Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tài liệu Chế độ ăn - Dinh dưỡng - Tập luyện cho người bệnh gan (Phần 5) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.79 KB, 24 trang )

Chế độ ăn - Dinh dưỡng - Tập luyện cho người bệnh gan
(Phần 5)
PHẦN 5: CÁC VITAMIN VÀ NHỮNG KHOÁNG CHẤT
Gan là kho chứa chính của cơ thể cho việc dự trữ những chất dinh
dưỡng. Nó hấp thu và dự trữ rất nhiều vitamin và khoáng chất từ máu. Nếu
chế độ ăn của một người không cung cấp một số lượng thích hợp các chất
dinh dưỡng này cho một ngày nhất định thì gan sẽ giải phóng ngay số lượng
cần thiết của chúng vào trong máu. Tuy nhiên, khả năng của gan có giới hạn
là không chuyển hoá các vitamin và các khoáng chất. Bất kỳ số lượng dư thừa
vitamin nào mà gan không thể chuyển hóa được nói chung sẽ được đào thải
ra khỏi cơ thể. Chưa nói đến tại một vài khía cạnh, gan có thể trở nên bị nguy
hiểm bởi xu hướng chuyển hoá quá mức thừa của những vitamin và những
khoáng chất.
Nếu một người ăn một chế độ cân bằng, tốt cho sức khỏe thì tất cả
những vitamin và khoáng chất được yêu cầu cho nhu cầu cơ bản và hoạt
động hàng ngày được cung cấp đầy đủ. Mặc dù vậy, nhiều người cảm thấy
rằng họ nên ăn bổ sung vitamin và khoáng chất để cho chắc chắn. Trong khi
điều này có thể tốt đối với một người khỏe mạnh hoàn tòan thì nó có thể nguy
hiểm thật sự cho một vài người có bệnh gan. Vì vậy, những lượng bổ sung
quá nhiều vitamin và khoáng chất có thể có hại nhiều hơn là tốt đối với một
cái gan đã tổn thương thật sự.
Tuy nhiên, có những ngoại lệ đối với quy luật này: đầu tiên là không
một ai ăn được chế độ ăn cân bằng, tốt cho sức khỏe. Vì thế, một số người
theo chế độ ăn chay nghiêm ngặt. Ở những tình huống này, việc bổ sung
vitamin và khoáng chất là cần thiết. Những người với bệnh gan chắc chắn,
đặc biệt những bệnh ứ mật như xơ gan tắc mật nguyên phát, hấp thu một số
vitamin nghèo nàn. Những người này cũng có thể yêu cầu sự bổ sung. Những
người với bệnh gan rượu cần sự bổ sung vitamin bởi vì những ảnh hưởng làm
tiêu hao chất dinh dưỡng của rượu đối với cơ thể. Mặt khác, một vài bệnh
gan là do thừa một vitamin hay khoáng chất xác định. Ví dụ bệnh
hemochromatosis - bệnh gan thừa sắt. Một vài bệnh gan có liên quan đến


thiếu sắt do chảy máu đường ruột, ví dụ có thể xảy ra ở những người có dãn
tĩnh mạch thực quản chảy máu do xơ gan mất bù. Vì vậy, những yêu cầu
vitamin và khóang chất trong chế độ ăn của một người với bệnh gan phải
được đánh giá trên nền tảng của từng cá thể. Tóm lại, phải cân nhắc khi bổ
sung vitamin và khoáng chất.
A. CÁC VITAMIN
Các vitamin là những chất hữu cơ từ những động vật và thực vật.
Chúng là thành phần cơ bản để phát triển, lớn lên và hoạt động của con
người. Các vitamin được biết như những chất dinh dưỡng vi lượng bởi vì cơ
thể chỉ cần một số lượng nhỏ (so với protein hay nước làm ví dụ) để duy trì
sức khoẻ. Bình thường số lượng được yêu cầu cung cấp bằng một chế độ ăn
đầy đủ.
Cũng giống như thức ăn, và dược phẩm, các vitamin cũng phải đi qua
gan để được chuyển hóa. Nếu ăn vào quá nhiều, bất kỳ vitamin nào cũng có
khả năng gây nên những vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng. Đấy là sự thật thậm
chí đối với những người có chức năng gan bình thường. Tuy nhiên, ở những
người có bệnh gan thì khả năng gây tổn hại sẽ cao hơn nhiều. Phụ thuộc vào
mức độ trầm trọng của tổn thương gan mà người nào đó thậm chí có thể cần
phải loại bỏ khỏi chế độ ăn của họ những thức ăn mà nó làm tăng mạnh
những vitamin được xác định. Chúng có thể bao gồm những thức ăn thông
thường như một vài món ăn ngũ cốc buổi sáng.
Mặt khác, một vài bệnh gan có khuynh hướng khiếm khuyết vitamin
và phải ăn bổ sung vitamin. Nếu bác sĩ của bạn khuyên bổ sung một vitamin
cụ thể thì chắc chắn là nó được uống cùng bữa ăn để được hấp thu vào trong
cơ thể thích đáng. Hơn nữa những vitamin bổ sung nên được bảo quản ở chỗ
mát mẻ và khô ráo, vì hiệu lực của chúng có thể bị giảm bởi ánh sáng mặt
trời và ẩm ướt.
Các vitamin có thể được phân loại dựa vào đặc điểm hoà tan của chúng
– tan được trong mỡ và tan được trong nước. Sự khác biệt này có hàm ý quan
trọng cho những người bệnh gan và sẽ được nói đến ở những phần sau trên

những loại vitamin khác nhau.
1/CÁC VITAMIN TAN TRONG MỠ
Các vitamin tan trong mỡ bao gồm vitamin A, D, E và K. Chúng được
hấp thu vào cơ thể chỉ với sự giúp đỡ của mỡ hay mật. Những vitamin này
được tích lũy ở trong những tế bào mỡ. Ở những người bệnh gan ứ mật (có sự
suy yếu hay hư hỏng dòng chảy của mật bên trong ống mật), chúng có thể
làm hấp thu kém cho cơ thể. Ở những trường hợp này, bổ sung vitamin là cần
thiết. Loại vitamin tốt nhất để dùng ở trường hợp này là một vitamin tan
trong dầu nhưng có cấu tạo tan trong nước được. Thường thì các vitamin của
trẻ em tất cả đều tan được trong nước. Khi nhỏ đường tiêu hoá còn non nớt,
việc bổ sung được thiết kế đặc biệt để chúng có khả năng tiêu hoá dễ dàng
nhất. Mỗi một vitamin tan được trong mỡ sẽ được thảo luận chi tiết thêm ở
dưới.
a)Vitamin A
Vitamin A cần để duy trì thị lực bình thường, đặc biệt là nhìn vào buổi
tối, và chủ yếu cho hệ miễn dịch. Nó cũng đóng vai trò sống còn trong việc
xây dựng và duy trì sức khỏe cho da, xương, răng. Vitamin A thuộc một
nhóm hợp chất là retinoids (được tham khảo với các chất như retinol, retinoic
acid, hay retinyl esters). Khoảng 80 đến 90% tổng số trong cơ thể được dự
trữ dưới dạng retinoid được tìm thấy trong gan. Gan có quyết định quan
trọng là nơi nào vitamin A được cần nhất trong cơ thể.
Đối với những người không mắc bệnh gan, 1000 mcg mỗi ngày (3333
IU mỗi ngày) cho đàn ông và 800 mcg (2667 IU/ ngày) đối với phụ nữ là khối
lượng tối đa của vitamin A nên ăn vào. Điều này có thể dễ dàng được chứa
trong một chế độ ăn cân bằng. Mặc dù vậy, xấp xỉ ¼ những người trưởng
thành ở Mỹ ăn bổ sung những thứ có chứa vitamin A. Đây là vitamin được
thấy nhiều ở những thức ăn sau: gan, lòng đỏ trứng, sữa, những sản phẩm bơ
khác, bơ thực vật, dầu gan, và dầu cá. Một người với bệnh gan tiến triển
không bao giờ nên bổ sung vitamin A và không nên ăn số lượng quá nhiều
những thức ăn được nên ở trên.

