Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

sang kien kinh nghiem ren ky nang viet van cho HS lop 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.92 KB, 18 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TIÊN LÃNG. TRƯỜNG TIỂU HỌC BẮC HƯNG. BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN “Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4”. Tác giả: Ngô Thị Chanh Trình độ chuyên môn: Đại học Sư Phạm Giáo dục Tiểu học Chức vụ: Giáo viên Nơi công tác: Trường Tiểu học Bắc Hưng. Ngày 6 tháng 11 năm 2017.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM DẠY TRONG CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. ĐƠN ĐỀ NGHỊ XÉT, CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Năm học: 2017-2018 Kính gửi: - Phòng giáo dục Tiên Lãng . - Trường Tiểu học Bắc Hưng . Họ và tên: Ngô Thị Chanh. Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường tiểu học Bắc Hưng. Tên sáng kiến: “Biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4” Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng Việt lớp 4 1. Tóm tắt tình trạng giải pháp đã biết: + Ưu điểm: - Tập làm văn là một trong những phân môn quan trọng nhất và khó nhất đối với học sinh Tiểu học. - Tập làm văn là phân môn mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành từ các phân môn khác của môn Tiếng việt. Đồng thời, nó còn gắn bó mật thiết với tất cả các môn học khác trong chương trình Tiểu học và thể hiện được đậm nét dấu ấn cá nhân. Dạy Tập làm văn theo hướng đổi mới nhằm rèn luyện cho học sinh kỹ năng sản sinh văn bản dưới cả hai hình thức nói, viết về một số nội dung nào đó hay một đề tài cụ thể. Điều này đòi hỏi giáo viên giảng dạy phải vân dụng các phương pháp và cách tổ chức dạy học linh hoạt như thế nào, để mỗi tiết dạy Tập làm văn đều đạt được hiệu quả như mong muốn. - Nó trang bị kiến thức và rèn luyện kĩ năng sản sinh ngôn ngữ nói và viết, góp phần cùng với các môn học khác mở rộng vốn từ, rèn luyện khả năng tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm mĩ nhằm hình thành nhân cách con người. - Ở lớp Bốn, văn miêu tả là dạng bài dựa vào những căn cứ quan sát được, cảm nhận về đối tượng (cây cối, con vật, đồ vật) đã để lại ấn tượng. Từ những hình ảnh trực quan sinh động đó chuyển sang tư duy trừu tượng và sản sinh ngôn ngữ. + Hạn chế: - Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy, cả giáo viên và HS còn gặp không ít những khó khăn, vướng mắc đặc biệt là kỹ năng viết đoạn văn trong bài văn. Bởi ở lớp 3, việc viết văn đều dựa trên hệ thống câu hỏi gợi ý, số lượng câu trong đoạn văn ít, mức độ chưa cao. Lên lớp 4, yêu cầu viết văn ở mức độ cao hơn: không có hệ thống câu hỏi gợi ý, số lượng câu tăng, phải biết sắp xếp bố cục, dùng từ... Chính vì vậy mà tôi tìm hiểu "Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn trong bài văn miêu tả cho học sinh lớp 4B- Trường Tiểu học Bắc Hưng"..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Đối với học sinh lớp Bốn nói đúng, viết đúng, diễn đạt mạch lạc đã khó; vậy mà để làm văn hay có cảm xúc, giàu hình ảnh lại càng khó hơn nhiều. + Bất cập: Kỹ năng sống không thể được hình thành qua việc nghe giảng và đọc tài liệu. Việc nghe giáo viên giảng và tự đọc tài liệu chỉ giúp học sinh thay đổi nhận thức về một vấn đề nào đó. Học sinh chỉ có kỹ năng khi chúng tự làm việc đó, chứ không phải nói về việc đó. Nhiều kỹ năng sống được hình thành trong quá trình người học tương tác với người lớn hoặc bạn cùng học (kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề). Trong khi tham gia các hoạt động học sinh có dịp thể hiện các ý tưởng của mình, xem xét lại kinh nghiệm sống của mình trước đây… Do vậy việc tổ chức các hoạt động rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4 cho học sinh tham gia là rất quan trọng. - Rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4 không thể hình thành trong “ngày một, ngày hai” mà đòi hỏi phải có cả quá trình: Nhận thức - hình thành thái độ thay đổi hành vi. + Giải pháp khắc phục: Giáo viên cần tổ chức các hoạt động rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4 cho học sinh tham gia. - Các tình huống đưa ra phải phù hợp, đa dạng và có tính thực tế cao. - Người giáo viên có thể tổ chức các hoạt động tác động lên bất kỳ mắt xích nào trong chu trình: Rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4 - Giáo viên cần kiên trì chờ đợi và tổ chức các hoạt động để đến thời điểm người học biết làm văn miêu tả của học sinh lớp 4 trở thành kỹ năng của học sinh. - Giáo dục rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4 