Tiểu luận:
Lợi ích kinh tế và tác
động của nó đối với các
hoạt động kinh tế của
các chủ thể
Nhóm 10:
Mơn học: Kinh Tế Chính Trị Mác – Lê Nin
Giảng Viên: Thầy Nguyễn Đình Bình
Mã Học Phần: 202EC0309
1
MỞ ĐẦU:
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Lợi ích là một trong những động lực thúc đẩy hoạt động của con người. Trong
quá trình tồn tại và phát triển, sự tác động lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế
nhằm thỏa mãn nhu cầu sẽ hình thành quan hệ lợi ích. Mối quan hệ giữa các
lợi ích thúc đẩy hoạt động của con người và sự vận động của xã hội theo
những chiều hướng và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, quan hệ lợi ích của các
chủ thể ln nảy sinh vấn đề phức tạp bởi lợi ích ln biến đổi theo nhu cầu
của các chủ thể, của xã hội.
Ở nước ta, trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trò làm động lực của lợi
ích đối với sự tiến bộ xã hội. Trong những năm gần đây, càng đi sâu vào nền
kinh tế thị trường, vấn đề lợi ích nói chung, lợi ích kinh tế của cá nhân, lợi ích
kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội hay các mối quan hệ giữa các lợi ích
càng trở nên phức tạp, tạo ra những vấn đề “nóng” cần phải giải quyết, xuất
hiện những biểu hiện của sự mất cân bằng, thiên lệch trong giải quyết quan hệ
giữa lợi ích của các chủ thể kinh tế. Thực chất đó là việc đề cao quá mức lợi
ích cá nhân, tập thể bất chấp luật pháp, đạo đức để đạt được lợi ích. Song ở
thái cực ngược lại, lại có những lợi ích cá nhân, tập thể chính đáng chưa được
quan tâm đúng mức, tạo điều kiện phát triển, nhiều giá trị cho sự phát triển cá
nhân, tập thể chưa được tạo lập, thành phần kinh tế tư nhân chưa thực sự phát
huy một cách hiệu quả tối đa. Cùng với đó, càng hội nhập quốc tế và phát triển
kinh tế thị trường mạnh mẽ thì càng đặt ra vấn đề là phải làm cho cá nhân thỏa
mãn lợi ích chính đáng, đồng thời phải thúc đẩy đạt được những lợi ích xã hội
để vừa bảo đảm sự phát triển, vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Khơng ít các chính sách của Đảng, của Nhà nước liên quan đến các chủ đề
trên đã được ban hành và đi vào sử dụng. Tuy nhiên, các mâu thuẫn cần giải
quyết vẫn không được giải quyết triệt để dẫn đến sự mất cân bằng trong giải
quyết quan hệ lợi ích giữa các chủ thể ngày càng lớn.
Đứng trước thực tế đó, nghiên cứu thực trạng lợi ích kinh tế của chủ thể kinh
tế, đề ra giải pháp cơ bản để hạn chế mâu thuẫn hướng tới xây dựng mối quan
hệ gắn kết và đảm bảo hài hồ lợi ích trong các quan hệ lợi ích cụ thể trong
phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là công việc hết sức cấp thiết.
Với ý nghĩa đó, nhóm lựa chọn chủ đề “Lợi ích kinh tế và những tác động của
nó đối với hoạt động kinh tế của các chủ thể” làm đề tài tiểu luận của mình.
2
2. Đối tượng nghiên cứu:
Sự tác động của lợi ích kinh tế đối với hoạt động kinh tế của các chủ thể ở
Việt Nam.
3. Mục tiêu:
Mục tiêu chung:
3.1.
Làm rõ hoạt động kinh tế của các chủ thể chịu tác động như thế nào bởi lợi ích
kinh tế. Từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của
hoạt động kinh tế thông qua các mâu thuẫn đã tìm ra qua nghiên cứu.
Mục tiêu riêng:
3.2.
Phân tích quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể, xác định những hạn chế
trong các mối quan hệ này; xác định các giải pháp đảm bảo hài hồ lợi ích
kinh tế giữa các chủ thể; kiến nghị các giải pháp để tối ưu hoá quan hệ nhà
nước và thị trường, tạo sự đồng thuận trong phân phối thu nhập, đề ra các biện
pháp để xử lý kịp thời những mâu thuẫn về lợi ích kinh tế.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để phân tích, nghiên cứu về vấn đề “Lợi ích kinh tế và những tác động của nó
đối với hoạt động kinh tế của các chủ thể” nhóm đã sử dụng một số phương
pháp như: phân tích, nghiên cứu tài liệu, quan sát, điều tra, tham khảo thực tế
và tổng kết kinh nghiệm để làm rõ những tác động của lợi ích kinh tế đối với
hoạt động kinh tế của các chủ thể hiện nay.
