Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Tài liệu Bạn biết gì về franchising? (Tiếp theo và hết) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.34 KB, 6 trang )

Bạn biết gì về franchising?
(Tiếp theo và hết)

Đây là phần cuối cùng trong bài viết về franchising, với những lưu ý quan
trọng mà bất kỳ đơn vị mua nhượng quyền tiềm năng nào cũng cần tham khảo trước
khi đi đến quyết định bắt đầu hình thức kinh doanh này.
Từ 12 điều khoản bất lợi nhất đối với đơn vị mua quyền kinh doanh
1. Những quy định “khóa miệng”. Một vài điều khoản có thể ngăn
cản sự tranh luận về bất kỳ khía cạnh nào từ phía đơn vị nhận nhượng quyền
với bất kỳ đối tượng nào bên ngoài hệ thống. Điều này đã vi phạm các quy ước
về Hợp đồng chuyển nhượng quyền kinh doanh và một số luật khác về yêu cầu
những công ty mua quyền kinh doanh phải được cung cấp đầy đủ những thông
tin và quyền lợi khách quan cần thiết.

2. Những điều khoản về nơi gặp gỡ với công ty bán quyền. Điều
khoản này đòi hỏi mọi quá trình thương thảo về tranh chấp, phân xử liên quan
đến vấn đề nhượng quyền phải được diễn ra tại địa phương nơi tọa lạc của công
ty bán quyền. Việc này không chỉ làm tăng lên đáng kể chi phí về phía đơn vị
mua nhượng quyền, mà còn tạo điều kiện cho công ty bán quyền được hưởng
phần ưu thế trong tranh chấp, phân xử khi trọng tài cũng chính là “hàng xóm”
của họ.

3.
Thiếu giai đoạn nỗ lực để thích ứng lẫn nhau. Rất nhiều hợp
đồng nhượng quyền cho phép công ty bán quyền được hưởng 30, 60 hay 90
ngày để đơn phương xóa hợp đồng với bất cứ nguyên cớ gì, một số thậm chí
còn không cho phép bên mua quyền được khắc phục, nếu sai phạm thuộc về
phía họ. Mặt khác, một số thỏa thuận nhượng quyền còn không đồng ý xem xét
giai đoạn thích ứng này vì bất cứ lý do gì từ phía đơn vị mua quyền. Người Mỹ
có câu: Cái gì có thể áp dụng cho người này thì tất nhiên cũng có thể áp dụng
cho người khác.



4.
Những điều khoản đơn phương thiếu tính cạnh tranh. Có
không ít các hợp đồng nhượng quyền áp đặt những điều khoản mang tính chất
không cạnh tranh trong giai đoạn hậu hợp đồng, cả về mặt thời hạn thời gian
cũng như không gian địa lý. Cùng lúc đó, nhiều hợp đồng nhượng quyền cho
phép bên bán bố trí những đơn vị cạnh tranh của họ ở bất cứ nơi nào họ muốn.
Nếu bên bán muốn bảo hộ các đơn vị của mình khỏi sự cạnh tranh trực tiếp từ
phía các công ty mua quyền sau khi thỏa thuận hết hiệu lực, tại sao bên mua
quyền lại không có quyền được bảo vệ đó ngay trong thời gian hợp đồng còn
hiệu lực?

5.
Luật lệ về nguồn cung ứng. Đôi khi có những hệ thống nhượng
quyền hướng đến sản phẩm (product-oriented) đòi hỏi bên mua chỉ có thể mua
sắm cho mình những thiết bị từ một nguồn duy nhất là bên bán quyền kinh
doanh, hoặc từ những nhà cung cấp được chỉ định bởi công ty bán quyền. Ở
đây, điều khoản này không cho phép công ty mua sắm thiết bị từ những nguồn
tự tìm kiếm, thậm chí ngay cả khi tiêu chuẩn chất lượng có cao hơn. Việc này
sẽ dẫn đến hậu quả là toàn bộ lợi nhuận của bên mua trước sau vẫn chỉ nằm
trong tay bên bán.

6.
Sự cho thuê lại có tính bắt buộc mà không quan tâm đến quyền
lợi bên mua. Nhiều hệ thống nhượng quyền yêu cầu bên mua phải thuê lại
những địa điểm kinh doanh từ bên bán quyền, sau khi công ty này thuê các cơ
sở từ người chủ đất. Những hoạt động dạng này cho phép bên bán tham gia vào
thị trường bất động sản và đem về lợi nhuận lớn mà sẽ không gặp phải bất cứ
rủi ro nào. Thêm vào đó, thực tế bất công và ý nghĩa đằng sau nó rất hiếm khi
được thể hiện trong những thông tin mời gọi nhượng quyền kinh doanh.