Những cấu tạo thực vật của vitamin A được biết như các carotenoid
(cũng được gọi là carotene). Carotene được coi như là một tiền vitamin A, bởi
vì cơ thể phải chuyển chất này thành vitamin A trước khi nó có thể được cơ
thể sử dụng như một vitamin A hoạt động. Hầu hết các carotenoid thông
thường được tìm thấy trong thức ăn là beta-carotenoid. Những thức ăn có
nhiều beta-carotenoid gồm dưa đỏ, cà rốt, khoai tây ngọt, và rau xanh.
Ăn quá nhiều vitamin A (liều xấp xỉ 25.000 đến 50.000 IU mỗi ngày) là
rất nguy hiểm cho gan vì nó có thể gây nên bệnh gan do thừa vitamin A.
Trong thực tế, tình trạng này có thể dẫn đến xơ gan. Thừa vitamin A có thể là
kết quả của việc bổ sung vitamin quá nhiều hay những thói quen ăn uống
khác thường. Những người với bệnh gan nên tránh ăn gan vì nó chứa một
lượng lớn vitamin A, hơn hẳn bất kỳ cơ quan nội tạng nào khác. Thật thú vị,
hàng trăm năm trước, các bác sĩ tin rằng một vài những rối loạn về mắt có
thể chữa bằng cách áp dụng một miếng gan để trực tiếp lên mắt bệnh nhân,
bởi vì việc chứa vitamin A cao của nó. Các thuốc như Accutance (isoretinoin)
và Retin-A (tretinoin), cả hai được điều trị trong mụn trứng cá (acne), chúng
có nguồn gốc từ vitamin A. Vì thế không nên dùng cho những người bệnh gan
tiến triển. Thuốc ngừa thai uống có thể tăng việc hấp thu vitamin A, do đó
dẫn đến những giới hạn cao nguy hiểm.
Khả năng của vitamin A gây nên ngộ độc gan có thể tăng bởi việc uống
rượu hay dùng quá nhiều những vitamin tan trong dầu khác (như vitamin E)
hay việc thiếu vitamin C. Ngộ độc vitamin A có thể biểu hiện chỉ một vài giờ
sau khi một người dùng một liều quá lớn. Tuy nhiên, quá liều vitamin A có
thể cũng diễn tiến chậm ở người dùng lượng trung bình vitamin A qua một
thời gian dài. Triệu chứng của quá liều vitamin A có thể bao gồm buồn nôn,
nôn, rối loạn phương hướng về thị giác, đau đầu, và đau xương khớp. Gan có
thể lớn lên và tổn thương để lại sẹo, thậm chí dẫn đến xơ gan. Tăng áp lực
tĩnh mạch cửa đi cùng với vàng da và trướng bụng có thể xảy ra . Ngộ độc
vitamin A thì thường nhưng không phải luôn luôn, sẽ đảo ngược với sự dừng
dùng vitamin A.

Cuối cùng là những người bệnh gan được khuyên giảm dùng vitamin
này. Ngoại lệ cho quy định này áp dụng chỉ đối với những người ở giai đoạn
tiến triển của ứ mật, những người bị quáng gà. Một thí dụ: một người ở giai
đoạn 4 của xơ gan tắc mật nguyên phát (PBC) mà người này cũng đang uống
cholestyramine, một thuốc dùng để điều trị ngứa mà là suy giảm hơn nữa việc
hấp thu vitamin A. Người ta đã nhận thấy rằng khoảng 20% những người
PBC có thiếu vitamin A. Hầu hết những người này biểu hiện những triệu
chứng không rõ ràng của thiếu vitamin A. Vì vậy, những người mắc PBC nên
được kiểm tra mức vitamin A của họ. Thậm chí đã được tìm thấy là thiếu, thì
chỉ những người bị quáng gà mới nên được nhận sự bổ sung vitamin A. Khi
bổ sung vitamin A thì quan trọng là cho thêm kẽm để đạt được tối đa việc
hấp thu vitamin A. Cấu tạo tan nước của vitamin A- Aquasol- một viên dạng
nang dùng mỗi ngày (50.000 IU) thì được hấp thu tốt nhất .
Không giống như những retinoid, các carotenoid không độc đối với gan
và không gây nên thừa vitamin A. Tuy nhiên, beta-carotene có thể gây da có
màu vàng cam, gây nên triệu chứng sai lầm của cả vàng da và cả tổn hại suy
gan. Ngoài ra, quá thừa beta- carotene có thể đẩy một người bệnh gan thêm
nguy cơ mất xương và loãng xương.
Vitamin A được tìm thấy ở gan động vật và những trái cây cam và
xanh, và nhưng rau như măng tây, bông cải xanh, cà rốt, và dưa đỏ. Nguồn
gốc từ động vật chứa vitamin A có khuynh hướng chứa hàm lượng vitamin
này nhiều hơn (6 lần) so với nguồn gốc từ thực vật. Vì thế, người ta khuyên
những người mắc bệnh gan tránh dầu gan cá moruy và gan động vật. Rau thì
có thể ăn tự do. Tuy nhiên, thực hiện dùng sinh tố hàng ngày với lượng lớn
trái cây và/ hay rau nên tránh ở những người mắc bệnh gan nặng.
b)Vitamin D
Vitamin D, một vitamin tan trong mỡ, được coi như “vitamin ánh nắng
mặt trời”. Vì nhờ có ánh sáng mặt trời mới biến đổi cholesterol thành vitamin
D. Để chắc chắn một lượng cung cấp thường xuyên vitamin D, hầu hết mọi
người chỉ cần được để lộ mình dưới ánh sáng mặt trời trong khoảng 15 phút