cần thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc. 2. Tóm tắt nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến: * Tính mới, tính sáng tạo: - Giúp giáo viên yêu nghề , khắc phục khó khăn khi dạy tập làm văn cho học sinh lớp 4. - Học sinh hứng thú tích cực, giờ học nhẹ nhàng, học sinhh tiếp thu tốt, nắm vững nội dung bài học ngay tại lớp. - Vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động sáng tạo của HS. Chính vì vậy mà giáo viên khi dạy phân môn Tập làm văn, phải coi trọng yếu tố thực hành nói, trình bày ý tưởng của mình trong nhóm, lớp và vận dụng khi viết trong suốt quá trình dạy.Nghĩa là, dạy cho học sinh kĩ năng trình bày văn bản. Mỗi tiết dạy phải giảm sự giảng giải của giáo viên, tăng thời gian hoạt động cho học sinh (đặc biệt là hoạt động giao tiếp) theo Phương pháp mới. Dạy Tập làm văn phải giúp cho học sinh sản sinh văn bản có cảm xúc, chân thực thì khi nói và viết mới thuyết phục được người nghe, người đọc. Cụ thể là:.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> + Các em học chủ yếu các kiểu bài tập làm văn thuộc thể loại: kể chuyện, miêu tả, viết thư... Đây là thể loại văn thuộc phong cách nghệ thuật nên đòi hỏi bài nói, bài viết phải giàu cảm xúc, phải có cái "hồn". Do vậy, giáo viên phải luôn luôn tạo cho các em có tâm hồn trong sáng, cái nhìn hồn nhiên, tấm lòng nhân hậu qua việc chiếm lĩnh kiến thức về ngôn ngữ, văn học, văn hóa, tự nhiên và xã hội ở cả 9 môn học. + Mỗi bài Tập làm văn đòi hỏi phải có tính chân thực: Chân thực khi kể chuyện, khi viết thư, khi miêu tả... Muốn vậy, giáo viên phải uốn nắn học sinh tránh (lối nói và viết) giả tạo, già trước tuổi...(biểu hiện cụ thể là sao chép văn mẫu) mà cần nhẹ nhàng chỉ cho học sinh những thiếu sót và hướng cho các em cách sửa, cách làm bài phù hợp với tâm lý lứa tuổi. + Tích cực hóa hoạt động của học sinh trong quá trình học tập. Ở đây, giáo viên cần giúp học sinh biết tự mình khám phá những tri thức mới. Qua đó, các em sẽ thông hiểu, ghi nhớ những gì đã chủ động lĩnh hội được và như vậy học sinh sẽ nắm được kiến thức một cách sâu sắc hơn. * Khả năng áp dụng, nhân rộng: Cho toàn học sinh cấp học sinh cấp Tiểu học trong huyện rất khả thi, rất dễ thực hiện cho giáo viên, học sinh. - Nó là môn học hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập và giao tiếp, góp phần rèn luyện thao tác tư duy, tạo điều kiện và cơ sở cho học sinh học tốt các môn học khác. * Hiệu quả, lợi ích thu được áp dụng giải pháp: (hiệu quả kinh tế, xã hội) - Sáng kiến kinh nghiệm về “Biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4” mang một ý nghĩa rất quan trọng và việc làm hết sức cần thiết, tạo ra các hoạt động linh hoạt nhằm kích thích các em hứng thú học tập, lĩnh hội được kiến thức có hiệu quả. - Học sinh viết được bài văn miêu tả đồ vật, đảm bảo bố cục, lời văn mạch lạc, đặc biệt đã có nhiều em viết bài giàu hình ảnh, sử dụng câu văn sáng tạo, và nhiều câu đã sử dụng phép nghệ thuật làm cho bài văn sinh động hơn, hay hơn. - Số lượng các em đạt khá, giỏi tăng rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập hơn. Trong giờ học các em tập trung hơn, say sưa cùng bạn bè quan sát đối tượng cần miêu tả - Học sinh có tinh thần hợp tác, biết tôn trọng lắng nghe ý kiến của bạn bè mình và mạnh dạn nhận xét về bài làm của bạn. CƠ QUAN ĐƠN VỊ Bắc Hưng, ngày 6 tháng 11 năm 2017 ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Người viết đơn Ngô Thị Chanh.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng Việt lớp 4 3. Tác giả: Họ và tên: Ngô Thị Chanh Ngày/tháng/năm sinh: 05/03/1973 Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Bắc Hưng. Điện thoại: DĐ: 0868505516 4. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: trường Tiểu học Bắc Hưng. Địa chỉ: Bắc Hưng – Tiên Lãng – Hải Phòng Điện thoại: 0313882300 I. Mô tả giải pháp đã biết: (Mô tả giải pháp đã biết; ưu điểm, hạn chế của giải pháp đã, đang áp dụng tại cơ quan đơn vị). THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ I.1. Tình hình trước khi áp dụng giải pháp mới. 1. Thu thập và sưu tầm tài liệu - Tài liệu Hướng dẫn học Tiếng Việt 4 VNEN, Tiếng việt lớp 4 hiện hành. - Tài liệu tham khảo: Phương pháp dạy Tiếng Việt của Lê Phương Nga, Đỗ Xuân Thảo, Lê Hữu Tỉnh. Thiết kế bài giảng Ttiếng Việt 4 của Nguyễn Huyền Trang - Các văn bản chỉ đạo Tiếng Việt 4 - Băng đĩa dạy học môn Tập làm văn 4. - Một số bài văn mẫu hay của học sinh năm trước 2. Giáo viên: - Học tập huấn Tiếng Việt 4. - Dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm học tập. - Sinh hoạt chuyên môn. 3. Tiến hành áp dụng trong các giờ học Tiếng Việt 4 tuần 14, 15, 16 4. Tổ chức học sinh vừa học, vừa chơi, chơi mà học – học mà chơi. Từ đó nắm chắc cách trình bày một bài văn miêu tả, biết sử dụng một số từ ngữ, hình ảnh so sánh, nhân hóa vào viết văn để bài văn thêm sinh động. 5. Nghiên cứu thực tế: - Khảo sát thực tế trong giáo viên, học sinh. - Thực hiện phương pháp hỏi đáp, phỏng vấn..