7.
Thiếu chế độ kế toán minh bạch trong quỹ quảng cáo. Năm
tháng trôi qua, các hợp đồng nhượng quyền ngày càng được mở rộng theo
hướng cung cấp cho bên bán sự tự do tối đa trong việc sử dụng ngân quỹ dành
cho quảng cáo. Các hợp đồng thường được soạn thảo sao cho bên bán được
phép chi tiêu những đồng đô-la quảng cáo, trong khi những công ty mua quyền
lại phải nỗ lực kinh doanh để đóng góp cho quỹ này.

8.
Không có điều khoản về thanh toán phí giữa hai phía. Nhiều
thỏa thuận nhượng quyền đòi hỏi bên mua phải trả mọi khoản tiền liên quan đến
những chi phí công tác hay tranh chấp của bên bán (mà theo luật định phải là do
bên bán chịu).

9.
Tiền “lại quả”. Có một số thỏa thuận nhượng quyền công khai
thừa nhận rằng bên bán có quyền ký kết hợp đồng với đơn vị bán lẻ sản phẩm
và dịch vụ để cung cấp hàng cho bên mua sau khi các đơn vị này ký kết hợp
đồng nhượng quyền. Trên thực tế rất hay xảy ra trường hợp những đơn vị bán lẻ
này thể hiện sự “biết ơn” bằng khoản chi phí dành cho quảng cáo và khoản hoa
hồng cho công ty bán quyền để đổi lấy việc họ được phép độc quyền bán sản
phẩm và dịch vụ cho các đơn vị mua quyền. Số tiền chênh lệch đó, thay vì phải
được chuyển cho các công ty mua quyền để hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi
nhuận, lại quay trở về két của bên bán quyền.

10. Những quy định bắt buộc về trọng tài. Bởi vì việc thuê trọng tài
không thể nhanh chóng và lại quá tốn kém, nên nó mang theo vô số những điều
bất lợi cho những công ty mua quyền kinh doanh. Quá trình phân xử luôn được
giữ kín, chưa kể khả năng của bên mua quyền thu thập đủ chứng cứ có lợi và

giành được ưu thế đối với bên bán quyền là rất hạn chế.

11.
Hợp đồng mới có sự thay đổi hoàn toàn. Khi sắp đến thời điểm
chấm dứt hợp đồng nhượng quyền, rất nhiều công ty mua quyền kinh doanh
phát hiện ra rằng, hợp đồng họ sắp ký là một thỏa thuận nhượng quyền hoàn
toàn mới với nhiều điều khoản xa lạ chưa được xem xét và thông qua trước đó.
Những điểm khác biệt thường liên quan đến cơ sở vật chất, tài chính và các
điều khoản về quá trình hoạt động.

12.
Những sửa đổi đơn phương trong hợp đồng nhượng quyền. Có
những hợp đồng nhượng quyền cho phép bên bán có thể thường xuyên thay đổi
những hoạt động thường nhật hay các chính sách của công ty mà không cần
thông báo, hay không cần sự cho phép của các công ty mua quyền. Như vậy,
bên bán có quyền đơn phương thay đổi điều khoản trong hợp đồng, chưa kể bên
mua rất hiếm có cơ hội kiểm tra hoạt động của bên bán.

… đến những vấn đề đơn vị mua nhượng quyền phải đối mặt
1. Từ chối những quyền lợi hợp pháp. Sau khi đạt được thỏa thuận
về nhượng quyền kinh doanh, hợp đồng nhượng quyền sẽ thường đòi hỏi đơn vị
mua quyền tiềm năng phải từ chối một số quyền lợi dưới áp lực của luật
nhượng quyền quốc gia hay địa phương. Bên bán sẽ bị hạn chế trong việc đòi
hỏi bên mua đồng ý với những điều khoản đặc thù nào đó trong hợp đồng
nhượng quyền- đây thường là những điều khoản được đưa ra để giảm bớt gánh
nặng trách nhiệm hay nghĩa vụ cho bên bán ở những địa phương có quy định
luật pháp khác nhau.

