Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Tài liệu Tổng quan về thương mại điện tử - internet (P6) docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (208.58 KB, 8 trang )

Tổng quan về thương mại điện tử - internet (P6)
Đạo luật mẫu về thương mại điện tử của
UNCITRAL

(Uỷ ban Liên hiệp quốc về luật thương mại quốc tế)
Phần một: THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ NÓI CHUNG
Chương I: Các quy định chung

Ðiều 1. Phạm vi điều chỉnh
Ðạo luật này có hiệu lực áp dụng đối với mọi loại thông tin dưới dạng một
thông điệp dữ liệu trong khuôn khổ các hoạt động thương mại

Ðiều 2. Các định nghĩa
Trong đạo luật này, các từ ngữ được hiểu như sau:
(a) "Thông điệp dữ liệu" là thông tin được tạo ra, *** đi, tiếp nhận hoặc
lưu trữ bằng phương tiện điện tử, quang học hoặc các phương tiện tương
tự, và bao gồm, nhưng không phải chỉ bao gồm, trao đổi dữ liệu điện tử
(EDI), thư điện tử, điện tín, điện báo hoặc FAX;
(b) "Trao đổi dữ liệu điện tử" (EDI) là việc chuyển giao thông tin từ máy
tính điện tử này sang máy tính điện tử khác bằng phương tiện điện tử mà
sử dụng một tiêu chuẩn đã được thoả thuận để cấu trúc thông tin;
(c) "Người khởi phát" một thông điệp dữ liệu là người hoặc nhân danh
người ấy, *** hoặc tạo ra thông điệp dữ liệu ấy trước khi nó được lưu trữ,
nếu có, nhưng không bao gồm người đứng làm trung gian đối với thông
điệp dữ liệu đó;
(d) "Người tiếp thụ" một thông điệp dữ liệu là người mà người khởi phát
chủ định sẽ tiếp nhận thông điệp dữ liệu đó, nhưng không bao gồm người
đứng làm trung gian đối với thông điệp dữ liệu đó;
(e) "Người trung gian" đối với một thông điệp dữ liệu cụ thể, là người nhân
danh một người khác mà ***, nhận hoặc lưu trữ thông điệp dữ liệu đó
hoặc cung ứng các dịch vụ liên quan tới thông điệp dữ liệu đó;


(f) "Hệ thống thông tin" là một hệ thống tạo ra, *** đi, tiếp nhận, lưu trữ,
hoặc xử lý bằng cách khác các thông điệp dữ liệu;

Ðiều 3: Diễn giải
(1) Khi diễn giải Ðạo luật này, phải tham chiếu tới nguồn gốc quốc tế của
nó và tới nhu cầu thúc đẩy tính thống nhất trong khi áp dụng nó, và tới
việc tôn trọng sự ngay tình.
(2) Các vấn đề liên quan tới các tình huống được điều chỉnh bưỏi Ðạo luật
này mà không được giải quyết phù hợp với các nguyên tắc chung mà Ðạo
luật này lấy làm cơ sở.

Ðiều 4: Sai biến theo thoả thuận
(1) Trong quan hệ giữa các bên tham dự vào việc tạo ra, ***, nhận, lưu
trữ hoặc xử lý bằng cách khác các thông điệp điện tử, các điều khoản của
chương III có thể được sửa đổi theo thoả thuận, trừ trường hợp có quy
định khác.
(2) Ðoạn (1) không ảnh hưởng tới bất kỳ quyền nào mà có thể đã có về
việc sửa đổi theo thoả thuận, bất kỳ quy tắc pháp lý nào được đề cập tại
chương III
Chương II: Các điều kiện luật định đối với các thông điệp dữ liệu

Ðiều 5. Công nhận pháp lý các thông điệp dữ liệu
Hiệu lực pháp lý, tính giá trị hoặc hiệu lực thi hành của thông tin không
thể bị phủ nhận chỉ vì lý do thông tin ấy được thể hiện dưới dạng một
thông điệp dữ liệu.

