Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Gian lận thuế GTGT trong các doanh nghiệp thương mại ở VN.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (527.59 KB, 100 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đối với bất kỳ một quốc gia nào thì thuế cũng đóng một vai trò hết sức quan
trọng và chiếm phần lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Việc thực thi một số
chính sách thuế có hiệu quả sẽ đảm bảo ổn định cho nguồn thu này và từ đó tạo điều
kiện để mở rộng sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, đất nước. ở Việt Nam theo
thống kê của Tổng cục thuế thì 92% ngân sách Nhà nước là thu từ thuế nên cần phải
có phương pháp tính hợp lý nhằm đảm bảo sự công bằng cho các đối tượng nộp
thuế kết hợp với việc hạch toán thuế tại các doanh nghiệp phải theo đúng chế độ kế
toán, tài chính và quy định của pháp luật.
Thực trạng tình hình thực hiện Luật thuế GTGT ở nước ta sau hơn 4 năm áp
dụng cho thấy các vụ gian lận trong thuế GTGT ngày càng nhiều, các hình thức
ngày càng tinh vi hơn cho thấy vấn đề gian lận thuế GTGT đã trở nên vô cùng nguy
hiểm và đáng báo động cho toàn xã hội. Chỉ riêng trong hoàn thuế thì năm 1999
phát hiện 3 vụ gian lận thuế GTGT, năm 2000 phát hiện 17 vụ, năm 2001 phát hiện
64 vụ và từ đầu năm 2002 đến khoảng tháng 6 năm 2002 đã phát hiện 63 vụ, nâng
tổng số tiền hoàn thuế GTGT bị chiếm đoạt lên 500 tỷ đồng từ năm 1999 các vụ về
mua bán hoá đơn hay làm sai lệch giá trên hoá đơn không hề có xu hướng giảm sút.
Tình trạng này làm đau đầu các nhà quản lý nói riêng và xã hội nói chung, có những
kẻ đã lợi dụng những kẽ hở trong luật và trong quản lý của nhà nước ta để bòn rút
tiền từ ngân sách nhà nước và đút túi cá nhân mình.
Nảy sinh từ các vấn đề đã được nêu ở trên thì sự cần thiết trong việc nghiên
cứu các mặt trái của thuế GTGT và đưa ra các biện pháp để giảm tối đa những vấn
đề đó là hết sức cần thiết. Xuất phát từ những điều đó em đã mạnh dạn tham gia
nghiên cứu đề tài “Gian lận thuế GTGT trong các doanh nghiệp thương mại ở Việt
Nam hiện nay và biện pháp phòng ngừa”.
Cụ thể bài viết gồm những nội dung chủ yếu sau:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về thuế GTGT trong kinh doanh
Chương II: Thực trạng gian lận thuế GTGT ở Việt Nam
Chương III: Một số biện pháp chống gian lận thuế GTGT ở Việt Nam
Trang 1
CHƯƠNG I


MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THUẾ GTGT TRONG KINH DOANH
I. VAI TRÒ CỦA THUẾ GTGT TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP THƯƠNG MẠI
1. Doanh nghiệp thương mại và nghĩa vụ thuế GTGT
Thương mại là quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường, là lĩnh
vực phân phối và lưu thông hàng hoá. Nếu hoạt động trao đổi hàng hoá (kinh doanh
hàng hóa) vượt ra khỏi biên giới quốc gia thì người ta gọi nó là ngoại thương (kinh
doanh quốc tế). Theo luật thương mại thì các hành vi thương mại bao gồm: Mua bán
hàng hoá, đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ thác mua bán hàng
hoá, đại lý mua bán hàng hoá, gia công thương mại, đấu giá hàng hoá, đấu thầu hàng
hoá dịch vụ giao nhận hàng hoá, dịch vụ giám định hàng hoá, khuyến mại, quảng
cáo thương mại, trưng bày giới thiệu hàng hoá và hội trợ triển lãm thương mại.
Doanh nghiệp thương mại: là các tổ chức kinh tế được hình thành hợp pháp
hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, buôn bán hàng hoá.
Đối với doanh nghiệp thương mại nói riêng và các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh nói chung khi đăng ký thành lập và đi vào hoạt động đều phải chịu nghĩa
vụ thuế GTGT đối với Nhà nước.
Sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT là sự ra đời, thay đổi
hoặc chấm dứt của chủ thể kinh doanh. Thời điểm phát sinh nghĩa vụ này được xác
định kể từ ngày đối tượng nộp thuế được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Việc đăng ký thuế phải tuân theo những quy trình thủ tục nhất định gọi là quy trình
đăng ký thuế.Kết quả của đăng ký thuế la mỗi đối tượng nộp thuế được cấp một mã
số thuế. Kể từ ngày được cấp mã số thuế, cả đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế đều
phải có trách nhiệm sử dụng mã số thuế. Đối tượng nộp thuế phải sử dụng mã số
thuế để thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ khác có liên quan đến thuế vì vậy
phải ghi mã số thuế trên mọi giấy tờ giao dịch, hợp đồng, hoá đơn…., chứng từ mua
bán hàng hoá, dịch vụ, sổ sách kế toán, tờ khai thuế, chứng từ nộp thuế.
Trang 2
Nộp thuế GTGT là việc người cung cấp hàng hoá, dịch vụ chuyển số thuế đã
thu hộ nhà nước do người tiêu dùng trả thông qua cơ chế giá khi mua hàng hoá, dịch

vụ thuộc diện chịu thuế GTGT vào kho bạc nhà nước. Đây là nghĩa vụ cơ bản của
đối tượng nộp thuế.
Với cơ chế tự đăng ký, tự kê khai, tự tính và nộp thuế thì việc quyết toán thuế
hàng năm của cơ sở kinh doanh với cơ quan thuế là hết sức cần thiết. Nghĩa vụ
quyết toán thuế phải được quy định một cách chặt chẽ nhằm xác định đầy đủ, chính
xác số thuế mà cơ sở kinh doanh thu hộ nhà nước để chuyển vào ngân sách nhà
nước một cách kịp thời nhằm tránh hiện tượng chiếm giữ số thuế GTGT thu hộ nhà
nước để phục vụ lợi ích riêng cuả mình.
2.Vai trò của thuế GTGT đối với các DNTM.
Qua những năm triển khai và thực hiện Luật thuế GTGT đã đem lại một số
thành tựu đáng kể. Cụ thể góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông
hàng hoá và đẩy mạnh xuất khẩu. Thuế GTGT góp phần khuyến khích xuất khẩu và
bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp lại cơ cấu kinh tế. Theo qui định của Luật thuế
GTGT hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% tức là được hoàn toàn bộ số
thuế GTGT đã nộp ở đầu vào, việc hoàn thuế GTGT đầu vào thực chất là nhà nước
trợ giá cho hàng xuất khẩu nên đã giúp doanh nghiệp tập trung được nguồn hàng để
xuất khẩu và có điều kiện cạnh tranh với hàng hoá trên thị trường quốc tế. Trong
năm 1999 số tiền được hoàn tăng vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu khoảng 2.700
tỷ đồng; năm 2000 là 5.000 tỷ đồng. Vì vậy, trong điều kiện thị trường xuất khẩu bị
hạn chế, giá xuất khẩu giảm nhưng tổng giá trị xuất khẩu của nước ta vẫn tăng so
với năm 1998 là 23.18%; năm 2000 tăng 21.3%. Ngoài việc được hoàn thuế GTGT,
các dự án đầu tư có giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt trên 30% tổng giá trị hàng hoá
còn được ưu đãi hưởng thuế suất thuế TNDN 25%; nếu có giá trị hàng hoá xuất
khẩu trên 50% tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu được miễn thuế thu nhập bổ sung đã
tạo điều kiện thuận lợi về vốn cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu. Luật thuế
GTGT khuyến khích việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu và xuất khẩu thay vì luật thuế
cũ khuyến khích sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, đặc biệt luật thuế GTGT đã
Trang 3
khuyến khích sản xuất, kinh doanh những mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh:
nông sản, lâm sản, hải sản, thủ công mỹ nghệ.