vài lần mỗi tuần. Vitamin D thì quan trọng trong việc hấp thu và chuyển hóa
calcium. Vitamin này cho phép calcium có khả năng vào xương. Vitamin D
quan trọng đặc biệt đối với những người mắc bệnh gan mãn tính, những
người có khuynh hướng bị hủy xương hay loãng xương. Những người có
khuynh hướng bị tình trạng này bao gồm những người bị xơ gan tắc mật
nguyên phát, những người xơ gan bởi bất kỳ bệnh gan nào đặc biệt khi có
biến chứng ứ mật, và những người dùng thuốc ức chế miễn dịch như
prednisone. Những người này được khuyên dùng vitamin D bổ sung hay ăn
những thức ăn chứa nhiều vitamin D. Điều này đặc biệt quan trọng nếu việc
phơi nắng của một người bị giới hạn bởi điều kiện thời tiết hay vị trí địa lý.
Nó có thể là ý kiến hay đối với tất cả những người mắc bệnh gan mạn tính là
bổ sung những chế độ ăn của họ với calcium và vitamin D.
Những thức ăn chứa dồi dào lượng vitamin D bao gồm sữa (nó được bổ
sung vitamin D), cá ở xứ lạnh, dầu cá, dầu gan cá moruy, và lòng đỏ trứng.
Chế độ ăn mỗi ngày được chính phủ Mỹ đề nghị về vitamin D là 5mcg
(200IU). Những người có bệnh gan được xem là khuyếm khuyết vitamin D
nên được ăn bổ sung khoảng 400 và 800 IU mỗi ngày. Hãy nhớ là việc bổ sung
quá nhiều vitamin D có thể dẫn đến việc lắng đọng nguy hiểm calcium ở thận,
tim và những mạch máu. Sự cần thiết bổ sung vitamin D nên được quyết định
dựa trên nhu cầu cơ bản của từng bệnh nhân bằng cách theo dõi mức độ 25-
hydroxy vitamin D trong máu và mức độ calcium trong máu và trong nước
tiểu. Cấu trúc tan trong nước của vitamin D – vitamin D2 (ergocalciferol) –
nên được dùng khi có thể.
c)Vitamin E
Vitamin E được biết như tocopherol, hoạt động như một chất chống
oxy hóa trong cơ thể. Nó bảo vệ tế bào hồng cầu và những cơ quan trong cơ
thể chống lại tổn thương. Một vài nghiên cứu cho thấy rằng việc bổ sung
vitamin E có thể bảo vệ gan khỏi gốc cơ bản – chất làm tổn hại trung gian
được sinh ra từ việc dùng rượu quá nhiều. Vì vậy, những người uống rượu
thường xuyên, và đặc biệt những người bị bệnh gan do rượu, có thể có lợi từ

việc bổ sung vitamin E. Do vitamin E yêu cầu có mật để hấp thu, nên những
người bị tắc mật có thể bị thiếu. Thiếu vitamin E thì nhìn thấy thường xuyên
nhất ở những người mà bilirubin đã tăng trên 3 mg/dl và alkaline
phosphatase (AP) trên 1.000 IU/l. Vì vậy, những người ứ mật (như những
người xơ gan tắc mật nguyên phát) hay những người xơ gan mất bù (bởi bất
kỳ bệnh gan nào) có thể có lợi từ việc bổ sung vitamin E. Một sự thiếu
vitamin E có thể dẫn đến sự miễn dịch bị tổn thương, cảm giác mất thăng
bằng, và thiếu sự hoạt động đồng bộ. Trên thực tế, sự thiếu vitamin E có thể
gây nên những rối loạn thần kinh sau ghép gan. Ở những trường hợp nặng,
việc thiếu vitamin E kéo dài, mù có thể xảy ra.
Chế độ hỗ trợ hàng ngày được đề nghị bởi chính phủ Mỹ về vitamin E
thường nhất là 100 IU mỗi ngày (mặc dù nó được trong khoảng từ 30 đến 400
IU mỗi ngày). Số lượng vitamin E này có thể dễ dàng được chứa trong một
chế độ ăn cân đối. Những thực phẩm chứa nhiều vitamin E là dầu thực vật,
các loại ngũ cốc, xanh nhiều lá sẫm màu, quả hạch và họ đậu. Những thức ăn
này được xếp trong nhóm những acid béo dạng chuỗi không bão hòa. Hầu hết
những bổ sung vitamin E chỉ chứa alpha- tocopherol, là một cấu trúc có hiệu
lực nhất của vitamin E. Để sự có lợi từ bổ sung vitamin E, nó nên chứa tất cả
alpha- và gamma- tocopherol và được dùng với kẽm. Nếu có thể, nên cố gắng
có được ester tan trong nước của vitamin E (d- alpha- tocopheryl-
polyethylene glycol succinate [TPGS]). Vitamin E được hấp thu tốt nhất khi ở
cấu tạo này, cấu tạo này quan trọng đặc biệt nếu ứ mật tồn tại.
Một vài nhà nghiên cứu tin rằng điều trị bằng vitamin E có thể là một
hỗ trợ có lợi cho điều trị viêm gan virus. Trong một vài nghiên cứu được thực
hiện ở những bệnh nhân mắc viêm gan virus C mạn, tỉ lệ đáp ứng được cải
thiện bởi việc thêm vào vitamin E trong việc điều trị bằng interferon và
ribavirin. Do đó, đã có đề nghị là vitamin E có thể làm chậm sự tiến triển của
bệnh gan; trì hoãn đợt cấp và giảm mức độ của bệnh, giảm tác dụng phụ khi
dùng ribavirin : thiếu máu ở một vài bệnh nhân; giúp làm dịu tình trạng vọp
bẻ cẳng chân; giảm tình trạng mất trí nhớ; và gia tăng khả năng tình dục ở

nam giới – là những thuận lợi có liên quan đặc biệt đến vitamin E trong điều
trị với interferon và ribavirin. Trong những nghiên cứu sắp tới cần xác định
hiệu quả của vitamin E như là một hỗ trợ điều trị bệnh gan. Có thể là một ý
kiến hay cho việc bổ sung vitamin E ở liều từ 400 đến 800 IU mỗi ngày. Hãy
nhớ rằng những thuận lợi có tiềm năng được đề cập ở trên của vitamin E
chưa được xác nhận ở những bệnh nhân viêm gan virus C và vì vậy nên cân
nhắc.
Bổ sung vitamin E có thể gây nên chảy máu kéo dài và bầm tím nếu
dùng cùng với thuốc chống đông (pha loãng máu) như Coumadin hay Plavix
hay nếu dùng chung với thảo mộc như tỏi hay cây bạch quả (ginkgo). Những
người bị xơ gan mất bù nên tránh dùng bổ sung vitamin E, đặc biệt nếu họ đã
từng chảy máu do giãn tĩnh mạch hay họ có thiếu vitamin K đã được biểu
hiện rõ bằng thời gian prothombin kéo dài. Cuối cùng, việc bổ sung vitamin E
không nên tiếp tục trong khoảng một tháng trước bất kỳ phẫu thuật nào hay
bất kỳ một thủ thuật xâm lấn (như sinh thiết gan).
d)Vitamin K
Vitamin K được dùng bởi gan để sản xuất protein prothrombin.
Prothrombin, như đã được thảo luận, có vai trò chủ yếu cho việc cầm máu.
Không có vitamin K, con người sẽ chảy máu như bị cắt. Vitamin K cũng giúp
giữ cho xương cứng chắc. Vitamin K đóng một vai trò quan trọng trong việc
chuyển đổi glucose thành glycogen. Glycogen sau đó được dự trữ ở gan, tạo
nên năng lượng dữ trữ. Một nửa vitamin K trong cơ thể được tạo bởi vi
khuẩn cộng sinh sống tự nhiên trong đường ruột. Phần còn lại được lấy từ
nguồn thức ăn. Việc lạm dụng thuốc nhuận trường, như dầu khoáng chất,
hay dùng những kháng sinh trong thời gian dài có thể gây nên sự tan máu do
vitamin K.
Khi sự thiếu vitamin K là do hấp thu kém, thì sự khiếm khuyết này có
thể được giải quyết bằng vitamin K tan trong nước dùng bằng đường uống,
được biết như Synkayvite (5 đến 10 mg mỗi ngày), cho đến khi yếu tố gây nên
việc hấp thu kém được được loại bỏ. Những người mắc bệnh gan ứ mật có xu