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> - Sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp. - Sử dụng phương pháp thực nghiệm, đối chiếu, so sánh. I.2.Thực trạng việc rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4 1.Đặc điểm chung: - Qua quá trình điều tra học sinh lớp 4B nói riêng và học sinh lớp Bốn ở trường Tiểu học Bắc Hưng nói chung, tôi nhận thấy trình độ học sinh trong lớp không đồng đều, số lượng học sinh làm văn hay rất ít. Phân môn Tập làm văn lớp 4 vô cùng khó, mang tính trừu tượng cao nên phần lớn học sinh không thích học phân môn này. - Học sinh làm bài hời hợt, chung chung; chưa miêu tả để phân biệt đối tượng được miêu tả này với đối tượng khác. Những bài văn dạng này giống văn kể hơn là văn miêu tả. - Vốn từ của các em còn nghèo nàn nên dẫn đến diễn đạt lủng củng, dùng từ trùng lặp, sai nghĩa, sai lỗi chính tả trong bài Tập làm văn . - Nhiều em chưa phân biệt từ ngữ sử dụng trong văn nói và văn viết. - Đa số các em chưa tích cực đọc sách tham khảo để trau dồi cách diễn đạt và cách hành văn lưu loát hoặc nếu có đọc, các em thường vay mượn ý của sách, lệ thuộc vào bài mẫu, có thể chép vào làm bài của mình chứ các em chưa biết vận dụng, liên tưởng một cách sáng tạo và linh hoạt. - Sở dĩ thực trạng học sinh nêu trên tôi thiết nghĩ là do những nguyên nhân sau: + Học sinh: - Học sinh chưa thực sự thấy yêu thích môn học. - Học sinh chưa biết quan sát đối tượng được miêu tả hoặc quan sát một cách qua loa và khi quan sát học sinh không ghi chép lại từng chi tiết cụ thể nên khi làm bài văn chưa đạt hiệu quả . - Vốn từ của các em còn nghèo nàn, lại không biết sắp xếp như thế nào cho bài văn mạch lạc, đảm bảo bố cục và chưa biết cách chọn từ ngữ, hình ảnh miêu tả. - Học sinh chưa biết cách lập một dàn bài cụ thể để tả. - Học sinh chưa biết cách sử dụng biện pháp nghệ thuật vào bài và bộc lộ cảm xúc. - Phần lớn học sinh trong lớp đều là con nông dân. Nên việc dạy dỗ, rèn luyện ở nhà còn hạn chế. + Giáo viên: - Giáo viên chưa phân loại từng đối tượng học sinh để đề ra kế hoạch dạy học phù hợp..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> - Giáo viên chưa khơi gợi sự ham thích học phân môn Tập làm văn, chưa phát huy tối đa năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh, chưa bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt. Đặc biệt sau mỗi bài văn, giáo viên chưa hướng dẫn học sinh nhận thấy được hình ảnh hay, câu văn hay cần học và những chỗ sai cần khắc phục. 2. Điều tra khảo sát thống kê kĩ năng: - Lập dàn ý Lớp 4B. Tổng số học sinh 29. Lập được dàn ý 20 (68,9%). Đảm bảo bố cục một bài văn miêu tả đồ vật Lớp Tổng số học sinh Biết miêu tả 4B 29 20 (68,9%). Chưa biết lập dàn ý 9 (31,1%). Chưa biết miêu tả 9 (31,1%). Học sinh có năng khiếu. Lớp Tổng số học sinh Bài viết tốt, có hình ảnh Bài viết đủ bố cục 4B 29 2(6,8%) 27(93,2%) Xuất phát từ thực tế như vậy, là giáo viên đứng lớp, tôi luôn không ngừng nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn và đổi mới phương pháp dạy học sao cho giảng dạy đạt hiệu quả. Vậy làm thế nào để dạy tốt phân môn Tập làm văn nhằm góp phần nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt? Vì vậy tôi đã chọn sáng kiến: “Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4” II. Nội dung giải pháp đề nghi công nhận sáng kiến II. 1. Tính mới, tính sáng tạo. ĐẶT VẤN ĐỀ. Như chúng ta đã biết dạy học Tiếng Việt ở trường Tiểu học gồm nhiều phân môn, nhưng Phân môn Tập làm văn là một trong những phân môn khó, mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Nó có vai trò và vị trí quan trọng trong việc hoàn thiện và nâng cao dần kĩ năng sử dụng Tiếng Việt, mà học sinh đã được hình thành và xây dựng ở các phân môn khác. Học tốt được phân môn Tập làm văn là giúp cho các em học tốt các môn học khác. Vậy dạy phân môn Tập làm văn là dạy các kiến thức và kĩ năng giúp cho học sinh tạo lập và sản sinh ngôn bản, đồng thời giáo dục cho các em tình cảm trong sáng, rèn luyện khả năng giao tiếp góp phần giữ gìn và phát huy sự trong sáng của Tiếng Việt..