Đặc biệt luật thuế GTGT góp phần đến công tác quản lý của doanh nghiệp
tạo điều kiện cho cơ quan Nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp, tăng cường công tác hạch toán, kế toán và thúc đẩy việc mua bán
hoá đơn GTGT ở các doanh nghiệp. Do yêu cầu của việc kê khai thuế GTGT, khấu
trừ thuế GTGT đầu vào, tính đúng thu nhập của doanh nghiệp nên những người làm
công tác quản lý kinh doanh đã bắt đầu trú trọng đến công tác mở sổ kế toán, ghi
chép, quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. Thông qua việc chấp hành công tác kế
toán, hoá đơn chứng từ của các doanh nghiệp, qua việc kê khai thuế, hoàn thuế,
quyết toán thuế đã giúp cơ quan chức năng và cơ quan thuế từng bước nắm được
tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ THUẾ GTGT
Để góp phần thúc đẩy sản xuất, mở rộng lưu thông hàng hoá, dịch vụ khuyến
khích phát triển nền KTQD, động viên 1 phần thu nhập của người tiêu dùng vào
ngân sách Nhà nước. Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, luật này quy định thuế GTGT
Nội dung về thuế GTGT bao gồm:
1. Đối tượng nộp thuế và chịu thuế GTGT.
Điều 1. Thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá,
dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Điều 2. Đối tượng chịu thuế
Hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là
đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng, trừ các đối tượng quy định tại Điều 4 của luật
này.
Điều 3. Đối tượng nộp thuế
Trang 4
Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế (gọi
chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế
(gọi chung là người nhập khẩu) là đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng.
Điều 4. Đối tượng không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng

Hàng hoá, dịch vụ dưới đây không thuộc diệ chịu thuế giá trị gia tăng:
Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản chưa chế biến thành các sản
phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của các tổ chức, cá nhân tự sản xuất
và bán ra.
Sản phẩm muối
Hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt không phải nộp thuế giá trị
gia tăng ở khâu đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong nước chưa sản
xuất được mà cơ sở có dự án đầu tư nhập khẩu để làm tài sản cố định theo dự án đó.
Chuyển quyền sử dụng đất thuộc diện chịu thuế chuyển quyền sử dụng đất.
Nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước do Nhà nước bán cho người đang thuê.
Dịch vụ tín dụng, quỹ đầu tư
Bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm vật nuôi, cây trồng và các loại bảo
hiểm không nhằm mục đích kinh doanh.
Dịch vụ y tế.
Hoạt động văn hoá, triển lãm và thể dục thể thao không nhằm mục đích kinh doanh,
biểu diễn nghệ thuật, sản xuất phim, phát hành và chiếu phim nhựa, phim video tài
liệu.
Dạy học, dạy nghề
Phát sóng truyền thanh, truyền hình theo chương trình bằng nguồn vốn ngân sách
Nhà nước
In, xuất bản và phát hành báo, tạp chí, bản tinh chuyên ngành, sách chính trị, sách
giáo khoa, giáo trình, sách văn bản pháp luật, sách in bằng tiếng dân tộc thiểu số,
tranh ảnh, áp phích tuyên truyền cổ động, in tiền.
Trang 5
Dịch vụ phục vụ công cộng về vệ sinh, thoát nước đường phố và khu dân cư, duy trì
vườn thú, vườn hoa, công viên, cây xanh đường phố, chiếu sáng công cộng, phục vụ
tang lễ v…v…
Điều 5. Nghĩa vụ và trách nhiệm thực hiện luật thuế GTGT
1. Cơ sở kinh doanh và người nhập khẩu có nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ, đúng hạn

theo quy định của luật này.
2. Cơ quan thuế trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình có trách nhiệm thực
hiện đúng các quy định của luật này.
3. Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội – nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ quyền hạn của mình giám sát, phối hợp với cơ quan thuế trong việc thi
hành luật thuế GTGT.
4. Công dân Việt Nam có trách nhiệm giúp cơ quan thuế, cán bộ thuế trong việc thi
hành luật này.
2. Cơ sở tính thuế GTGT
Gồm giá tính thuế và thuế suất thuế GTGT
Về giá tính thuế GTGT, về lý thuyết có hai cách xác định:
Giá tính thuế là giá đã bao gồm thuế GTGT, có nghĩa là thuế được tính trên
giá bán đã bao gồm thuế.
Giá tính thuế là giá chưa bao gồm thuế GTGT. Cách tính này làm cho bên
mua và bên bán thấy rõ ràng hơn là giá chưa có thuế và thuế GTGT
Điều 7. Giá tính thuế GTGT
Giá tính thuế GTGT được quy định như sau:
1. Đối với hàng hoá, dịch vụ là giá bán chưa có thuế GTGT.
2. Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu.
3. Đối với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, sử dụng nội bộ, biếu tặng là giá tính
thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát
sinh các hoạt động này.
4. Đối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền thuê thu từng kỳ.
Trang 6
5. Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp là giá bán của hàng hóa tính theo
giá bán trả 1 lần không tính theo số tiền trả từng kỳ.
6. Đối với gia công hàng hoá là giá gia công.
7. Đối với hàng hoá, dịch vụ khác là giá do chính phủ quy định
Về thuế suất là đại lượng xác định mức độ, phạm vi, nghĩa vụ nộp thuế trên một đơn

vị của đối tượng chịu thuế. Hay nói cách khác, thuế suất là định mức thu thuế trên
một đơn vị của đối tượng chịu thuế. Thuế suất biểu hiện chính sách điều chỉnh kinh
tế xã hội của Nhà nước, tức là thể hiện quan điểm động viên của Nhà nước với từng
hoạt động sản xuất kinh doanh. Thuế suất thuế GTGT là loại thuế suất theo giá trị
tức là thuế suất quy định tỷ lệ % huy động trên một đơn vị giá trị đối tượng nộp
thuế.
Về mức thuế suất thuế GTGT được quy định như sau:
Mức thuế suất 0% đối với hàng hoá xuất khẩu
Mức thuế suất 5% đối với hàng hoá, dịch vụ: nước sạch, nước sinh hoạt, phân bón,
thuốc khám bệnh, đồ chơi trẻ em, sách khoa học….
Mức thuế suất thông thường giao động từ 10 – 20%
Nhóm thuế suất ưu đãi giao động từ 5%- 7%
Nhóm thuế suất đặc biệt ưu đãi: dưới 5% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ đặc biệt
ưu đãi.
Nhóm thuế suất điều tiết trên 20%.
3. Phương pháp tính thuế GTGT
Thuế GTGT phải nộp được tính theo phương pháp khấu trừ thuế hoặc
phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng.
3.1 Phương pháp khấu trừ thuế:
Số thuế phải nộp bằng thuế GTGT đầu ra trừ thuế GTGT đầu vào.
Thuế GTGT đầu ra bằng giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ bán ra nhân với
thuế suất.
Trang 7
Thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT đã thanh toán được ghi trên
hoá đơn GTGT mua hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT hàng hoá
nhập khẩu.
3.2 Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng
Số thuế phải nộp bằng GTGT của hàng hoá, dịch vụ nhân với thuế suất thuế
GTGT.
Giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ bằng giá thanh toán của hàng hóa, dịch

