Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý
!"#$%& $'&()%)*%**"
1. Vị trí địa lí:
Lãnh thổ Việt Nam bao gồm hai bộ phận: phần đất liền ( diện tích 330.991 km2) và
phần biển rộng lớn gấp nhiều lần so với phần đất liền.
a) Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa. Đặc điểm đó đã làm cho thiên
nhiên nước ta khác hẳn với các nước có cùng vĩ độ ở Tây Á, Đông Phi, Tây Phi và tác
động sâu sắc tới các hoạt động kinh tế.
b) Việt Nam nằm ở phía Đông bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam Á, có
một vùng biển rộng lớn giàu tiềm năng. Vị trí tiếp giáp trên đất liền và trên biển làm cho
nước ta có thể dễ dàng giao lưu về kinh tế và văn hoá với nhiều nước trên thế giới.
c) Việt Nam nằm ở khu vực đang diễn ra những hoạt động kinh tế sôi động của thế
giới. Nền kinh tế của các nước trong khu vực đứng đầu là Xingapo, sau đó là Malaixia,
Thái Lan, Inđônêxia có nhiều chuyển biến đáng kể và ngày càng chiếm vị trí cao hơn trong
nền kinh tế toàn cầu cũng như ở châu Á – Thái Bình Dương. Trong nhiều năm liên tục
trước cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra vào nửa sau thập kỷ 90, tốc độ tăng trưởng kinh
tế của các nước trong khu vực đạt khá cao. Vị thế của ASEAN ngày càng được khẳng
định.
2. Tài nguyên thiên nhiên
a) Nước ta có sự đa dạng về tài nguyên thiên nhiên. Ở trình độ phát triển kinh tế như
hiện nay, tài nguyên đất giữ vị trí quan trọng. Việt Nam có khoảng 8,0 triệu ha đất nông
nghiệp, bao gồm đất ở đồng bằng, ở các bồn địa giữa núi, ở đồi núi thấp và các cao
nguyên.
Nguồn nhiệt ẩm lớn, tiềm năng nước dồi dào, số lượng các giống loài động, thực vật
biển và trên cạn khá phong phú, nguồn khoáng sản đa dạng v.v… là những thuận lợi mà
thiên nhiên đã dành cho chúng ta.
Tuy nhiên, nước ta cũng có nhiều tai biến do thiên nhiên gây ra như bão, lũ lụt, hạn
hán v.v… Gần như không năm nào không có thiên tai gây ra những tổn thất nhất định cho
nền kinh tế và cho đời sống nhân dân ở vùng này hay vùng khác.
Khoáng sản là một loại tài nguyên thiên nhiên có ý nghĩa đặc biệt đối với việc phát
triển kinh tế - xã hội. nhìn chung, ở nước ta nhiều loại khoáng sản phân tán theo không
gian và phân bố không đều về trữ lượng. Một số khoáng sản với trữ lượng đáng kể như:
boxit, vật liệu xây dựng, dầu khí, sắt v.v… tuy mới được khai thác bước đầu nhưng đã tỏ
ra có hiệu quả.
Việc khai thác và sử dụng các nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên có quan hệ mật
thiết với trình độ phát triển của khoa học – kỹ thuật và công nghệ, cũng như phụ thuộc
nhiều vào vốn đầu tư.
Trên một đơn vị diện tích, số lượng tài nguyên nhiều, trữ lượng nhỏ lại phân tán như
trong điều kiện hiện nay, có thể là một khó khăn. Song nếu áp dụng công nghệ khai thác tài
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý +
nguyên tiên tiến trên quan điểm kinh tế tổng hợp, thì mức độ tập trung tài nguyên như đã
nêu ở trên lại có thể coi là một thế mạnh.
b) Cho đến gần đây, những hậu quả của chiến tranh để lại và nhất là việc khai thác
không hợp lý tài nguyên ở nước ta đã dẫn đến tình trạng nhiều loại bị suy giảm nghiêm
trọng.
Thực trạng khai thác tài nguyên ở Việt Nam rất khác nhau. Trong khi tài nguyên biển
chưa sử dụng được bao nhiêu thì nhiều loại tài nguyên khác lại bị khai thác quá mức.
Tài nguyên rừng bị tàn phá nghiêm trọng nhất. Hiện nay, độ che phủ của rừng đang ở
mức báo động. Rừng chỉ còn chiếm 32% diện tích cả nước (1999). Đất đai nhiều vùng bị
sói mòn, diện tích đất trồng, đồi trọc tăng lên đáng kể. Nhiều hệ sinh thái rừng, nhất là ở
khu vực ven biển, đầu nguồn và cửa sông bị phá hoại nặng nề. Nguồn gen động vật, thực
vật bị giảm sút mạnh.
Sự suy giảm tài nguyên thiên nhiên trước hết là hậu quả trực tiếp của việc khai thác
bừa bãi, không theo một chiến lược nhất định. Sau nữa là trình độ công nghệ khai thác của
nước ta còn lạc hậu. Vì thế, tài nguyên bị lãng phí mà chi phí khai thác lại cao.
c) Tài nguyên thiên nhiên là một trong những nguồn lực cơ bản trong việc xây dựng
và phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, vấn đề sử dụng hợp lí đi đôi với việc bảo về và tái tạo
tài nguyên thiên nhiên đang được đặt ra nhằm đảm bảo những điều kiện tốt nhất cho sự
phát triển bền vững của Việt Nam hiện tại và trong tương lai.
!+: "Dân cư và nguồn lao động"
1. Việt Nam là một nước đông dân, có nhiều thành phần dân tộc
Theo số liệu Tổng điều tra dân số ngày 1 – 4 – 1999, dân số nước ta là 76.327.900
người. Về dân số, nước ta đứng hàng thứ hai ở khu vực Đông Nam Á và hàng thứ 13 trong
tổng số hơn 200 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới.
Dân số là một nguồn lực quan trọng để phát triển nền kinh tế. Với số dân đông, nước
ta có nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ rộng lớn. Song trong điều kiện nước ta
hiện nay, dân số đông là một trở ngại lớn cho việc phát triển kinh tế và nâng cao đời sống
của nhân dân.
Nước ta có 54 thành phần dân tộc, đoàn kết trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Hiện nay trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các thành phần dân tộc ở nước ta vẫn còn
có sự chênh lệch. Vì vậy, phải chú trọng hơn nữa đển việc phát triển kinh tế - xã hội ở các
vùng dân tộc ít người.
2. Dân số nước ta tăng nhanh
Dân số tăng quá nhanh dẫn đến sự bùng nổ dân số. Điều đó xảy ra ở nước ta từ cuối
những năm 50 của thế kú XX. Tuy nhiên, ở từng vùng lãnh thổ, từng thành phần dân tộc,
mức bùng nổ dân số có sự khác nhau. Trên phạm vi toàn quốc, dân số nước ta đã tăng gấp
đôi từ 30 lên 60 triệu người trong vòng 25 năm (1960 – 1985).
Nhịp độ gia tăng dân số cũng biến đổi qua các thời kì.
Trong thời kì 1931 – 1960, tốc độ gia tăng trung bình năm là 1,85%. Dân số tăng
nhanh vào những năm 1965 – 1975 với mức tăng trung bình năm trên 3%. Giữa hai đợt
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý ,
tổng điều tra dân số lần thứ nhất và lần thứ hai (1979 và 1989), mức tăng trung bình năm
giảm xuống còn 2,1% và giữa hai cuộc tổng điều tra dân số gần đây nhất (1989 và 1999) là
1,7%.
Hiện nay, do kết quả của việc thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình,
nhịp độ tăng dân số ở nước ta đang có xu hướng giảm xuống, tuy còn chậm. Mặc dù tỉ lệ
sinh có giảm, song số dân nước ta trong thời kì 1979 – 1989 vẫn tăng thêm 11,7 triệu
người, tương đương với số dân của một nước trung bình trên thế giới.
Trong thời kì 1989 – 1999, số dân tăng thêm 11,9 triệu người, tỉ lệ gia tăng dân số
trung bình năm tuy có giảm (1,7%) nhưng vẫn cao hơn một chút so với mức gia tăng tự
nhiên của toàn thế giới.
Sự gia tăng dân số quá nhanh đã tạo nên sức ép rất lớn đối với việc phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của từng thành viên trong xã hội.
3. Dân số nước ta thuộc loại trẻ
Cơ cấu các nhóm tuổi trong tổng số dân (1 – 4 – 1999) của nước ta là:
+ Dưới độ tuổi lao động: 33,1%
+ Trong độ tuổi lao động: 59,3%
+ Ngoài độ tuổi lao động: 7,6%
Do dân số trẻ nên lực lượng lao động của nước ta chiếm khoảng 50% tổng số dân.
Hàng năm xã hội có thêm khoảng 1,1 triệu lao động mới. Điều đó gây nên những khó khăn
về sắp xếp việc làm cho số lao động gia tăng. Tuy nhiên lực lượng lao động của Việt Nam
có khả năng tiếp thu nhanh các kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Nếu được đào tạo và sử
dụng hợp lí, họ sẽ trở thành nguồn lực quyết định để xây dựng đất nước.
4. Dân cư và nguồn lao động nước ta phân bố không đều
Điều đó phụ thuộc vào lịch sử định cư, trình độ phát triển kinh tế -xã hội, mức độ
màu mỡ của đất đai, sự phong phú của nguồn nước v.v… Tính chất không đồng đều này
thể hiện rõ rệt giữa các vùng và ngay trong nội bộ từng vùng lãnh thổ.
Khoảng 80% số dân tập trung ở vùng đồng bằng và ven biển với mật độ dân số rất
cao (đồng bằng sông Hồng 1180 người/km2 – 1999). Ở trung du và miền núi, dân cư thưa
thớt hơn nhiều (Tây Nguyên là 67 người/km2, Tây Bắc là 62 người/km2).
Sự phân bố dân cư không đều còn thể hiện giữa thành thị và nông thôn. 76,5% số dân
sinh sống ở nông thôn, còn ở thành thị chiếm 23,5% (số liệu năm 1999)
Tình hình phân bố dân cư như vậy gây ra những khó khăn cho việc sử dụng hợp lí
nguồn lao động và việc khai thác nguồn tài nguyên hiện có ở mỗi vùng.
5. Để giảm bớt gánh nặng dân số, cần phải có chiến lược phát triển dân số hợp lí và
sử dụng có hiệu quả nguồn lao động của nước ta
Trước mắt, cần có những biện pháp hữu hiệu nhằm giảm nhanh tỉ lệ sinh, đồng thời
từng bước phân bố lại dân cư, lao động giữa các vùng và giữa các ngành kinh tế trong
phạm vi cả nước.
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý -
!,: " Đường lối phát triển KT-XH và cơ sở vật chất kỹ thuật"
I. Đường lối phát triển kinh tế - xã hội
1. Việc đổi mới kinh tế - xã hội một cách toàn diện là vấn đề cơ bản xuyên suốt hệ
thống chính sách của Đảng và Nhà nước
Đây cũng chính là nguồn lực quan trọng góp phần vào việc định hướng phát triển nền
kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội chủ yếu đang đặt ra ở nước ta. Cho đến nay, nền
kinh tế nước ta đã trải qua từ việc phi tập trung hoá về mặt hành chính đến việc bước đầu
đổi mới toàn diện. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, quá trình đổi mới đã
được định hình và phát triển đúng hướng. Sự đổi mới thể hiện ở việc xoá bỏ cơ chế quản lí
tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ cấu kinh tế năng động, sử dụng cơ chế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 đã được vạch ra nhằm giải
quyết những vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách của đất nước
Mục tiêu tổng quát của chiến lược là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con
người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an
ninh được tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình
thành về cơ bản ; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng ít nhất gấp đôi so với năm 2000 ;
chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, giảm tỉ lệ lao động nông nghiệp
xuống còn khoảng 50%.
