Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Chính sách, pháp luật của Việt Nam đối với các trường hợp người hai hay nhiều quốc tịch và người không có quốc tịch

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.19 KB, 8 trang )

Lời nói đầu
Ngày nay, khi con người đã trở thành trung tâm của mọi sự phấn đấu, mọi hoạt động
của Nhà nước thì các quyền và nghĩa vụ của công dân ngày càng được mở rộng cùng
với sự phát triển về mọi mặt của xã hội. Để xác định được quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân, trước hết phải xác định quốc tịch của họ. Chỉ trên cơ sở xác định được
quốc tịch của một cá nhân mới có thể được xác định được rõ ràng, đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ công dân của họ. Giữa người là công dân với những người không phải là công
dân của nhà nước có sự khác nhau căn bản về quyền và nghĩa vụ. Đặc trưng của quốc
tịch là người có quốc tịch của một nhà nước thì được hưởng các quyền và phải thực
hiện các nghĩa vụ do pháp luật quy định đồng thời phải chịu sự chi phối và quản lý về
mọi mặt của nhà nước. Tuy nhiên, không phải bất kỳ ai sống trên lãnh thổ một quốc gia
cũng đều là công dân của nhà nước đó, họ có thể mang quốc tịch của nhiều quốc gia
cũng có khi họ không có quốc tịch. Bất kỳ một quốc gia nào cũng tồn tại tình trạng này,
ở Việt Nam cũng vậy. Vậy chính sách, pháp luật của Việt Nam và thực tiễn giải quyết
của Việt Nam đối với trường hợp người hai hay nhiều quốc tịch và người không quốc
tịch thể hiện như thế nào?
I. Khát quát:
1. Khái niệm quốc tịch:
Từ phương diện pháp lý hiện đại, quốc tịch là mối quan hệ pháp lý hai chiều, được
xác lập giữa cá nhân với một quốc gia nhất định, có nội dung là tổng thể các quyền và
nghĩa vụ của người đó và quốc gia mà họ là công dân.
2. Người hai hay nhiều quốc tịch:
Hai hay nhiều quốc tịch là tình trạng pháp lý của một người cùng một lúc là công
dân của hai hay nhiều quốc gia.
Trong pháp luật quốc tế, hiện tượng một người đồng thời mang quốc tịch của hai
hay nhiều quốc gia được gọi là người mang nhiều quốc tịch (Bipatride; pluripatride).
Đây là hiện tượng thường gặp trong thực tiễn đời sống quốc tế và tồn tại khách quan,
không phụ thuộc vào ý chí của bất ký nhà nước nào.
3. Người không có quốc tịch:
Người không quốc tịch là tình trạng pháp lý của một cá nhân không có quốc tịch của
một nước nào đó. Theo quan niệm quốc tế, tình trạng không quốc tịch có hai dạng