vụ bán ra trừ giá thanh toán của hàng hóa, dịch vụ mua vào.
Phương pháp tính trực tiếp chỉ áp dụng đối với các đối tượng sau:
Cá nhân sản xuất kinh doanh và tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt
Nam không theo bước đầu tư nước ngoài tới Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các
điều kiện về kế toán, hoá đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp
khấu trừ.
Cơ sở kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý.
4. Cơ chế thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT
Việc thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT phải thông qua một cơ chế nhất định vì
vậy một trong những nội dung chủ yếu của pháp luật điều chỉnh thuế GTGT là cơ
chế thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT. Cơ chế thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT gồm:
đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế.
4.1 Đăng ký thuế và cấp mã số thuế
Sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ đăng ký thuế GTGT là sự ra đời, thay
đổi hoặc chấm dứt của chủ thể kinh doanh. Thời điểm phát sinh nghĩa vụ này được
xác định kể từ ngày đối tượng nộp thuế được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. Thời điểm cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là thời điểm để tính thời
hạn thực hiện nghĩa vụ thuế. Việc đăng ký thuế phải tuân thủ theo những trình tự
thủ tục nhất định gọi là quy trình đăng ký thuế. Kết quả của đăng ký thuế là mỗi đối
tượng nộp thuế được cấp một mã số thuế. Mã số thuế là cơ sở pháp lý để nhận diện
người nộp thuế, là điều kiện thiết yếu về phương diện pháp lý để quản lý và thực
hiện thuế GTGT. Đối với đối tượng nộp thuế phải sử dụng mã số thuế để thực hiện
Trang 8
nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ khác có liên quan đến thuế vì vậy phải ghi mã số thuế
trên mọi giấy tờ giao dịch, hợp đồng kinh tế, chứng từ nộp thuế. Các đơn vị được sử
dụng hoá đơn tự in phải in sẵn mã số của mình vào từng tờ hoá đơn.
Đối với cơ quan thuế phải có trách nhiệm sử dụng mã số thuế của đối tượng
nộp thuế để quản lý đối tượng nộp thuế, theo dõi số liệu nộp thuế và ghi mã số đối
tượng nộp thuế trên mọi giấy tờ giao dịch với đối tượng nộp thuế như: thông báo
nộp thuế, thông báo phạt, lệnh thu, các quyết định phạt hành chính thuế, biên bản

kiểm tra về thuế.
4.2 Kê khai thuế GTGT
Mỗi chủ thể khi tham gia đăng ký nộp thuế GTGT với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và được cấp mã số thuế thì đều phải thực hiện việc kê khai thuế theo
quy định của pháp luật.
Kê khai thuế là việc khai báo tất cả những nghiệp vụ chịu thuế phát sinh
trong kỳ (tháng, quý hoặc năm), số thuế GTGT đã trả khi mua hàng, số thuế GTGT
thu được khi bán hàng, số thuế GTGT đã nộp, số thuế GTGT phải nộp trong kỳ cho
cơ quan thuế.
Việc kê khai thuế được tiến hành theo mẫu tờ khai thuế. Người có nghĩa vụ
kê khai thuế căn cứ vào các dữ liệu trên tờ khai thuế thực hiện hành vi kê khai, chịu
trách nhiệm về tính chính xác của việc kê khai và nộp tờ khai cho cơ quan nhà nước
có thẩm quyền. Sau khi lập xong tờ khai thuế phải nộp tờ khai cho cơ quan thuế.
Sau khi tính số thuế phải nộp cho đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế mới ra thông
báo nộp thuế gửi cho các đối tượng nộp thuế. Việc kiểm tra tính đúng đắn của kê
khai thuế xảy ra trước thời điểm nộp thuế. Việc sai sót trong việc tính số thuế phải
nộp thuộc trách nhiệm của cơ quan thuế.
4.3 Nộp thuế GTGT
Nộp thuế GTGT là việc người cung cấp hàng hoá, dịch vụ chuyển thuế đã
thu hộ Nhà nước do người tiêu dùng trả thông qua cơ chế giá khi mua hàng hoá,
dịch vụ thuộc diện chịu thuế GTGT vào kho bạc Nhà nước. Đây là nghĩa vụ cơ bản
nhất của mỗi đối tượng nộp thuế. Để thực hiện nghĩa vụ này một cách có hiệu quả
cần điều chỉnh những vấn đề cơ bản sau:
Trang 9
Thứ nhất, về hình thức nộp thuế, có thể nộp trực tiếp cho cơ quan thuế hoặc
có thể nộp thuế qua Ngân hàng, qua kho bạc.
Thứ hai, về cơ chế nộp thuế. Hiện nay trong thực tiễn tiến hành thu thuế tồn
tại hai cơ chế:
* Cơ chế đối tượng nộp thuế tự tính nộp thuế: cơ chế này nâng cao tính tự
chịu trách nhiệm trước pháp luật của đối tượng nộp thuế, giảm khối lượng công việc

cho cơ quan quản lý thuế cũng như chi phí quản lý hành chính thuế, phân định rạch
ròi trách nhiệm của cơ quan thuế, của đối tượng nộp thuế.
* Cơ chế nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế: tức nộp thuế theo sự tính
toán của cơ quan thuế và được thực hiện bởi một quyết định quản lý hành chính của
Nhà nước.
Thứ ba, phạm vi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế GTGT. Đối với những tổ chức,
cá nhân kinh doanh bất hợp pháp (không có đăng ký kinh doanh) có nghĩa vụ nộp
thuế hay không ?
Xét trên phương diện lý luận thì nghĩa vụ nộp thuế GTGT của các chủ thể chỉ
phát sinh trên cơ sở các hành vi và hoạt động hợp pháp của các chủ thể vì vậy nếu
đánh thuế vào những hoạt động kinh doanh không hợp pháp thì vô hình chung có
một dòng tiền bất hợp pháp được chuyển vào ngân sách Nhà nước, được sự bảo trợ
của Nhà nước và dòng tiền đó trở thành hợp pháp.
4.4 Quyết toán thuế
Với cơ chế tự đăng ký, tự kê khai, tự tính và nộp thuế việc quyết toán thuế
hàng năm của cơ sở kinh doanh với cơ quan thuế là hết sức cần thiết. Thuế GTGT là
thuế gián thu được đánh trên tất cả các khâu từ sản xuất đến tiêu dùng theo phương
pháp khấu trừ thì nghĩa vụ quyết toán thuế phải được tính toán một cách chặt chẽ
nhằm xác định đủ, chính xác số thuế nộp vào ngân sách nhà nước một cách kịp thời,
tránh hiện tượng chiếm giữ số thuế GTGT thu được phục vụ lợi ích riêng của doanh
nghiệp.
5. Khấu trừ và hoàn thuế GTGT
5.1 Khấu trừ thuế GTGT
Trang 10
Thuế GTGT mang bản chất liên hoàn vì vậy thuế GTGT đã được nộp ở giai
đoạn trước sẽ được khấu trừ ở giai đoạn sau thông qua cơ chế giá cả khi thực hiện
hành vi mua bán trao đổi sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. Việc khấu trừ thuế đã nộp ở
giai đoạn trước gọi là khấu trừ thuế GTGT đầu vào.
Thuế GTGT đầu vào là tổng số thuế GTGT trên hoá đơn GTGT mua hàng
hoá, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá nhập khẩu. Theo quy định