Ðiều 6. Văn bản viết
(1) Trong trường hợp pháp luật đòi hỏi thông tin phải thể hiện bằng văn
bản viết, thì một thông điệp dữ liệu được coi là thoả mãn đòi hỏi ấy nếu
thông tin hàm chứa trong đó là có thể truy cập được để sử dụng cho mục

đích tham chiếu sau này; và
(2) Ðoạn (1) được áp dụng dù đòi hỏi hàm chứa trong nó là dưới dạng một
nghĩa vụ bắt buộc hay chỉ đơn thuần vì luật pháp có quy định các hệ qủa
pháp lý đối với thông tin không thể hiện dưới dạng văn viết.
(3) Các quy định tại điều này không áp dụng cho các trường hợp sau đây:
( (.

Ðiều 7. Chữ ký
(1) Trong trường hợp pháp luật đòi hỏi phải có chữ ký của một trong người
nào đó, thì một thông điệp dữ liệu được coi là đáp ứng đòi hỏi ấy nếu:
(a) có sử dụng một phương pháp nào đó để xác minh được người ấy và
chứng tỏ được sự phê chuẩn của người ấy đối thông tin hàm chứa trong
thông điệp dữ liệu đó; và
(b) phương pháp ấy là đủ tin cậy với nghĩa là thích hợp cho mục đích mà
theo đó thông điệp dữ liệu ấy đã được tạo ra và truyền đi, tính đến tất cả
các cảnh huống, bao gồm cả các thoả thuận bất kỳ có liên quan.
(2) Ðoạn (1) được áp dụng dù đỏi hỏi hàm chứa trong nó là dưới dạng một
nghĩa vụ bắt buộc hay chỉ đơn thuần vì luật pháp có quy định các hệ quả
pháp lý đối với sự thiếu chữ ký.
(3) Các quy định tại điều này không áp dụng cho các trường hợp sau đây:
( (.

Ðiều 8. Bản gốc
(1) Trong trường hợp luật pháp đòi hỏi thông tịn phải được xuất trình hoặc
lưu trữ dưới dạng bản gốc, thì một thông điệp dữ liệu được coi là đáp ứng
đòi hỏi ấy nếu:
(a) có sự đảm bảo đủ tin cậy về tính toàn vẹn của thông tin kể từ lúc nó
lần đầu được tạo ra dưới dạng hoàn chỉnh như một thông điệp dữ liệu
hoặc theo cách khác; và
(b) khi có đòi hỏi thông tin ấy phải được xuất trình, thì thông tin có khả

năng được hiển thị ra cho người mà nó phải hiển thị.
(2) Ðoạn (1) được áp dụng dù đòi hỏi hàm chứa trong nó là dưới dạng một
nghĩa vụ bắt buộc hay chỉ đơn thuần vì luật pháp có quy định các hệ quả
pháp lý đối với thông tin không được xuất trình hoặc lưu trữ dưới dạng văn
bản gốc.
(3) Để đáp ứng phân đoạn (a) của đoạn (1):
(a) các tiêu chuẩn thẩm định tính toàn vẹn là thông tin vẫn còn hoàn
chỉnh và không bị thay đổi, không kể các bổ sung do bất kỳ lần ký hậu
nào và bất kỳ sự thay đổi nào phát sinh ra trong tiến trình bình thường
của việc truyền *** lưu trữ và hiển thị: và
(b) tiêu chuẩn tính đủ tin cậy theo dõi đòi hỏi phải được đánh giá căn cứ
vào mục đích mà theo đó thông tin đã được tạo ra, tính tất cả các cảnh
huống có liên quan.
(4) Các quy định tại điều này không áp dụng cho các trường hợp sau đây:
( (.

Ðiều 9. Tính khả dung và giá trị chứng cứ của các thông điệp dữ
liệu:
(1) Trong bất kỳ thủ tục pháp lý nào, đều không được viện dẫn bất cứ
hiệu lực áp dụng nào của các quy định về chứng cứ để bác bỏ tính khả
dung như chứng cứ của một thông điệp dữ liệu:
(a) chỉ vì lý do duy nhất rằng nó là một thông điệp dữ liệu: hoặc
(b) lấy lý do nó không ở dạng bản gốc mà không chấp nhận nó là chứng
cứ có giá trị nhất mà người viện dẫn nó có thể có được.
(2) Thông tin dưới dạng một thông điệp dữ liệu phải được hưởng giá trị
bằng chứng xứng đáng. Khi thẩm định giá trị chứng cứ của một thông điệp
dữ liệu, phải tham chiếu tới tính đáng tin cậy của cách thức mà thông điệp
dữ liệu ấy được tạo ra, lưu trữ hoặc truyền ***, tới tính đáng tin cậy của
cách thức mà tính toàn vẹn của thông tin được duy trì, tới cách thức minh
xác người khởi phát nó, và tới bất kỳ nhân tố có liên quan nào khác.