3. Để thực hiện chiến lược đổi mới, nhiều chính sách cụ thể đã được ban hành
Một trong những nguồn lực quan trọng để đảm bảo thực hiện thắng lợi mục tiêu của
chiến lược kinh tế - xã hội là vấn đề tạo vốn. Ngoài chính sách huy động vốn trong nước,
chính sách mở cửa và luật đầu tư đã ra đời và đang phát huy tác động trong nhiều lĩnh vực
kinh tế - xã hội.
Việt Nam được coi là một thị trường khá hấp dẫn, là nơi đang có nhiều nước trong
khu vực và trên thế giới đến đầu tư.
II. Đường lối phát triển kinh tế - xã hội
1. Nước ta đã xây dựng được một hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật có trình độ nhất
định để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước
a) Cơ sở vật chất – kỹ thuật của các ngành từng bước được hình thành. Trong nông
nghiệp, cả nước có gần 5300 công trình thuỷ lợi, trong đó có khoảng 3000 trạm bơm. Các
công trình này đã góp phần vào việc chủ động tưới nước cho 4,8 triệu ha và tiêu nước cho
52 vạn ha. Ngoài ra phải kể đến nhiều cơ sở bảo vệ thực vật, thú ý, nghiên cứu giống, nhân
giống và tạo ra nhiều giống cây, con phù hợp với điều kiện sinh thái, kỹ thuật nuôi trồng
cho năng suất cao.
Trong công nghiệp, cả nước có 2821 xí nghiệp trung ương và địa phương, 590.246 cơ
sở sản xuất ngoài quốc doanh – (tính đến hết năm 1998). Một số ngành công nghiệp khai
thác (than, dầu khí), công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng (dệt, giấy v.v…), xi măng.
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý .
Mạng lưới giao thông chính đã toả đi nhiều nơi từ Bắc đến Nam, từ đồng bằng lên
trung du và miền núi. Dọc vùng duyên hải là hệ thống cảng biển, trong đó đáng kể nhất là
các cảng Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn. Năng lực vận chuyển hàng hoá của các cảng biển
đạt 11,6 triệu tấn/năm (năm 1999). Mạng lưới thương mại phát triển rộng khắp với 1,5
triệu người kinh doanh chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp.
b) Về phương diện lãnh thổ, các trung tâm công nghiệp quan trọng (Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh) và một số vùng chuyên canh (lúa, cây công nghiệp) có quy mô lớn, thật
sự trở thành bộ khung cho việc hình thành các vùng kinh tế.
2. Tuy nhiên, cơ sở vật chất – kỹ thuật chưa đủ mạnh để có thể đáp ứng được yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội
Trừ một số cơ sở công nghiệp mới xây dựng, trình độ kỹ thuật và công nghệ của
nước ta nói chung còn lạc hậu. Sự thiếu đồng bộ giữa các ngành và trong từng ngành còn
phổ biến. Kết cấu hạ tầng vẫn đang ở tình trạng kém phát triển.
Sự phân bố cơ sở vật chất – kỹ thuật của nền kinh tế chưa đồng đều giữa các vùng.
Các cơ sở kinh tế lớn tập trung chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng và phụ cận, ở Đông Nam
Bộ, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh. Ở các vùng này, kết cấu hạ tầng phát triển hơn hẳn
các vùng còn lại của đất nước. Trong lúc đó, cả một vùng rộng lớn của Tây Bắc, Tây
Nguyên, cơ sở vật chất – kỹ thuật và kết cấu hạ tầng phục vụ cho việc phát triển kinh tế -
xã hội còn rất hạn chế.
3. Để tạo tiền đề cho sự phát triển, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất
– kỹ thuật là một vấn đề cấp thiết
Trước mắt, việc đầu tư theo chiều sâu kết hợp giữa hiện đại hoá và phát triển đồng bộ
cơ sở vật chất – kỹ thuật sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế - xã hội nước ta tiến kịp trình độ
chung của thế giới.
/#0123
! "Lao động và việc làm”
1. Nguồn lao động
Nguồn lao động của nước ta rất dồi dào. Theo điều tra của Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội, lực lượng lao động năm 1998 gồm 37,4 triệu người. Mặc dù mức gia tăng
dân số và nguồn lao động đã giảm, mỗi năm vẫn tăng thêm khoảng 1,1 triệu lao động.
Người lao động Việt Nam cần cù, khéo tay, có những truyền thống, kinh nghiệm sản
xuất (nhất là trong nông, lâm, ngư nghiệp và sản xuất tiểu thủ công nghiệp) được tích luỹ
qua nhiều thế hệ, có khả năng tiếp thu khoa học, kỹ thuật. Chất lượng nguồn lao động ngày
càng cao do đội ngũ lao động có chuyên môn kỹ thuật là gần 5 triệu người, chiếm hơn 13%
tổng lực lượng lao động, trong đó số người có trình độ đại học và cao đẳng trở lên chiếm
23%.
Tuy nhiên, từ một nước nông nghiệp đi lên, người lao động nước ta nhìn chung còn
thiếu tác phong công nghiệp, kỉ luật lao động chưa cao. Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật,
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý 4
công nhân có tay nghề cao vẫn còn mỏng trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
Lực lượng lao động, đặc biệt là lao động có kỹ thuật, tập trung chủ yếu ở vùng đồng
bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ, nhất là ở một số thành phố lớn (Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ…). Đó là điều kiện thuận lợi để phát
triển ở đây các ngành dịch vụ, các ngành công nghiệp đòi hỏi trình độ cao.
Mặt khác, sự tập trung quá cao lực lượng lao động ở vùng đồng bằng và duyên hải có
thể gây căng thẳng cho việc giải quyết việc làm. Trong khi đó, vùng núi và vùng trung du
giàu tài nguyên lại thiếu lao động, đặc biệt là lao động có kỹ thuật.
2. Sử dụng lao động trong các ngành kinh tế quốc dân
a) So với những năm đầu Đổi mới, thì cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế quốc
dân đã thay đổi đáng kể theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá. Lao động nông, lâm,
ngư nghiệp chỉ còn chiếm 63,5% lao động trong công nghiệp và xây dựng đã chiếm
11,9%, lao động trong khu vực dịch vụ tăng mạnh, chiếm 24,6% lực lượng lao động.
b) Việc sử dụng lao động trong các thành phần kinh tế có những thay đổi quan trọng.
Nền kinh tế của nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần(1), có thể chia thành 2
khu vực lớn là khu vực Nhà nước (quốc doanh), và khu vực kinh tế tập thể và tư nhân
(ngoài quốc doanh). Hiện nay đang có sự chuyển dịch lao động từ khu vực Nhà nước sang
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Sự chuyển dịch lao động như vậy là phù hợp với quá
trình nước ta chuyển sang kinh tế thị trường.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh không chỉ thu hút đa số tuyệt đối lao động nông,
lâm, ngư nghiệp, mà còn thu hút ngày càng nhiều lao động làm công nghiệp, xây dựng và
dịch vụ.
c) Năng suất lao động xã hội nói chung còn thấp làm cho phần lớn người lao động có
thu nhập thấp, đồng thời làm chậm việc cải thiện sự phân công lao động xã hội. Thêm vào
đó, vẫn còn nhiều quỹ thời gian lao động (ở nông thôn, cũng như trong các cơ quan, xí
nghiệp) chưa được sử dụng. Nếu tổ chức tốt lao động, thì đây là một nguồn dự trữ lớn để
nâng cao năng suất lao động xã hội.
3. Vấn đề việc làm
a) Việc làm đang là một vấn đề kinh tế - xã hội gay gắt ở nước ta, đặc biệt là ở các
thành phố. Theo điều tra của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, năm 1998 cả nước có
9,4 triệu người thiếu việc làm và 856 nghìn người thất nghiệp. Tỉ lệ thiếu việc làm ở vùng
nông thôn là 28,2%. Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị là 6,8%.
Hiện nay, tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn và tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị cao nhất là ở
đồng bằng sông Hồng, tiếp đến là ở Bắc Trung Bộ. Vấn đề việc làm ở Đông Nam Bộ trước
đây cũng rất căng thẳng, nay đã được cải thiện rõ rệt.
b) Vấn đề việc làm đã và đang được giải quyết theo các hướng sau
- Phân bố lại dân cư và nguồn lao động giữa các vùng, để vừa tạo thêm việc làm, vừa
khai thác được tốt hơn tiềm năng của mỗi vùng. Tây Nguyên (đặc biệt là Đắc Lắc) và
Đông Nam Bộ (đặc biệt là Đồng Nai) đã tiếp nhận hàng chục vạn người đến xây dựng các
vùng kinh tế mới, nhất là từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng và duyên hải miền Trung.
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý 5
- Đẩy mạnh kế hoạch hoá gia đình và đa dạng hoá các hoạt động kinh tế nông thôn.
Việc khẳng định vai trò của kinh tế hộ gia đình sẽ tạo điều kiện sử dụng có hiệu quả hơn
lao động nông nghiệp. Nền nông nghiệp đang chuyển dần từ tự cấp, tự túc thành nông
nghiệp hàng hoá, thâm canh và chuyên canh. Các nghề thủ công truyền thống, các hoạt
động dịch vụ ở nông thôn được khôi phục và phát triển. Lao động thuần nông ngày càng
giảm đi. Nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá nông thôn, nhờ vậy vấn đề việc làm ở
nông thôn sẽ được giải quyết vững chắc hơn.
- Phát triển các hoạt động công nghiệp và dịch vụ, trong đó có các hoạt động công
nghiệp và dịch vụ quy mô nhỏ, thu hồi vốn nhanh, sử dụng kỹ thuật tinh xảo và cần nhiều
lao động, có khả năng tạo ra nhiều việc làm mới cho thanh niên ở các thành phố, thị xã.
Việc đa dạng hoá các loại hình đào tạo (trong đó có các hình thức đào tạo từ xa, đào
tạo mở rộng…), đẩy mạnh hoạt động hướng nghiệp ở các nhà trường, hoạt động dạy nghề
và giới thiệu việc làm vừa giúp nâng cao chất lượng người lao động, vừa giúp cho người
lao động có thể tự tạo việc làm hoặc dễ tìm việc làm hơn.
Nhà nước và nhân dân ta đang tìm mọi biện pháp để giải quyết việc làm và sử dụng
hợp lí sức lao động, vì nguồn nhân lực có ý nghĩa cực kì quan trọng để phát triển kinh tế -
xã hội của nước ta.
!+: "Vấn đề phát triển giáo dục văn hóa và y tế"
Việt Nam là một nước có nền văn hoá lâu đời. Mặc dù có những thăng trầm của lịch
sử, nền văn hoá đó đã giúp người Việt Nam giữ gìn được bản sắc của dân tộc mình, đồng
thời cải biến cho phù hợp với sự phát triển của đất nước và thời đại.
Việc phát triển giáo dục, văn hoá và y tế có ý nghĩa to lớn trong việc đẩy mạnh tiến
bộ xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, hình thành con người mới.
1. Nền giáo dục Việt Nam đa dạng và ngày càng hoàn chỉnh, góp phần tích cực vào
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có vị trí chiến lược trong việc hình thành nhân cách
con người Việt Nam mới, trong việc nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước và nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động. Vì vậy, Đảng và Nhà
nước ta đã khẳng định giáo dục là quốc sách.