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Mục đích của việc dạy văn miêu tả ở Tiểu học là giúp cho các em học sinh có thói quen quan sát, phát hiện những điều mới, thú vị về thế giới xung quanh, biết cảm nhận cái hay, cái đẹp trong bài văn, bài thơ, cuộc sống, biết rung động trước đối tượng được miêu tả. Rồi từ đó các em có cơ sở để tái hiện lại bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh vào bài văn miêu tả. Nếu bài tập làm văn thiếu sáng tạo, thiếu cảm xúc, không dùng từ ngữ giàu hình ảnh thì trở nên bài văn khô khan, nghèo ý. Vậy để làm được bài văn miêu tả hay, không những phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động của đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được trí tưởng tượng, tình cảm của mình đối với đối tượng miêu tả. Do đó đòi hỏi học sinh phải có kiến thức sâu rộng và chính xác của phân môn này, nắm vững mục tiêu chung của từng bài, có những hiểu biết cơ bản về nội dung bài học, có trí óc tưởng tượng thật phong phú, biết cách dùng từ viết câu phù hợp, viết bố cục rõ ràng, diễn đạt mạch lạc...Là một giáo viên giảng dạy lớp Bốn, bản thân tôi luôn trăn trở, tìm mọi biện pháp để tạo điều kiện giúp đỡ các em học tốt phân môn này. Với những mục đích nêu trên, để giúp học sinh có kĩ năng viết văn miêu tả đạt hiệu quả là việc làm vô cùng cần thiết. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Từ những thực trạng nêu trên, trong thời gian giảng dạy trên lớp, bản thân tôi có những biện pháp như sau: 1.Tìm hiểu và phân loại đối tượng học sinh Quá trình dạy ở lớp khoảng vài tuần đầu, tôi căn cứ vào đó để phân loại từng đối tượng học sinh: học sinh năng khiếu, học sinh trung bình và học sinh yếu. Cụ thể: Lớp 4B: 29 em Học sinh năng khiếu: 1em chiếm 3,4% Học sinh Trung bình: 17 em chiếm 62,6% Học sinh Yếu : 10 em chiếm 34% Từ đó, tôi nắm chắc từng đối tượng học sinh để đề ra được kế hoạch dạy học phù hợp, phát triển được năng lực viết văn miêu tả, đồng thời giúp những em yếu biết vận dụng làm một bài văn miêu tả hoàn chỉnh. Chẳng hạn: Học sinh năng khiếu viết được bài văn miêu tả đúng bố cục, có sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh, tôi hướng dẫn thêm để học sinh biết sử dụng nhiều từ ngữ miêu tả giàu hình ảnh và sử dụng các biện pháp nghệ thuật vào bài để bài viết hay hơn. Cụ thể: Đoạn tả chú gà trống: “Con gà trống ra dáng một con gà trống oai vệ. Chú khoác bộ lông tía sặc sỡ nhiều màu sắc. Trên đầu đội chiếc mào đỏ chót. Đôi.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> mắt sáng, con ngươi đưa đi đưa lại. Cái đuôi cao vổng lên. Những ngón chân có móng vuốt sắc nhọn...(bài viết của em Phạm Minh Hưng - Lớp 4B). Tôi khen bài viết của em đã hay, đã biết dùng từ giàu hình ảnh, em cần sử dụng thêm phép nghệ thuật vào bài. Tôi hướng dẫn viết lại đoạn viết như sau: Chú gà trống ra dáng một chú gà oai vệ. Chú khoác trên mình một bộ trang phục màu tía sặc sỡ. Cái mào đỏ chót uốn cong, có nhiều ria nhọn như bông hoa mào gà. Đôi mắt sáng trong như hai viên ngọc. Cái đuôi cao vổng lên với những chiếc lông đủ màu như một cái cầu vồng trông thật đẹp mắt. Đôi chân có móng vuốt sắt nhọn là thứ vũ khí lợi hại của chú. Còn học sinh yếu, tôi hướng dẫn bước đầu học sinh viết đúng và đủ bố cục bài văn miêu tả, dùng từ ngữ phù hợp, viết đúng chính tả. Cụ thể: Nhà em có nuôi một con mèo lông nó màu trắng. Hai con mắt tròn, nó có bốn chân và cái đuôi. Nó có răng sắc nhọn. Em thích con mèo này. (bài viết của em Phạm Văn Tài - Lớp 4B). Tôi đã hướng dẫn để giúp học sinh viết lại đảm bảo bố cục. Trước tiên, tôi cho học sinh nhắc lại cấu tạo bài văn miêu tả con vật gồm mấy phần? (ba phần) và hệ thống cho học sinh từng phần viết như thế nào?(trình bày thành các đoạn) Chẳng hạn: Mở bài: Giới thiệu con vật ở đâu? Ai nuôi?(Nhà em nuôi được một chú mèo trông rất đáng yêu). Thân bài: Tả ngoại hình: Bộ lông thế nào? (Bộ lông màu xám tro, rất mượt), Hai mắt ra sao? (Hai mắt sáng và tinh) Tai như thế nào? (Tai vểnh lên để nghe ngóng. Mỗi khi có tiếng động nhẹ là chú phát hiện ngay) Bốn chân như thế nào? (Bốn chân thon thon và rất nhanh nhẹn, đi lại nhẹ nhàng)...... Tả hoạt động: Bắt chuột thế nào? (Sau mỗi bữa ăn là chú ngồi ngay bao thóc để rình, hễ chú chuột nào đến là mèo nhảy ra vồ ngay) Kết bài: Cảm nghĩ của em về con vật? (Em rất thích chú mèo này. Nhờ có chú mà nhà em đã hết chuột phá hoại) 2. Hướng dẫn học sinh quan sát đối tượng miêu tả Để các em có thể vẽ lại được cụ thể, sinh động mọi vật trong đời sống hằng ngày, các em cần phải quan sát cụ thể vật đó: Quan sát phải kết hợp sử dụng nhiều giác quan (mắt – nhìn, tai – nghe, mũi – ngửi, tay - sờ…) để thu nhận được càng nhiều chi tiết thì bài miêu tả càng giống với đối tượng miêu tả; quan sát theo trình tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ tổng quát đến cụ thể rồi ghi chép lại vào sổ tay văn học. * Nếu tả đồ vật: cần quan sát bao quát đồ vật, rồi quan sát tỉ mỉ từng phần của đồ vật theo trình tự hợp lí từ ngoài vào trong. Ví dụ: Tả chiếc cặp: quan sát bao quát cặp có hình thù như thế nào ? Màu sắc gì ? quan sát từng phần đồ vật từ ngoài vào trong, đặc biệt quan sát các bộ phận có.