hướng thiếu vitamin K mà không thể giải quyết bằng bổ sung đường uống.
Trong điều kiện mà chảy máu là nguy cơ tiềm năng (như những người có yêu
cầu phẫu thuật), tiêm truyền tĩnh mạch huyết thanh tươi đông lạnh được cho
những bệnh nhân này để giải quyết tạm thời vấn đề này. Ở những người có
tắc nghẽn ở đường mật ngoài gan, việc thiếu có thể được giải quyết bằng tiêm
vitamin K.
Những thực phẩm chứa dồi dào vitamin K gồm spinach và những rau
nhiều lá xanh, cà rốt, khoai tây, món ăn làm từ ngũ cốc, và gan. Không có
một bổ sung hàng ngày được yêu cầu đối với vitamin K.
2/NHỮNG VITAMIN TAN TRONG NƯỚC
Những vitamin tan trong nước bao gồm vitamin C và các vitamin B.
Phức hợp vitamin B gồm 8 vitamin B khác nhau. Không cần mỡ hay mật để
hấp thu các vitamin tan trong nước từ đường tiêu hóa, và vì thế sự thiếu
những vitamin này không thường xảy ra ở những người mắc bệnh gan ứ mật.
Những vitamin tan trong nước được dự trữ trong cơ thể hay được dùng để
đáp ứng những yêu cầu hàng ngày. Lưu giữ những vitamin này có thể kéo dài
nhiều tháng. Vì thế, những người bệnh gan hiếm khi có thiếu một vitamin tan
trong nước. Một ngoại lệ cho quy luật này: những người mắc bệnh gan do
rượu. Ở nhóm này thường yêu cầu việc bổ sung vitamin tan trong nước bởi vì
thiếu dinh dưỡng xảy ra bởi rượu trong cơ thể. Hiếm khi bị ngộ độc bởi
những vitamin tan trong nước, vì những liều quá nhiều những vitamin này có
thể dễ dàng thải ra khỏi cơ thể qua mồ hôi hay nước tiểu.
a)Vitamin C
Vitamin C được biết như axit ascorbic là một chất chống oxy hóa.
Vitamin này hỗ trợ cho việc lành vết thương bị cắt và bầm tím và cũng giúp
cứng chắc xương, sụn, răng và da. Thêm vào đó, vitamin C làm tăng việc hấp
thu sắt. Vì vậy, những người có bệnh thừa sắt như hemochromatosis, và
những bệnh nhân viêm gan virus C mạn có gia tăng lượng sắt phải cẩn thận
không được dùng quá nhiều vitamin này. Tuy nhiên, do vitamin này giúp
trong quá trình sản xuất interferon – một protein của hệ miễn dịch được tạo

bởi cơ thể, cho nên việc bổ sung vitamin này có thể có lợi trong việc điều trị
những bệnh nhân viêm gan virus C và B. Do đó, một vài chuyên gia cảm thấy
rằng vitamin C có thể làm chậm đợt bùng phát của bệnh và giảm mức độ của
việc thiếu máu liên quan đến ribavirin ở một vài bệnh nhân viêm gan virus C
được điều trị bằng interferon và ribavirin. Những thuận lợi cũng như không
thuận lợi được nhấn mạnh là cần thảo luận, bổ sung với một chuyên gia am
tường.
Hầu hết những trái cây tươi và rau chứa hàm lượng phong phú
vitamin C. Người ta có thể thấy rằng việc nấu phá huỷ vitamin C bên trong
thực phẩm. Hàm lượng vitamin C được đề nghị là khoảng 60 đến 72 mg mỗi
ngày. Hàm lượng này dễ dàng chứa trong một chế độ ăn khỏe mạnh. Một
người bệnh gan, người không dùng một chế độ ăn khỏe mạnh như những
người mắc bệnh gan do rượu với nhữnng calori đầu tiên của những người
này có được từ chế độ ăn là từ rượu, thì cần được ăn bổ sung vitamin C.
Ngoài ra, những người bệnh gan mà dùng thuốc ngừa thai uống, dùng thuốc
giảm đau nào đó, hay hút thuốc lá có thể giảm mức vitamin C trong cơ thể và
được yêu cầu bổ sung. Đối với tất cả những người mắc bệnh gan khác, việc bổ
sung vitamin C nói chung không cần thiết trừ khi được đề nghị trong những
tình huống đặc biệt khi được xác định bởi bác sĩ của họ.
Vitamin C bổ sung nên được dùng ở dạng ester hoá (Ester C) cho việc
hấp thu và hiệu quả tối đa. Vitamin C nhai có thể gây nên nguy hại cho răng
và nên tránh. Đấy là điều quan trọng đặc biệt đối với những người mắc bệnh
gan liên quan đến miệng khô (như PBC) và những người đang điều trị viêm
gan bằng interferon- những người cũng có xu thế bị những lỗ hổng răng
miệng.
b)Phức hợp vitamin B
Các vitamin B gồm có 8 vitamin khác nhau: thiamine (vitamin B1),
riboflavin (vitamin B2), niacin (vitamin B3), pantothenic (vitamin B5),
pyridoxine (vitamin B6), cyanocobalamin (vitamin B12), folate, và biotin. Tất
cả chúng, ngoại trừ việc quá liều niacin, là an toàn đối với người bệnh gan.