5.
Kết cấu tiểu luận: Gồm 3 chương với các nội dung chính sau đây
Chương 1: Cơ sở lý luận về lợi ích kinh tế
Tìm hiểu về các khái niệm liên quan đến lợi ích kinh tế, vai trị, đặc trưng của
nó
Chương 2: Thực trạng về các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Tìm hiểu, phân tích về thực trạng về các quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam
hiện nay, quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động với người lao động, giữa
doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa cá nhân, tập thể và xã hội
Chương 3: Định hướng, giải pháp đảm bảo hài hịa lợi ích kinh tế trong xã hội
Từ những thông tin trên đưa ra các định hướng, giải pháp để đảm bảo sự hài
hịa lợi ích kinh tế trong xã hội
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ LỢI ÍCH KINH TẾ
1. Một số khái niệm liên quan
1.1.
Lợi ích kinh tế:
Để tồn tại, phát triển, con người cần được thỏa mãn các nhu cầu vật chất cũng
như nhu cầu về tinh thần. Lợi ích thu được khi con người được thỏa mãn nhu
cầu của mình. Lợi ích có thể là lợi ích vật chất, có thể là lợi ích tinh thần
Lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu của con người mà sự thỏa mãn nhu cầu này
phải được nhận thức và đặt trong mối quan hệ xã hội ứng với trình độ phát
triển nhất định của nền sản xuất xã hội đó
Trong mỗi điều kiện lịch sử, tùy từng bối cảnh mà vai trò quyết định đối với
hoạt động của con người là lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần. Nhưng xuyên
suốt quá trình tồn tại của con người và đời sống xã hội thì lợi ích vật chất đóng
vai trị quyết định thúc đẩy hoạt động của mỗi cá nhân, tổ chức cũng như xã
hội
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, lợi ích thu được khi thực hiện các hoạt động
kinh tế của con người. Bản chất và biểu hiện của lợi ích kinh tế
1.2.
Quan hệ lợi ích kinh tế:
Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập tương tác giữa con người với con người,
giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận hợp
thành nền kinh tế, giữa con người với các tổ chức kinh tế, giữa quốc gia với
phần còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối
liên hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tương ứng của một giai đoạn phát triển xã hội nhất định.
Như vậy, quan hệ lợi ích kinh tế có biểu hiện hết sức phong phú, quan hệ đó có
thể là quan hệ theo chiều dọc, giữa một tổ chức kinh tế với một cá nhân trong
tổ chức kinh tế đó. Cũng có thể theo chiều ngang giữa các chủ thể, các cộng
đồng người, giữa các tổ chức, các bộ phận hợp thành nền kinh tế khác nhau.
Trong điều kiện hội nhập ngày nay, quan hệ lợi ích kinh tế cịn phải xét tới
quan hệ giữa quốc gia với phần còn lại của thế giới.
1.3.
Quan niệm về sự hài hịa giữa các lợi ích kinh tế:
Hài hịa các lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế của
các chủ thể, trong đó mặt mâu thuẫn, xung đột lợi ích kinh tế được hạn chế;
mặt thống nhất được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển cả chiều rộng và
chiều sâu, từ đó tạo động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế, góp phần thực
hiện tốt hơn các lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích xã hội.
Để có sự hài hịa giữa các lợi ích kinh tế chỉ có kinh tế thị trường là khơng đủ
vì các lợi ích kinh tế ln vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau, mà cần có
sự can thiệp của nhà nước. Bảo đảm hài hịa các lợi ích kinh tế là sự can thiệp
của nhà nước và các quan hệ lợi ích kinh tế bằng các cơng cụ giáo dục, pháp
luật, hành chính, kinh tế… nhằm gia tăng thu nhập cho các chủ thể kinh tế, hạn
chế mâu thuẫn, tăng cường sự thống nhất, xử lý kịp thời khi có xung đột.
2. Các loại lợi ích kinh tế:
Tùy góc độ xem xét mà ta có thể phân chia thành các nhóm, các loại lợi ích
kinh tế khác nhau sau đây:
- Dưới góc độ khái quát nhất có thể phân chia hệ thống lợi ích kinh tế thành: Lợi
ích kinh tế cá nhân, lợi ích kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội.
