƯƠNG III: ĐÁNH GIÁ 7 Tạp chí nghiên cứu quốc tế, tháng 12/1993.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> 1. Đánh giá chính sách đối ngoại Việt Nam giai đoạn 1986-1991 Có thể nói về cơ bản Việt Nam đã giải quyết hoàn toàn vấn đề Campuchia mà vẫn giữ được thành quả của cách mạng Campuchia. Cũng nhờ thành quả trên mà Việt Nam đã mở ra một con đường mới cho công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế, “đa dạng hóa”, “đa phương hóa”. Xóa bỏ những nghi ngờ và đồng thời góp phần đưa Việt Nam thoát khỏi thế bị bao vây, cấm vận. Tất cả những thành quả đáng kể trên là nhờ công lớn của Đảng và nhà nước trong việc hoạch định chính sách và đưa ra những chính sách kịp thời, phù hợp với nhu cầu và xu thế chung của thời đại.Không chỉ dừng lại ở đó mà những chủ trương, chính sách đối ngoại giai đoạn này còn đem lại những bài học kinh nghiệm đắt giá cho những giai đoạn tiếp theo. 2. Đánh giá chính sách đối ngoại Việt Nam giai đoạn 1992-1995 Đây được coi là giai đoạn bước ngoặt trong lịch sử nước nhà. Đặc biệt là mốc thời gian 1995 khi Việt Nam gia nhập vào ASEAN. Năm 1995 là năm mở ra một thời kỳ hội nhập, thời kỳ mà Việt Nam có quan hệ bình thường với tất cả các quốc gia. Sánh vai cùng các bạn bè trong khu vực Đông Nam Á nói riêng và đặt dấu ấn của đất nước trên trường quốc tế nói chung. 3. Đánh giá chung chính sách đối ngoại Việt Nam từ năm 1986-1995 Trong gần mười năm đầu sau quá trình bắt đầu đổi mới tư duy đối ngoại Việt Nam về cơ bản đã thành công bước đầu trong tiến trình hội nhập quốc tế. Xóa bỏ được những rào cản ngự trị trong suốt nhiều năm qua. Đây là một trong những giai đoạn tiên quyết và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho thế hệ các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách bây giờ và cả sau này nghiên cứu và tận dụng một cách có khoa học những thành quả trên. Đây là giai đoạn mở đầu cho một kỷ nguyên mới - “kỷ nguyên hội nhập”. TỔNG KẾT Chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN giai đoạn 1986-1995 chủ yếu xoay quanh việc giải quyết các vấn đề tồn tại trong mối quan hệ của Việt Nam với ASEAN đồng thời thể hiện rõ nét quan điểm muốn “hòa nhập” của Việt Nam ra trường quốc tế. Việc mở rộng quan hệ và tăng cường hợp tác về nhiều mặt là chủ trương đúng.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> đắn và phù hợp với thực tiễn của Đảng ta nhằm nhận được sự ủng hộ giúp đỡ của nhiều nước và tạo môi trường thuận lợi cho nhu cầu phát triển của Việt Nam. Gia đoạn này thể hiện rõ nét những lập trường chính trị và thay đổi sáng suốt về tư duy đối ngoại của Việt Nam trong những năm đầu của quá trình đổi mới đất nước. Tuy gặp nhiều khó khăn song Việt Nam đã từng bước giải quyết và tháo gỡ các vấn đề then chốt và bước đầu mang lại những thành công rực rỡ tiêu biểu là việc Việt Nam sớm gia nhập ASEAN – một trong những tổ chức có sức ảnh hưởng lớn đối với không chỉ trong khu vực mà còn trên toàn thế giới. Điều này đã góp phần không nhỏ nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đưa Việt Nam tiến gần hơn với nhịp độ phát triển nhanh, mạnh và liên tục của các nước bạn bè trong và ngoài khu vực. Song song với những cơ hội phát triển và tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp với các quốc gia trong ASEAN nói riêng và thế giới nói chung Việt Nam cũng đứng trước nhiều thách thức lớn khi gia nhập vào tổ chức này. Một số thử thách lớn cần đề cập đến như: (i) nguy cơ tụt hậu; (ii) năng lực cạnh tranh của Việt Nam so với các nước còn thấp; (iii) trình độ lao động Việt Nam còn thấp… Chính những thành tựu và những thách thức cần đặt ra trên Đảng và nhà nước đã đúc rút được ra cho mình những kinh nghiệm và bài học quý giá cho những gia đoạn tiếp theo. Đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập thêm những tổ chức mới.. DANH MỤC VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu lấy từ sách: 1. Đinh Xuân Lý(2002), quá trình Việt Nam hội nhập khu vực Châu Á- Thái Bình Dương theo đường lối đổi mới của Đảng, chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Nguyễn Đình Bin( 2002), Ngoại giao Việt Nam 1945-2000, nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. Nguyễn Vũ Tùng(2006), chính sách đối ngoại Tập II 1975-2006, tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy, nxb thế giới..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> 4. Nguyễn Anh Thái(1996), lịch sử thế giới hiện đại 1945-1995(quyển A), đại học quốc gia, Hà Nội. 5. Vũ Dương Huân(2002), Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới 1975-2002, chính trị quốc gia, Hà Nội. Tài liệu tạp chí khoa học chuyên nghành: 1. Dương Văn Quảng (2010), Bàn về vấn đề phân tích chính sách đối ngoại, tạp chí nghiên cứu quốc tế, số 04/12-2010. 2. Vũ Dương Huân(2007), Về vấn đề đổi mới tư duy trong hoạt động đối ngoại của Việt Nam, tạp chí nghiên cứu quốc tế, số 1(68), tháng 3/2007. Tài liệu lấy từ internet: 1. Hiệp hội các nước Đông Nam Á. Ngày cập nhật: 15/11/2013. Được lấy từ: %C3%A1c_qu%E1%BB%91c_gia_%C4%90%C3%B4ng_Nam_%C3%81 2. Tuyên bố Băng Cốc . Ngày cập nhật: 15/11/2013. Được lấy từ: 311141455/nr090311143142/ns090811160801 3.Văn kiện Đại hội Đảng VII. Ngày cập nhật: 16/11/2013. Được lấy từ: am/ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang? categoryId=10000716&articleId=10038382 PHỤ LỤC.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Bản đồ thể hiện chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN (1986-1995).

<span class='text_page_counter'>(17)</span>

×