chính: Người không quốc tịch theo luật (du jure) nghĩa là một người không xin được
xác nhận quốc tịch hoặc không được coi là công dân của một nước theo quy định của
luật pháp nước đó và người không quốc tịch từ thực tế (de factor) nghĩa là một người
không thể có bất cứ giấy tờ gì để chứng minh quốc tịch của mình.
1
II. Chính sách, pháp luật của Việt Nam đối với các trường hợp người hai hay
nhiều quốc tịch và người không có quốc tịch:
1. Chính sách, pháp luật của Việt Nam đối với các trường hợp người hai hay
nhiều quốc tịch:
Lịch sử hình thành và phát triển của Nhà nước Việt Nam nói chung hay của các
cộng đồng dân cư Việt Nam nói riêng cho thấy các tộc người (dân tộc) cùng sinh sống
trên lãnh thổ Việt Nam đều có chung một nguồn gốc lịch sử, truyền thống văn hóa,
phong tục, tập quán. Nhà nước Việt Nam thống nhất. Do đó pháp luật và thực tiễn của
lịch sử Việt Nam nhất là từ năm 1945 đến nay đều cho thấy mặc dù có những thời kỳ
lãnh thổ Việt Nam bị chia cắt nhưng ở cả hai, ba miền Việt Nam chỉ có một Quốc tịch
Việt Nam duy nhất. Như vậy chính sách một quốc tịch Việt Nam được coi là cơ bản,
xuyên suốt hệ thống pháp luật Việt Nam về quốc tịch từ trước đến nay nhưng chính
sách này lại được thực hiện khác nhau qua mỗi thời kỳ.
Một bộ phận khá lớn người Việt Nam định cư ở nước ngoài vừa có quốc tịch Việt
Nam vừa có quốc tịch nước ngoài đã gây ra tình trạng tranh chấp giữa nhà nước ta với
nước ngoài trong việc bảo hộ công dân. Trong khi đó đại diện của nước ngoài tại Việt
Nam lại rất quyết liệt trong việc thực hiện bảo hộ công dân của họ đồng thời có quốc
tịch Việt Nam. Bên cạnh đó trong thời gian gần đây, với chính sách mở cửa đã có rất
nhiều người Việt Nam định cư ở nước ngoài có hai quốc tịch về Việt Nam đầu tư, làm
ăn sinh sống nhưng rất khó xác định họ thực hiện các hoạt động ở Việt Nam với tư cách
công dân nước nào. Do Luật Quốc tịch Việt Nam 1998 thiếu cơ chế và chưa phản ánh
đúng tình trạng quốc tịch của một bộ phận người Việt nam ở nước ngoài nên đã để lại
nhiều bất cập, hạn chế, Điều 2 Luật Quốc tịch 1998 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt
Nam”. Để khắc phục tình trạng nêu trên Luật Quốc tịch năm 2008 tại Điều 4 đã quy

định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có
một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”.
Như vậy Luật Quốc tịch 2008 có quy định một số ngoại lệ công dân có thể có hai
quốc tịch đó là các trường hợp : được Chủ tịch nước cho phép giữ quốc tịch nước ngoài
khi được nhập quốc tịch Việt Nam (khoản 3 Điều 19), được trở lại quốc tịch Việt Nam
(khoản 5 Điều 23); trường hợp quốc tịch của trẻ em là con nuôi (Điều 37) và trường hợp
người Việt Nam định cư ở nước ngoài đã nhập quốc tịch nước ngoài nhưng vẫn có
nguyện vọng giữ quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Điều 13). Điều 12 Luật Quốc tịch năm
2008 đã quy định cụ thể “vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có
quốc tịch nước ngoài được giải quyết theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là thành viên, trường hợp chưa có điều ước quốc tế thì được giải quyết
theo tập quán và thông lệ quốc tế”. Tại khoản 2 Điều 760 BLDS năm 2005 cũng quy
định: “Trong trường hợp Bộ luật này hoặc các văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật của nước mà người nước
2
ngoài là công dân thì pháp luật áp dụng đối với người nước ngoài có hai hay nhiều quốc
tịch nước ngoài là pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và cư trú vào thời điểm
phát sinh quan hệ dân sự; nếu người đó không cư trú tại một trong các nước mà người
đó có quốc tịch thì áp dụng pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và có quan hệ
gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân”. Theo quy định trên có hai căn cứ áp dụng
pháp luật điều chỉnh quan hệ pháp luật dân sự mà người có hai hay nhiều quốc tịch
tham gia là: áp dụng pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và cư trú vào thời
điểm phát sinh quan hệ dân sự; áp dụng pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch
và có mối quan hệ gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân.
Căn cứ áp dụng pháp luật đối với người nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch nước
ngoài còn được quy định trong Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Theo quy định tại điểm b khoản 1
Điều 80 của nghị định này thì giấy tờ sử dụng trong việc đăng ký kết hôn, nhận cha, mẹ,
con, con nuôi đối với người có hai hay nhiều quốc tịch là “ Giấy tờ do cơ quan có thẩm