của pháp luật hiện hành thì khấu trừ thuế được thực hiện theo những nguyên tắc
nhất định:
- Chỉ khấu trừ thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng vào sản xuất kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT, cơ sở kinh doanh phải hạch toán riêng
thuế đầu vào được khấu trừ và không được khấu trừ, trường hợp không hạch toán
riêng thì số thuế đầu vào được khấu trừ theo phương pháp phân bổ dựa trên tỷ lệ
doanh số chịu thuế so với tổng doanh số bán ra tại doanh nghiệp.
- Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong tháng nào thì được kê
khai khấu trừ trong tháng đó không phân biệt đã được xuất dùng hay chưa.
- Cơ sở mua vật tư hàng hoá không có hoá đơn chứng từ hoặc có hoá đơn
nhưng không ghi riêng số thuế GTGT ngoài giá bán thì không được khấu trừ, trừ
một số trường hợp có quy định riêng.
- Thuế đầu vào của TSCĐ được kê khai khấu trừ như đối với vật tư, hàng
hoá khác. Nếu số thuế khấu trừ phát sinh lớn cơ sở được tính khấu trừ dần. Sau 3
tháng mà số thuế khấu trừ vẫn còn thì doanh nghiệp có thể đề nghị cơ quan thuế xét
hoàn thuế.
5.2 Hoàn thuế GTGT
Do thuế GTGT “thu hộ” của doanh nghiệp bán hàng là thuế GTGT “trả hộ”
của doanh nghiệp mua hàng nên việc hoàn thuế GTGT của một doanh nghiệp có
liên quan đến việc nộp thuế của doanh nghiệp khác. Vì vậy, có thể nói việc hoàn
thuế GTGT diễn ra trên phạm vi rộng, bao hàm nhiều mối quan hệ phức tạp và có sự
liên hoàn giữa các đối tượng nộp thuế. Chính tính phức tạp của vấn đề cùng với sự
mới mẻ của nghiệp vụ hoàn thuế GTGT cộng thêm sự chắp vá của các văn bản pháp
Trang 11
luật về hoàn thuế GTGT khiến cho vấn đề hoàn thuế GTGT là một vấn đề nổi cộm
lớn trong quá trình thực hiện luật thuế GTGT hiện nay.
Theo quy định của điều 16 luật thuế GTGT thì đối tượng được xét hoàn thuế
GTGT trong các trường hợp sau:
- Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế
được xét hoàn thuế trong các trường hợp.

Cơ sở kinh doanh 3 tháng liên tục trở lên có số luỹ kế số thuế đầu vào được
khấu trừ lớn hơn số thuế đầu ra. Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào chưa được
khấu trừ hết của thời gian xin hoàn thuế.
Ví dụ: Doanh nghiệp A kê khai thuế GTGT có số thuế GTGT đầu ra, đầu vào
như sau:
ĐVT: triệu đồng
Tháng kê khai
thuế
Thuế đầu vào
được khấu trừ
trong tháng
Thuế đầu ra
phát sinh
trong tháng
Thuế phải
nộp
Luỹ kế số thuế
đầu vào chưa
được khấu trừ
Tháng 12/2000 200 100 -100 -100
Tháng 1/2001 300 350 +50 -50
Tháng 2/2001 300 200 -100 -150
Doanh nghiệp A có luỹ kế 3 tháng liên tục số thuế đầu vào lớn hơn đầu ra.
Doanh nghiệp A thuộc đối tượng được hoàn thuế GTGT với số thuế là 150 triệu
đồng.
Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá xuất khẩu nếu có số thuế GTGT
đầu vào chưa được khấu trừ từ 200 triệu trở lên thì được xét duyệt hoàn thuế theo
tháng, hoặc chuyến hàng.
- Đối với hàng uỷ thác xuất khẩu, gia công chế biến xuất khẩu qua một cơ sở
khác ký hợp đồng gia công xuất khẩu, gia công chuyển tiếp xuất khẩu, đối tượng

hoàn thuế là cơ sở hàng hoá đi uỷ thác xuất khẩu, cơ sở trực tiếp gia công hàng hoá
xuất khẩu.
Trang 12
- Đối với cơ sở kinh doanh mới thành lập, đầu tư mới đã đăng ký nộp thuế
theo phương pháp khấu trừ thuế nhưng chưa có phát sinh doanh thu bán hàng để
tính thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian đầu tư từ một năm trở lên được xét hoàn thuế
đầu vào theo từng năm. Số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn có giá
trị lớn từ 200 triệu trở lên thì được xét hoàn thuế từng quý.
- Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sát nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể,
phá sản có thuế GTGT nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị cơ quan hoàn thuế hoàn lại
số thuế nộp thừa.
- Đối với các dự án sử dụng vốn ODA chủ dự án ODA không hoàn lại mua
hàng hoá, dịch vụ từ các nhà cung cấp trong nước có thuế GTGT để sử dụng cho dự
án này. Nhà thấu chính thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp trừ thuế
sử dụng vốn ODA không ….. cung cấp các hàng hoá, dịch vụ cho các dự án sử dụng
vốn ODA không hoàn lại không phải tính thuế GTGT đầu ra nhưng được tính khấu
trừ hoặc hoàn thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua trong nước có thuế
GTGT.
- Tổ chức Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại
của tổ chức cá nhân nước ngoài để mua hàng hoá tại Việt Nam thì được hoàn lại
tiền thuế GTGT đã ghi trên hoá đơn GTGT khi mua hàng.
6. Hoá đơn, chứng từ
Trong điều kiện thực hiện thuế GTGT, hoá đơn, chứng từ là cơ sở để kiểm
tra thuế GTGT, là căn cứ để xác định thuế GTGT đầu vào và đầu ra để xác định số
thuế GTGT được khấu trừ, miễn giảm, phải nộp hay được hoàn lại trong kỳ. Điều
này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hoá đơn, chứng từ
ở cả khâu mua và khâu bán vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu của Nhà nước
và quyền lợi của doanh nghiệp. Do đó, việc kiểm soát và tự kiểm soát ở khâu lập
chứng từ, hoá đơn hay tiếp nhận chứng từ hoá đơn có ý nghĩa quyết định với cơ
quan quản lý chức năng trong việc tính toán số thuế phải nộp nói riêng và quản lý

nguồn thu cho ngân sách Nhà nước nói chung. Trong điều kiện kinh tế thị trường
ngay càng phát triển với các nghiệp vụ kinh tế phát sinh phong phú, đa dạng thì vấn
Trang 13
đề chứng từ, hoá đơn ngày càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Vì vậy, hoá đơn, chứng
từ là một nội dung hết sức quan trọng được quy định trong pháp luật thuế GTGT.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THUẾ
1. Mặt tích cực
Thực tế triển khai luật thuế GTGT ở nước ta trong nhứng năm vừa qua cho
thấy pháp luật thuế GTGT ở nước ta đã đáp ứng về cơ bản những yêu cầu về lý luận
của pháp luật thuế GTGT cả về cấu trúc bên trong lẫn hình thức biểu hiện bên ngoài,
cụ thể có đầy đủ các bộ phận hợp thành của pháp luật thuế GTGT và các nhóm quy
phạm pháp luật được biểu hiện dưới hình thức: luật, nghị quyết, nghị định, thông tư,
công văn của nhà nước có thẩm quyền.
Các quy định của pháp luật thuế GTGT phản ánh đúng những nội dung, yêu
cầu của chính sách kinh tế, tài chính nói chung và chính sách thuế nói riêng cũng
như thể hiện được mục tiêu, định hướng cơ bản trong chủ trương, đường lối phát
triển kinh tế của Đảng. Pháp luật thuế GTGT cơ bản đã phản ánh được bản chất của
thuế GTGT cũng như cơ chế vận hành của thuế GTGT.
Chính vì những lý do đó mà sau những năm triển khai thực hiện luật thuế
GTGT đã được một số thành tựu đáng kể mà thành tựu bao trùm nhất là đạt được
mục tiêu, yêu cầu đặt ra trong luật thuế GTGT.
Việc thực hiện luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các công trình
đầu tư xây dựng cơ bản được giảm khoảng 10% vì toàn bộ thuế GTGT của các công
trình xây dựng cơ bản được hạch toán riêng không tính vào giá thành công trình
không phải khấu hao tài sản sau này mà được khấu trừ hoặc hoàn thuế. Mặt khác,
khi nhập khẩu thiết bị, máy móc phương tiện vận tải chuyên dùng, loại trong nước
chưa sản xuất được để đầu tư thành tài sản cố định theo dự án thì không thuộc dạng
chịu thuế GTGT. Đặc biệt, kể từ khi thực hiện giảm 50% thuế suất đối với các sản
phẩm xây dựng cơ bản thì mức thuế còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào bình
quân chỉ còn khoảng 1% so với 4% khi thực hiện nộp thuế doanh thu thể hiện

