Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Ngon ngu trong Truyen Kieu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.43 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>NGÔN TỪ TRONG TRUYỆN KIỀU- NGUYỄN DU</b>



Nguyễn Du là nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam và là danh nhân văn hố thế giới. Tồn
bộ thi phẩm của ông đặc biệt là Truyện Kiều đều chứa chan những giá trị sâu sắc. Đã có
rất nhiều cơng trình nghiên cứu về các giá trị nội dung- nghệ thuật của tác phẩm Truyện
Kiều, song có lẽ có một vấn đề mà hầu hết các nhà nghiên cứu, bình luận đều có chung ý
kiến đó là vấn đề “ngơn từ nghệ thuật Truyện Kiều”.


Có thể khẳng định rằng: Nguyễn Du là bậc thầy ngôn ngữ dân tộc, là bậc đại thành về
ngôn ngữ của thời đại ông, là người đã nâng ngôn ngữ văn học dân tộc của thời đại lên
một đỉnh cao chói lọi.


Dưới bàn tay của thiên tài Nguyễn Du, tiếng Việt của chúng ta trở nên điêu luyện, đặc sắc
hơn và trở thành một thứ “siêu ngôn ngữ”. Đi sâu vào ngôn từ trong Truyện Kiều giúp
chúng ta hiểu sâu hơn điều đó.


Trước hết nét đặc sắc trong ngôn từ của Nguyễn Du là cách dùng từ Hán -Việt trong
Truyện Kiều. Chúng ta thấy, bên cạnh thành phần thuần Việt thì trong Truyện Kiều cịn
có thành phần Hán Việt. Dùng từ Hán Việt một cách phổ biến trong văn học thời kỳ này
là một phong cách có tính chất thời đại. Theo thống kê của tổ tư liệu viện ngơn ngữ thì
trong số 3412 từ của Truyện Kiều có 1310 từ Hán Việt, tức là từ Hán Việt chiếm tỉ lệ
35% trong tổng số từ của tác phẩm. So với những tác phẩm cùng thời thì tỉ lệ như thế
không phải là cao, song cách cách sử dụng của Nguyễn Du mới là điều cần chú ý.


Từ Hán Việt chiếm tỉ lệ cao trong vốn từ tiếng Việt (70%) song khơng vì thế mà tác giả
sử dụng nó một cách dễ dàng, tuỳ tiện. Những từ Hán Việt được dùng trong tác phẩm thể
hiện vốn hiểu biết rộng, sự sàng lọc kĩ lưỡng của Nguyễn Du trong dùng từ. Điều này
được thể hiện ở cách đưa các điển tích, điển cố lấy từ văn học Trung Quốc vào trong thơ.
Trong Truyện Kiều có rất nhiều điển tích, điển cố song chúng ta có thể kể ra một vài ví
dụ tiêu biểu:



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Hay miêu tả nỗi nhớ nhà da diết của Thuý Kiều, tác giả viết: Sân Lai cách mấy nắng
mưa/ Có khi gốc tử đã vừa người ôm. (Sân Lai, gốc tử ấy cũng là những điển tích).


Và: Khen ai nhả ngọc phun châu
Nàng Ban, ả Tạ cũng đâu thế này, hay:


Dập dìu lá gió cành chim


Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh...đều là những điển tích điển
cố. Đây là những điển tích điển cố khá quen thuộc và được tác giả bố trí vào những văn
cảnh nhất định giúp người đọc dễ hiểu. Đặc biệt, Nguyễn Du có cách dùng từ rất đặc sắc
thể hiện vốn tiếng Hán uyên thâm của mình khi miêu tả nỗi nhớ của Thuý Kiều đối với
Thúc Sinh trong đêm thu:


Đêm thu gió lọt song đào


Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời


Ở đây, Thúc Sinh tức là Thúc Kì Tâm, mà chữ Tâm trong tiếng Hán là:
Một ví dụ khác, tác giả giới thiệu tên Mã Giám Sinh:


Qúa niên trạc, ngoại tứ tuầnMày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao


Dùng từ Hán Việt “ngoại tứ tuần” ở câu thơ này quả là rất hiệu quả. Nói Mã Giám Sinh
“ngoại tứ tuần” khác hồn tồn với nói Mã Giám Sinh “ngồi bốn mươi tuổi”. “Ngồi
bốn mươi tuổi” chỉ là cách nói thơng thường, khơng có hàm ý gì cả, cịn “ngoại tứ tuần”
thì khơng phải chỉ nói ngồi bốn mươi tuổi mà cịn có ý chê già, hàm ý đánh giá. Nó đối
lập với trang phục của y ở câu thơ dưới. Ở câu thơ này, tác giả có thể dùng từ thuần Việt
nhưng như thế thì câu thơ sẽ kém hay rất nhiều.