Trong hơn nửa thế kỷ qua, mặc dù đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh ác liệt,
nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, nhưng sự nghiệp giáo dục và đào tạo đã được chú trọng
đầu tư trong phạm vi cho phép.
Hệ thống giáo dục ngày càng hoàn chỉnh, có đủ các cấp học và ngành học, từ mẫu
giáo, phổ thông (tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông), bổ túc văn hoá (giáo dục
thường xuyên), đến hệ thống các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng và
đại học.
Các hình thức tổ chức giáo dục cũng đa dạng: Các trường phổ thông, trường năng
khiếu, trường dành cho trẻ mồ côi, trường dành cho trẻ bị khuyết tật, trường phổ thông dân
tộc nội trú… do Nhà nước quản lí. Trong mấy năm gần đây đã xuất hiện các trường phổ
thông dân lập và bán công.
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý 6
Trong hệ thống giáo dục cao đẳng và đại học cũng đã xuất hiện thêm một số trường
đại học dân lập, đại học cộng đồng (ở một số tỉnh trên cả nước), đại học bán công, đại học
mở, hai trường Đại học quốc gia ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, các trường đại học
khu vực ở Thái Nguyên, Huế, Đà Nẵng…
Mạng lưới các cơ sở giáo dục hiện nay gồm hơn 23.000 trường phổ thông, 239
trường trung học chuyên nghiệp và 110 trường đại học, cao đẳng (chưa kể các trường dân
lập). Trung tâm đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật lớn nhất là Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh, ngoài ra còn phải kể đến các trung tâm đào tạo tại các thành phố Thái Nguyên, Hải
Phòng, Vinh , Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ và Đà Lạt…
Những thành tựu về giáo dục và đào tạo mà nước ta đã đạt được là to lớn. Trước
Cách mạng tháng Tám, hơn 80% dân số nước ta không biết đọc biết viết. Hiện nay có tới
khoảng 92% dân số từ 10 tuổi trở lên là biết đọc biết viết (năm 1999), là tỉ lệ cao so với
nhiều nước đang phát triển ở vùng châu Á – Thái Bình Dương. Trình độ học vấn của nhân
dân ngày càng được nâng cao.
Mỗi năm cả nước có khoảng 17 triệu trẻ em đến trường. Nước ta đã hoàn thành phổ
cập tiểu học.
Số sinh viên cao đẳng, đại học mỗi năm không ngừng tăng lên; năm 1998 là 682
nghìn người, số tốt nghiệp là trên 103 nghìn người. Số học sinh trung học chuyên nghiệp
năm 1998 là 178 nghìn người, số học sinh các trường đào tạo công nhân kỹ thuật là 114
nghìn người.
Ngoài ra cần phải kể đến một lực lượng khá đông đảo trí thức, sinh viên… của cộng
đồng người Việt ở nước ngoài đang hướng về quê hương mong đóng góp vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Một nền văn hoá đa dạng, giàu bản sắc dân tộc
Nước ta có nền văn hiến lâu đời. Bản sắc của dân tộc Việt Nam được tạo nên từ tinh
hoa văn hoá của 54 dân tộc chung sống trên toàn lãnh thổ, cộng với việc tiếp thu có chọn
lọc và phát triển tinh hoa của các nền văn hoá trên thế giới.
Việc xây dựng nền văn hoá mới, vừa dân tộc, vừa hiện đại có ý nghĩa rất quan trọng
trong xây dựng xã hội mới, phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vậy, việc duy trì và phát triển
bản sắc văn hoá của dân tộc luôn luôn được coi trọng.
Mạng lưới các cơ sở dịch vụ văn hoá đã hình thành và phát triển. Các thành phố, thị
xã, huyện lị là các trung tâm văn hoá của khu vực. Ở đây, tuỳ từng nơi mà có các nhà văn
hoá, câu lạc bộ, thư viện, hiệu sách, phòng triển lãm nghệ thuật, nhà bảo tàng, nhà hát, rạp
chiếu bóng với quy mô khác nhau. Mạng lưới dịch vụ văn hoá còn được phát triển đến cấp
xã ở nhiều vùng. Việc phủ sóng phát thanh, truyền hình trên phạm vi cả nước với nội dung
phát sóng ngày càng phong phú, hấp dẫn đang góp phần quan trọng vào việc phát triển
truyền thông đại chúng, nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần của nhân dân. Các hoạt động
văn hoá đối ngoại (nhất là các hoạt động qua phát thanh, truyền hình và báo chí trên mạng
Internet) cũng ngày càng được chú trọng.
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý 7
Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm văn hoá lớn nhất của cả
nước.
3. Một nền y tế ngày càng hoàn thiện
Phát triển dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ cho từng thành viên trong xã hội là một
trong những nét ưu việt của chế độ ta. Nhờ việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu tốt mà tỉ suất
tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi đã giảm mạnh (từ 79% năm 1970, xuống còn 44 ‰ hiện
nay). Tuổi thọ trung bình của nhân dân ta đã khá cao (nam 65, nữ gần 70). Nhiều bệnh
truyền nhiễm và bệnh dịch hiểm nghèo đã được thanh toán về căn bản.
Mạng lưới dịch vụ y tế phát triển rộng khắp, từ tuyến trung ương, tuyến tỉnh, đến
tuyến huyện và y tế cơ sở (cụm xã, xã, phường, cơ quan, xí nghiệp). Bao gồm các bệnh
viện chuyên khoa và các bệnh viện đa khoa, viện điều dưỡng. Các phòng khám tư, hiệu
thuốc tư nhân đã được phép hoạt động. Tuy nhiên, mạng lưới y tế cơ sở ở các vùng núi,
vùng sâu, vùng xa vẫn còn mỏng, thiếu cả về phương tiện và đội ngũ cán bộ.
Việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân được chú trọng, với các chương trình
trọng điểm quốc gia như chương trình phòng chống sốt rét, thanh toán bệnh phong, phòng
chống lao, phòng chống HIV/AIDS, chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình kiểm
soát tình trạng suy dinh dưỡng…
Từ trước đến nay, ngành y tế nước ta vẫn có truyền thống kết hợp y học cổ truyền với
y học hiện đại để nâng cao chất lượng phòng và chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ban đầu
đến hộ gia đình, đẩy mạnh hoạt động thể dục thể thao, cái thiện điều kiện vệ sinh môi
trường.
Chúng ta có thể tự hào rằng mặc dù bình quân thu nhập theo đầu người ở nước ta còn
thấp, tình hình ngành y tế của nước ta vẫn tốt hơn so với hầu hết các nước có thu nhập thấp
và thậm chí còn hơn cả một số nước có thu nhập khá cao khác.
4. Những khó khăn và các vấn đề cần giải quyết
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong lĩnh vực giáo dục, y tế và văn hoá vẫn
còn nhiều vấn đề phải giải quyết.
Trong giáo dục và y tế, vấn đề ngăn chặn tình trạng xuống cấp của các trường học,
bệnh viện và nâng cao chất lượng giáo dục, chất lượng phục vụ đang được đặt ra nhằm đáp
ứng ngày một tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của nhân dân ta về học tập và chữa bệnh,
trong điều kiện khả năng tài chính của Nhà nước có hạn. Vấn đề phổ cập tiểu học, tiến tới
phổ cập trung học cơ sở, xoá mù chữ và tái mù chữ cũng là mối quan tâm lớn, đặc biệt là ở
các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trong thời đại hiện nay, các luồng thông tin trên hành tinh hầu như không có biên
giới do kỹ thuật phát sóng truyền thanh và truyền hình qua vệ tinh, do sự bùng nổ của “văn
hoá du lịch”, người dân bình thường cũng có điều kiện hơn để tiếp xúc với các nền văn hoá
của thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tốt cũng phải đề phòng sự “ô nhiễm xã hội” do ảnh
hưởng của các loại văn hoá lai căng, sự tuyên truyền thù địch, các lối sống không phù hợp
với dân tộc. Việc bảo vệ và gìn giữ, phát triển thuần phong mĩ tục, bảo vệ và tôn tạo các di
tích văn hoá – lịch sử cũng là vấn đề cần được đầu tư và quan tâm hơn nữa.
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý 8
!,: " Thực trạng nền kinh tế"
1. Công cuộc Đổi mới đã đưa nước ta từng bước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
kinh tế - xã hội kéo dài
a) Nước ta vốn đi lên từ một nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, lại chịu hậu quả
nặng nề của chiến tranh. Nền kinh tế mang nặng tính chất tự cấp tự túc, công nghiệp nhỏ
bé và lạc hậu, các ngành dịch vụ chưa phát triển. Chiến tranh kéo dài làm tổn hao lớn về
người và của ; nhiều cơ sở công nghiệp mới được khôi phục và xây dựng đã bị tàn phá ;
đường sá và các cơ sở hạ tầng kỹ thuật bị hư hỏng nặng ; đời sống kinh tế - xã hội bị đảo
lộn.
Trước đây, đặc biệt là trong thời kì chiến tranh, những cân đối lớn trong nền kinh tế
của đất nước được đảm bảo bằng viện trợ và vay nợ của nước ngoài. Vì thế, tuy có những
năm mức tăng trưởng kinh tế tương đối khá, nhưng tỉ lệ nhập siêu rất lớn. Từ sau khi đất
nước thống nhất, các nguồn viện trợ bị cắt giảm đột ngột, Hoa Kì lại duy trì chính sách
cấm vận chống Việt Nam trong nhiều năm. Các quan hệ kinh tế xuất nhập khẩu trước đây
bị phá vỡ. Nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng vào
cuối thập kỉ 70, nửa đầu thập kỉ 80 của thế kỷ XX.
b) Công cuộc Đổi mới được triển khai từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến nay
đã đưa nước ta từng bước thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Lạm phát
được đẩy lùi, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá, nền kinh tế đã bắt đầu có tích luỹ nội bộ, tuy
còn thấp. Đời sống nhân dân được cải thiện.
c) Tuy nhiên, trong quá trình Đổi mới, nền kinh tế của nước ta phải trải qua nhiều
khó khăn, thử thách. Những đổi mới trong cơ cấu kinh tế còn chậm, tốc độ tăng trưởng
trong một số ngành còn chưa thật sự vững chắc. Đời sống nhân dân ở nhiều vùng còn gặp
khó khăn. Tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn còn cao, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị còn khá
trầm trọng. Sự phân hoá giàu nghèo đang có xu hướng tăng.
2. Sự chuyển dịch cơ cấu theo ngành
a) Có hai xu hướng lớn của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đang diễn ra trên thế
giới:
- Chuyển dịch từ khu vực sản xuất vật chất sang khu vực dịch vụ. Xu hướng này
thường diễn ra ở các nước có nền kinh tế phát triển cao, dưới ảnh hưởng của cuộc cách
mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại.