quyền của nước mà người đó có quốc tịch đồng thời thường trú cấp; nếu người đó không
thường trú tại một trong các nước có quốc tịch thì giấy tờ đó do cơ quan có thẩm quyền
của nước mà người đó mang hộ chiếu”. Khi xem xét các loại giấy tờ mà người nước
ngoài xuất trình trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam để đăng ký kết hôn, nhận
cha, mẹ, con, con nuôi có yếu tố nước ngoài thì cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam
sẽ phải căn cứ vào pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch đồng thời thường trú
hoặc pháp luật của nước mà người đó mang hộ chiếu (nếu người đó không thường trú
tại một trong các nước có quốc tịch). Như vậy việc xác định luật áp dụng đối với người
hai hay nhiều quốc tịch theo quy định của pháp luật Việt Nam cơ bản phù hợp với pháp
luật nhiều nước và các điều ước quốc tế hữu quan.
2. Chính sách, pháp luật của Việt Nam đối với các trường hợp người không
quốc tịch:
Người không quốc tịch không phải thực hiện nghĩa vụ công dân đối với quốc gia nào
nhưng họ lại gặp bất lợi lớn, đó là khi cư trú ở nước sở tại thì địa vị pháp lý của người
không quốc tịch rất thấp và bị hạn chế so với công dân nước sở tại và người có quốc
tịch nước ngoài. Họ không được hưởng các quyền mà các bộ phận khác của dân cư
được hưởng trên cơ sở điều ước quốc tế giữa các quốc gia hữu quan, họ không được
hưởng sự bảo hộ ngoại giao của bất kỳ nước nào. Hiện nay, sự phát triển của các mối
giao lưu dân sự quốc tế, các quan hệ dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình… có yếu tố
nước ngoài ngày càng phát sinh nhiều và chủ thể tham gia vào các quan hệ ngày càng
đa dạng. Khi chủ thể tham gia vào các quan hệ dân sự là người không quốc tịch thì các
cơ quan có thẩm quyền phải dựa vào những căn cứ nhất định để luật áp dụng chính xác
đối với họ. Tuy nhiên điều này là rất khó vì điều này còn phải dựa vào nhiều yếu tố
3
khác nhau như: chủ thể áp dụng, lĩnh vực mà người không quốc tịch tham gia và luật
điều chỉnh lĩnh vực đó…
Thực tế hiện nay số người không có quốc tịch cũng như không rõ quốc tịch cư chú
làm ăn sinh sống ổn định lâu năm trên lãnh thổ Việt Nam là tương đối nhiều. Tuy nhiên
để giải quyết quốc tịch cho họ lại gặp phải rất nhiều khó khăn, nhiều trường hợp không
thể giải quyết được mà lý do cơ bản là họ không có giấy tờ tùy thân để xác định tình

trạng quốc tịch. Việc không giải quyết được việc nhập quốc tịch Việt Nam cho họ
không chỉ gây khó khăn cho cuộc sống của họ mà còn làm phức tạp thêm trong công tác
quản lý. Để khắc phục điều đó, Điều 22 Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 quy định:
“Người không có quốc tịch mà không có giấy tờ đầy đủ về nhân thân nhưng đã cư trí ổn
định trên lãnh thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên tính đến ngày luật này có hiệu lực thi
hành, và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam và
hồ sơ do chính phủ quản lý.” Việc bổ sung quy định này nhằm cam kết thực thi hiệu quả
hơn các điều ước quốc tế như Công ước Viên 1969; Công ước về quyền Dân sự và
Chính trị năm 1966; đặc biệt là Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền tại Điều 15 đã quy
định: “Ai cũng có quyền có quốc tịch, không ai có quyền tước quốc tịch, hay tước
quyền quốc tịch một cách độc đoán”.
Ở Việt Nam trong những năm qua nhằm tạo điều kiện cho người không có quốc tịch
có thể xác lập quốc tịch Việt Nam hoặc nhập quốc tịch của một nước khác, góp phần
đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của người không có quốc tịch. Các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản nhằm giải quyết vấn đề người không quốc
tịch như: Bộ luật dân sự năm 2005; nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 quy
định chi tiết hướng dẫn thi hành Bộ luật dân sự; ngày 13/11/2008, Quốc tịch nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi) có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2009,
theo đó có một số điều quy định liên quan đến việc giải quyết việc nhập quốc tịch Việt
Nam của những người không có quốc tịch theo hướng đơn giản thủ tục, tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân có cuộc sống ổn định, hòa nhập tốt với cộng đồng xã hội Việt
Nam, nhanh chóng ổn định cuộc sống, được hưởng đầy đủ quyền công dân và có điều
kiện để làm nghĩa vụ của họ đối với Tổ quốc Việt Nam. Ngoài ra, ngày 04/12/2007,
Văn phòng Chính phủ có công văn số 1221/VPCP-NC thông báo ý kiến chỉ đạo của
Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đồng ý với đề nghị của Bộ ngoại giao về việc đẩy
nhanh giải quyết nhập quốc tịch Việt Nam cho người Campuchia lánh nạn trước đây.
Và ngày 20/10/2008, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị số 31/2008/CT-TTg về
việc giải quyết tình trạng di cư tự do, vượt biên trái phép và kết hôn không giá thú ở
khu vực biên giới với Lào…
Căn cứ áp dụng pháp luật đối với người không quốc tịch được quy định tại Khoản 1