Cách dùng từ Hán -Việt cũng để tạo ra các đặc sắc về tu từ trong thơ. Ví dụ, trong rất
nhiều từ để chỉ khái niệm “phụ nữ” tuỳ từng hồn cảnh mà Nguyễn Du có những cách gọi
khác nhau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.


Hoặc khi gọi ơng trời là “hồng qn” thì tác giả gọi người phụ nữ là “hồng quần” vì hai
từ này có âm hưởng gần nhau mà nội dung đối lập nhau, bài trừ nhau:


Hồng quân với khách hồng quần
Đã xoay đến thế còn vần chưa tha
Một câu thơ khác ông lại gọi là hồng nhan:


Rằng: hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.


Cách dùng hồng nhan ở câu thơ trên cũng là ý đồ nghệ thuật của tác giả. Hồng nhan, bạc
mệnh vốn là một kết cấu thống nhất, một tập hợp từ gần như thành ngữ “hồng nhan bạc
mệnh”, ở đây tác giả tách nó ra nhằm nhấn mạnh ý nghĩa của nó.


Trong tác phẩm, chúng ta cịn bắt gặp các từ khác cũng dùng để chỉ người phụ nữ như:
gái tơ, má đào, má hồng...


Một đặc điểm khác trong ngôn từ nghệ thuật của Nguyễn Du là cách sử dụng từ ngữ vô
cùng linh hoạt, thể hiện vốn từ vựng tiếng Việt (cả tiếng Hán) vô cùng phong phú của
ông.


Tác giả đã dùng hàng loạt các từ ngữ khác nhau để chỉ cùng một đối tượng. Cách sử dụng
linh hoạt của tác giả giúp thể hiện được nhiều tâm trạng, nhiều tình cảm, nhiều phương
diện khác nhau trong mỗi nhân vật.



Về các từ cùng chỉ khái niệm người phụ nữ trên đây là một ví dụ. Và đây là một ví dụ
khác:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

một bước lệ hoa mấy hàng” và “Áo đầm giọt tủi tóc se mái đầu”. Và đây là giọt nước mắt
của cuộc chia tay giữa Thuý Kiều và Thúc Sinh:


Giọt châu lã chả khôn cầm


Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt tương.


Cịn khi Th Kiều khóc cho Từ Hải thì lại khác: “Dòng thu như xối cơn sầu”...


Như vậy, cùng miêu tả giọt nước mắt mà Nguyễn Du đã dùng rất nhiều từ khác nhau để
diễn đạt và mang những ý nghĩa sâu sắc. Về thủ pháp dùng từ độc đáo này, chúng ta có
thể liệt kê được rất nhiều trường hợp khác trong Truyện Kiều: cùng chỉ một khái niệm
“mặt trăng”, trong truyện có: mặt trăng, vành trăng, cung trăng, cung Quảng, gương nga,
bóng nga, chị Hằng; cùng một khái niệm “giấc ngủ”, Truyện Kiều có các từ: giấc xuân,
giấc mộng, giấc mê, giấc vàng, giấc chiêm bao, giấc hương quan...


Ngồi ra, ngơn từ nghệ thuật Truyện Kiều cịn rất súc tích, chính xác. Nguyễn Du có thể
bằng một vài câu thơ khắc hoạ lên sắc nét chân dung ngoại hình của một nhân vật, hay
miêu tả một biến cố, một cảnh ngộ, một sự di chuyển về không gian, hay một sự vận
động của thời gian. Nguyễn Du cũng có thể bằng một từ hay một vài từ mà bộc lộ được
tất cả thái độ đánh giá của ông đối với tính cách, phẩm chất của một con người nào đó
hay một hiện tượng nào đó. Đó là đoạn miêu tả Thuý Kiều, Thuý Vân đẹp và tài. Đó là
hình ảnh Kim Trọng với phong thái ung dung, hào hoa phong nhã:


Sắc in mặt tuyết câu dồn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.



Hay miêu tả Từ Hải anh hùng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

đứng về phía nhân dân mà trông lên bọn thống trị ngồi trên đầu họ. Nhưng rồi cái mặt sắt
đen sì hiện ra. Mặt sắt lạnh lùng khơng có chút tình người, đạo lý và đen sì đến ghê tởm.
Thật khơng có chữ nào miêu tả bọn thống trị một cách ngắn gọn mà sắc hơn”. Cịn nhà
thơ Lưu Trọng Lư nói về câu: “Đêm khuya con gái dặm trường”: “Sáu chữ thơi nhưng có
thể bao gồm hết ý nghĩa của cả bốn cuốn truyện dài đó”.