- Chuyển dịch trong nội bộ khu vực sản xuất vật chất, chủ yếu là chuyển dịch cơ cấu
từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp. Xu hướng này chủ yếu ở các nước
đang phát triển, gắn liền với quá trình công nghiệp hoá.
b) Với điều kiện của nước ta, đang trong quá trình công nghiệp hoá, mở cửa nền kinh
tế, với xu hướng toàn câu hoá nền kinh tế thế giới và do tác động của cuộc cách mạng khoa
học – kỹ thuật hiện đại, chúng ta có thể thực hiện cùng một lúc hai bước chuyển dịch cơ
cấu kinh tế trên, rút ngắn quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành thể hiện tương đối rõ nét ở sự thay đổi cơ
cấu tổng sản phẩm trong nước (GDP). Tỉ trọng của nông – lâm – ngư nghiệp tăng dần đến
năm 1988 rồi sau đó giảm dần. Tỉ trọng của công nghiệp giảm cho tới năm 1990 do những
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý
xáo trộn trong quá trình sắp xếp lại cơ cấu, nay đang tăng dần, chuẩn bị cho những bước
tiến mới. Khu vực dịch vụ tăng khá nhanh, từ năm 1992 đã vượt phần tỉ trọng của khu vực
nông - lâm – ngư nghiệp.
c) Sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ các ngành kinh tế thể hiện khá rõ
- Trong công nghiệp, trước Đổi mới, công nghiệp nặng được chú trọng phát triển
nhưng do thiếu nguồn lực nên kém hiệu quả. Trong thời kì đầu Đổi mới, các ngành công
nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm được chú trọng phát triển để phục vụ ba chương
trình kinh tế lớn : lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Hiện nay,
trong cơ cấu ngành công nghiệp chiếm ưu thế là các ngành sử dụng lợi thế tương đối về lao
động (dệt, may, da giày, chế biến thực phẩm) và tài nguyên (dầu khí, điện, xi măng…).
Nhưng các ngành đòi hỏi hàm lượng kỹ thuật cao (kỹ thuật điện và điện tử) sẽ được phát
triển mạnh hơn trong thập kỷ tới.
- Trong nông nghiệp, nhờ giải quyết tốt hơn lương thực cho người và thức ăn cho gia
súc mà ngành chăn nuôi đã phát triển khá, đạt hiệu quả cao. Ngành thuỷ sản được chú
trọng phát triển, góp phần quan trọng vào việc cải thiện bữa ăn cho nhân dân và tạo nguồn
hàng xuất khẩu.
- Các ngành thuộc kết cấu hạ tầng được chú trọng ưu tiên đầu tư, đặc biệt là thông
qua con đường hợp tác đầu tư với nước ngoài. Ngành bưu điện, thông tin liên lạc đã được
phát triển tăng tốc, đi trước một bước so với nhiều ngành khác.
3. Sự chuyển dịch cơ cấu theo lãnh thổ
a) Cơ cấu lãnh thổ nền kinh tế đang chuyển dịch tương ứng với sự chuyển dịch cơ
cấu ngành. Trong nông nghiệp đang hình thành và phát triển các vùng nông nghiệp sản
xuất hàng hoá (Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và miền núi, trung du phía Bắc chuyên môn
hoá về trồng và chế biến cây công nghiệp ; đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông
Hồng chuyên môn hoá về lương thực - thực phẩm). Trong công nghiệp đang phát triển các
khu công nghiệp tập trung, các khu chế xuất ở các tỉnh, thành phố có lợi thế về vị trí địa lí,
tài nguyên thiên nhiên, các công trình kết cấu hạ tầng, nguồn lao động kỹ thuật. Các trung
tâm công nghiệp mới đang hình thành.
b) Trong cả nước đang nổi lên các vùng kinh tế phát triển năng động: Đông Nam Bộ,
đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Các vùng này, cũng như các thành
phố lớn trong vùng (đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) có vị trí cực kì quan
trọng trong cơ cấu lãnh thổ kinh tế của đất nước.
c) Hiện nay đã hình thành ba vùng kinh tế trọng điểm ở ba miền Bắc, Trung, Nam
- Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ: Hà Nội – Hưng Yên - Hải Dương - Hải Phòng -
Quảng Ninh – Vĩnh Phúc – Hà Tây - Bắc Ninh
- Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung: Thừa Thiên - Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam -
Quảng Ngãi – Bình Định
- Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: Thành phố Hồ Chí Minh – Bình Dương - Đồng
Nai – Bà Rịa – Vũng Tàu – Bình Phước – Tây Ninh – Long An
Đây cũng chính là những vùng trọng điểm đầu tư, được ưu tiên phát triển, có tầm một
quan trọng chiến lược, nhằm đạt được hiệu quả cao về kinh tế - xã hội.
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý +
!-: "Sử dụng vốn đất"
1. Vốn đất đai
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể
thay thế được của nông nghiệp, lâm nghiệp, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi
trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã
hội, an ninh và quốc phòng. Bởi vậy việc sử dụng hợp lí đất đai có ý nghĩa rất lớn đối với
sự phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Ý nghĩa của việc sử dụng hợp lí đất đai
càng đậm nét trong hoàn cảnh của nước ta là một nước đất hẹp, người đông, tài nguyên đất
lại đã bị thoái hoá một phần.
Bình quân đất tự nhiên trên đầu người của nước ta chỉ khoảng 0,4 ha/người, gần bằng
1/6 mức bình quân của thế giới. Không những thế, hơn 2/5 diện tích đất tự nhiên của cả
nước là đất chưa sử dụng, chủ yếu là đất hoang hoá và đất bị hoang hoá trở lại.
Trong cơ cấu đất đai của cả nước, diện tích đất nông nghiệp chiếm khoảng 24% và
còn rất ít khả năng mở rộng. Diện tích đất lâm nghiệp khoảng 35% là quá ít trong điều kiện
của một nước chủ yếu là đồi núi, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Không những thế, diện tích
này còn bị thu hẹp do diện tích trồng rừng không bù đắp được diện tích rừng bị khai thác
và chặt phá như hiện nay.
Diện tích đất chuyên dùng và đất thổ cư đang ngày càng tăng lên do quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và do nhu cầu về đất ở của dân cư ngày một tăng. Đất chuyên
dùng và đất thổ cư được mở rộng do lấy từ đất nông nghiệp sang là chủ yếu. Điều này có
ảnh hưởng xấu đến việc sử dụng đất nông nghiệp, đặc biệt là ở những vùng kinh tế phát
triển như Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng, cũng như ở một số vùng đồng bằng
duyên hải miền Trung.
Vốn đất đai ở các vùng của nước ta rất khác nhau (về quy mô, cơ cấu và bình quân
trên đầu người). Điều đó đòi hỏi ở mỗi vùng phải có những chính sách thích hợp trên cơ sở
Luật đất đai để sử dụng và bảo vệ có hiệu quả nhất vốn đất đai hiện có.
2. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp ở nước ta được chia thành 4 loại chính: đất trồng cây hàng năm, đất
trồng cây lâu năm, đất đồng cỏ cho chăn nuôi và diện tích nuôi trồng thuỷ sản.
a) Ở vùng đồng bằng
Đất ở vùng đồng bằng thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp, đặc biệt là cho các
cây trồng hàng năm. Ở đây, diện tích đất trồng lúa và các cây thực phẩm chiếm khoảng
90% diện tích đất nông nghiệp.
Đồng bằng sông Hồng là nơi điển hình về sức ép dân số đối với việc sử dụng đất.
Bình quân đất nông nghiệp dưới 0,05 ha/người, là mức bình quân thấp nhất cả nước. Khả
năng mở rộng diện tích đất nông nghiệp rất hạn chế. Trong khoảng 10 nghìn ha đất hoang
hoá thì chỉ một phần diện tích là đất có khả năng sản xuất nông nghiệp. Trong việc sử dụng
đất ở đồng bằng sông Hồng nổi lên vấn đề thâm canh, tăng vụ trên cơ sở thay đổi cơ cấu
mùa vụ, đưa vụ đông lên thành vụ chính. Việc chuyển một phần đất nông nghiệp thành đất
chuyên dùng và đất thổ cư phải theo quy hoạch. Ngoài ra, việc tận dụng các diện tích mặt
nước để nuôi trồng thuỷ sản sẽ tạo ra khả năng mới cho mở rộng diện tích đất nông nghiệp.
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý ,
Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất nông nghiệp lớn gấp ba lần đồng bằng
sông Hồng. Bình quân đầu người gần 0,18 ha/người. Dải phù sa nước ngọt ở ven sông
Tiền, sông Hậu trồng được lúa 2 – 3 vụ/năm. Trước đây phần lớn diện tích đất trồng lúa
nằm ngoài dải này chỉ cấy một vụ (vụ mùa) còn bị bỏ hoá về vụ chiêm xuân do đất bốc
phèn hoặc mặn. Các công trình thuỷ lợi lớn, cải tạo đất đã và đang được tiến hành ở Đồng
Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên và bán đảo Cà Mau. Nhờ thế hàng trăm nghìn ha đã được
đưa vào sử dụng, trờ thành ruộng hai vụ. Thêm vào đó, hàng trăm nghìn ha đất ven biển có
thể cải tạo để nuôi trồng thuỷ sản, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Vấn đề sử dụng hợp lí tài
nguyên đất ở đồng bằng sông Cửu Long gắn liền với quy hoạch tổng thể phát triển thuỷ lợi
của vùng.
Các đồng bằng nhỏ hẹp duyên hải miền Trung lại có những vấn đề riêng trong sử
dụng đất nông nghiệp. Ở Bắc Trung Bộ, đó là việc chống lại nạn cát bay, ngăn chặn sự di
động của các cồn cát do gió. Ở Nam Trung Bộ, nếu giải quyết được nước tưới trong mùa
khô thì có thể nâng cao hệ số sử dụng đất và mở rộng thêm diện tích đất nông nghiệp.
b) Ở trung du và miền núi
Nhìn chung đất ở trung du và miền núi dùng để trồng rừng, trồng cây lâu năm thì
thích hợp hơn, do đất dốc, dễ bị xói mòn, việc làm đất và làm thuỷ lợi gặp khó khăn.
Nhưng trong nhiều năm qua, để đảm bảo lương thực tại chỗ, diện tích nương rẫy vẫn
không ngừng được mở rộng, nhất là ở vùng núi Bắc Trung Bộ và trung du miền núi phía
Bắc.
Việc đẩy mạnh thâm canh ở những nơi có khả năng tưới, tiêu sẽ cho phép giải quyết
tốt hơn vấn đề lương thực tại chỗ. Việc trao đổi dễ dàng sản phẩm hàng hoá với các vùng
khác lấy lương thực, thực phẩm cũng là một giải pháp để có thể chuyển một phần nương
rẫy thành vườn cây ăn quả, cây công nghiệp và hạn chế nạn du canh du cư, phá rừng bừa
bãi.
Việc phát triển các vùng chuyên cây công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, với sự hỗ trợ
tích cực của công nghiệp chế biến sẽ cho phép miền núi, vùng trung du khai thác tốt hơn
các thế mạnh về tự nhiên và các điều kiện kinh tế - xã hội. Như vậy vừa có thể phát triển
sản xuất với hiệu quả kinh tế cao, vừa góp phần cải thiện đời sống cho nhân dân ở khu vực
này và bảo vệ, khai thác hợp lí tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất và tài nguyên rừng
trên cả nước.
!.: "Vấn đề lương thực, thực phẩm"
Vấn đề lương thực, thực phẩm là một trong những mối quan tâm lớn, thường xuyên
của Nhà nước và nhân dân ta.
Nước ta có dân số đông. Việc đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm sẽ đảm bảo
an ninh lương thực, cải thiện cơ cấu bữa ăn cho nhân dân; mặt khác tạo điều kiện đa dạng
hoá sản xuất nông nghiệp, tạo nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến,
thúc đẩy công nghiệp hoá và tạo nguồn hàng xuất khẩu quan trọng.
1. Hiện trạng sản xuất lương thực, thực phẩm
a) Sản xuất lương thực
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý -
Từ sau ngày đất nước thống nhất đến nay, sản xuất lương thực đã đạt được những
thành tựu khá vững chắc. Diện tích gieo trồng lúa cả năm không ngừng được mở rộng, từ
5,6 triệu ha (năm 1980), đến nay là hơn 7,6 triệu ha. Nhờ phát triển thuỷ lợi và đưa vào các
giống mới phù hợp với các vùng sinh thái khác nhau, nên cơ cấu mùa vụ đã thay đổi nhiều.