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> đặc điểm nổi bật: phía trước cặp được trang trí hình gì? Sau cặp có bộ phận gì? (quai cặp, dây đeo) Rồi đến quan sát bên trong (cặp có mấy ngăn?), dùng mũi ngửi thấy mùi gì? Và dùng tay sờ vào từng ngăn cặp có cảm giác như thế nào? * Nếu tả cây cối: cần quan sát kĩ từng bộ phận của cây hay từng thời kì phát triển của cây và ích lợi. Ví dụ: Tả cây xoài: Quan sát kĩ các bộ phận (thân, gốc, cành, lá, hoa, quả…) hay từng thời kì phát triển của cây (cây non, cây lớn lên và cây trưởng thành cho quả…) và ích lợi (cho quả, tăng thu nhập cho gia đình….). Ngoài ra cần sử dụng thêm các giác quan khác như mũi ngửi thấy mùi của xoài như thế nào?, tay sờ thấy vỏ cây, da của quả như thế nào? Và lưỡi nếm vị của quả ra sao?... * Nếu tả con vật: cần quan sát kĩ đặc điểm ngoại hình (bộ lông, mắt, mũi, chân, đuôi…), thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của nó. Ví dụ: Tả con gà trống: quan sát con gà to cỡ nào? lông màu gì? Mào ra sao? chân to hay nhỏ, đuôi thế nào? Thói quen của gà (gáy vào sáng sớm) Hoạt động chính (tìm mồi, chọi nhau với gà khác). Tôi còn hướng dẫn kĩ cho học sinh sử dụng những giác quan khác nữa để quan sát con vật như tay thì sờ vào bộ lông cảm thấy thế nào? Tai để nghe tiếng gáy ra sao?... Đối với việc quan sát, học sinh được học cụ thể một tiết “Luyện tập quan sát” Giáo viên tổ chức tiết học này thật kĩ và kèm theo hệ thống câu hỏi định hướng để học sinh biết cách quan sát phát hiện những đặc điểm riêng, phân biệt đối tượng miêu tả này với đối tượng khác và quan sát thật hiệu quả. Giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát theo nhiều hình thức: tranh ảnh, vật thật như quan sát đồ chơi (vật thật) quan sát con vật (tranh ảnh hoặc quan sát con vật trước ở nhà). 3. Mở rộng vốn từ ngữ và lựa chọn từ ngữ miêu tả Để giúp học sinh viết văn miêu tả tốt, đòi hỏi phải trang bị cho các em có vốn từ phong phú, hiểu nghĩa của từ, nhận biết từ phổ thông, từ địa phương, từ cùng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ nhiều màu sắc biểu cảm…Để đáp ứng được nhu cầu như vậy, tôi đã giúp cho học sinh tích lũy vốn từ và biết lựa chọn từ miêu tả phù hợp. Khi dạy các bài Tập đọc, giúp cho học sinh hiểu nghĩa một số từ có trong bài, học sinh nắm được nội dung và nghệ thuật của bài đó và cảm nhận được cách sử dụng ngôn từ và hình ảnh của mỗi tác giả. Ví dụ: Bài “Đôi giày ba ta màu xanh” (sách Tiếng Việt trang 81) Tôi chỉ cho học sinh thấy, tác giả sử dụng câu văn miêu tả đôi giày: “Cổ giày ôm sát chân. Thân giày làm bằng vài cứng, dáng thon thả, màu vải như màu da trời những ngày thu”. Tác giả đã dùng từ ngữ giàu hình ảnh và sử dụng phép nghệ thuật so sánh để tô thêm vẻ đẹp cho đôi giày. Ví dụ: Bài Con chuồn chuồn nước (sách Tiếng Việt trang 127) Tác giả đã sử dụng câu văn miêu tả con chuồn chuồn: ”Bốn cái cánh mỏng như giấy bóng. Cái.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> đầu tròn và hai con mắt long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng mùa thu. Bốn cánh khẽ rung rung như đang còn phân vân”. Tác giả đã sử dung hình ảnh so sánh để miêu tả chú chuồn chuồn một cách sinh động, hấp dẫn. Không những phân môn Tập đọc mà còn các phân môn khác như Luyện từ và câu cũng giúp cho học sinh mở rộng vốn từ cho mình như các bài: Mở rộng vốn từ theo chủ điểm, các em cũng lĩnh hội thêm được một ít từ ngữ và phân môn Mĩ thuật cũng giúp cho học sinh rèn kĩ năng quan sát và trí tưởng tượng phong phú…và một số phân môn khác nữa (Kể chuyện, Khoa học…) Bên một cạnh đó, học sinh đọc các bài tham khảo cần phải biết học tập cách miêu tả và chọn lọc số từ ngữ miêu tả. Từ đó học sinh bổ sung được vốn từ ngữ cho mình. Đặc biệt là học sinh tích lũy vốn từ qua thực tế cuộc sống hằng ngày ví dụ như nghe và ghi nhớ tiếng kêu của con mèo (meo…meo), Tiếng gáy của con gà (ò..