Và chúng ta thấy, chỉ cần một chữ “lẻn”, Nguyễn Du đã tóm đúng cái thần thái của Sở
Khanh: gian manh, xảo quyệt: “Mặt mo đã thấy Sở Khanh lẻn vào”. Chỉ một chữ “tót”
thơi, Mã Giám Sinh đã lộ ngun hình một tên vơ học, vơ văn hố: “Ghế trên ngồi tót sổ
sàng”. Cịn Hoạn Thư cay độc, nham hiểm thì: Bề ngồi thơn thớt nói cười/ Mà trong
nham hiểm giết người khơng đao.


Tú Bà thì ngoại hình đã tạo ra sự ghê sợ cho người đọc: Thoắt trông nhờn nhợt màu da/
Ăn gì to lớn đẩy đà làm sao. Hồ Tôn Hiến dâm ô bỉ ổi:


Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình....


Nguyễn Du đã sử dụng những từ rất “đắt” để miêu tả về các nhân vật của mình. Các từ đó
đều rất giàu ý nghĩa, rất chính xác, súc tích và có giá trị biểu cảm cao khi thể hiện tính
cách, phẩm chất, ngoại hình... của nhân vật.


Bên cạnh cái súc tích, chính xác, ngơn từ mà Nguyễn Du dùng trong truyên Kiều cũng
tạo cho câu thơ giàu hình ảnh và nhạc điệu.


Đó là cách tả mùa xuân: Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa,
Là cách tả mùa hè:



Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập loè đâm bông
Hay cảnh mùa thu:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Nguyễn Du đã kết hợp được trong câu thơ của mình một tư duy thơ sắc sảo với việc khai
thác triệt để các khả năng tu từ của ngôn ngữ Tiếng Việt và của thể thơ lục bát. Nguyễn
Du chú ý đến âm hưởng của từng từ trong khi dùng và kết hợp âm hưởng của các từ để
tạo ra một hiệu quả nghệ thuật theo ý muốn.


Diễn tả sóng nước muôn trùng của sông Tiền Đường lúc Thuý Kiều tự vẫn, nhà thơ dùng
liền mấy từ có phụ âm đầu là “tr” kết hợp với vần ung, ong, ông: Ngọn triều
non bạc trùng trùng


Vời trơng cịn thấy bóng hồng lúc gieo!


Và để diễn tả cái tư thế hùng dũng, đội trời đạp đất của Từ Hải thì tác giả dùng rất nhiều
phụ âm “đ” tạo ấn tượng chắc chắn, vững chải:


Đường đường một đấng anh hàoCôn quyền hơn sức lược thao gồm tàiĐội trời đạp đất ở
đờiHọ Từ tên Hải vốn người Việt Đông. Và: Vẩy vùng trong bấy
nhiêu niênLàm cho động địa kinh thiên đùng đùngTả bánh xe Thuý Kiều miễn cưỡng ra
về nhà Mã Giám Sinh, Nguyễn Du viết: Đoạn trường thay lúc phân kỳ
Vó xe khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh.Câu thơ gồm rất nhiều thanh trắc.


Song khi miêu tả mùa xn tươi đẹp, thướt tha thì nhà thơ lại có câu thơ gồm nhiều thanh
bằng: Lơ thơ tơ liễu buông mành.


Nguyễn Du cũng rất linh hoạt trong phép đối. Tác giả sử dụng đối từ ngay trong câu thơ.
Dưới ngịi bút của ơng, thơng qua biện pháp đối mà các từ ngữ trong câu thơ trở nên cân


đối, hài hoà, uyển chuyển:


Làn thu thuỷ nét xuân sơnHoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanhMai cốt cách tuyết tinh
thần...Hay: Người ngồi cười nụ, người trong khóc thầm...


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Trăm năm trong cõi người taChữ tài, chữ mệnh khéo là ghét
nhauTrải qua một cuộc bể dâuNhững điều trơng thấy mà đau đớn lịng...


Như vậy, nếu nói đến ngơn ngữ trong thơ là chúng ta phải nói tới cả từ ngữ lẫn ngữ pháp,
cách sử dụng từ ngữ và tổ chức các câu thơ...Trong khuôn khổ bài viết này, chúng ta chỉ
đề cập tới đằc sắc ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, tức là cách
dùng từ, ý nghĩa của các từ được dùng và dụng ý của tác giả...Có thể nói rằng, ngơn từ
nghệ thuật trong Truyện Kiều là rất đặc sắc và có rất nhiều yếu tố tạo nên cái đặc sắc ấy
mà chúng ta chưa khám phá. Tuy nhiên, chỉ với các lý do, chứng cứ mà chúng ta có trên
đây cũng đủ để khẳng định rằng điều đó.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×