Diện tích lúa đông xuân được mở rộng, tới hơn 2,8 triệu ha. Lúa hè thu được đưa vào trồng
đại trà. Hàng trăm nghìn ha lúa mùa được chuyển sang làm vụ hè thu, nhất là ở đồng bằng
sông Cửu Long.
Nhờ đẩy mạnh việc thâm canh, các cánh đồng cho năng suất 7 tấn, 10 tấn (trên đất
hai vụ lúa) đã trở nên phổ biến. Năng suất lúa cả năm liên tục tăng, từ 20 tạ/ha (năm 1980)
lên hơn 40 tạ/ha (năm 1999), đặc biệt là nhờ năng suất cao và ổn định của lúa đông xuân
và lúa hè thu. Việc sản xuất các cây màu lương thực cũng có những tiến bộ, trong đó diện
tích và năng suất ngô tăng lên nhiều.
Sản lượng lương thực quy ra thóc đã ở mức 34 triệu tấn (năm 1999), trong đó riêng
thóc là 31 triệu tấn. Bình quân lương thực trên đầu người vào khoảng 440 kg/năm, trong đó
riêng thóc là 400 kg. Trước kia thường xuyên phải nhập khẩu lương thực, nhưng từ năm
1989 trở lại đây, Việt Nam đã trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới
(cùng với Hoa Kì và Thái Lan).
Nước ta còn có nhiều khả năng tăng sản lượng lương thực nhờ tăng vụ và tăng năng
suất cây trồng. Tuy nhiên, những khó khăn cần phải giải quyết là tình trạng thiếu vốn, sản
xuất phân bón, thuốc trừ sâu trong nước chưa đáp ứng nhu cầu, công nghiệp sau thu hoạch
còn nhiều hạn chế. Mặt khác, thiên tai, sâu bệnh làm thiệt hại mùa màng ở nhiều vùng, làm
cho sản lượng lương thực chưa ổn định vững chắc.
b) Việc phát triển chăn nuôi
Ngành chăn nuôi phát triển dựa trên cơ sở thức ăn tự nhiên (đồng cỏ), sản phẩm của
ngành trồng trọt, phụ phẩm của ngành thuỷ sản và thức ăn chế biến công nghiệp. Nhờ đảm
bảo được cơ sở lương thực cho người, nên nguồn thức ăn cho chăn nuôi đã được giải quyết
tốt hơn. Ngành chăn nuôi đang phát triển ngày càng đa dạng hơn, tăng tỉ trọng của những
sản phẩm không qua giết mổ như trứng, sữa.
Từ năm 1980 đến năm 1999, đàn lợn đã tăng từ 10 triệu con lên 19 triệu con, cung
cấp tớ ¾ sản lượng thịt các loại. Đáng chú ý là đàn bò tăng nhanh, từ 1,7 triệu con lên tới 4
triệu con, còn đàn trâu tăng chậm do sức kéo trong nông nghiệp đã được cơ giới hoá nhiều
hơn. Chăn nuôi gia cầm tăng rất mạnh trong những năm gần đây, từ 179 triệu con năm
1999 lên 254 triệu con năm 2003.
Tuy nhiên, hiện nay ngành chăn nuôi của ta còn phát triển chủ yếu theo lối quảng
canh. Giống gia súc, gia cầm nói chung năng suất còn thấp, chất lượng chưa cao (nhất là
cho yêu cầu xuất khẩu). Cơ sở thức ăn cho chăn nuôi chưa được đảm bảo, công nghiệp chế
biến thức ăn cho gia súc và công tác dịch vụ thú y vẫn còn hạn chế. Hiệu quả kinh tế của
chăn nuôi nói chung vẫn còn thấp.
c) Đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản
Nước ta có bờ biển dài 3260 km và vùng đặc quyền kinh tế rộng khoảng 1 triệu km2.
Vùng biển nước ta có nguồn lợi hải sản khá phong phú, cho phép khai thác hàng năm 1,2 –
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý .
1,4 triệu tấn. Nước ta có nhiều ngư trường, trong đó 4 ngư trường trọng điểm là : ngư
trường Minh Hải – Kiên Giang, ngư trường Ninh Thuận – Bình Thuận – Bà Rịa – Vũng
Tàu, ngư trường Hải Phòng - Quảng Ninh và ngư trường quần đảo Hoàng Sa - quần đảo
Trường Sa.
Ven bờ biển có nhiều bãi triều, vũng, vịnh, đầm phá có khả năng nuôi trồng thuỷ sản
nước lợ, nước mặn. Diện tích mặt nước có khả năng nuôi thuỷ sản nước ngọt rất lớn.
Năm 1999 khai thác được khoảng 900 nghìn tấn cá biển, 50 – 60 nghìn tấn tôm, mực.
Chương trình đánh bắt xa bờ đang được triển khai. Nuôi trồng thuỷ sản đang được phát
triển mạnh. Sản lượng cá nuôi hơn 300 nghìn tấn, tôm nuôi hơn 55 nghìn tấn.
Ngành thuỷ sản đang được đẩy mạnh phát triển theo hướng hiện đại hoá cả ở khâu
đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu.
Sản phẩm của ngành không chỉ cung cấp nguồn đạm động vật quý giá, mà còn tạo ra
các nguồn xuất khẩu có giá trị lớn.
d) Việc sản xuất các loại thực phẩm khác đang được khuyến khích
Các mô hình kinh tế vườn (mô hình VAC, RVAC, “vườn rừng”, “vườn đồi”…) đa
dạng, phù hợp với các vùng sinh thái, đã cung cấp phần chủ yếu các loại rau quả và một
phần đáng kể thịt, cá, trứng, sữa cho nhu cầu hàng ngày của nhân dân ta.
2. Các vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm
Mỗi vùng sinh thái nông nghiệp của nước ta đều có những thế mạnh nhất định trong
việc sản xuất lương thực, thực phẩm. Các thế mạnh ấy đang ngày càng được phát huy tốt
hơn nhờ sản xuất đi đôi với bảo quản và chế biến sản phẩm, nhờ sự trao đổi, lưu thông
lương thực, thực phẩm hàng hoá giữa các vùng.
Đồng bằng sông Cửu Long là vùng trọng điểm lương thực, thực phẩm số một. Ở đây
tập trung tới hơn 50% sản lượng lương thực của cả nước. Ngoài ra, đây còn là vùng dẫn
đầu cả nước về trồng mía, cây ăn quả ; vùng phát triển mạnh chăn nuôi lợn và gia cầm,
nhất là nuôi vịt. Do gần các ngư trường trọng điểm và tiềm năng nuôi thuỷ sản lớn nên
ngành thuỷ sản có vị trí rất quan trọng trong sản xuất thực phẩm của vùng. Hiện nay, khu
vực đồng bằng sông Cửu Long cung cấp hơn 50% sản lượng thủy sản các loại của cả nước.
Đồng bằng sông Hồng là vùng trọng điểm số hai về lương thực, thực phẩm. Đây là
vùng nông nghiệp thâm canh rất cao. Năng suất lúa cao nhất cả nước. Nhưng do đất chật,
người đông, nên vùng chỉ cung cấp không quá 20% sản lượng lúa cả nước và bình quân
lương thực trên đầu người không cao. Thế mạnh của vùng là sản xuất lúa, rau quả, lợn, gia
cầm, cá. Đặc biệt, khả năng phát triển vụ đông để trồng các loại rau, quả nguồn gốc cận
nhiệt và ôn đới là thế mạnh độc đáo của vùng.
Ngoài hai vùng trọng điểm trên, các vùng khác cũng có những thế mạnh khác nhau
về sản xuất lương thực, thực phẩm. Trung du, miền núi phía Bắc có khả năng phát triển
chăn nuôi trâu, bò, trồng đậu tương, mía, lạc, cây ăn quả… Vùng duyên hải miền Trung,
với các đồng bằng duyên hải hẹp, lại hay bị thiên tai, khả năng sản xuất lương thực bị hạn
chế. Nhưng ở đây lại có những tiềm năng lớn về chăn nuôi trâu, bò, nuôi trồng và đánh bắt
thuỷ sản, trồng lạc, mía, đậu tương. Tây Nguyên có nhiều khả năng phát triển chăn nuôi bò
lấy thịt và bò lấy sữa. Vùng Đông Nam Bộ có khả năng lớn thứ hai sau đồng bằng sông
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý 4
Cửu Long về trồng mía, đậu tương, cây ăn quả, nhiều khả năng về nuôi trồng và đánh bắt
thuỷ sản.
!4: "Vấn đề phát triển cây công nghiệp"
Nước ta nằm ở vùng nhiệt đới nóng ẩm, lại có nhiều loại đất thích hợp với nhiều loại
cây công nghiệp, trong đó có những sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao. Việc phát triển cây
công nghiệp có ý nghĩa to lớn trong việc sử dụng hợp lí tài nguyên, sử dụng lao động nông
thôn, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và nguồn hàng cho xuất khẩu.
Việc phát triển các vùng chuyên canh cây công nghiệp còn góp phần phân bố lại dân
cư và lao động giữa các vùng, phát triển kinh tế - xã hội của các vùng núi, trung du và cao
nguyên, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.
Việc phát triển các vùng chuyên canh cât công nghiệp gắn với công nghiệp chế biến
được xác định là một hướng quan trọng trong chiến lược phát triển nền nông nghiệp của
nước ta.
1. Hiện trạng phát triển và phân bố các cây công nghiệp
Trong quá trình đa dạng hoá nền nông nghiệp, mấy chục năm qua diện tích, năng suất
và sản lượng của các cây công nghiệp, đặc biệt là cây lâu năm đã tăng lên nhiều. Tỉ trọng
sản xuất cây công nghiệp trong giá trị sản xuất của ngành trồng trọt đã tăng từ 14% (1990)
lên 20% (1999).
Sự phát triển mạnh mẽ của cây công nghiệp trong những năm qua là do:
- Nước ta có tiềm năng to lớn về phát triển cây công nghiệp, nhất là cây công nghiệp
lâu năm ở trung du, miền núi và cao nguyên. Những tiềm năng này mới được khai thác
một phần;
- Có nguồn lao động dồi dào (vì việc trồng và chế biến sản phẩm cây công nghiệp cần
nhiều lao động);
- Việc đảm bảo về lương thực đã giúp cho diện tích trồng cây công nghiệp được ổn
định;
- Nhà nước có chính sách đẩy mạnh phát triển cây công nghiệp;
- Sự hoàn thiện dần công nghệ chế biến và nâng cao năng lực của các cơ sở chế biến
sản phẩm cây công nghiệp đã góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất cây công nghiệp và
nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm cây công nghiệp nước ta trên thị trường thế giới;
- Việc xuất khẩu sản phẩm cây công nghiệp đã qua chế biến được đẩy mạnh, nhất là
những cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu cao, có nhu cầu lớn trên thị trường thế giới và
khu vực.
a) Cây công nghiệp hàng năm (chủ yếu là đay, cói, dâu tằm, bông, mía, lạc, đậu
tương, thuốc lá), thường được trồng ở vùng đồng bằng, một số cây trồng xen trên đất lúa.
Đay được trồng nhiều ở đồng bằng sông Hồng (các tỉnh Hưng Yên, Thái Bình, Hà
Nam) và ở đồng bằng sông Cửu Long (Long An…)
Cói được trồng trên các đất nhiễm mặn, tập trung nhiều nhất ở dải ven biển của đồng
bằng sông Hồng, suốt từ Hải Phòng xuống phía Bắc Thanh Hóa. Những năm gần đây, diện
tích cói tăng rất mạnh ở đồng bằng sông Cửu Long, chiếm ½ diện tích cói cả nước.