khuyến khích đầu tư rất mạnh.
Trang 14
Mặt khác, luật thuế GTGT đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, bảo đảm
sản xuất trong nước, sắp xếp lại cơ cấu nền kinh tế. Theo quy định của luật thuế
GTGT hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% tức là được hoàn toàn bộ số
thuế GTGT đã nộp ở đầu vào, việc hoàn thuế GTGT đầu vào thực chất là nhà nước
trợ giá cho hàng hoá xuất khẩu nên đã giúp doanh nghiệp xuất khẩu tập trung được
nguồn hàng trong nước để xuất khẩu và có điều kiện cạnh tranh được với hàng hoá
trên thị trường quốc tế.
Biểu 1. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu từ năm 1999 đến 2003
Mặt hàng Năm199
9
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Dầu thô (nghìn tấn) 14.881,9 15.423,5 16.731,6 16.879,0 17.169,0
Dệt may (triệu đô) 1.746,2 1.891,9 1.975,4 2.752,0 3.630,0
Giày, dép (triệu đô) 1.387,1 1.471,7 1.578,4 1.867,0 2.225,0
Thuỷ sản (triệu đô) 973,6 1.478,5 1.816,4 2.023,0 2.217,0
GTGTạo (nghìn tấn) 4.508,3 3.476,7 3.721,0 3.241,0 3.820,0
Cà phê (nghìn tấn) 482,0 733,9 931,0 719,0 700,0
Thủ công mỹ nghệ (triệu đô) 200,4 273,7 299,7 331,0 367,0
Hạt tiêu (nghìn tấn) 34,8 37,0 57,0 77,0 74,4
Hạt điều (nghìn tấn) 18,4 34,2 43,6 62,0 83,6
Cao su (nghìn tấn) 263,0 273,4 308,0 449,0 438,0
Than đá (nghìn tấn) 3.260,0 3.251,2 4.292,0 6.049,0 7.049,0
Chè (nghìn tấn) 36,0 55,6 67,9 75,0 60,0
Lạc (nghìn tấn) 56,0 76,1 78,2 105,0 83,3
Việc triển khai luật thuế GTGT không gây biến động lớn về giá. Theo tài liệu
của Tổng cục thống kê thì chỉ số giá tiêu dùng cả năm 1999 chỉ tăng 0,1% so với
tháng 12 năm 1998, năm 2000 tăng khoảng 1%. Trong đó giá lương thực giảm
1,9%, giá thực phẩm giảm 7,8%. Giá các hàng công nghệ phẩm và dịch vụ trong

năm trừ lương thực và thực phẩm tăng 3% là mức bình thường của nền kinh tế khu
vực và thế giới.
Ngoài ra, luật thuế GTGT đã bắt đầu tác động đến công tác quản lý của
doanh nghiệp, tạo điều kiện cho cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt
Trang 15
đọng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường công tác hạch toán kế
toán và thúc đẩy việc mua bán hàng hoá có hoá đơn ở các doanh nghiệp. Do yêu cầu
của việc kê khai thuế GTGT, khấu trừ thuế GTGT đầu vào, tính đúng thu nhập của
doanh nghiệp nên những người làm công tác kinh doanh đã bắt đầu chú ý đến công
tác mở sổ kế toán, ghi chép, quản lý và sử dụng hoá đơn, chứng từ. Sự chuyển biến
này thể hiện rõ nhất trong các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần. Thông qua việc chấp hành công tác kế toán, hoá đơn, chứng từ
của các doanh nghiệp qua việc kê khai thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế giúp cho cơ
quan chức năng của Nhà nước và cơ quan thuế từng bước nắm được sát hơn tình
hình sản xuất kinh doanh cũng như tăng cường kiểm tra, giám sát đối với doanh
nghiệp.
Đồng thời, việc triển khai thực hiện luật thuế GTGT bảo đảm động viên số
thu cho nguồn ngân sách Nhà nước. Không giảm hơn so với thuế doanh thu. Năm
1999 tổng thu ngân sách Nhà nước đạt 102,1% so với dự toán năm Quốc hội giáo,
năm 2000 đạt 117,4%. Trong đó thuế GTGT chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu,
riêng số thu thuế GTGT năm 1999 là 16.590 tỷ đồng, sau khi trừ đi số thuế phải
hoàn còn lại tương đương với thuế doanh thu trước đây.
Qua những con số ở trên, chúng ta có thể ít nhiều khẳng định rằng việc đưa
thuế GTGT vào áp dụng ở Việt Nam là định hướng đúng đắn của Đảng và nhà
nước, là bước đột phá lớn trong công cuộc cải cách tài chính công. Luật thuế GTGT
được thực hiện ở Việt Nam đã có những tác động lớn đến đời sống kinh tế xã hội
nước ta, góp phần hoàn thiện luật thuế ở nước ta phù hợp với kinh tế thị trường, tạo
điều kiện mở rộng hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới.
2. Mặt hạn chế
Bên cạnh những mặt đã đạt được thì pháp luật thuế GTGT ở nước ta cũng có

những mặt “chưa được”. Luật thuế GTGT ở nước ta hiện nay chưa đủ mạnh để điều
chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT. Thể hiện
ở những mặt sau:
Một là, đối tượng chịu thuế GTGT chưa phản ánh đúng bản chất của sư vật
hiện tượng, việc thuế GTGT phân ra đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu
Trang 16
thuế cưa chính xác về mặt khoa học, cùng với việc quy định trực tiếp hàng hoá, dịch
vụ không thuộc diện chụi thuế GTGT nên đã dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau
trong qúa trình thực hiện nghĩa vụ thuế GTGT.
Phạm vi đối tượng nộ thuế GTGT được xác định trong luật là quá rộng, trong
đó chủ thể là hộ kinh doanh cá thể chiếm một tỷ lệ lớn nhưng chưa có thói quen lập
và sử dụng hoá đơn. Khi thực hiện các cung ứng chịu thuế nên gây nhiều khó khăn
phức tạp trong quản lý hành chính thuế.
Hai là, căn cứ tính thuế là giá tính thuế và thuế suất, song thực tiễn thực thi
nghĩa vụ thuế GTGT, giá tính thuế được phản ánh trên hoá đơn chứng tù còn có sự
khác biệt so với giá thực, đặc biệt giá tính thuế của hàng tiêu dùng, nhưng không có
đủ cơ sở pháp lý để chứng minh vì vậy trong nhiều trường hợp phạm vi mức độ của
thuế GTGT không được xác định đúng. Lại cộng thêm tiêu chí phân định danh mục
hàng hoá, dịch vụ dựa trên tính năng công dụng và mục đích sử dụng hàng hoá, dịch
vụ để xác định mức thuế suất, nên trong nhiều trường hợp cùng một mặt hàng có thể
bị áp dụng các mức thuế khác nhau.
Ba là việc quy định hai phương pháp tính thuế những tưởng phù hợp với điều
kiện thực tế của Việt nam song thực tiễn thực thi nghĩa vụ thuế GTGT đã đưa đến
nhiều bất ổn và không thực tế, nhất là giá tính thuế của hai phương pháp này khác
nhau.
Bốn là quy định khấu trừ khống là thiếu cơ sở khoa học, khó khăn trong quản
lý hành chính thuế và mục đích của việc khấu trừ khống cũng không thực hiện
được. Các quy định về khấu trừ đối với tài sản cố định còn nhiều bất hợp lý dẫn đến
hai xu thế, có thể quyền khấu trừ không được bảo đảm hoặc có thể bị lạm dụng, mà
cả hai nguyên tắc này đều không đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong quá trình thực