Ðiều 10. Lưu giữ các thông điệp dữ liệu
(1) Trong trường hợp luật pháp đòi hỏi rằng các chứng từ, hồ sơ hoặc
thông tin nào đó phải được lưu giữ, thì việc lưu giữ các thông điệp dữ liệu
được coi là đáp ứng đòi hỏi ấy, miễn là thoả mãn các điều kiện sau đây:
(a) thông tin hàm chứa trong đó là có thể truy cập được để sử dụng cho
mục đích tham chiếu sau này; và
(b) thông điệp dữ liệu ấy được lưu giữ trong khuôn dạng mà nó đã được
tạo ra, *** đi, hoặc tiếp nhận, hoặc trong khuôn dạng mà nó có thể phô
diễn để thể hiện chính xác thông tin đã được tạo ra, *** đi hoặc tiếp
nhận; và
(c) thông tin như thế, nếu có, được lưu giữ sao cho có thể xác minh được
xuất xứ và đích đến của một thông điệp dữ liệu và ngày giờ *** đi hoặc
đích tiếp nhân.
(2) Nghĩa vụ lưu giữ chứng từ, hồ sơ hoặc thông tin phù hợp với đoạn (1)
không mở rộng tới bất kỳ thông tin nào mà mục đích duy nhất chỉ là tạo
điều kiện cho thông điệp *** đi hoặc được tiếp nhận.
(3) Một người có thể thoả mãn đòi hỏi đã nêu tại đoạn (1) bằng cách sử
dụng các dịch vụ của một người khác, miễn là các điều kiện nêu ra tại các
phân đoạn (a), (b) và (c) được đáp ứng.
Chương III: Truyền *** các thông điệp dữ liệu

Ðiều 11. Sự hình thành và giá trị của các hợp đồng
(1) Trong khuôn khổ hình thành hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả
thuận khác, một chào hàng và chấp nhận một chào hàng được phép thể
hiện bằng phương tiện các thông điệp dữ liệu. Khi một thông điệp dữ liệu
được sử dụng trong việc hình thành một hợp đồng, thì giá trị và hiệu lực
thi hành của hợp đồng đó không thể bị phủ nhận chỉ với lý do rằng một
thông điệp dữ liệu đã được dùng vào mục đích ấy.
(2) Các quy định tại điều này không áp dụng cho các trường hợp sau đây:

( (.

Ðiều 12. Sự công nhận của các bên đối với thông điệp dữ liệu
(1) Trong quan hệ giữa người khởi phát và người tiếp thụ một thông điệp
dữ liệu, giá trị và hiệu lực thi hành của một sự bầy tỏ ý chí hoặc một
tuyên bố nào khác sẽ không thể bị phủ nhận chỉ với lý do rằng nó ở dạng
một thông điệp dữ liệu.
(2) Các quy định tại điều này không áp dụng cho các trường hợp sau đây:
( (.

Ðiều 13. Quy thuộc các thông điệp dữ liệu
(1) Một thông điệp dữ liệu là một thông điệp dữ liệu của người khởi phát
nếu nó được chính người khởi phát *** đi.
(2) Trong quan hệ giữa ngưòi khởi phát và người tiếp thụ, một thông điệp
dữ liệu được suy đoán là thông điệp dữ liệu của người khởi phát nếu nó
được ***:
(a) bởi một người mà đối với thông điệp dữ liệu ấy thì có thẩm quyền
nhân danh người khởi phát; hoặc
(b) bởi một hệ thống thông tin do người khởi phát, hoặc người nhân danh
người khởi phát, lập chương trình cho hoạt động tự động.
(3) Trong mối quan hệ giữa người khởi phát và người tiếp thụ, người tiếp
thụ được quyền coi một thông điệp dữ liệu là thông điệp dữ liệu của người
khởi phát, và hành động xuất phát từ đoán định đó, nếu:
(a) để minh xác có phải thông điệp đó là của người khởi phát hay không,
người tiếp thụ đã áp dụng một thủ tục đã được người khởi phát thoả thuận
từ trước cho mục đích này; hoặc
(b) thông điệp dữ liệu như người tiếp thụ nhận được phát sinh ra từ các
hành vi của một người mà bằng quan hệ người khởi phát hoặc với bất kỳ
đại lý nào của người khởi phát đã thâm nhập được vào một phương pháp
mà người khởi phát sử dụng để nhận ra các thông điệp dữ liệu là của