Điều 760 Bộ luật dân sự năm 2005 như sau: “Trong trường hợp Bộ luật này hoặc các
văn bản pháp luật khác của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dẫn chiếu đến việc áp
dụng pháp luật của nước mà người nước ngoài là công dân thì pháp luật áp dụng đối với
4
người không quốc tịch là pháp luật của nước nơi người đó cư trú; nếu người đó không
có nơi cư trú thì áp dụng pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Vấn đề người không quốc tịch còn được quy định tại Luật quốc tịch Việt Nan năm
2008. Điều 8 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam tạo điều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quốc
tịch và những người không có quốc tịch thường trú ở Việt Nam được nhập quốc tịch ở
Việt Nam theo quy định của luật này”. Điều 9 Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 cũng
đã có quy định về điều kiện, thủ tục nhập quốc tịch cho người không có quốc tịch đang
thường trú tại Việt Nam có thể nhập quốc tịch Việt Nam. Ngoài ra cũng theo quy định
tại điều này thì còn có những quy định đặc biệt, giảm bớt các điều kiện đối với một số
trường hợp người không có quốc tịch đang thường trú tại Việt Nam nều họ muốn nhập
quốc tịch Việt Nam. Từ những quy định trên cho ta thấy chính sách, pháp luật của Việt
Nam đã có sự mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho người không có quốc tịch có thể
nhập quốc tịch Việt Nam.
III. Thực tiễn giải quyết của Việt Nam đối với các trường hợp người hai hay
nhiều quốc tịch và người không quốc tịch:
1. Thực tiễn giải quyết của Việt Nam đối với các trường hợp người hai hay
nhiều quốc tịch:
Sau khi Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008 được ban hành với chính sách một
quốc tịch mềm dẻo thì từ ngày 1/7/2009, người Việt Nam đã nhập quốc tịch nước
ngoài nhưng vẫn mong muốn được trở thành công dân Việt Nam được trở thành công
dân Việt Nam được đáp ứng. Đây được coi là một trong những điểm mới của Luật
Quốc tịch Việt Nam năm 2008 so với Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998. Việc cho
phép có hai quốc tịch không có nghĩa là từ bỏ nguyên tắc một quốc tịch của Việt Nam
mà chỉ là sửa đổi cho nguyên tắc mền dẻo và linh hoạt hơn. Tuy nhiên việc có hai quốc
tịch chỉ áp dụng với một số ngoại lệ gồm: người được chủ tịch nước cho phép, trường

hợp xin trở lại quốc tịch Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài và đã nhập
quốc tịch nước ngoài nhưng vẫn muốn nhập quốc tịch Việt Nam; trẻ em là con nuôi.
Luật quốc tịch cũng cho phép người có vợ chồng, cha mẹ đẻ, con đẻ là công dân VIệt
Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam. Chính sách trên cũng áp dụng đối với trường
hợp có công lao đặc biệt đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hay có
lợi cho nhà nước Việt Nam.
Trường hợp nếu không thuộc những diện trên thì công dân nước ngoài, người
không quốc tịch đang thường trú ở Việt Nam muốn trở thành công dân Việt Nam phải
có các điều kiện sau: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; biết Tiếng Việt để có thể hòa
nhập vào cộng đồng; thường trú từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch,
và có khả năng đảm bảo cuộc sống ở Việt Nam...
5

×