Sau đây là một thảo luận về mỗi vitamin.
**Thiamine (vitamin B1) cần thiết cho việc chuyển hoá các
carbohydrate thành năng lượng và được sử dụng trong não và hệ thần kinh.
Nó cũng hỗ trợ ngon miệng và tiêu hóa. Những triệu chứng của thiếu thiamin
bao gồm mất cảm giác ngon miệng, nhầm lẫn, mất cân bằng. Vitamin này
thường thiếu ở những người mắc bệnh gan. Dùng caffeine quá nhiều có thể
giảm lượng thiamine trong cơ thể. Khi những dấu hiệu thần kinh của thiếu
thiamin xảy ra ở những người mắc bệnh gan do rượu, thì nhập viện và bổ
sung thiamine tĩnh mạch ngay lập tức được yêu cầu.
Thiamin có thể tìm thấy ở các loại ngũ cốc hay những món ăn từ ngũ
cốc, bánh mì, gạo nâu, thịt lợn, gan, và đậu nành. Khoảng 5 mg là hàm lượng
tối đa thiamine có thể được hấp thu mỗi ngày từ việc bổ sung. Một vài “viên
thuốc chữa căng thẳng” (stress tablets) mà mục đích nhằm tăng năng lượng
chứa hơn 5 mg thiamine. Việc thừa vitamin này được thải ra khỏi cơ thể rất
đơn giản.
**Riboflavin (vitamin B2) quan trọng cho việc sản xuất năng lượng. Nó
giúp đẩy mạnh sự tăng trưởng và sửa chữa những cơ quan và mô, đặc biệt là
da, màng nhầy, mắt, và thần kinh. Cũng có vai trò trong việc tiêu hóa tốt. Nó
cho thấy hiệu quả trong việc ngăn ngừa đợt cấp của đau đầu migrain. Việc
thiếu có thể dẫn đến nứt và đau nhiều ở khóe miệng và những vấn đề về thị
lực. Việc dùng thuốc ngừa thai bằng đường uống và những bài tập thể dục
quá sức thỉnh thoảng dẫn đến việc thiếu riboflavin. Riboflavin có thể tìm thấy
ở ngũ cốc còn nguyên vỏ và cả ở những sản phẩm ngũ cốc tinh chế, cũng như
ở gan, sữa và những rau nhiều lá xanh. Nếu quá nhiều riboflavin được ăn
vào, thì nước tiểu sẽ trở nên màu vàng sáng, nhưng điều này không quan
trọng.
**Niacin (vitamin B3) được biết như nicotimic acid hay nicotinamide,
giúp đỡ chuyển hóa carbohydrate và mỡ thành năng lượng. Nó cần thiết cho
làn da khoẻ mạnh. Những lượng nhiều niacin thỉnh thoảng được kê đơn cho
những người có cholesterol cao. Nó có thể rất nguy hiểm cho những người

mắc bệnh gan, như liều quá 500 mg mỗi ngày có thể làm gan tổn thương nếu
dùng trong một thời gian dài. Vì vậy, những người bệnh gan được khuyên cố
tránh khỏi việc sử dụng quá nhiều vitamin này. Niacin cũng có thể gây ra đỏ
ở mặt, cánh tay, và ngực- nhưng vô hại. Nguồn thực phẩm có niacin gồm sữa,
trứng, thịt, rau, và đậu phộng.
**Pantothenic (vitamin B5) cần cho việc chuyển đổi protein,
carbohydrate, và mỡ thành năng lượng. Pantothenic acid cũng nâng cao chức
năng miễn dịch. Nó được biết như “vitamin cho stress”. Việc bổ sung hữu ích
những người viêm đa khớp dạng thấp (rheumatoid arthritis). Việc thiếu thì
không thường xuyên, bởi vì pantothenic acid được tổng hợp bởi vi khuẩn
sống ở ruột non. Tuy nhiên, việc thiếu có thể xảy ra thỉnh thoảng ở những
người uống rượu quá nhiều. Những lượng quá lớn vitamin này có thể đưa
đến tiêu chảy trầm trọng. Khi thiếu vitamin này có thể gây ra mệt và chán
nản. Nguồn thực phẩm có vitamin này gồm rau tươi, men làm rượu, trứng,
thịt và quả hạch.
**Pyridoxine (vitamin B6) cần cho việc chuyển hoá hiệu quả protein,
carbohydrates,và mỡ. Nó hỗ trợ trong việc sản xuất các hormon và tế bào
hồng cầu. Vitamin B6 được tìm thấy nhiều trong thực phẩm (thí dụ như gan,
cá hồi, quả hạch, gạo nâu, hầu hết các loại rau, và thịt) đến nỗi việc thiếu
vitamin này hiếm, ngoại trừ ở những người mắc bệnh gan do rượu. Thỉnh
thoảng, việc dùng thuốc ngừa thai bằng đường uống có thể tăng yêu cầu đối
với vitamin này. Những liều quá lớn pyridoxine có thể dẫn đến tổn thương
thần kinh.
**Cyanocobalamin (vitamin B12) thì cần để tạo những tế bào máu. Vì
vậy, việc thiếu vitamin này thường dẫn đến thiếu máu và mệt mỏi. Điều này
giải thích tại sao những người bệnh gan, những người chịu sự mệt mỏi quá
sức thường yêu cầu tiêm vitamin B12. Tuy nhiên, việc mong muốn rằng tiêm
sẽ đem đến một “gia tăng ngoạn mục” về sức lực là sai lầm. Vì vitamin này
được tìm thấy dễ dàng ở những sản phẩm động vật như thịt, cá, sữa, và
trứng, việc thiếu vitamin B12 là một lý do rất không thông thường gây mệt ở

những người bệnh gan.
Một vài ngoại lệ đối với tiêu chuẩn ở trên có thể có. Một ngoại lệ áp
dụng đối với những người mắc bệnh gan rượu (ALD) mà phần chủ yếu dinh
dưỡng của những người này thu được là từ rượu. Việc thiếu vitamin B12 có
thể xảy ra ở những người này. Do đó, khi rượu cản trở việc hấp thu của
vitamin B12, việc thiếu vitamin B12 có thể diễn ra nếu một người tiêu thụ một
lượng quá lớn rượu thậm chí cho dù người này duy trì một chế độ ăn cân đối
tốt . Việc thiếu vitamin này cũng có thể xảy ra ở những người mắc bệnh gan
mạn tính, những người phải duy trì một chế độ ăn chay nghiêm ngặt trong
một thời gian dài, như trường hợp những người này bị bệnh não mạn tính.
Cuối cùng, người già có khả năng hơn để thiếu vitamin B12 xảy ra. Điều này
là do acid dạ dày cần thiết để hấp thu vitamin này từ máu, và khi một người
nhiều tuổi thì số lượng acid ở trong dạ dày giảm xuống. Vì thế, những người
mắc bệnh gan mà trên 60 tuổi nên được kiểm tra việc thiếu vitamin B12.
Ngoài ra, những người mắc bệnh gan, những người dùng mạn tính thuốc ức
chế acid dạ dày- như ức chế H2 (ví dụ: pepcid, Axid, Tagamet, và Zantac) và
ức chế bơm proton (ví dụ: Prilosec, Prevacid, Aciphex, Nexium, và Protonix)-
tốt hơn nên được kiểm tra. Những triệu chứng của thiếu vitamin B12 bao
gồm thái độ quá khích, dễ kích động, nhịp tim nhanh, mệt mỏi, mất trí nhớ
trong từng thời gian ngắn, và rối loạn thần kinh trầm trọng.
** Folate cần cho chức năng não và là thành phần chủ yếu để tạo nên
những tế bào hồng cầu. Như với thiếu vitamin B12, việc thiếu hụt folate cũng
có thể gây nên việc thiếu máu. Trên thực tế, vitamin B12 phải hiện diện để
hoạt hoá folate, điều này giải thích cho việc thiếu hụt một chất xu hướng xảy
ra đồng thời thiếu hụt chất còn lại. Việc thiếu folate thì rất thường xảy ra ở
những người bệnh gan do rượu. Những phụ nữ sử dụng thuốc ngừa thai bằng
đường uống và những người điều trị hoá chất, đại diện là methotrexate có thể
yêu cầu việc bổ sung folate. Những triệu chứng thiếu folate bao gồm lưỡi đỏ
và đau nhức, mệt mỏi, và mất trí nhớ. Những lượng lớn folate có thể ngăn cản
sự hấp thu một vài dược phẩm nào đó và kẽm, và có thể làm che lấp những