- Dưới góc độ các thành phần kinh tế, có lợi ích kinh tế tương ứng với các thành
phần kinh tế đó
- Dưới góc độ các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, có lợi ích kinh tế của
người sản xuất, người phân phối, người trao đổi, người tiêu dùng.
3. Vai trò lợi ích kinh tế:
Trong hệ thống lợi ích của con người nói chung bao gồm lợi ích kinh tế, chính
trị, tư tưởng, văn hóa - xã hội, thì lợi ích kinh tế giữ vai trò quyết định nhất, chi
phối các lợi ích khác.
Bởi vì, nó gắn liền với nhu cầu vật chất, nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất - là
nhu cầu đầu tiên, cơ bản nhất cho sự tồn tại và phát triển của con người, của xã
hội. Đồng thời, khi lợi ích kinh tế được thực hiện thì nó cũng tạo cơ sở, tiền đề
để thực hiện các lợi ích khác. Đời sống vật chất của xã hội được phồn thịnh,
thì đời sống tinh thần cũng mới được nâng cao.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế được biểu hiện vô cùng phong
phú. Măc dù vậy, điểm chung của hết thảy các hoạt động đó là hướng tới lợi
ích. Ta có thể khái qt vai trị của lợi ích kinh tế trên các khía cạnh sau:
- Lợi ích kinh tế là động lực trực tiếp của các chủ thể và hoạt động kinh tế - xã
hội:
Con người tiến hành các hoạt động kinh tế trước hết là để thỏa mãn các nhu
cầu vật chất, nâng cao phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất
của mình. Trong nền kinh tế thị trường, phương thức và mức độ thỏa mãn các
nhu cầu vật chất tùy thuộc vào mức thu nhập. Do đó, mức thu nhập càng cao,
mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất càng tốt. Vì vậy, mọi chủ thể kinh tế để
phải hành động để nâng cao thu nhập của mình. Thực hiện lợi ích kinh tế của
các giai
tầng xã hội, đặc biệt của người dân vừa là cơ sở đảm bảo cho sự ổn định và
phát triển xã hội, vừa là biểu hiện của sự phát triển.
Về khía cạnh kinh tế, tất cả các chủ thể kinh tế đều hành động trước hết vì lợi
ích chính đáng của mình. Tất nhiên, lợi ích này phải đảm bảo trong sự liên hệ
với các chủ thể khác trong xã hội. Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu
cầu vật chất trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ
mà xã hội có được. Mà tất cả các nhân tố đó lại là sản phẩm của nền kinh tế và
phụ thuộc vào quy mô và trình độ phát triển của nó. Theo đuổi lợi ích kinh tế
chính đáng của mình, các chủ thể kinh tế đã góp phần đóng góp vào lợi ích
kinh tế. Vì lợi ích chính đáng của mình, người lao động phải tích cực lao động
sản xuất, nâng cao tay nghề, cải tiến cơng cụ lao động, chủ doanh nghiệp phải
tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu
của khách hàng bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã,
nâng cao tinh thần trách nhiệm trong phục vụ người tiêu dùng... Tất cả những
điều đó đều có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, của nền
kinh tế và nâng cao đời sống của người dân.
- Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển của các lợi ích khác:
Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất còn phụ thuộc địa vị
của con người trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội nên để thực hiện được
lợi ích của mình các chủ thể phải đấu tranh với nhau để thực hiện quyền làm
chủ đối với tư liệu sản xuất. Đó là cội nguồn sâu xa của các cuộc đấu tranh
giữa các giai cấp trong lịch sử - một động lực quan trọng của tiến bộ xã hội.
Như vậy, mọi vận động của lịch sử dù dưới hình thức như thế nào, xét đến
cùng đều xoay quanh lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế được thực hiện sẽ tạo điều
kiện vật chất cho sự hình thành và thực hiện lợi ích chính trị, lợi ích xã hội, lợi
ích văn hóa của các chủ thể xã hội.
Ở Việt Nam, trong một thời gian rất dài, vì nhiều lí do, các lợi ích kinh tế nhất
là lợi ích cá nhân không được chú ý đúng mức. Hiện nay, trong điều kiện cơ
chế thị trường, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: coi lợi ích kinh tế là
động lực của các hoạt động kinh tế, phải tôn trọng lợi ích cá nhân chính đáng.