hiện.
Năm là xác định diện hoàn thuế quá rộng, cộng thêm cơ chế “tiền thoái hậu
kiểm” cùng với thủ tục thành lập doanh nghiệp quy định trong luật doanh nghiệp
không chặt chẽ, nên tiền của Nhà nước thất thoát bằng con đường này là khá lớn.
Sáu là cơ chế thực hiện nghĩavụ thuế GTGT còn đan xen nhiều yếu tố của cơ
chế quản lý hành chính bao cấp nên nghĩa vụ thuế GTGT chưa được đảm bảo một
Trang 17
cách công bằng thoả đáng. Giá trị pháp lý của mã số thuế, tờ khai thuế, thông báo
nộp thuế, quyết toán thuế chưa được xác định trong pháp luật thuế GTGT, dẫn đến
sự tuỳ tiện trong quá trình thực hiện.
Bảy là hoá đơn, chứng từ còn thiếu nhiều dữ kiện quan trọng để xác định
trách nhiệm pháp lý của các bên, giá trị pháp lý của chúng chưa được xác định rõ
ràng, cơ chế quản lý lỏng lẻo, việc lập và sử dụng hoá đơn, chứng từ khi mua hàng
hoá, dịch vụ chưa trở thành thói quen nên hiện tượng gian lận hoá đơn để chiếm
dụng tiền của ngân sách Nhà nước bằng con đường khấu trừ thuế hoặc hoàn thuế
GTGT đã phát triển tới mức báo động và không chỉ dừng lại ở sự đơn lẻ của từng
doanh nghiệp mmà có sự móc nối giữa các doanh nghiệp.
Những bất cập trên đã đặt ra sự tất yếu phải hoàn thiện luật thuế GTGT và cơ
chế đảm bảo thực hiện đồng thời cũng là cơ sở thực tiễn cho việc đề ra các giả pháp
hoàn thiện pháp luật thuế GTGT và cơ chế đảm bảo thực hiện.
Chương II
THỰC TRẠNG GIAN LẬN THUẾ Ở VIỆT NAM
I. KHÁI QUÁT VIỆC XÂY DỰNG VÀ TRIỂN KHAI LUẬT THUẾ GTGT
Ở NƯỚC TA
1. Quá trình xây dựng và triển khai thực hiện các quy định thuế GTGT ở nước
ta.
1.1 Quá trình xây dựng luật
Trang 18
Lịch sử ra đời và phát triển thuế ở mỗi quốc gia là không giống nhau nhưng
nó luôn gắn liền với sự ra đời và phát triển của đất nước. Để phục vụ cho quá trình

phát triển cách mạng Việt Nam thì sự điều chỉnh pháp luật thuế GTGT ở nước ta
cũng qua các giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn đều phục vụ cho quan điểm sử
dụng thuế khoá ở giai đoạn đó. Chính những quan điểm này đã định hướng sâu sắc
đến quá trình điều chỉnh pháp luật thuế ở nước ta.
Giai đoạn 1945-1954: Xuất phát từ quan điểm tạo lòng tin của nhân dân vào
chính quyền mới những vẫn phải đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, nhà
nước đã xoá mọi thứ thuế bất công vô lý của Pháp, sửa đổi một số thuế cũ và ban
hành một số thuế khác. Đặc biệt khi cuộc kháng chiến chống Pháp chuyển sang giai
đoạn phản công, yêu cầu phải củng cố hậu phương và chi viện tích cực cho tiền
tuyến, nhà nước đã các bỏ các thứ thuế ban hành tạm thời, banh hành 7 chế độ thuế
áp dụng thống nhất cho cả nước gồm: chế độ thuế nông nghiệp, chế độ thuế công
thương nghiệp, chế độ thuế hàng hoá, chế độ thuế phát sinh, chế độ thuế trước bạ,
chế độ thuế tem; chế độ thuế xuất nhập khẩu. Bảy chế độ thuế đó là nền móng đầu
tiên của hệ thống pháp luật thuế nước ta được thực thi trong suốt thời kỳ cuối của
cuộc kháng chiến 1951-1954 và được kế thừa sử dụng cho các giai đoạn sau.
Giai đoạn 1954-1975: trong giai đoạn này thuế được sử dụng, thực hiện
nhiệm vụ khác nhau cụ thể:
Từ 1954-1959 nhà nước sử dụng thuế để khôi phục kinh tế và để cải tạo xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc bằng cách sưả đổi các chính sách thuế theo tinh thần phân
biệt đối xử về thuế vì vậy, chế độ thuế nông nghiệp và chế độ lợi tức doanh nghiệp
được sửa đổi một cách cơ bản góp phần tích cực vận động cá thể vào hợp tác xã,
khuyến khích mô hình kinh tế hợp tác xã ra đời và phát triển.
Từ 1960-1975 nhà nước tiếp tục thay đổi hệ thống pháp luật thuế trong đó
chủ yếu sửa đổi chế độ thuế nông nghiệp, chế độ thuế môn bài, chế độ thuế doanh
thu, chế độ thuế lợi tức doanh nghiệp và cho thực hiện thí điểm hai chế độ thu mới
không mang tính chất thuế, chế độ thu quốc doanh, chế độ phân phối trích nộp lợi
nhuận và dần tách khu vực kinh tế quốc doanh ra khỏi sự điều chỉnh của thuế.
Trang 19
Hai giai đoạn này hệ thống pháp luật thuế không được xây dựng mà chỉ trên
tinh thần sửa đổi, bổ sung nên hệ thống pháp luật thuế không ổn định, các chế độ