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý 5
Dâu tằm là cây công nghiệp truyền thống, nay được phát triển cùng với việc khôi
phục nghề tằm tơ ở nước ta; dâu tằm được trồng nhiều nhất ở tỉnh Lâm Đồng.
Cây bông mới được chú trọng phát triển, trồng phổ biến ở Đắc Lắc, Đồng Nai và một
số tỉnh cực Nam Trung Bộ.
Mía được trồng ở hầu khắp các tỉnh, nhưng tập trung tới 75% diện tích và 80% sản
lượng ở các tỉnh phía Nam (đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và duyên hải miền
Trung).
Đậu tương, lạc, thuốc lá được trồng nhiều trên các đất bạc màu. Đậu tương được
trồng nhiều nhất ở miền núi, vùng trung du phía Bắc (ở Cao Bằng, Sơn La, Bắc Giang),
chiếm hơn 40% diện tích đậu tương cả nước, ngoài ra còn được trồng nhiều ở các tỉnh Hà
Tây, Đồng Nai, Đắc Lắc và Đồng Tháp. Lạc được trồng nhiều nhất trên đất phù sa cổ của
các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, trên đất cát pha của các đồng bằng duyên hải miền Trung
(nhất là ở Bắc Trung Bộ) và ở trung du Bắc Bộ. Thuốc lá được trồng nhiều nhất ở vùng
Đông Nam Bộ, duyên hải miền Trung và miền núi, vùng trung du phía Bắc.
b) Cây công nghiệp lâu năm (chủ yếu là chè, cà phê, cao su, điều, hồ tiêu, dừa)
thường được trồng trên đất feralit và đất phù sa cổ.
Cà phê là cây công nghiệp lâu năm có giá trị xuất khẩu lớn nhất hiện nay. Cà phê
được trồng thành các vùng chuyên canh lớn trên đất đỏ badan ở Tây Nguyên, Đông Nam
Bộ và rải rác ở Bắc Trung Bộ.
Hiện nay cà phê, chè đang được trồng nhiều ở khu vực miền núi trung du phía Bắc.
Cao su được trồng chủ yếu trên đất xám phù sa cổ (ở Đông Nam Bộ) và đất đỏ badan
(ở Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị).
Chè được trồng nhiều ở trung du, miền núi phía Bắc và trên các cao nguyên cao ở
Tây Nguyên. Hiện nay cũng phát triển cả ở một số vùng núi, trung du thuộc các tỉnh miền
Trung.
Hồ tiêu là loại cây gia vị có giá trị xuất khẩu cao, được trông nhiều ở Tây Nguyên.
Dừa được trồng nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long (nhất là ở Bến Tre, Cà Mau) và ở
duyên hải Nam Trung Bộ.
Cây điều mới được trồng phổ biến trong một số năm gần đây, nhưng có triển vọng
lớn để xuất khẩu. Điều được trồng nhiều nhất ở khu vực Đông Nam Bộ.
2. Các vùng chuyên canh cây công nghiệp
Trong quá trình phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, các vùng chuyên canh cây công
nghiệp đã và đang hình thành ở những vùng có điều kiện tự nhiên đặc biệt thuận lợi cho
một số cây công nghiệp có giá trị. Việc hình thành các vùng chuyên canh đã và sẽ thu hút
nhiều lao động trẻ, khoẻ, góp phần phân bố lại dân cư và lao động giữa các vùng.
Đông Nam Bộ là vùng chuyên canh cây công nghiệp lâu năm và hàng năm lớn nhất
nước ta. Ở đây có nhiều điều kiện thuận lợi : đất đai của vùng phần lớn là đồng bằng cao,
đất xám bằng phẳng kề liền với vùng đồi badan lượn sóng, nguồn nhân lực khá dồi dào,
nhiều cơ sở chế biến sản phẩm cây công nghiệp, có các chương trình hợp tác đầu tư với
nước ngoài để phát triển cây chức năng. Các cây trồng chính trong vùng là cao su, cà phê,
điều, đậu tương, lạc, mía, thuốc lá. Riêng cây cao su, Đông Nam Bộ chiếm gần 70% diện
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý 6
tích, gần 90% sản lượng cả nước, tập trung chủ yếu ở Bình Phước, Bình Dương và Đồng
Nai.
Tây Nguyên là vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn thứ hai nhờ có diện tích đất
badan lớn nhất cả nước và có khí hậu phân hoá theo độ cao. Các sản phẩm chính của vùng
là cà phê, cao su, hồ tiêu, chè, dâu tằm. Riêng về cà phê, Tây Nguyên chiếm gần 80% diện
tích và gần 90% sản lượng của cả nước. Hiện nay, trong vùng đang phát triển một số cây
công nghiệp khác như ca cao, bông, điều…
Ở trung du và miền núi phía Bắc, các vùng chuyên canh ché tạo thành một dải trên
hầu khắp các vùng đồi trung du (ở Yên Bái, Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên) và một
số cao nguyên (ở Hà Giang, Nghĩa Lộ, Sơn La); lạc và thuốc lá trồng ở vùng đất bạc màu
của Lạng Sơn, Bắc Giang; hồi trồng ở Lạng Sơn, Cao Bằng.
Ở Bắc Trung Bộ có các vùng chuyên canh với quy mô không lớn lắm (trồng lạc, cà
phê, cao su)
Ở đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải miền Trung chủ
yếu là các vùng chuyên canh cây công nghiệp hàng năm.
!5: " Những vấn đề phát triển công nghiệp"
1. Cơ cấu ngành công nghiệp
Cơ cấu ngành công nghiệp biểu hiện ở tỉ trọng của từng ngành trong toàn bộ hệ thống
các ngành công nghiệp. Nó được hình thành phù hợp với các điều kiện cụ thể ở trong và
ngoài nước trong mỗi giai đoạn nhất định.
a) Cơ cấu ngành công nghiệp ở nước ta khá đa dạng và đang từng bước có những
thay đổi mạnh mẽ
Sự đa dạng của cơ cấu ngành thể hiện ở chỗ nước ta có khá đầy đủ các ngành công
nghiệp quan trọng.
Trong những năm cuối của thập kỉ 80, cơ cấu ngành công nghiệp của nước ta chuyển
dịch theo hướng tăng tỉ trọng của các ngành công nghiệp nhóm B, giảm tỉ trọng của các
ngành công nghiệp nhóm A. Nhưng từ đầu thập kỉ 90 trở lại đây, mặc dù các ngành công
nghiệp nhóm B vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong cơ cấu công nghiệp nhưng các ngành công
nghiệp nhóm A đã tăng dần tỉ trọng.
Cơ cấu sản phẩm công nghiệp cũng thay đổi. Khoảng 30% số sản phẩm công nghiệp
không được tiếp tục sản xuất do thị trường chưa có nhu cầu hoặc không thể cạnh tranh nổi
với hàng nước ngoài. Trong khi đó, hàng loạt sản phẩm mới lại xuất hiện vì phù hợp với
nhu cầu của thị trường và có chất lượng cao.
b) Trong cơ cấu ngành công nghiệp nổi lên một số ngành trọng điểm. Ngành trọng
điểm là ngành có thế mạnh lâu dài, mang lại hiệu quả kinh tế cao và có tác động mạnh mẽ
đến việc phát triển các ngành kinh tế khác. Có thể coi các ngành công nghiệp trọng điểm
của nước ta là công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản ; công nghiệp sản xuất hàng tiêu
dùng ; công nghiệp cơ khí và điện tử ; công nghiệp dầu khí ; điện ; hoá chất và sản xuất các
loại vật liệu xây dựng.
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý 7
Ưu thế của công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản là có nguồn nguyên liệu tại chỗ
phong phú. Việc định hướng thực hiện ba chương trình kinh tế (sản xuất lương thực, thực
phẩm ; sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu) tạo điều kiện cho ngành này có vị trí
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng mà nổi bất là các hàng dệt, may mặc có nhiều
lợi thế phát triển mạnh : nguồn lao động dồi dào và thị trường rộng lớn. Trên cơ sở phát
huy tiềm năng lao động và khả năng của tất cả các thành phần kinh tế, việc phát triển
ngành công nghiệp này nhằm thoả mãn nhu cầu của nhân dân trong nước và góp phần đẩy
mạnh xuất khẩu ra nước ngoài.
Công nghiệp cơ khí là ngành tạo ra công cụ lao động và trang bị kỹ thuật cho các
ngành kinh tế khác. Công nghiệp điện tử hiện là ngành mũi nhọn của nhiều nước. Nước ta
có nhiều tiềm năng và nhu cầu để đưa công nghiệp cơ khí và điện tử trở thành các ngành
công nghiệp trọng điểm.
Công nghiệp dầu khí là ngành có nhiều triển vọng nhờ việc thăm dò và khai thác các
mỏ dầu khí ở vùng thềm lục địa nước ta. Năm 1999, chúng ta đã khai thác được 15 triệu
tấn dầu thô với giá trị xuất khẩu là 2 tỉ USD.
c) Để nền công nghiệp nước ta đáp ứng được những nhu cầu mới của đất nước, vấn
đề đặt ra là tiếp tục hoàn thiện cơ cấu ngành công nghiệp theo các hướng sau đây:
- Xây dựng một cơ cấu ngành công nghiệp tương đối linh hoạt sao cho phù hợp với
tình hình phát triển thực tế của đất nước và thích ứng với nền kinh tế thế giới.
- Đẩy mạnh việc phát triển các ngành công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng ; tập trung sức cho công nghiệp khai thác và chế biến dầu khí, đưa công
nghiệp điện năng đi trước một bước. Các ngành khác sẽ được điều chỉnh theo nhu cầu của
thị trường trong và ngoài nước.
- Đầu tư theo chiều sâu, đổi mới trang thiết bị và công nghệ nhằm nâng cao chất
lượng sản phẩm.
2. Sự phân hoá lãnh thổ công nghiệp
a) Nền công nghiệp nước ta có sự phân hoá về mặt lãnh thổ. Hoạt động công nghiệp
tập trung chủ yếu trên một số khu vực.
Ở Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng và vùng phụ cận là khu vực có mức độ tập trung
công nghiệp theo lãnh thổ vào loại cao nhất trong cả nước.
Từ Hà Nội, hoạt động công nghiệp toả theo các hướng với các cụm công nghiệp có
chuyên môn hoá khác nhau. Đó là hướng Hải Phòng – thành phố Hạ Long - Cẩm Phả (khai
thác than, cơ khí) ; Đáp Cầu - Bắc Giang (phân hoá học, vật liệu xây dựng) ; Đông Anh –
Thái Nguyên (luyện kim, cơ khí) ; Việt Trì – Lâm Thao – Phú Thọ (hoá chất, giấy) ; Hà
Đông – Hoà Bình (thuỷ điện) ; Nam Định – Ninh Bình – Thanh Hoá (dệt, xi măng, điện).
Ở Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long hình thành một dải phân bố công
nghiệp, trong đó nổi lên là các trung tâm công nghiệp: thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hoà,
Vũng Tàu.
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý +8
Dọc theo duyên hải miền Trung có hai trung tâm lớn là Huế và Đà Nẵng. Ngoài ra
còn có một số trung tâm khác nằm rải rác ven biển, đồng thời đó cũng là những thành phố,
thị xã ở khu vực duyên hải này.