Điều này góp phần tạo động lực cho sự phát triển đất nước ta trong những năm
vừa qua.
4. Những đặc trưng cơ bản của lợi ích kinh tế:
Lợi ích kinh tế bao gồm cơ bản những đặc trưng sau:
- Lợi ích kinh tế mang tính khách quan:
Xã hội phát triển dẫn đến nhu cầu con người càng cao, phương thức và mức độ
thỏa mãn các nhu cầu vật chất phụ thuộc vào các yếu tố khách quan như: số
lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, thu nhập của các chủ thể, … Bản chất
khách quan địi hỏi các lợi ích kinh tế phải xuất phát từ các điều kiện khách
quan.
- Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của quan hệ phân phối:
Thu nhập là biểu hiện, là thước đo việc thực hiện các lợi ích kinh tế vì mức thu
nhập quyết định trực tiếp đến phương thức và mức độ thỏa mãn nhu cầu của
các chủ thể trong cơ chế thị trường. Phân phối thu nhập lại được thực hiện theo
những nguyên tắc khác nhau, tùy thuộc trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất và cơ chế kinh tế. Nếu các chủ thể kinh tế nhận thức
đúng đắn các nguyên tắc phân phối, và hành động phù hợp thì lợi ích kinh tế sẽ
trở thành động lực cho sự phát triển. Ngược lại, những đòi hỏi khơng hợp lí về
thu nhập hay lợi ích kinh tế sẽ là rào cản cho sự phát triển.
-
Lợi ích kinh tế là quan hệ xã hội:
Lợi ích kinh tế của mỗi chủ thể không giản đơn tùy thuộc vào số lượng, chất
lượng hàng hóa và dịch vụ họ nhận được, mà luôn được đặt trong quan hệ so
sánh với những chủ thể khác. Do đó, giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế thực chất
là giải quyết quan hệ giữa con người với con người, để tạo sự công bằng, hợp
lý và đồng thuận trong phân phối thu nhập.
-
Lợi ích kinh tế mang tính lịch sử:
Phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người do nhiều
nhân tố quyết định, mà các nhân tố đó lại khơng ngừng vận động, biến đổi nên
lợi ích kinh tế cũng khơng ngừng vận động, biến đổi. Điều đó có nghĩa là lợi
ích kinh tế mang tính lịch sử. Khi nghiên cứu tính lịch sử của lợi ích kinh tế
đòi hỏi việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề phải đặt trong những hồn cảnh
cụ thể, trong tiến trình vận động, biến đổi không ngừng.
Từ nội hàm, những đặc trưng chủ yếu của lợi ích kinh tế, có thể thấy rằng: lợi
ích kinh tế là phạm trù kinh tế xuất hiện khi các hoạt động kinh tế mang tính
xã hội; là sự thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người được quy định bởi
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và địa vị của họ trong hệ thống các
quan hệ sản xuất xã hội; là kết quả trực tiếp của quan hệ phân phối và được thể
hiện bằng thu nhập; là động lực của các hoạt động kinh tế khi có sự cơng bằng,
hợp lý và đồng thuận của các chủ thể trong phân phối thu nhập.
5. Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế:
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
Lợi ích kinh tế trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch
vụ, mà điều này lại phụ thuộc vào trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Do
đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao, việc đáp ứng lợi ích
kinh tế
của các chủ thể càng tốt. Chính vì vậy, phát triển lực lượng sản xuất trở thành
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các quốc gia.
- Địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội:
Quan hệ sản xuất, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyết định vị
trí, vai trị của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia các hoạt
động kinh tế - xã hội. Do đó, khơng có lợi ích kinh tế nằm ngồi những quan
hệ sản xuất, mà nó là sản phẩm của quan hệ sản xuất, là hình thức tồn tại và
biểu hiện của các quan hệ sản xuất. Chính vì vậy, theo Ph.Ăngghen, các quan
hệ lợi ích kinh tế của một xã hội nhất định biểu hiện trước hết dưới hình thức
lợi ích.
- Chính sách phân phối thu nhập của nhà nước:
Sự can thiệp tất yếu của nhà nước vào nền kinh tế thị trường là tất yếu khách
quan, bằng nhiều loại cơng cụ, trong đó có các chính sách kinh tế - xã hội.