thuế mang tính chắp vá, hiệu lực pháp lý thấp.
Giai đoạn 1975-1989: Xuất phát từ tình hình đất nước có nhiều biến đổi nên
chế độ thuế trong giai đoạn này cũng được sửa đổi liên tục trong những năm đầu ở
miền Nam tạm thời sửa đổi một số chế độ thuế của chính quyền Thiệu, sửa đổi một
số chế độ thuế ở miền Bắc để áp dụng cho miền Nam.
Năm 1980 hai miền Nam, Bắc thực hiện hệ thống thuế thống nhất dựa trên hệ
thống thuế đã áp dụng ở miền Bắc có sửa đổi cho phù hợp với cả hai miền.Tháng
2/1983 nhà nước ban hành pháp lệnh thuế nông nghiệp thay cho điều lệ thuế nông
nghiệp và được sửa đổi vào năm 1983. Cũng trong năm 1983 pháp lệnh thuế công
thương nghiệp cũng được ban hành thay cho điều lệ thuế công thương nghiệp và
được sửa đổi bổ sung vào năm 1987. Tháng 7/1987 Quôc hội ban hành luật thuế
xuất nhập khẩu.
Giai đoạn 1990 đến nay: với sự thay đổi lớn, căn bản của đường lối phát triển
kinh tế trong giai đoạn này đã kéo theo sự thay đổi căn bản trong quan điểm sử dụng
thuế. Thuế phải trở thành công cụ động viên nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà
nước, phải trở thành công cụ quản lý kinh tế của Nhà nước, thuế phải có tính pháp
lý cao, phải đảm bảo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Vì vậy, nhà nước
quyết định cải cách thuế giai đoạn 1. Hệ thống pháp luật thuế được ra đời áp dụng
thống nhất trong cả nước không phân biệt thành phần kinh tế, luật thuế doanh thu,
luật thuế lợi tức, luật thuế xuất nhập khẩu, luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Hệ thống pháp luật thuế mới ra đời đã thể hiện và đáp ứng được quan điểm
sử dụng thuế song cũng còn nhiều tồn tại cần được xem xét hoàn thiện để phù hợp
với điều kiện kinh tế xã hội mới. Thực tế đó đã đặt ra yêu cầu cải cách thuế giai
đoạn 2; bắt đầu từ năm 1996 và dự kiến kết thúc vào năm 2005, thời điểm Việt Nam
chính thức ra nhập vào khu mậu dịch tự do ASEAN. Việc xây dựng, ban hành luật
thuế GTGT thay cho luật thuế doanh thu được coi là một trong những sự kiện quan
trọng của cải cách thuế trong giai đoạn này và sẽ kết thúc bằng việc xây dựng một
hệ thống thuế có khả năng hội nhập cao.
Trang 20
Các văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT

Ngày 3/9/2002 chính phủ ban hành nghị định số 76/2002 về việc sửa đổi bổ
sung một số điều của nghị định 79/2002/NĐ-CP. Ngày 29/12/2002 của chính phủ
quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT.
Theo sửa đổi một số quy định về đối tượng không chịu thuế GTGT đối với
một số loại hàng hoá nhập khẩu trong các trường hợp như: viện trợ nhân đạo, viện
trợ không hoàn lại, quà tặng của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội và
một số tổ chức khác. Hơn nữa, nghị định còn bổ sung sửa đổi một số quy định về
mức thuế 0% thuế GTGT đối với một số hàng hóa xuất nhập khẩu, bao gồm hàng
hoá chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xuất khẩu, hàng hoá gia công xuất khẩu, sửa chữa
máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải cho nước ngoài, phần mềm máy tính xuất
khẩu, dịch vụ xuất khẩu lao động, hoạt động xây dựng, xuất khẩu ra nước ngoài,
xuất khẩu vào các khu chế xuất….và một số quy định về khấu trừ thuế GTGT đầu
vào, hoàn thuế GTGT.
Ngày 18/9/2002 Bộ tài chính ban hành thông tư số 82/2002/TT-BTC về việc
hướng dẫn sửa đổi, bổ sung một số nội dung của thông tư số 122/2000/TT-BTC
ngày 29/12/2000 hướng dẫn thi hành nghị định 79/2000/NĐ-CP ngày 29/1/2000 của
chính phủ quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT.
Theo đó một số điểm đáng chú ý: thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế
GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT, số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của
hàng hóa xuất nhập khẩu và số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ theo tỷ lệ 1% trên
giá mua đối với hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT mua của cơ sở
kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp tính trực tiếp trên GTGT có hoá đơn
bán hàng; hàng hoá là nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa có quy định chế biến mua
của cơ sở sản xuất không chịu thuế GTGT. Khâu sản xuất sử dụng hoá đơn GTGT;
hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt cơ sở kinh doanh thương mại mua của cơ sở sản
xuất để bán ra có hai hoá đơn bán hàng; bồi thường kinh doanh bảo hiểm của nghiệp
vụ bảo hiểm thuộc đối tượng chịu thuế GTGT; hàng hoá mua là nông lâm thuỷ sản
chưa qua chế biến, đất, đá, cát, xỏi và các phụ liệu của người bán không có hoá đơn
Trang 21

tỷ lệ khấu trừ trên đây áp dụng cho các hoá đơn chứng từ mua hàng hoá, dịch vụ từ
1/10/2002 và áp dụng thống nhất cho cả trường hợp kinh doanh trong nước và xuất
khẩu.
Ngày 18/9/2002 Bộ trưởng Bộ tài chính ban hành quyết định số
110/2002/QĐ-BTC về việc sửa đổi, bổ sung, quản lý, sử dụng hoá đơn bán hàng,
ban hành kèm theo quyết định số 885/1998/QĐ-BTC ngày 16/7/98 của Bộ trưởng
Bộ tài chính.
Theo đó thay thế nội dung, thủ tục mua hoá đơn đối với tổ chức, cá nhân mua
hoá đơn lần đầu và thủ tục mua hoá đơn lần sau. Cơ quan thuế có quyền từ chối việc
bán hoá đơn hoặc ra quyết định đình chỉ việc sử dụng hoá đơn đối với các tổ chức,
cá nhân có hành vi vi phạm về sử dụng hoá đơn, chứng từ cụ thể: tạm dừng việc bán
hoá đơn với các tổ chức, cá nhân mua hoá đơn không đủ thủ tục, điều kiện kèm theo
quy định, không kê khai thuế hoặc kê khai thuế nhưng không có doanh thu sau 1
tháng mua hoá đơn, không thực hiện báo cáo sử dụng hoá đơn theo quy định. Đình
chỉ việc sử dụng hoá đơn với tổ chức, cá nhân có hành vi bán khống hoá đơn (hoá
đơn trùng) hoặc lập hoá đơn nhưng không có hàng hoá, dịch vụ, tiếp tục có hành vi
tẩy xoá hoá đơn, ghi hoá đơn có giá trị hàng hoá, dịch vụ cao hơn giá trị thực của
hàng hoá, dịch vụ; ghi hoá đơn bán hàng, dịch vụ trên hoá đơn giao cho người mua
khác với hoá đơn lưu tại cơ sở kinh doanh.
Ngày 10/10/2002 Bộ tài chính thông tư số SO 90/2002/TT-BTC hướng dẫn
về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và thuế GTGT đối với hàng hoá bán cho thương
nhân nước ngoài nhưng giao hàng cho doanh nghiệp khác tại Việt Nam theo chỉ
định của thương nhân nước ngoài để làm nguyên liệu sản xuất, gia công hàng xuất
khẩu.
Thông tư này áp dụng đối với hàng hoá do doanh nghiệp tại Việt Nam (bao
gồm các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) sản
xuất bán cho thương nhân nước ngoài theo hợp đồng mua bán ngoại thương, được
thương nhân nước ngoài thanh toán tiền mua hàng bằng ngoại tệ nhưng hàng giao
cho doanh nghiệp khác tại Việt Nam theo sự chỉ định của thương nhân nước ngoài
để tiếp tục sản xuất gia công hàng xuất khẩu.