dấu hiệu của thiếu vitamin B12. Nguồn có folate gồm rau nhiều lá xanh, cam,
lúa mạch, gạo nâu, pho mát, và ngũ cốc chưa tinh chế.
**Biotin cần cho sức khỏe của tóc, móng, và da. Nó được tạo ra nhờ
những vi khuẩn sống trong ruột non. Vì thế, không thường xuyên thiếu hụt
ngoại trừ số lượng lớn lòng trắng trứng sống được ăn, bởi vì chúng có thể
ngăn khả năng cơ thể hấp thu biotin. Biotin với liều 100 mg mỗi ngày có thể
giúp ngăn ngừa hay giảm việc rụng tóc mà thỉnh thoảng có liên quan đến việc
điều trị interferon. Hãy nhớ rằng điều thuận lợi này chỉ đơn thuần là một
chuyện phiếm và không được chứng minh, mặc dù nó cũng có thể đáng giá để
thử. Những nghiên cứu ban đầu cho thấy biotin có thể làm giảm sự đề kháng
insulin. Do đó, việc bổ sung biotin có thể có lợi đối với những người bệnh gan
nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD). Tuy nhiên, điều này cần được xác định
bởi những nghiên cứu sau này. Những nguồn dồi dào biotin gồm men để làm
bia, thịt gia cầm, và sữa.
B/CÁC KHOÁNG CHẤT

Các khoáng chất là các chất vô cơ, nghĩa là chúng không được tạo ra
bởi thực vật cũng như động vật. Chúng có ở trong đất và nước và được tập
hợp lại ở những mức độ thay đổi khác nhau để thành tất cả cuộc sống của
động và thực vật. Các chất khoáng có vai trò quan trọng trong hầu hết tất cả
các chức năng của cơ thể. Chúng có vai trò quan trọng cho việc sản xuất năng
lượng, điều hoà nhịp tim, và điều khiển trương lực cơ. Một chế độ ăn đa dạng
sẽ cung cấp đầy đủ số lượng phong phú tất cả các khoáng chất cần thiết để
thực hiện những họat động hàng ngày. Những khoáng chất lớn bao gồm
những khoáng mà cơ thể cần với khối lượng lớn. Chúng đặc biệt liên quan
đến những người mắc bệnh gan bao gồm calcium và nartri. Những khoáng
chất nhỏ là những khoáng chất mà cơ thể cần với số lượng một ít. Những
khoáng chất ít có liên quan đặc biệt đến những người mắc bệnh gan gồm
kẽm, sắt, và selenium. Sau đây là việc thảo luận về những khoáng chất này.
1/Calcium (Ca)


Calcium có vai trò quan trọng trong sức khỏe răng và xương, co cơ
bình thường, và đông cục máu. Hầu hết calcium trong cơ thể tập trung trong
xương. Không đầy đủ khối lượng calcium, xương trở nên mềm và dễ gãy.
Loãng xương là đặc trưng của việc giảm khối lượng xương và hậu quả là gia
tăng nguy cơ gãy xương. Loãng xương là thông thường đối với nhiều bệnh
gan, đặc biệt là bệnh gan có ứ mật như xơ gan tắc mật nguyên phát. Quan
trọng đối với tất cả những người bệnh gan mạn tính là sử dụng những thực
phẩm giàu calcium và, hoặc bổ sung chế độ ăn của họ khoáng chất này. Tuy
nhiên, điều quan trọng phải nhớ là chỉ bổ sung calcium sẽ không ngăn ngừa
được loãng xương. Những yếu tố khác như hút thuốc lá, thiếu tập luyện, sử
dụng quá nhiều rượu, và những mức hormon bất thường, đóng vai trò trong
việc tiến triển sự mất xương. Rượu được xem như là độc tố trực tiếp đối với
những tế bào xương và có thể làm giảm sự hấp thu xương. Vì vậy, điều quan
trọng đặc biệt đối với những người mắc bệnh gan do rượu là phải ăn bổ sung
calcium. Trên thực tế, như những gì đã nêu trên, ý kiến tốt đối với tất cả
những người mắc bệnh gan mạn tính là dùng bổ sung cả calcium và vitamin
D.
Những nguồn phong phú calcium gồm những sản phẩm bơ sữa, rau
nhiều lá xanh đậm (ngoại trừ spinach), đậu hũ, và cá mòi có xương đóng hộp.
Ngòai ra nhiều thực phẩm như nước cam ép cũng làm tăng thêm calcium. Ăn
quá nhiều calcium có thể cản trở sự hấp thu sắt và kẽm. Thêm vào đó, việc
dùng quá nhiều calcium cũng có thể gây nên sự thay đổi về những vấn đề sức
khỏe, bao gồm: sỏi thận, táo bón, và mệt mỏi. Như tất cả những sự bổ sung,
không chú ý đến lượng cho vào bao nhiêu, cơ thể chỉ sử dụng số lượng cần
thiết. Bất kỳ số thừa nào cũng sẽ bị đào thải ra khỏi cơ thể mà không được sử
dụng hay sẽ tích lũy và có thể gây nên những vấn đề về sức khỏe. Nếu việc bổ
sung calcium bằng đường uống thì nên giới hạn không quá 1.000 đến 2.500
mg mỗi ngày được chia làm hai lần, và nên dùng với vitamin D bổ sung (mà
thường được có cả trong viên calcium). Bởi vì acid dạ dày cần thiết để việc

hấp thu calcium tốt, nên các antacid như Tums sẽ làm giảm acid dạ dày, và
làm nghèo nguồn chất khoáng này. Vì thế, những ức chế H2 (như Zantac,
Pepcid, Axid và Tagamet) và những ức chế bơm proton (Protonix, Nexium,
Prevacid, Prilosec, và Aciphex) có thể giảm hấp thu calcium. Dùng đồng thời
với biphosphonate (như Fosamax) và calcium, cả hai cùng được dùng để điều
trị loãng xương, có thể giảm việc hấp thu của biphosphonate, và vì thế nên
dùng ở những thời điểm khác nhau trong ngày.
2/Natri (Na)