Chính sách phân phối thu nhập của nhà nước làm thay đổi mức thu nhập và
tương quan thu nhập thay đổi, phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu
vật chất cũng thay đổi, tức là lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa các
chủ thể cũng thay đổi.
- Hội nhập kinh tế quốc tế:
Bản chất của kinh tế thị trường là mở cửa hội nhập. Khi mở cửa hội nhập, các
quốc gia có thể tăng lợi ích kinh tế từ thương mại kinh tế, đầu tư quốc tế. Tuy
nhiên, lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp, hộ gia đình sản xuất hàng hóa tiêu
thụ trên thị trường nội địa có thể bị ảnh hưởng bởi cạnh tranh của hàng hóa
nước ngồi. Đất nước có thể phát triển nhanh hơn nhưng cũng phải đối mặt với
các nguy cơ cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, … Điều đó có nghĩa là
hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tác động mạnh mẽ và nhiều chiều đến lợi ích kinh
tế của các chủ thể.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CÁC QUAN HỆ
LỢI ÍCH KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.
Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam:
Sự phát triển của Việt Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhận. Đổi mới
kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng
đưa Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành
quốc gia thu nhập trung bình thấp. Từ 2002 đến 2018, GDP đầu người tăng 2,7
lần, đạt trên 2.700 USD năm 2019, với hơn 45 triệu người thoát nghèo. Tỷ lệ
nghèo giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức
mua ngang giá). Đại bộ phận người nghèo còn lại ở Việt Nam là dân tộc thiểu
số, chiếm 86%.
Năm 2019, kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục cho thấy có nền tảng mạnh và khả
năng chống chịu cao, nhờ nhu cầu trong nước và sản xuất định hướng xuất
khẩu vẫn ở mức cao. GDP thực tăng ước khoảng 7% trong năm 2019, tương tự
tỉ lệ tăng trưởng năm 2018, là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng
cao nhất trong khu vực.
Năm 2020, bối cảnh kinh tế toàn cầu là bức tranh khủng hoảng kinh tế trầm
trọng bởi đại dịch Covid 19 bùng phát và lan rộng chưa từng có trong lịch sử,
các vấn đề căng thẳng địa chính trị, xung đột cục bộ, mâu thuẫn sâu sắc trong
quan hệ thương mại, cạnh tranh chiến lược giữa các quốc gia, nền kinh tế lớn:
sự gia tăng khuynh hướng bảo hộ, chủ nghĩa dân tộc cực đoan sự ly khai giữa
các nước lớn trong các tổ chức quốc tế và khu vực, tình hình biến đổi khí hậu,
…Trong nước nhiều hoạt động kinh tế văn hóa, xã hội bị ảnh hưởng nghiêm
trọng, tiêu thụ hàng hóa bị giảm sút, sản xuất kinh doanh bị ngưng trệ hàng
triệu lao động bị mất việc làm, thiếu việc làm, giảm sâu thu nhập. Trong khi đó
biến đổi khí hậu thời tiết cực đoan, bão, lũ sụt lún, sạt lở, hạn hán, xâm nhập
mặn, dịch tả lợn châu Phi, … diễn biến phức tạp, ảnh hưởng nặng nề đến sản
xuất và đời sống của nhân dân.
Mặc dù trong bối cảnh đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức to lớn chính
phủ đã đặt quyết tâm thực hiến tốt nhất mục tiêu, nhiệm vụ đề ra của năm 2020
và đã báo cáo tại kỳ họp Quốc hội thứ 10 với nhiều kết quả tích cực. Trên cơ
sở tổng hợp kết quả thực hiện trong suốt năm 2020, Việt Nam ta đã đạt được
kết quả khá quan trọng là toàn diện trên tất cả các lĩnh vực nổi bật là: thực hiện
thành cơng mục tiêu kép, tình hình kinh tế vĩ mô ổn định, nền kinh tế tăng
trưởng dương, phát triển văn hóa, xã hội, mơi trường có nhiều tiến bộ, cải cách
thủ tục hành chính đạt nhiều kết quả, quốc phịng, an ninh trật tự an tồn xã hội
được giữ vững, đặc biệt thành công trong đối ngoại.
Bên cạnh những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được thì vẫn cịn tồn tại nhiều
hạn chế, bất cập như: Tăng trưởng kinh tế còn chưa tương xứng với tiềm năng
và chưa thực sự bền vững, năng lực cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế
cịn hạn chế, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ, nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu
cầu. Khoa học công nghệ đổi mới sáng tạo chưa được phát huy mạnh mẽ.