ó..o), tiếng sủa của con chó(gâu..gâu) … Ngoài ra, tôi còn giới thiệu thêm một số từ, ngữ cần thiết để làm giàu thêm vốn từ cho học sinh. Chẳng hạn: Tả cây cối Thân cây to xù xì, rễ cây ăn sâu xuống lòng đất, cành đâm ra tua tủa, hoa kết lại từng chùm, quả treo lúc lỉu, hương thơm ngào ngạt.... Tả con vật Chú khoác lên mình bộ áo đẹp; đầu tròn, mắt sáng và tinh, tai vểnh lên để nghe ngóng, chân nhanh nhẹn, đi lại rất nhẹ nhàng, móng vuốt sắc nhọn là vũ khí tự vệ và rất lợi hại, khi kiếm được mồi, chú mang về cho con cùng ăn ... Từ vốn từ mà học sinh đã tích lũy được, tôi hướng dẫn cho học sinh lựa chọn từ ngữ, hình ảnh khi miêu tả, sử dụng cho phù hợp. Khi trình bày kết quả quan sát được hoặc khi học sinh luyện viết đoạn, tôi đã uốn nắn, chỉ chỗ sai cho học sinh ngay khi phát hiện học sinh dùng chưa đúng Ví dụ: Thân bút màu xanh lá cây, thon thả như búp cây. (sử dụng từ không phù hợp) Sửa lại: Thân bút màu xanh lá cây, thon nhỏ như ngón tay em. Ví dụ: Em viết lên trang giấy, nét bút trơn hiện lên những dòng chữ mềm mềm. (sử dụng từ không phù hợp) Sửa lại: Em viết lên trang giấy, nét bút trơn hiện lên những dòng chữ đều đều, mềm mại. 4. Tìm ý và lập dàn bài.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Trước tiên, tôi đã định hướng cho học đọc kĩ đề, xác định thể loại, kiểu bài, xác định nội dung tả gì? Và thể hiện tư tưởng tình cảm gì vào bài? Đối với bài văn miêu tả, quan sát đối tượng được miêu tả là cơ sở để học sinh tìm ý. Sau khi học sinh đã quan sát và có những ghi chép chi tiết về đối tượng miêu tả, tôi hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn của mình dựa vào hình ảnh đã quan sát và lựa chọn hình ảnh để lập dàn ý cho bài văn. Một bài văn hoàn chỉnh là bài văn phải có cách sắp xếp chặt chẽ. Mặc dù mở bài, thân bài, kết bài là ba phần riêng song chúng phải có sự thống nhất về ý. * Mở bài: Giới thiệu đối tượng định miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật). Phần mở bài giống như một lời thân ái mời chào của chúng ta đối với người khách đến thăm “vườn văn” của mình. Lời mời chào ấy phải hấp dẫn, gợi mở, gây được những ấn tượng ban đầu và nêu được ý muốn diễn đạt ở phần thân bài (giới thiệu được đối tượng cần nói đến ở thân bài). Ta có thể dùng cách mở bài trực tiếp (giới thiệu ngay đối tượng) hoặc mở bài gián tiếp (nói chuyện khác -> liên tưởng -> giới thiệu đối tượng). Ví dụ: Tả cái bàn học Chiếc bàn học này là người bạn ở trường thân thiết với tôi gần hai năm nay. (Mở bài trực tiếp- Bài làm của em Thủy Bình) Tôi rất yêu gia đình tôi, ngôi nhà của tôi. Ở đó, tôi có bố mẹ và chị gái thân thương, có những đồ vật, đồ chơi thân quen và một góc học tập sáng sủa. Nổi bật trong góc học tập đó là cái bàn học xinh xắn của tôi.( Mở bài gián tiếp- Bài làm của em Thành Hưng) * Thân bài: + Tả đồ vật: Tả bao quát đồ vật rồi đến tả những bộ phận có đặc điểm nổi bật và nêu công dụng. + Tả cây cối: Tả từng bộ phận của cây hoặc từng thời kì phát triển của cây và ích lợi của cây. +Tả con vật: Tả ngoại hình rồi đến thói quen sinh hoạt của con vật và hoạt động chính của con vật. Phần thân bài chính là phần trọng tâm của một bài văn. Một bài văn có phần mở đầu và kết thúc hấp dẫn nhưng phần thân bài sáo rỗng, hời hợt, không giải quyết được đầy đủ các yêu cầu được đặt ra ở phần đề bài thì chưa phải là một bài văn hay. Để khắc phục khuyết điểm này, khi lập dàn ý của bài văn, chúng ta cần tách phần thân bài thành các ý lớn cho đầy đủ, rồi từ các ý đó, viết thành các đoạn văn hoàn chỉnh * Kết bài: Nêu cảm nghĩ, ấn tượng, tình cảm của mình với đối tượng miêu tả. Nếu như phần mở bài giống như một lời mời chào thân ái thì phần kết bài giống như một cuộc tiễn đưa người khách vừa đến thăm “vườn văn” của mình. Để tạo cho khách sự quyến luyến không muốn rời xa, cuộc tiễn đưa ấy phải thật tình.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> cảm và chân thành. Muốn vậy, khi viết phần kết bài, giáo viên hướng dẫn học sinh viết thật cô đọng, ngắn gọn và súc tích, tránh kết thúc một cách đơn điệu, tẻ nhạt và cộc lốc. Kết bài chính là kết lại, khép lại nội dung vừa trình bày ở phần thân bài. Vì vậy cần khép bài một cách khéo léo để nó đọng lại và mở ra trong lòng người đọc những cảm xúc tràn trề, những hình ảnh đẹp đẽ mà chúng ta đã miêu tả, đã kể trong bài văn của mình. Ta có thể dùng hai cách kết bài: Kết bài không mở rộng (Cho biết kết thúc, không có lời bình luận thêm) và kết bài mở rộng (nói lên tình cảm, cảm xúc của mình, liên tưởng và có thêm lời bình luận ). Ví dụ: Tả cái trống trường Nhờ có anh trống mà giúp cho chúng em thực hiện ra vào lớp đúng giờ. Khi hết giờ, chúng em tạm biệt anh trống để ra về. (Kết bài không mở rộng-Bài làm của em Hoang Gia Khánh) Tiếng trống là nhịp đập thời gian của trường em. Tiếng trống là hiệu lệnh hoạt động cho tất cả thầy trò trong trường. Theo nhịp trống, chúng em xếp hàng. Theo nhịp