Sự phân hoá lãnh thổ công nghiệp ở nước ta là kết quả tác động của hàng loạt nhân
tố. Những khu vực tập trung công nghiệp thường gắn liền với sự có mặt của tài nguyên
thiên nhiên, nguồn lao động có tay nghề, kết cấu hạ tầng và vị trí địa lí tương đối thuận lợi.
Ở những khu vực còn lại, nhất là ở trung du và miền núi, hoạt động công nghiệp bị
hạn chế hơn nhiều vì sự thiếu đồng bộ của các nhân tố trên và nhất là về kết cấu hạ tầng,
đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải vẫn chưa phát triển.
b) Sự phân hoá lãnh thổ công nghiệp đang có nhiều thay đổi và ngày càng trở nên
hợp lí hơn
Trước Cách mạng tháng tám, nền công nghiệp Việt Nam vốn đã nhỏ bé, què quặt lại
phân bố rất không đều. Cùng với việc cải tạo và mở rộng các trung tâm công nghiệp cũ,
ngày nay đã hình thành nhiều cụm công nghiệp, trung tâm công nghiệp mới có sự chuyên
môn hoá, liên hợp hoá, hợp tác hoá trong một hệ thống công nghiệp khá thống nhất và
phân bố ngày càng hợp lí trong cả nước.
Từ năm 1975 đếm nay, công nghiệp vẫn tiếp tục có sự phân hoá lãnh thổ. Cho đến
đầu thập kỉ 90, xu hướng là tăng dần tỉ trọng của các tỉnh phía Nam trong cơ cấu giá trị sản
xuất công nghiệp toàn quốc. Trong những năm gần đây, do sự phát triển của vùng kinh tế
trọng điểm Bắc Bộ nên tỉ trọng của các tỉnh phía Bắc đang tăng dần.
Trong sự phân hoá lãnh thổ công nghiệp nổi lên một số trung tâm công nghiệp có ý
nghĩa hàng đầu của cả nước. Tiêu biểu nhất là hai trung tâm công nghiệp Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh.
Với vị trí thủ đô, Hà Nội là một trung tâm công nghiệp quan trọng có sức hút trực
tiếp đối với các lãnh thổ lân cận.
Cơ cấu ngành công nghiệp của Hà Nội khá đa dạng, trong đó có một số ngành phát
triển lâu đời và mang tính chất truyền thống. Sự chuyên môn hoá của trung tâm công
nghiệp này tập trung vào các ngành cơ khí, chế biến lương thực, thực phẩm, dệt, điện tử…
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm công nghiệp lớn nhất trong toàn quốc. Do
những ưu thế về vị trí địa lý, về lực lượng lao động có kỹ thuật và kết ấu hạ tầng, có cảng
sông với năng lực bốc dỡ khá lớn, nền công nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh phát triển
mạnh với một hệ thống các ngành công nghiệp khá hoàn chỉnh. Các ngành chuyên môn
hoá chủ yếu là dệt, may mặc, chế biến lương thực, thực phẩm, hoá chất, điện tử, cơ khí, đồ
chơi trẻ em… Phần lớn các xí nghiệp có quy mô trung bình nằm phân tán giữa các khu vực
đông dân. Các xí nghiệp lớn chủ yếu tập trung ở Tân Cảng, Thủ Đức.
c) Sự phân bố công nghiệp trên lãnh thổ nước ta tuy có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn
những sự khác biệt giữa các vùng.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hướng phát triển công nghiệp có ảnh
hưởng đến sự phân hoá lãnh thổ công nghiệp. Sản phẩm công nghiệp không chỉ thoả mãn
nhu cầu của thị trường trong nước, mà còn phải vươn ra thị trường quốc tế. Việc hoàn
thiện phân bố công nghiệp được triển khai theo hướng cải tạo, mở rộng các trung tâm hiện
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý +
có, kết hợp với hướng xây dựng các trung tâm mới trên cơ sở sử dụng hợp lí các nguồn lực
của từng vùng và của cả nước, đồng thời cũng cần phải chú ý đúng mức tới vấn đề thị
trường.
!6: "Những vấn đề PT giao thông vận tải và TT liên lạc"
Giao thông vận tải là thông tin liên lạc là ngành có vị trí quan trọng trong kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội. Đó là ngành sản xuất đặc biệt vừa mang tính chất sản xuất vật chất,
vừa mang tính chất dịch vụ và có tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
1. Trải qua gần nửa thế kỉ xây dựng và phát triển, giao thông vận tải nước ta đã trở
thành một ngành kinh tế - kỹ thuật có nhiều đóng góp trong công cuộc phát triển kinh tế và
phục vụ đời sống nhân dân.
a) Nước ta có nhiều khả năng để phát triển ngành giao thông vận tải. Nhờ vào vị trí
địa lý thuận lợi và có vùng biển rộng lớn, việc giao lưu giữa Việt Nam với các nước trong
khu vực và trên thế giới trở nên dễ dàng và thuận lợi hơn.
Tuy vậy, việc phát triển ngành này cũng gặp nhiều trở ngại. Ngoài những khó khăn
do thiên nhiên dây ra làm tăng chi phí xây dựng và bảo dưỡng mạng lưới giao thông vận
tải thì sự thiếu vốn đầu tư, và sự yếu kém về cơ sở vật chất – kỹ thuật… là những trở ngại
đáng kể trong việc phát triển của ngành.
b) Ngành giao thông vận tải bước đầu đã có một hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật
đáng kể. Hiện nay, hệ thống giao thông vận tải bao gồm 181.421 km đường ô tô, 2630 km
đường sắt, 11.000 km đường sông, 73 cảng biển lớn nhỏ, 18 sân bay trong đó có 3 sân bay
quốc tế. Ngành vận tải đường ô tô và vận tải đường sông có ý nghĩa quan trọng trong việc
vận chuyển hàng hoá và hành khách giữa các vùng ở nước ta.
Các tuyến giao thông vận tải kết hợp chặt chẽ với nhau làm nhiệm vụ nối liền các khu
vực kinh tế quan trọng như đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long (sản xuất
lương thực, thực phẩm), Tây Nguyên và ven biển miền Trung (nông sản xuất khẩu), trung
du và miền núi (lâm sản, khoáng sản). Trên phạm vi toàn quốc đã hình thành các tuyến vận
tải chuyên môn hoá (lương thực, nông sản xuất khẩu, hàng tiên dùng).
Thí dụ, tuyến đường Hà Nội - Hải Phòng làm nhiệm vụ vận chuyển các mặt hàng
xuất, nhập khẩu ở khu vực phía Bắc. Các tuyến đường nối liền đồng bằng sông Cửu Long,
thành phố Hồ Chí Minh với Tây Nguyên chủ yếu vận chuyển lương thực, hàng tiêu dùng
và một số mặt hàng nông sản.
Hệ thống giao thông vận tải Bắc – Nam mà trục chính là đường quốc lộ số 1 và
đường sắt Thống Nhất gần như chạy song song với nhau có giá trị hàng đầu trong việc phát
triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Chạy qua các trung tâm công nghiệp, các đầu mối giao
thông lớn và các khu vực nông nghiệp trù phú, tuyến đường này đã tạo nên mối liên hệ
kinh tế quan trọng nhất giữa các vùng.
c) So với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, giao thông vận tải hiện vẫn
còn là một khâu yếu trong nền kinh tế. Mối liên hệ kinh tế giữa các vùng trong nước và
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý ++
giữa nước ta với các nước khác còn bị hạn chế, một phần do năng lực có hạn của ngành
này.
Để tạo nên những chuyển biến về kinh tế - xã hội, việc tiếp tục phát triển ngành giao
thông vận tải đã trở thành một nhiệm vụ quan trọng. Vấn đề chủ yếu là tăng cường xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, kiện toàn hệ thống giao thông vận tải trong cả nước. Việc
mở rộng và bố trí hợp lí hệ thống cảng biển, việc phát triển đường không và hiện đại hoá
các sân bay quốc tế sẽ tạo nên cầu nối giữa Việt Nam với thế giới.
2. Hệ thống thông tin liên lạc của nước ta đang được chú trọng đầu tư, phát triển với
tốc độ cao
Nhìn chung, mạng lưới thông tin liên lạc chưa phát triển đều khắp trong phạm vi cả
nước.
Về số lượng, đến hết năm 1999, cả nước có trên 2 triệu máy điện thoại thuê bao, bình
quân 2,7 máy / 100 dân.
Trước đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và của việc giao lưu quốc tế, ngành thông tin
liên lạc đang được chú ý phát triển.
Bên cạnh các phương thức truyền tin truyền thống, gần đây đã đưa vào mạng sợi cáp
quang, mạng truyền dẫn số liệu, truyền dẫn các trang báo. Từ cuối năm 1997, nước ta đã
nối mạng Internet. Việc thông tin qua vệ tinh với 6 trạm mặt đất đã giúp cho việc thông tin
liên lạc với thế giới ngày được mở rộng.
Sự phát triển kinh tế - xã hội phụ thuộc chặt chẽ vào nguồn thông tin mới và kịp thời.
Hiện đại hoá mạng lưới thông tin liên lạc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chỉ đạo
và quản lí các hoạt động kinh tế.
Theo hướng này, việc ưu tiên xây dựng mạng lưới thông ting quốc tế được quan tâm
hàng đầu; sau đó từng bước hoàn thiện mạng lưới thông tin liên lạc trong nước, nhất là ở
những trung tâm đầu mối quan trọng ; tiếp tục đổi mới kỹ thuật, công nghệ để nhanh chóng
nâng cao năng lực và chất lượng thông tin, tiếp cận trình độ kỹ thuật hiện đại của thế giới.
!7: "Vấn đề phát triển kinh tế đối ngoại"
Kinh tế đối ngoại chủ yếu bao gồm các hoạt động ngoại thương (xuất – nhập khẩu),
hợp tác quốc tế về đầu tư và lao động, du lịch quốc tế và các dịch vụ thu ngoại tệ khác.
Ngày nay, kinh tế đối ngoại có vai trò đặc biệt trong công cuộc xây dựng và đổi mới
đất nước. Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của nước ta phụ thuộc một phần vào việc mở
rộng và nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế đối ngoại.
1. Từ sau năm 1988, hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta dần dần được đổi mới
a) Hoạt động xuất – nhập khẩu gần đây có nhiều biến động do hoàn cảnh mới của
tình hình quốc tế.
Trước đây, thị trường chủ yếu là Liên Xô (cũ) và Đông Âu. Hiện nay, thị trường
buôn bán ngày càng mở rộng theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Các bạn hàng lớn
hiện nay là Xingapo, Nhật Bản, Hồng Công, Hàn Quốc…
Trong hoạt động xuất – nhập khẩu có những đổi mới về cơ chế quản lí. Đó là việc mở
rộng quyền hoạt động kinh tế đối ngoại cho các ngành và các địa phương; xoá bỏ cơ chế
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý +,
quản lý tập trung bao cấp và chuyển sang hạch toán kinh doanh; tăng cường sự quản lý
thống nhất của Nhà nước bằng luật pháp. Vì vậy, hoạt động xuất nhập khẩu phát triển
mạnh.
b) Việc hợp tác và đầu tư nước ngoài vào nước ta mới thật sự bắt đầu từ năm 1988
Tính đến hết năm 1999 đã có hơn 2800 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn
trên 37,1 tỉ USD. Đó là kết quả khả quan trong những năm đầu thực hiện luật đầu tư.
c) Việc hợp tác quốc tế về lao động góp phần giải quyết vấn đề về việc làm, về đào
tạo, nâng cao tay nghề cho hàng chục vạn người lao động và tăng nguồn ngoại tệ cho Nhà
nước. Hoạt động du lịch quốc tế và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác tuy có phát triển,
nhưng phần lớn còn đang ở dạng tiềm năng.