2.
Tự do lập hiệp hội. Có một con số đáng kinh ngạc của các công

ty bán nhượng quyền cùng nhau dàn xếp và áp dụng chiến thuật dọa dẫm để
ngăn chặn những đơn vị mua quyền của họ liên kết lại hay tổ chức thành các
hiệp hội độc lập. Các đơn vị mua quyền được coi là “dẫn đầu” lại thường bị lừa
phỉnh bởi chính những công ty bán quyền của họ. Việc tự do thành lập hiệp hội
là quyền căn bản được hiến pháp cho phép đã bị các công ty bán quyền kinh
doanh phủ nhận.

3.
Không có nghĩa vụ tài chính. Nghĩa vụ tài chính dụng là đặc
điểm chung của rất nhiều hoạt động kinh doanh. Mối quan hệ trong hình thức
nhượng quyền là quan hệ đặc biệt phù hợp với những nghĩa vụ của nó. Hai bên
là những đối tác khác xa nhau về sức mạnh tiềm năng: bên bán sở hữu một
lượng thông tin khổng lồ, điều mà bên mua không có được; và hoạt động kinh
doanh của bên mua hoàn toàn dựa trên “lòng tốt” của bên bán. Các đơn vị mua
quyền kinh doanh cảm thấy công ty bán quyền chỉ có một phần nghĩa vụ tài
chính dụng rất hạn chế, vì thế họ tỏ ra rất miễn cưỡng khi phải đảm bảo những
tiêu chuẩn khắt khe trong việc quản lý sổ sách thu chi hay kế toán với tư cách
của một đơn vị mua quyền, hoặc khi điều hành quỹ quảng cáo hay xúc tiến
thương mại đòi hỏi bên mua phải đóng góp.

4.
Sự lấn át. Công ty bán quyền kinh doanh quả là “chơi không
đẹp”, khi một mặt thuyết phục đơn vị mua quyền bỏ vốn đầu tư để tạo dựng
hoạt động kinh doanh, một mặt lại lập đại lý cạnh tranh đặt cách đó không xa,
gây ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của đơn vị mua quyền. Vì vậy, cần có
các điều khoản hạn chế các công ty bán quyền để họ không thể lấn át những đối
tác kinh doanh của chính mình- những đơn vị mua quyền kinh doanh.

5.
Ý đồ lừa gạt. Thiện ý được xác nhận rõ ràng trong hợp đồng và

trong luật thương mại, đồng thời phù hợp với những quan hệ nhượng quyền
được xác định bằng văn bản. Thiện ý không bao giờ ngụ ý rằng những điều
khoản thể hiện trên giấy tờ sẽ được thay đổi, mà thiện ý thể hiện rằng bên bán
và bên mua sẽ chắc chắn có đủ lý lẽ, thực tế và tính công bằng trong việc thực
thi quyền lợi theo hợp đồng. Một công ty bán quyền kinh doanh không thể được
“miễn dịch” với những hậu quả do chính ý đồ xấu của mình gây ra, bởi vì tòa
án sẽ buộc họ thực hiện một cách đầy đủ và nghiêm túc các nghĩa vụ của công
ty bán quyền.

6. Bán hoặc sang nhượng. Khi một người kinh doanh nhỏ muốn
bán lại công việc kinh doanh của mình, anh ta chỉ việc đặt ra mức giá mình
thích, tìm người mua rồi bán công việc đó. Tuy nhiên, khi một đơn vị mua
quyền kinh doanh muốn sang nhượng lại cơ sở của mình, công ty bán quyền sẽ
ra yêu cầu và đặt điều kiện cho việc mua bán đó.

7.
Chấm dứt hợp đồng. Chỉ cần các bên tuân thủ nguyên tắc là hợp
đồng nhượng quyền không được chấm dứt một cách tùy tiện, còn lý do xác
đáng sẽ được đưa ra khi một trong hai bên muốn kết thúc hợp đồng.

8.
Những điều khoản chưa thực hiện. Quan hệ nhượng quyền gần
như luôn bao gồm những điều khoản liên quan đến nghĩa vụ trong giai đoạn hậu
hợp đồng, không cho phép bên mua quyền trở thành một đơn vị kinh doanh độc
lập trong cùng lĩnh vực sau khi hợp đồng chấm dứt hiệu lực. Điều này có tác
dụng đảm bảo cho bên bán quyền rằng tất cả vật tư, thiết bị cung cấp cho bên
mua sẽ không được sử dụng lại. Bên mua cũng không được phép lợi dụng tên
tuổi, thương hiệu, bí quyết của bên bán, và phải hoàn trả lại tất cả cho bên bán.



×