mình.
(4) Ðoạn (3) không áp dụng
(a) khi người tiếp thụ đã nhận được thông báo của người khởi phát rằng
thông điệp dữ liệu đó không phải là của người khởi phát, đồng thời đã có
đủ thời gian hợp lý để có hành động thích ứng; hoặc
(b) trong trường hợp quy định tại đoạn (3)(b), khi người tiếp thụ đã biết,
hay lẽ ra đã phải biết nếu như người đó đã cẩn thận đúng mức hoặc đã sử
dụng bất lỳ thủ tục đã thoả thuận nào, rằng thông điệp dữ liệu đó không
phải là thông điệp dữ liệu của người khởi phát
(5) Trong trường hợp một thông điệp dữ liệu là thông điệp dữ liệu của
người khỏi phát hoặc được suy đoán là của người khởi phát, hoặc người
tiếp thụ có quyền hành động trên cơ sở đoán định ấy, thì, người tiếp thụ
được quyền coi thông điệp dữ liệu nhận được chính là cái mà người khởi
phát chủ định ***, và hành động trên cơ sở đoán định đó. Người tiếp thụ
không được quyền đó khi người ấy biết, hoặc lẽ ra đã phải biết nếu như
người đó đã cẩn thận đúng mức hoặc đã sử dụng bất kỳ thủ tục đã thoả
thuận nào, rằng việc truyền *** đã gây ra sai lệch bất kỳ nào đó trong
thông điệp dữ liệu nhận được.
(6) Người tiếp thụ được quyền coi mỗi thông điệp dữ liệu nhận được như
một thông điệp dữ liệu riêng rẽ và hành động trên cơ sở đoán định ấy,
ngoại trừ trường hợp thông điệp ấy là sự lặp lại một thông điệp dữ liệu
khác mà người biết hoặc lẽ ra đã phải biết nếu như người đó đã cẩn thận
đúng mức hoặc đã sử dụng bất kỳ thủ tục đã thoả thuận nào, rằng thông
điệp dữ liệu ấy chỉ là một thông điệp lặp lại.

Ðiều 14. Xác nhận đã nhận được
(1) Các đoạn (2) và (4) của điều này được áp dụng trong trường hợp vào
lúc hoặc trước lúc *** một thông điệp dữ liệu đi, hoặc bằng chính thông
điệp dữ liệu ấy, người khởi phát đã yêu cầu hoặc đã thoả thuận với người
tiếp thụ rằng cần có xác nhận đã nhận được thông điệp.

(2) Trong trường hợp người khởi phát chưa thoả thuận với người tiếp thụ
rằng xác nhận phải được thể hiện ở một khuôn dạng đặc thù nào đó, hoặc
bằng một phương pháp đặc thù nào đó, thì xác nhận có thể thể hiện bằng
(a) bất kỳ liên lạc nào do người tiếp thụ mà đủ để chứng tỏ với người khởi
phát rằng đã nhận được thông điệp dữ liệu đó.
(3) Trong trường hợp người khởi phát đã tuyên bố rằng thông điệp dữ liệu
ấy chỉ có giá trị khi nhận được xác nhận đã nhận được, và người khởi phát
chưa nhận được xác nhận trong thời gian đã ấn định hoặc đã thoả thuận
hoặc, nếu chưa có ấn định hay thoả thuận về thời gian, thì trong phạm vi
một thời gian hợp lý, thì:
(a) người khởi phát có thể thông báo với người tiếp thụ rằng chưa nhận
được xác nhận đồng thời ấn định một thời gian hợp lý mà xác nhận phải
tới người khởi phát; và
(b) nếu xác nhận không tới trong phạm vi thời gian đã ấn định tại phân
đoạn (a), thì, cho tới lúc thông báo cho người tiếp thụ, người khởi phát có
thể coi thông điệp dữ liệu ấy như chưa hề được *** đi, hoặc thực hiện bất
cứ quyền nào khác mà mình có thể có được.
(5) Trong trường hợp người khởi phát nhận được xác nhận đã nhận được
của người tiếp thụ, thì thông điệp dữ liệu có liên quan được suy đoán là đã
được người tiếp thụ nhận được. Ðiều suy đoán này không hàm nghĩa rằng
thông điệp dữ liệu ấy tương hợp với bản thông điệp đã nhận được
(6) Trong trường hợp xác nhận đã nhận được nói rằng bản thông điệp dữ
liệu có liên quan đáp ứng các đòi hỏi kỹ thuật đã thoả thuận hoặc đã quy
định trong tiêu chuẩn được áp dụng, thì các đòi hỏi ấy được suy đoán là đã
được đáp ứng.
(7) Trừ trường hợp có liên quan tới việc *** hoặc nhận thông điệp dữ liệu
đó, điều này không nhằm áp dụng để xử lý các hệ quả pháp lý có thể phát
sinh ra từ thông điệp dữ liệu đó hoặc từ bản xác nhận đã nhận được thông
điệp đó.