2. Tuy nhiên, các hoạt động kinh tế đối ngoại vẫn còn có những tồn tại đáng kể
Trong một thời gian dài, giữa xuất và nhập khẩu có sự mất cân đối nghiêm trọng.
Hàng nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất (80%), còn hàng xuất khẩu lại là các sản phẩm
thô mới qua sơ chế (khoáng sản, nông – lâm - thuỷ sản). Các hoạt động khác còn bị hạn
chế, hiệu quả chưa cao.
3. Trong điều kiện nền kinh tế mở, chiến lược kinh tế đối ngoại là một bộ phận quan
trọng trong chiến lược kinh tế - xã hội của đất nước
Về tiềm năng, nước ta có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế đối ngoại. Một số loại
khoáng sản, nhất là dầu khí, đang thu hút sự chú ý của nhiều nước trên thế giới và trong
khu vực. Các sản phẩm của nền nông nghiệp nhiệt đới, của ngành nuôi trồng, đánh bắt
thuỷ, hải sản và của một số ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có thể phát triển với
quy mô lớn nhằm tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu. Tài nguyên thiên nhiên kết hợp với
nguồn nhân lực, kinh tế, kỹ thuật ở trong và ngoài nước là những nguồn lực quan trọng để
thực hiện chiến lược kinh tế đối ngoại.
Việc mở rộng xuất khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác trong thương mại sẽ
trở thành mũi nhọn thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đối với vấn đề này, việc tạo nên
các mặt hàng chủ lực và các thị trường trọng điểm có ý nghĩa hàng đầu.
Việc thực hiện có kết quả các chiến lược kinh tế đối ngoại còn phụ thuộc vào nhiều
điều kiện khác nữa như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, vào hệ thống luật pháp, đội ngũ
cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lí hiện làm công việc này.
/#01239#:
!: "Đồng bằng sông Hồng"
Đồng bằng sông Hồng rộng gần 1,3 triệu ha, chiếm 3,8% diện tích toàn quốc với một
vùng biển bao quanh ở phía Đông và Đông Nam. Số dân của đồng bằng là 14,8 triệu người
(1999), chiếm 19,4% số dân của cả nước.
Hiện tại cũng như trong tương lai, đồng bằng sông Hồng là một trong những vùng có
ý nghĩa then chốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1. Vấn đề dân số
Đồng bằng sông Hồng là nơi dân cư tập trung đông đúc nhất trong cả nước. Việc dân
cư quá tập trung ở đồng bằng làm cho mật độ dân số trung bình đã lên tới 1180 người/km2
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý +-
(1999). Mật độ này cao gấp 5 lần mật độ trung bình của toàn quốc; gấp gần 3 lần so với
đồng bằng sông Cửu Long; gấp 10 lần so với khu vực miền núi và trung du Bắc Bộ; gấp
17,6 lần so với Tây Nguyên.
Những nơi dân cư đông nhất là Hà Nội (2883 người/km2), Thái Bình (1183
người/km2), Hải Phòng (1113 người/km2), Hưng Yên (1204 người/km2 – 1999). Ở các
nơi khác, chủ yếu thuộc khu vực rìa phía Bắc và Đông Bắc của châu thổ, dân cư thưa hơn.
Sự phân bố dân cư quá đông ở đồng bằng sông Hồng liên quan tới nhiều nhân tố. Nền
nông nghiệp thâm canh cao với nghề trồng lúa nước là chủ yếu đòi hỏi phải có nhiều lao
động. Trong vùng còn có nhiều trung tâm công nghiệp quan trọng và một mạng lưới các đô
thị khá dày đặc. Ngoài ra, đồng bằng sông Hồng đã được khai thác từ lâu đời và có các
điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho hoạt động sản xuất và cư trú của con người.
Ở đồng bằng sông Hồng, dân số gia tăng vẫn còn nhanh. Vì vậy, tốc độ tăng dân số
chưa phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội. Điều này gây khó khăn cho việc phát
triển kinh tế - xã hội của đồng bằng.
Việt Nam là nước có diện tích canh tác tính theo đầu người rất thấp (892m2). Trên
cái nền chung ấy, chỉ số này ở đồng bằng sông Hồng còn thấp hơn nhiều do bị sức ép quá
nặng nề của dân số. Ở đây, bình quân mỗi đầu người chỉ đạt khoảng ½ con số trung bình
của cả nước. Đất canh tác ít, dân đông nên phải đẩy mạnh thâm canh. Song nếu thâm canh
không đi đôi với việc hoàn lại đầy đủ các chất dinh dưỡng sẽ làm cho đất đai ở một số nơi
bị giảm độ phì nhiêu.
Với việc áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật và những chính sách đổi mới trong
nông nghiệp, sản lượng lương thực của vùng tiếp tục tăng lên, nhưng về lâu dài có thể tiến
đến giới hạn của khả năng sản xuất.
Nền kinh tế ở đồng bằng sông Hồng tuy tương đối phát triển, nhưng đang phải chịu
áp lực rất lớn của dân số. Vào thời kì 1979 – 1989, nhịp độ tăng trưởng trung bình năm của
sản xuất công nghiệp, nông nghiệp đạt khoảng 4 – 5%, trong khi đó tỉ lệ tăng dân số hằng
năm vẫn dao động ở mức trên 2%. Thời kì 1990 – 1998, mức tăng trưởng tương ứng là 7%
và 1,4%.
Dân số đông và sự gia tăng dân số đã để lại những dấu ấn đậm nét về kinh tế - xã hội.
Mặc dù mức gia tăng dân số đã giảm nhiều, nhưng sản xuất nhìn chung chưa đáp ứng được
nhu cầu tích luỹ và cải thiện đời sống nhân dân. Hàng loạt vấn đề xã hội như việc làm, nhà
ở, y tế, văn hoá, giáo dục vẫn còn là bức xúc.
Trong nhiều năm qua, nước ta đã tiến hành phân bố lại dân cư và lao động trên phạm
vi cả nước. Đối với đồng bằng sông Hồng, điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngay từ
năm 1961 đã có nhiều người từ đồng bằng sông Hồng chuyển lên các tỉnh thuộc miền núi
Tây Bắc và một số tỉnh thuộc miền núi Đông Bắc. Nhưng phải đến cuối những năm 70 và
đầu những năm 80 của thế kỉ này, việc chuyển cư mới được thực hiện với quy mô lớn.
Trong thời kỳ 1984 – 1989, tỉ lệ chuyển cư thuần tuý (tương quan giữa tỉ lệ người chuyển
đến và tỉ lệ người chuyển đi) của hầu hết các tỉnh trong vùng đều mang giá trị âm, nghĩa là
số người chuyển đi nhiều hơn số người chuyển đến đồng bằng sông Hồng.
Ngoài vấn đề chuyển cư, giải pháp hàng đầu ở đồng bằng sông Hồng là việc triển
khai có hiệu quả công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình nhằm giảm tỉ lệ sinh. Đồng thời,
trên cơ sở lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lí, từng bước giải quyết việc làm tại chỗ cho lực
lượng lao động thường xuyên tăng lên, tiến tới nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân
dân trong vùng.
Tài liệu ôn thi tại chức môn Địa lý +.
2. Vấn đề lương thực, thực phẩm
Đồng bằng sông hồng là nơi có nhiều khả năng để sản xuất lương thực, thực phẩm.
Trên thực tế, đây là vựa lúa lớn thứ hai của cả nước, sau đồng bằng sông Cửu Long.
Số đất đai đã được sử dụng vào hoạt động nông nghiệp là trên 70 vạn ha, chiếm 56%
tổng diện tích tự nhiên của đồng bằng sông Hồng. Ngoài số đất đai phục vụ lâm nghiệp và
các mục đích khác, số diện tích đất chưa được sử dụng vẫn còn hơn 2 vạn ha.
Nhìn chung, đất đai của đồng bằng sông Hồng được phù sa của hệ thống sông Hồng
và sông Thái Bình bồi đắp tương đối màu mỡ. Tuy vậy, độ phì nhiêu của các loại đất
không giống nhau ở khắp mọi nơi. Đất được bồi đắp hàng năm màu mỡ không hơn đất
không được bồi đắp hàng năm. Đất thuộc châu thổ của sông Hồng phì nhiêu hơn đất thuộc
châu thổ của sông Thái Bình.
Có giá trị nhất đối với việc phát triển cây lương thực ở đồng bằng sông Hồng là diện
tích đất không được phù sa bồi đắp hàng năm (đất trong đê). Loại đất này chiếm phần lớn
diện tích châu thổ, đã bị biến đổi nhiều do trồng lúa.
Ở đồng bằng, đất và nước là hai yếu tố đan quyện vào nhau. Hệ thống sông Hồng và
sông Thái Bình cùng các nhánh của chúng là nguồn cung cấp nước thường xuyên cho hoạt
động nông nghiệp. Tuy nhiên, lại quá thừa nước trong mùa mưa và thiếu nước trong mùa
khô.
Bên cạnh khả năng tự nhiên, những nguồn lực về kinh tế - xã hội cũng đóng vai trò
đáng kể trong việc phát triển sản xuất lương thực, thực phẩm. Từ bao đời nay, người dân
đồng bằng sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm. Đó
là vốn rất quý để đẩy mạnh sản xuất. Ngoài ra, sự phát triển của nền kinh tế cùng với hàng
loạt các chính sách mới cũng góp phần quan trọng cho việc giải quyết vấn đề lương thực,
thực phẩm ở đồng bằng sông Hồng.
Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, ngành trồng cây lương thực luôn giữ địa vị hàng
đầu. Diện tích cây lương thực khoảng 1,2 triệu ha, chiếm khoảng 14% diện tích cây lương
thực của cả nước. Sản lượng lương thực là 6,1 triệu tấn, chiếm 18% sản lượng lương thực
toàn quốc (1999).
Trong các cây lương thực, lúa có ý nghĩa quan trọng nhất cả về diện tích và sản
lượng. Hàng năm, đồng bằng sông Hồng có hơn 1 triệu ha đất gieo trồng lúa. Với con số
này, lúa chiếm 88% diện tích cây lương thực của đồng bằng và chiếm khoảng 14% diện
tích gieo trồng lúa của cả nước (1999).
Cây lúa có mặt ở hầu hết các nơi, nhưng tập trung nhất và đạt năng suất cao nhất là ở
các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên, Ninh Bình, Hà Tây. Thái Bình trở
thành tỉnh dẫn đầu cả nước về năng suất lúa (61,6 tạ/ha – năm 1999). Nhiều huyện, hợp tác
xã đạt năng suất 8 – 10 tấn/năm.
Ngành trồng cây lương thực, đặc biệt là ngành trồng lúa ở đây đã có từ lâu đời và
được thâm canh với trình độ cao nhất trong cả nước. Tuy vậy, việc đảm bảo lương thực
cho con người và cho các nhu cầu khác (phục vụ chăn nuôi, công nghiệp chế biến v.v…)
còn bị hạn chế. Mức bình quân lương thực theo đầu người ở đồng bằng sông Hồng vẫn
thấp hơn mức bình quân của cả nước (414 kg/người so với 448 kg/người – năm 1999).
Vấn đề thực phẩm liên quan đến cơ cấu bữa ăn và ảnh hưởng nhiều tới cơ cấu cây
trồng. Ở đồng bằng sông Hồng, việc sản xuất thực phẩm chưa tương xứng với tiềm năng
hiện có.