Natri là một khoáng chất mà cơ thể yêu cầu để duy trì một cách cân
đối sự cân bằng nước. Natri chỉ ở trong tự nhiên dưới dạng liên kết với
chloride, một khóang chất khác. Natriclua thường được biết như muối. Cơ
thể yêu cầu khoảng 50 đến 400 mg natri mỗi ngày. Cho đến bây giờ, trung
bình người Mỹ tiêu thụ khoảng 25 đến 30 lần số lượng này! Trong khi việc sử
dụng quá nhiều muối này không nguy hại đến hầu hết những người khoẻ
mạnh, thì nó có thể gây nên những vấn đề cho một người bị bệnh gan tiến
triển.
Xơ gan mất bù có thể dẫn đến trướng bụng (việc lắng đọng bất thường
dịch trong bụng). Nếu không điều trị trong một khoảng thời gian, dịch báng
này có thể bị nhiễm trùng (một tình trạng được biết như viêm phúc mạc vi
khuẩn tự phát). Những người có trướng bụng phải có một chế độ ăn hạn chế
muối nghiêm khắc. Đối với mỗi một gram muối ăn vào, gây nên tích lũy được
200 ml dịch. Ăn natri vào được giảm đi trong chế độ ăn thì tốt hơn để kiểm
soát việc tích lũy lượng dịch thừa này. Đối với những người trướng bụng, việc
ăn natri nên được hạn chế ít hơn 1.000 mg mỗi ngày và tốt nhất là dưới 500
mg. tiêu chuẩn này thì khó, chưa thể đạt tới được.
Để thực hiện thành công một chế độ ăn hạn chế muối, cần phải trở
thành một người đi chợ hiểu biết và cẩn thận đọc tất cả những nhãn thức ăn.
Mọi người thường ngạc nhiên khi phát hiện rằng các thức ăn có hàm lượng
natri cao (xem bảng 23.4: hàm lượng natri trong một số thực phẩm thông

thường). Những hướng dẫn nói chung cho thấy lượng natri là như sau: lượng
natri ở trong những thực phẩm tươi thì có ý nghĩa ít hơn là cùng những thực
phẩm này sau khi chúng đã được chế biến, ướp muối, đóng hộp, hay đông
lạnh; bởi vậy, lựa chọn những thực phẩm tươi không phải khi nào cũng có
thể. Muối hạt và muối được sử dụng trong nấu ăn nên loại bỏ hoàn toàn khỏi
chế độ ăn. Một thìa súp muối hột chứa 2.325 mg natri! Tất cả những thực
phẩm đóng hộp và những thực phẩm từ những nhà hàng thức ăn nhanh nên
tránh. Một vài thuốc bán không cần toa bác sĩ có hàm lượng natri cao. Ví dụ:
một viên Rolaids chứa 53 mg natri, hai viên Alka- Seltzer chứa 567 mg natri,
và một gói Bromo- Seltzer chứa 717 mg natri. Những dược phẩm này được
thay thế bằng những sản phẩm có hàm lượng natri thấp hơn. Nếu nhãn trên
một dược phẩm hay sản phẩm khác không ghi rõ ràng hàm lượng natri, một
dược sĩ có thể cung cấp thông tin này hay cung cấp cách để có được điều này.
Thịt, đặc biệt là thịt đỏ, có hàm lượng natri cao. Cho nên, thực hiện một chế
độ ăn kiêng có thể trở thành cần thiết đối với những người đang trướng bụng
trầm trọng. Gia vị như húng quế, ớt thì là, dấm có thể được thay thế muối
như một gia vị thức ăn. Muối được thay thế chứa kali chlorua nên tránh.
Những thay thế này có xu hướng tăng lượng kali trong cơ thể. Điều này có thể
đặc biệt nguy hiểm cho những người dùng spironolactone (Aldactone), một
thuốc lợi tiểu giữ kali (viên thuốc nước) được dùng điều trị trướng bụng.
Thật may là nhiều thực phẩm trên thị trường được sản xuất đặc biệt
những sản phẩm natri thấp. Hơn nữa, từ năm 1986, FDA đã yêu cầu là hàm
lượng natri của tất cả các thực phẩm chế biến được ghi trên nhãn đóng gói.
Qui định này là một lợi cho người tiêu dùng. Những người bệnh gan mà
không trướng bụng được khuyên cố tránh việc ăn quá nhiều muối, cho dù họ
không cần hạn chế việc ăn của họ nghiêm ngặt như những người có trướng
bụng.
Bảng 23.4. Hàm lượng natri của những thực phẩm thông thường.

3/Sắt (Fe)

Có hai loại sắt cho chế độ ăn. Sắt Heme (động vật) được tìm thấy ở
những thực phẩm động vật, như thịt đỏ, được hấp thu tốt từ chế độ ăn. Sắt
không heme ở những thực phẩm thực vật, như spinach, được hấp thu ít vào
trong cơ thể. Người ta đã nhầm: spinach không là một nguồn nhiều sắt. Trên
thực tế, chỉ khoảng 15% sắt động vật được ăn vào và chỉ 3% sắt thực vật
được ăn vào đã thật sự được hấp thu bởi cơ thể. Trung bình người Mỹ tiêu
thụ khoảng 10 đến 20 mg sắt mỗi ngày. Để tăng việc hấp thu sắt thực vật vào
cơ thể, việc bổ sung vitamin C nên được dùng cùng thời điểm. Mặt khác, trà
chứa tannin (một chất thực vật), ức chế lượng sắt được hấp thu từ chế độ ăn.
Và sắt giảm hiệu quả vitamin C khi được ăn cùng.
Số lượng sắt trong cơ thể thường vào khoảng 3 đến 4 gram (50 mg/kg ở
nam và 40 mg/kg ở nữ). Những người có khả năng giới hạn về đào thải lượng
sắt thừa khỏi cơ thể. Trên thực tế, chỉ khoảng 1 đến 2 mg sắt có khả năng
được đào thải khỏi cơ thể mỗi ngày. Vì vậy, nếu quá nhiều sắt được ăn vào
(bất kỳ là trong thực phẩm hay việc bổ sung), sẽ làm thừa sắt trong cơ thể.
Sắt thừa này sẽ được dự trữ đầu tiên ở gan. Theo cách thông thường, gan là
một phần của cơ thể mà dễ bị ảnh hưởng nhất bởi độc tố của sắt.
Sắt là một phần quan trọng của hemoglobin - protein chịu trách nhiệm
phân phát oxygen cho các tế bào và cơ quan trong cơ thể. (một tế bào hồng
cầu mang xấp xỉ 270 phân tử hemoglobin, mỗi hồng cầu chứa 4 phân tử sắt).
Sắt cũng có một thành phần của myoglobin - protein chịu trách nhiệm phân
phát oxygen đối với cơ. Cuối cùng, sắt giúp tạo nên adenosine triphosphate
(ATP), một thành phần quan trọng của năng lượng. Vì vậy, thông thường có
sự liên quan của sắt với năng lượng và sức khỏe. Thật thú vị, việc liên kết
giữa mệt mỏi và thiếu sắt đã mang lại chú ý của cộng đồng người Mỹ bởi sự
quảng cáo ở thập niên 1960 đối với việc bổ sung Geritol, thuốc đã được phổ
thông hóa lúc giai đoạn máu thiếu sắt. Những người mắc bệnh gan thường
cho rằng khi họ cảm thấy yếu và mệt, họ cần dùng bổ sung sắt. Nhưng dùng
bổ sung sắt ở dưới tình huống như thế thì luôn không phải một biện pháp
thông minh và trên thực tế có thể nguy hiểm. Những triệu chứng của thiếu sắt