trống, chúng em vào lớp,...Mai đây, em sẽ lớn lên, có thể đi đến bất cứ nơi nào, song tiếng trống trường sẽ mãi mãi đọng lại trong tâm trí em cùng với những kí ức đẹp đẽ của tuổi học trò. (Kết bài mở rộng-Bài làm của em Phạm Thị Thảo) Ví dụ: Tả đồ chơi em thích Giáo viên yêu cầu học sinh đọc kĩ đề và hướng dẫn một số câu hỏi: đề bài yêu cầu gì? Em chọn đồ chơi nào để tả? đồ chơi ấy có đặc điểm gì? Từ đó học sinh bám vào yêu cầu đề, huy động vốn từ và dựa vào kết quả quan sát được, lựa chọn những nét nổi bật của đối tượng để miêu tả rõ ràng và đầy đủ. Dàn ý: * Mở bài: Gấu bông là con vật em yêu thích. * Thân bài: Hình dáng không to lắm, gấu luôn ngồi, dáng người tròn, hai tay trước bụng. Bộ lông: màu trắng pha hồng rất xinh xắn Hai mắt: đen láy, trông như mắt thật rất nghịch và thông minh Mũi: màu đen nhỏ, trông như chiếc cúc áo Trên cổ: thắt một cái nơ đỏ trông thật đáng yêu Hai tai: cụp xuống trông rất ngộ nghĩnh. * Kết bài: em rất yêu thích gấu bông và em giữ gìn nó cẩn thận . 5. Hướng dẫn sử dụng nghệ thuật và bộc lộ cảm xúc Để giúp cho học sinh làm được bài văn hay hơn, sinh động hơn, lôi cuốn người đọc, tôi đã hướng dẫn học sinh sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hóa vào bài; đồng thời bộc lộ cảm xúc của mình để thấy đồ vật, con vật, cây cối thân thiết và gần gũi với mình hơn..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Để học sinh vận dụng được, tôi giúp các em tìm hiểu kĩ tiết Luyện tập miêu tả các bộ phận, tổ chức cho học sinh trình bày, luyện cho học sinh nói, viết những câu có hình ảnh và sử dụng phép nghệ thuật đồng thời bộc lộ cảm xúc của mình. Ví dụ: Miêu tả về thói quen của con chó-(Bài làm của em Đoàn Trung Hiếu) “Bữa nào chú cũng được ăn cơm. Chú thật hốc ăn. Chú chỉ xốc hai miếng là hết bát cơm to, lại ngẩn ngơ liếm mép. Bữa bữa, chú nhìn chăm chú mọi người ăn cơm, cái đầu cứ lắc lắc theo từng đôi đũa khi mọi người gắp thức ăn. Trông chú như đang đói và thèm ăn lắm”. Ví dụ : Tả ngoại hình con mèo –(Bài làm của em Vũ Kim Ngân) “Lông mèo mượt như tơ. Đầu nó tròn bên trên có hai cái tai dựng đứng, hết quay phía này lại quay phía khác để nghe ngóng. Hai con mắt nó mới sáng làm sao, ở ngoài sáng mắt xanh biếc, trong đêm tối mắt nó lấp lánh như ánh lửa”. 6. Nhận xét, đánh giá và chữa bài Mỗi dạng bài đều có một tiết trả bài văn viết, tiết này rất quan trọng nhằm giúp các em thấy được ưu điểm và nhược điểm trong bài viết của mình, của bạn để học hỏi, trao đổi lẫn nhau, tìm ra cách sửa sai để cùng tiến bộ và qua đó tôi biết được học sinh hiểu bài và vận dụng thế nào. * Đánh giá, nhận xét: Tôi tiến hành chấm bài thật kĩ, xác định học sinh làm đúng bố cục hay chưa? và bố cục có chặt chẽ không? Tôi phát hiện những ưu điểm của bài văn hay, câu hay, ý hay, dùng từ sáng tạo…và nắm được những lỗi mắc phải còn tồn tại: dùng từ chưa chính xác, câu văn chưa hoàn chỉnh, lặp từ, lặp ý…Tôi đánh giá, nhận xét cụ thể vào từng bài của học sinh Chẳng hạn có những nhận xét như sau : - Bố cục chặt chẽ, lời văn súc tích, có nhiều hình ảnh hay trong bài. Em cần phát huy thêm.(học sinh năng khiếu) - Đảm bảo bố cục, viết thành câu. Em cần sử dụng phép so sánh, nhân hóa vào bài để bài văn hay hơn.(học sinh trung bình) - Bài viết còn lủng củng, còn sai lỗi chính tả, viết chưa thành câu. Em cần chú ý cô hướng dẫn để về nhà viết lại đúng em nhé.(học sinh yếu) - Bố cục chưa rõ ràng, dùng từ ngữ chưa phù hợp, diễn đạt còn lủng củng. Em cần chú ý cô hướng dẫn để về nhà viết lại cho đúng. (học sinh yếu) Trong quá trình đánh giá, tôi chọn bài tiêu biểu của lớp và các bài văn hay năm trước đọc cho học sinh nghe và phân tích những điểm hay để học sinh học tập. * Chữa bài: tôi hướng dẫn cho học sinh chữa lỗi + Chữa lỗi về dùng từ và sai chính tả: Đưa câu văn của học sinh dùng từ thiếu chính xác rồi giáo viên gợi mở để học sinh sửa lại câu đúng. Ví dụ: từ ngữ sai: Tả con vật Mắt nó dựng ngược -> mắt chú xếch ngược trông rất hung dữ.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Chân nó nhanh thăn thắt -> chân nhanh thoăn thoắt Hai mắt tròn xeo -> hai mắt tròn xoe Tai mèo rât tinh -> tai mèo rất thính + Chữa lỗi về câu: - Học sinh viết chưa thành câu: Có lá xum xuê, rễ mọc dưới đất -> Lá cây bàng xum xuê. Rễ ăn sâu vào lòng đất. - Sử dụng dấu câu sai: Đến mùa hè. Cây ra hoa đỏ rực.