Trang 22
Điều kiện áp dụng chính sách thuế hướng dẫn tới thông tư này bao gồm:
hàng hoá xuất khẩu tại chỗ, nhập khẩu tại chỗ trên cơ sở thực hiện hợp đồng mua
bán ngoại thương ký với thương nhân nước ngoài trong đó ghi rõ mặt hàng, tên và
số lượng, địa chỉ của doanh nghiệp nhận hàng tại Việt Nam, thương nhân nước
ngoài phải thực hiện thanh toán tiền đối với hàng xuất khẩu tại chỗ bằng ngoại tệ tự
do chuyển đổi qua ngân hàng, doanh nghiệp phải mở tờ khai hải quan hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu tại chỗ.
Hàng hoá xuất khẩu tại chỗ được hưởng thuế suất 0%. Tuy nhiên, doanh
nghiệp xuất khẩu tại chỗ phải xuất trình với cơ quan thuế địa phương đầy đủ các hồ
sơ bao gồm: hợp đồng mua bán ký giữa doanh nghiệp xuất khẩu tại chỗ khi giao
hàng, hợp đồng mua bán ký giữa doanh nghiệp xuất khẩu tại chỗ với thương nhân
nước ngoài, chứng từ thanh toán tiền hàng xuất khẩu tại chỗ với thương nhân nước
ngoài qua ngân hàng bằng ngoại tệ từ đó chuyển đổi, tờ khai hàng hoá xuất nhập
khẩu tại chỗ. Trường hợp cơ sở sản xuất tại chỗ không có đủ thủ tục hồ sơ trên thì
không được áp dụng thuế suất 0%, cơ sở xuất khẩu tại chỗ phải thực hiện nộp thuế
GTGT theo quy định của luật thuế GTGT như hàng hoá tiêu thụ nội địa.
Ngoài ra thông tư còn hướng dẫn cụ thể việc xử lý vi phạm đối với các
trường hợp doanh nghiệp nhập khẩu tại chỗ không sử dụng hàng hoá đã nhập khẩu
tại chổ để làm nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu mà đem bán hoặc sử dụng
không đúng mục đích.
Chính phủ vừa ban hành nghị định số 158/2003 quy định chi tiết thi hành luật
thuế GTGT văn bản hướng dẫn các đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ
dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam với các mức thuế suất 0%,
5% và 10% đồng thời các đối tượng nộp thuế phải kê khai thuế GTGT theo đúng
quy định của pháp luật.
Các mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, kể cả
hàng gia công xuất khẩu, hàng hoá, dịch vụ thuộc diện không chịu thuế GTGT xuất
khẩu.
Mức thuế suất 5% áp dụng với các hàng hoá, dịch vụ: nước sạch phục vụ sản

xuất, sinh hoạt, phân bón, quặng để sản xuất phân bón, máy móc và dụng cụ chuyên
Trang 23
dùng cho y tế, bông và băng vệ sinh y tế, giáo cụ dùng giảng dạy và học tập, đồ chơi
trẻ em, sản phẩm trồng trọt chăn nuôi, thuỷ sản, hải sản đánh bắt chưa qua chế biến,
thực phẩm tươi sống, lương thực, lâm sản.
Mức thuế suất 10% áp dụng với hàng hoá, dịch vụ: dầu mỏ, khí đốt, quặng
điện, thương phẩm, điện tử, sản phẩm hoá chất, sản phẩm may mặc, thêu ren, giày,
sữa, bánh kẹo, nước giải khát, sản phẩm gốm sứ, thuỷ tinh, dịch vụ tư vấn pháp luật,
các dịch vụ tư vấn khác, khách sạn, dịch vụ ăn uống.
Việc kê khai nộp thuế GTGT hợp pháp: cơ sở kinh doanh và người nhập
khẩu phải kê khai thuế GTGT theo quy định sau: cơ sở kinh doanh phải kê khai nộp
thuế từng tháng và nộp tờ kê khai kèm theo bản kê khai hàng hoá, dịch vụ mua vào,
bán ra làm căn cứ xác định số thuế phải nộp của tháng cho cơ quan thuế trong 10
ngày đầu của tháng tiếp theo.
Trong trường hợp không phát sinh số bán hàng hoá, dịch vụ thuế đầu vào,
thuế đầu ra cơ sở kinh doanh vẫn phải nộp tờ kê khai thuế cho cơ quan thuế. Cơ sở
phải kê khai đầy đủ đúng mẫu tờ khai thuế và phải chịu trách nhiệm pháp lý về tính
chính xác của việc kê khai. Thời điểm tính thuế GTGT đầu ra phát sinh là thời điểm
cơ sở kinh doanh đã chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá, dịch vụ cho người mua
không phân biệt người mua đã trả tiền hay chưa. Khi bán hàng hoá cơ sở kinh doanh
phải lập hoá đơn theo cơ sở của pháp luật.
Tổ chức, cá nhân ở nước ngoài không có văn phòng hay trụ sở điều hành ở
Việt Nam có cung ứng hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT cho các tổ chức, cá nhân
Việt Nam phải kê khai, nộp thuế GTGT thay cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài.
Cơ sở kinh doanh nhiều loại hàng hoá, dịch vụ có mức thuế suất GTGT khác
nhau phải kê khai thuế GTGT theo mức thuế suất quy định đối với từng loại hàng
hoá, dịch vụ. Nếu cơ sở kinh doanh không xác định được theo tổng mức thuế suất
thì phải tính theo mức thuế suất cao nhất của hàng hóa, dịch vụ mà cơ sở có sản
xuất, kinh doanh. Cơ sở kinh doanh có trách nhiệm nộp thuế đầy đủ, đúng thời hạn
vào ngân sách nhà nước. Thuế nộp vào ngân sách nhà nước bằng đồng Việt Nam.

2. Thực tế áp dụng luật thuế GTGT ở nước ta
Trang 24
Pháp luật thuế GTGT là một luật thuế hoàn toàn mới mẻ trong lịch sử pháp
luật tài chính nước ta và trong nhận thức của tầng lớp dân cư. Vì vậy, việc thực hiện
các luật thuế mới nói chung và luật thuế GTGT nói riêng sẽ có tác động đến nhiều
mặt của đời sống kinh tế xã hội của đất nước và những khó khăn bước đầu là không
tránh khỏi.
Sau những năm thực hiện pháp luật thuế GTGT ở nước ta đã cơ bản đáp ứng
được những yêu cầu về lý luận của pháp luật thuế GTGT cả về cấu trúc bên trong
lẫn những biểu hiện bên ngoài. Các quy định của pháp luật thuế GTGT phản ánh
đúng những nội dung, yêu cầu của chính sách kinh tế, tài chính nói chung và chính
sách thuế nói riêng cũng như thể hiện được mục tiêu, định hướng cơ bản trong chủ
trương đường lối phát triển kinh tế của Đảng. Pháp luật thuế GTGT cơ bản đã phản
ánh được bản chất của thuế GTGT cũng như cơ chế vận hành của thuế GTGT. Các
quy định của pháp luật thuế GTGT luôn tính đến các giải pháp qua đó nhằm áp dụng
tốt nhất thuế GTGT trong điều kiện thực tế ở Việt Nam như quy định 2 phương
pháp tính thuế, quy định khấu trừ khống, mở rộng diện miễn giảm thuế…
Vì vậy, sau 4 năm thực hiện luật thuế GTGT đã đạt được những thành tựu
đáng kể mà thành tựu bao trùm nhất là đạt được nhứng mục tiêu yêu cầu đặt ra trong
luật thuế GTGT.
Cụ thể: góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hoá và đẩy
mạnh xuất khẩu. Việc thực hiện luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các
công trình đầu tư xây dựng cơ bản giảm khoảng 10% vì toàn bộ thuế GTGT của các
công trình đầu tư xây dựng cơ bản được hạch toán riêng không tính vào giá thành
công trình. Không phải khấu hao tài sản sau này mà được khấu trừ hoặc hoàn thuế.
Mặt khác khi nhập khẩu thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dụng, loại
trong nước chưa sản xuất được để đầu tư TSCĐ theo dự án thì không thuộc diện
chịu thuế GTGT. Đặc biệt khi giảm 50% thuế suất đối với các sản phẩm xây dựng
cơ bản thì mức thuế còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào bình quân chỉ còn
khoảng 1% so với 4% so với thuế doanh thu thể hiện khuyến khích đầu tư mạnh.

Mặt khác, luật thuế GTGT đã góp phần khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản
xuất trong nước, sắp xếp cơ cấu lại nền kinh tế. Theo quy định của thuế GTGT,
Trang 25

×