và thừa sắt có thể hoàn toàn giống nhau – mệt mỏi, đau đầu, và thở nông.
Ngòai ra, việc mệt mỏi thường liên quan đến bệnh gan hơn so với lượng sắt
trong cơ thể. Vì vậy, trước khi dùng sắt bổ sung, điều quyết định đối với một
người bệnh gan là kiểm tra máu người bệnh để thu được sơ lược lượng sắt
của bệnh nhân. Nếu điều đó xác định là việc bổ sung sắt là cần thiết, thì có thể
gây ra phân đen. Điều này có thể bị nhầm với tiêu phân đen do chảy máu
đường tiêu hóa trên do dãn tĩnh mạch thực quản. Luôn phải báo với bác sĩ
của bạn nếu điều này xảy ra.
Quá tải sắt trong cơ thể của một bệnh nhân gan có thể là rất nguy
hiểm. Trong việc quá thừa, thì sắt là độc chất của gan và có thể dẫn đến xơ
gan, suy gan, và ung thư gan. Vì thế, có nhiều bằng chứng rằng số lượng sắt
thậm chí tăng trung bình (hay thậm chí thỉnh thoảng bình thường) có thể gây
nên hay gia tăng số lượng tổn thương đối với gan khi một người có bệnh gan.
Điều này gây ra chủ yếu đối với những người mắc bệnh gan do rượu và viêm
gan virus C mạn. Trên thực tế, thừa sắt thỉnh thoảng được thấy ở những
người mắc bệnh gan do rượu cũng như những người viêm gan virus C mạn
và cho thấy làm xấu hơn kết quả của những bệnh này và giảm đáp ứng của
điều trị. Sẹo của gan và sự tổn thương tế bào gan liên quan trực tiếp đến khối
lượng sắt trong gan. Vì cơ thể của một người không có khả năng đào thải
được quá nhiều sắt, không được bổ sung sắt hay các vitamin chứa sắt trong
chế độ ăn của một người bệnh gan trừ khi được xác định là người đó có thiếu
sắt.
Hemochromatosis là một bệnh di truyền thừa sắt. Những người mắc
bệnh này và những người mắc bệnh có hàm lượng sắt cao bởi những rối lọan
khác của gan nên tránh nấu ăn với đồ nấu bằng gang và nên tránh ăn với
những dụng cụ bằng gang. Những người này chỉ nên ăn khối lượng trung
bình thức ăn có hàng lượng sắt cao (xem bảng 23.5: hàm lượng sắt ở một vài
thực phẩm thông dụng). Do đó một vài thảo dược thường được dùng để điều
trị bệnh gan (ví dụ: mủ cây kế, cây bồ công anh, và cam thảo) có thể chứa sắt.
Vì vậy, những người hemochromatosis hay những bệnh khác liên quan đến

thừa sắt nên tránh những thảo dược này.
Bảng 23.5. Hàm lượng sắt của một vài thực phẩm thông dụng

4/Kẽm (Zn)

Kẽm có vai trò chủ yếu đối với chức năng bình thường của hệ miễn
dịch, quan trọng đối với cảm giác vị giác và khứu giác, và có thể bảo vệ gan
khỏi sự tổn thương hóa học. Một vài nhà nghiên cứu tin rằng kẽm thậm chí
có thể bảo vệ cơ thể khỏi các virus, bao gồm cảm lạnh thông thường.
Kẽm cần thiết cho hiệu quả họat động của vitamin A. Do đó, thường là
trường hợp những người thiếu kẽm cũng thiếu vitamin A. Việc thiếu kẽm có
thể xảy ra ở những người xơ gan, đặc biệt khi xơ gan do dùng rượu quá
nhiều. Điều này có thể là do thiếu kẽm từ chế độ ăn vào hay từ việc giảm hấp
thu kẽm từ đường tiêu hóa. Việc thiếu này cũng có thể là do việc tăng đào thải
kẽm qua nước tiểu. Việc thiếu kẽm có thể gây ra giảm cảm giác ngon miệng,
mệt mỏi, móng dễ gãy, tóc rụng, và việc lành vết thương chậm. Những triệu
chứng này diễn ra ở một vài người bệnh gan do rượu. Bổ sung kẽm được đề
nghị nếu sự thiếu hụt được phát hiện. Một vài nghiên cứu cho rằng kẽm có
thể giúp cải thiện tình trạng thần kinh ở những người bị bệnh não.
Thêm kẽm đối với điều trị interferon ở những bệnh nhân viêm gan
virus C có thể gia tăng tỉ lệ đáp ứng tiệt trừ virus. Mặc dù điều thuận lợi này
không được chứng minh: là việc bổ sung chế độ ăn một viên 30 mg kẽm bằng
đường uống từ một hay hai lần một ngày trong khi điều trị interferon. Khi
liều dùng hàng ngày lên tới 100 mg kẽm có thể gia tăng hệ miễn dịch và cải
thiện cơ hội của người bệnh đối với việc đáp ứng interferon, một lượng quá
nhiều chất này có thể nguy hiểm và thậm chí có thể làm suy giảm hệ miễn
dịch. Thêm vào đó, dùng quá nhiều kẽm có thể dẫn đến buồn nôn, nôn, và
tiêu chảy.
Nguồn phong phú kẽm gồm thịt bò, gan, men làm bia, hải sản, lòng đỏ
trứng, cá, và đậu lima.

5/Selenium (Se)
Selenium là một chất chống oxy hóa mà có thể kích thích hệ miễn dịch
và bảo vệ chống lại những ung thư nào đó. Selenium và vitamin E hoạt động
cùng nhau để giúp duy trì sức khỏe tim mạch và gan và giúp trong việc sản
xuất kháng thể. Selenium có thể giúp bảo vệ gan của những người mắc bệnh
gan do rượu. Người ta đã thấy việc gia tăng cả tế bào hồng cầu và bạch cầu ở
những người bị AIDS. Dù là chưa có nghiên cứu cụ thể về vấn đề này, người
ta thấy rằng selenium có thể làm giảm biến chứng giảm số lượng tế bào hồng
cầu và bạch cầu là những tác dụng phụ xảy ra khi điều trị interferon và
ribavirin ở bệnh viêm gan virus C mạn.
Việc thiếu selenium có liên quan đến mệt, bệnh tim, bệnh gan, và vô
sinh. Mức selenium thấp được tìm thấy ở những người viêm gan virus B và C,
và người ta mặc nhiên công nhận là việc thiếu này có thể thúc đẩy quá trình
xơ gan và ung thư gan. Nguồn selenium gồm quả hạnh brazil, men làm bia,
cây bông cải xanh, gạo nâu, và gà. Nếu việc bổ sung selenium là cần thiết, thì
liều đề nghị là 100mcg mỗi ngày. Không được quá 200 mcg mỗi ngày, bởi vì
mức selenium cao cũng liên quan với bệnh gan, thêm vào đó móng dễ gãy,
rụng tóc, và thở hôi.

×