Ðiều 15. Thời điểm và địa điểm *** và nhận các thông điệp dữ liệu
(1) Trừ trường hợp có thoả thuận khác giữa người khởi phát và người tiếp
thụ, việc *** một thông điệp dữ liệu được coi là phát sinh khi nó nhập vào
một hệ thống thông tin nằm ngoài sự khống chế của người khởi phát hoặc
của người nhân danh người khởi phát mà gủi thông điệp dữ liệu đó đi
(2) Trừ trường hợp có thoả thuận khác giữa người khởi phát và người tiếp
thụ, thời điểm nhận được một thông điệp dữ liệu được xác định như sau:
(a) nếu người tiếp thụ đã chỉ định một hệ thống thông tin để nhận các
thông điệp dữ liệu, thì sự nhận được coi là phát sinh:
(i) vào thời điểm thông điệp dữ liệu ấy nhập vào hệ thống thông tin đã chỉ
định; hoặc
(ii) vào thời điểm thông điệp dữ liệu ấy được người tiếp thụ truy cập, nếu
thông điệp dữ liệu ấy được *** tới một hệ thống thông tin của người tiếp
thụ mà không phải là hệ thống thông tin đã được chỉ định;
(b) nếu người tiếp thụ chưa chỉ định một hệ thống thông tin, thì sự nhận
được được coi là phát sinh khi thông điệp dữ liệu ấy nhập vào hệ thống
thông tin của người tiếp thụ.
(3) Ðoạn (2) được áp dụng ngay cả trong trường hợp địa điểm đặt hệ
thống thông tin ấy có thể khác với địa điểm mà thông điệp dữ liệu ấy được
suy đoán là sẽ được *** tới được quy định tại đoạn (4).
(4) Trừ trường hợp có thoả thuận khác giữa người khởi phát và người tiếp
thụ, một thông điệp dữ liệu được suy đoán là sẽ được *** tới địa điểm mà
người khởi phát đặt trụ sở kinh doanh của mình, và được suy đoán là sẽ
được nhận tại địa điểm mà người tiếp thụ đặt trụ sở kinh doanh của mình.
Theo quy định tại đoạn này:
(a) nếu người khởi phát hoặc người tiếp thụ có nhiều hơn một trụ sở kinh
doanh, thì trụ sở kinh doanh là trụ sở có liên quan mật thiết nhất với cuộc
giao dịch ngầm định hoặc, trong trường hợp không có giao dịch ngầm định
nào, thì trụ sở kinh doanh chính:
(b) nếu người khởi phát hoặc người tiếp nhận không có trụ sở kinh doanh,

thì phải tham chiếu vào nơi thường trú của người đó.

(5) Các quy định của điều này không áp dụng cho các trường hợp sau
đây: ( (.
Phần Hai: Thương mại điện tử trong các lĩnh vực cụ thể
Chương I: Vận chuyển hàng