-> Đến mùa hè, cây phượng nở hoa đỏ rực. Giáo viên gợi mở để học sinh biết sử dụng dấu câu hợp lí. + Chữa lỗi về diễn đạt Ví dụ: Tả đồ vật - Trước cái cặp có hình siêu nhân và sau có dây đeo rất sung sướng. -> Mặt cặp được trang trí hình siêu nhân trông rất đáng yêu. Sau lưng cặp có dây đeo rất tiện lợi. - Cái bút thon nhọn và dài bằng gang tay của em. -> Cây bút dài bằng gang tay của em. Ngòi bút nhọn, viết ra những nét chữ thật đều và đẹp. + Chữa lỗi lạc đề: Ví dụ: Tả con mèo Chú mèo này thật giỏi. Hễ nó nghe tiếng động của lũ chuột là nó nhảy vồ đến và chụp ngay chú chuột. Chú chuột này chịu thua và kêu chít chít như mắng chửi mèo vậy. -> Sửa lại: Chú mèo này bắt chuột thật giỏi. Hễ nó nghe tiếng động của lũ chuột là nó đi nhẹ nhàng đến rình, rồi nhảy vồ đến chụp ngay chú chuột. Thế là con chuột xấu số đã nằm gọn trong móng vuốt của nó. II.2. Khả năng áp dụng nhân rộng Chúng tôi tiếp tục áp dụng kinh nghiệm vào năm học 2017-2018 và dạy thử nghiệm học sinh lớp 4D2. Số lượng học sinh tăng hơn rất nhiều so với năm học trước. Tổng số 27 học sinh, trong đó có 14 học sinh nữ . Trình độ nhận thức của các em không đồng đều. Nhiều em chưa trú trọng đến việc học môn tập làm văn. Với những khó khăn trên chúng tôi tiếp tục nghiên cứu và áp dụng kinh nghiệm của năm học trước vào giảng dạy thực nghiệm lớp 4D2. Sau một thời gian ngắn kết quả kiểm tra cuối học kì 1 năm học 2017-2018 đạt được kết quả tốt:.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> II.3. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp: Năm học 2015-2016, tôi đã vận dụng những biện pháp nêu trên cùng với sự nổ lực cố gắng của các em học sinh, tôi tiến hành khảo sát một bài văn miêu tả đồ vật đã cho kết quả như sau: Lớp 4B Số bài. Bài viết hay, có năng khiếu. Bài đảm bảo đủ bố cục. Yếu. 29. 8 (27,5%). 19 (65,6%). 2(6,9%). Nhìn chung, các em trong lớp đã viết được bài văn miêu tả đồ vật, đảm bảo bố cục, lời văn mạch lạc, đặc biệt đã có nhiều em viết bài giàu hình ảnh, sử dụng câu văn sáng tạo, và nhiều câu đã sử dụng phép nghệ thuật làm cho bài văn sinh động hơn, hay hơn. Tuy nhiên vẫn còn 2 em yếu là vì em viết còn sai lỗi chính tả và chữ viết của em chưa rõ ràng. Không những thế khi học đến những bài văn miêu tả con vật và cây cối thì kết quả được nâng cao dần. Số lượng các em đạt khá, giỏi tăng rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập hơn. Trong giờ học các em tập trung hơn, say sưa cùng bạn bè quan sát đối tượng cần miêu tả. Tôi rất vui khi thấy có khá nhiều học sinh đã có cuốn sổ tay riêng để ghi những điều quan sát được và những câu văn hay, từ ngữ gợi tả, gợi cảm,…Có thể nói rằng học sinh đã không còn ngại khi học văn miêu tả. Học sinh dùng từ chính xác, sử dụng từ hay biết viết thành câu, kĩ năng viết văn có tiến bộ, nhiều em viết hay được chọn làm bài mẫu để đọc trước lớp. Thể loại văn miêu tả được các em thích hơn. Học sinh có tinh thần hợp tác, biết tôn trọng lắng nghe ý kiến của bạn bè mình và mạnh dạn nhận xét về bài làm của bạn. - Qua điều tra khảo sát các lớp trong khối 4, thống kê lại sau khi thực hiện giải pháp: Lớp 4A 4C 4B. Tổng số học sinh 29 29 29. Bài làm tốt, trình bày đúng nội dung, bố cục 27 (93,1%) 27 (93,1%) 27 (93,1%). Bài làm yếu 2(6,9%) 2(6,9%) 2(6,9%).

<span class='text_page_counter'>(17)</span> KẾT LUẬN Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, nhằm xây dựng và phát triển tình cảm, đạo đức, trí tuệ, thẩm mĩ cho trẻ và hình thành cơ bản ban đầu nhân cách con người. Đặc biệt Tiếng Việt có vị trí quan trọng, nó hình thành khả năng giao tiếp và phát triển tư duy cho trẻ. Như vậy, mục đích của việc dạy phân môn Tập làm văn lớp 4 là giúp cho học sinh viết thành bài văn hoàn chỉnh, lời văn gãy gọn, bố cục rõ ràng, súc tích, diễn đạt có hình ảnh, sinh động và gợi cảm và yêu thích làm văn. Đây là một quá trình lâu dài, đòi hỏi giáo viên phải sử dụng phương pháp linh hoạt, sáng tạo sao cho phù hợp và luôn tuân theo nguyên tắc từ đơn giản đến nâng cao, quan tâm đến tất cả đối tượng học sinh. Bên cạnh đó giáo viên luôn động viên khuyến khích, biểu dương sự tiến bộ của học sinh dù rất nhỏ, luôn tạo niềm vui trong học tập. Mỗi tiết học diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên tránh áp đặt và tạo tâm thế học tập cho các em. Với những biện pháp đề ra cùng với lòng yêu nghề mến trẻ, quyết tâm khắc phục những khó khăn trong giảng dạy và rèn luyện cho học sinh ngày học tập tốt hơn. Đây là những kinh nghiệm bản thân tôi đã rút ra trong quá trình giảng dạy của mình. Với những suy nghĩ và giải pháp nêu trên trong những năm qua ít nhiều cũng đã giúp tôi dạy tốt phân môn Tập làm văn lớp 4 .. XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN. Bắc Hưng, ngày 6 tháng 16 năm 2017 Tác giả sáng kiến Ngô Thị Chanh.

<span class='text_page_counter'>(18)</span>

<span class='text_page_counter'>(19)</span>

×