Ðiều 16. Các hành vi liên quan tới các hợp đồng vận chuyển hàng
Không trái với các quy định tại Phần Một của Ðạo luật này, chương này áp
dụng cho mọi hành vi liên quan tới, hoặc nhằm thực hiện, một hợp đồng
vận chuyển hàng, bao gồm cả, nhưng không chỉ bao gồm:
(a) (i) thông báo ký mã hiệu, số lượng, khối lượng hoặc trọng lượng hàng;
(ii) nói rõ hoặc khai báo chủng loại hoặc giá trị hàng;
(iii) xuất biên lai hàng;
(iv) xác nhận hàng đã được xếp;
(b) (i) thông báo cho một người nào đó về các điều kiện của hợp đồng đó;
(ii) ra chỉ thị cho một người vận chuyển;
(c) (i) yêu cầu giao hàng;
(ii) cho phép xuất hàng;
(iii) thông báo tổn thất hàng, hoặc hư hại hàng;
(d) bất cứ thông báo hoặc tuyên bố nào khác liên quan tới việc thực hiện
hợp đồng;
(e) đảm nhận giao hàng tới một người đã được định danh hoặc một người
đã được uỷ quyền yêu cầu giao hàng;
(f) trao, thụ đắc, từ bỏ, khước từ, chuyển nhượng hoặc thương lượng các
quyền đối với khách hàng;
(g) thụ đắc hoặc chuyển nhượng các quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng đó.

Ðiều 17. Chứng từ vận tải
(1) Tuân thủ đoạn (3) là đoạn chỉ rõ luật pháp đòi hỏi rằng bất kỳ hành vi

nào nói đến tại điều 16 đều phải được thực hiện bằng văn bản viết hoặc sử
dụng một chứng từ bằng giấy, thì đòi hỏi đó được coi là được đáp ứng nếu
hành vi ấy được thực hiện bằng cách sử dụng một hoặc nhiều hơn các
thông điệp dữ liệu.
(2) Ðoạn (1) được áp dụng dù đỏi hỏi hàm chứa trong nó là dưới dạng một
nghĩa vụ bắt buộc hay chỉ đơn thuần vì luật pháp có quy định các hệ quả
pháp lý đối với việc thực hiện hành vi mà không bằng văn bản viết hoặc
không bằng cách sử dụng một chứng từ bằng giấy.
(3) Nếu một quyền phải được trao cho, hoặc một nghĩa vụ phải được thực
hiện bởi, một người duy nhất nào đó mà không phải là một người khác, và
nếu luật pháp quy định rằng, để thực hiện điều đó, thì quyền hoặc nghĩa
vụ ấy phải được chuyển đạt đến đương sự bằng cách chuyển giao, hoặc sử
dụng, một chứng từ trên giấy, thì đòi hỏi ấy được coi là được đáp ứng nếu
quyền hoặc nghĩa vụ đó được chuyển đạt bằng cách sử dụng một hoặc
nhiều hơn các thông điệp dữ liệu, miễn là dùng một phương pháp đủ tin
cậy để khiến cho thông điệp hoặc các thông điệp dữ liệu như thế là đơn
nghĩa.
(4) Theo quy định tại đoạn (3), tiêu chuẩn của tính tín cậy cần có sẽ được
thẩm định căn cứ vào mục đích chuyển đạt quyền hoặc nghĩa vụ đó và căn
cứ vào mọi cảnh huống, bao gồm cả các thoả thuận hữu quan bất kỳ.
(5) Trong trường hợp sử dụng một hay nhiều hơn các thông điệp dữ liệu
để thực hiện một hành vi bất kỳ tại các phân đoạn (f) và (g) của điều 16,
không chứng từ bằng giấy nào dùng để thực hiện hành vi đó được coi là có
giá trị trừ khi việc sử dụng các thông điệp dữ liệu đã kết thúc và đã được
thay thế bằng việc sử dụng các chứng từ bằng giấy. Một chứng từ bằng
giấy ban hành ra trong cảnh huống ấy phải hàm chứa một tuyên bố rằng
việc sử dụng các thông điệp dữ liệu đã kết thúc. Việc thay thế các thông
điệp dữ liệu bằng các chứng từ bằng giấy không ảnh hưởng tới các quyền
và các nghĩa vụ của các bên hữu quan.
(6) Nếu một quy định pháp lý nào đó là bắt buộc phải áp dụng cho một

hợp đồng vận chuyển hàng hoá mà hợp đồng này được thể hiện hoặc được
chứng thực bằng một chứng từ bằng giấy, thì quy định ấy sẽ không bị coi
là vô hiệu lực đối với một hợp đồng vận chuyển hàng hoá như vậy nhưng
được chứng thực bởi một hoặc nhiều hơn các thông điệp dữ liệu vì lý do
rằng hợp đồng đó được chứng thực bởi một thông điệp dữ liệu hoặc bởi
các thông điệp dữ liệu như thế, mà không phải bởi một chứng từ bằng
giấy.

×