Khoảng cách phát triển giữa các vùng chậm được thu hẹp, đời sống của một bộ
phận nhân dân cịn khó khăn, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số. Cải cách hành chính, sắp xếp bộ máy, tinh giảm biên chế cịn
khó khăn. Bảo vệ chủ quyền quốc gia cịn nhiều khó khăn, thách thức. Tình
hình tội phạm trên một số lĩnh vực, địa bàn diễn biến phức tạp, kéo dài. Tham
nhũng lãng phí ở một số nơi còn chưa được phát hiện, xử lý kịp thời vẫn còn
một số vụ việc khiếu kiện phức tạp về đất đai kéo dài. Việc làm của một số bộ
phận người dân chưa đảm bảo, nhất là ở vùng nông thơn, khu vực nơng nghiệp
và khu vực phi chính thức. Ơ nhiễm mơi trường cải thiện cịn chậm. Dịch
bệnh, thiên tai, bão lũ diễn biến ngày càng thất thường.
Sang quý I năm 2021, nền kinh tế - xã hội của Việt Nam cịn gặp nhiều khó
khăn bởi cịn ảnh hưởng của đại dịch covid 19. Cụ thể như sau “Sản xuất cơng
nghiệp tháng 02/2021 ước tính giảm so với tháng trước và so với cùng kỳ năm
trước do số ngày làm việc của tháng Hai năm nay ít hơn 8 ngày và ảnh hưởng
của dịch Covid-19 tại một số địa phương”. Tuy nhiên sản xuất công nghiệp
tháng 01/2021
tăng khá so với tháng 01/2020 (22,5%) nên tính chung 2 tháng đầu năm 2021,
chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước.
2.
Hệ thống quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay:
Dựa trên những căn cứ khác nhau, các nhà nghiên cứu đã chia lợi ích thành
nhiều loại khác nhau: dựa vào các lĩnh vực của đời sống xã hội: chia thành lợi
ích kinh tế, lợi ích văn hố, lợi ích chính trị khái quát hơn là lợi ích vật chất
và lợi ích tinh thần; dựa vào phạm vi hoạt động của chủ thể: chia thành lợi ích
cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích giai cấp, lợi ích toàn xã hội, lợi ích quốc gia, lợi
ích nhân loại khái quát hơn là lợi ích riêng và lợi ích chung; dựa vào thời
gian
tồn tại của lợi ích: chia thành lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; dựa vào tầm
quan trọng của lợi ích: chia thành lợi ích căn bản và lợi ích khơng căn bản, lợi
ích cấp bách và lợi ích khơng cấp bách; dựa vào tính chất và các biện pháp
thực hiện lợi ích: chia thành lợi ích chính đáng và lợi ích không chính đáng;
dựa vào xu hướng khách quan của sự phát triển xã hội, chia thành lợi ích tiến
bộ, lợi ích bảo thủ …
Tổng quan chung thì một số kiểu quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản trong nền kinh
tế thị trường như sau. Xét theo chiều ngang, với các giai tầng trong xã hội thì
có: Quan hệ lợi ích giữa Người lao động và Doanh nghiệp (tức là giữa giai cấp
Công nhân và giai cấp Tư sản). Quan hệ lợi ích giữa doanh nghiệp với nhau
(tức là nội bộ giai cấp Tư sản, tiểu Tư sản). Quan hệ lợi ích giữa Người lao
động với nhau (tức là nội bộ giai cấp công nhân, người dân lao động). Xét theo
chiều dọc, với các cấp độ thì có: Quan hệ giữa Lợi ích cá nhân, Lợi ích nhóm,
Lợi ích xã hội.
Ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn vai trị làm động lực của
lợi ích đối với sự tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, trong khoảng 20 năm trở lại đây,
khi chúng ta đi ngày càng sâu vào nền kinh tế thị trường, vấn đề lợi ích nói
chung, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nói riêng lại trở nên phức tạp, tạo ra
những vấn đề “nóng” cần phải giải quyết, xuất hiện những biểu hiện của sự
mất cân bằng, thiên lệch trong giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội. Một số lực lượng xã hội nhân danh lợi ích xã hội, để mưu cầu lợi
ích cá nhân khơng chính đáng, xâm phạm lợi ích xã hội. Những hiện tượng
tham ơ, tham nhũng, lãng phí, gây thất thốt tài sản Nhà nước, buôn lậu, trốn
thuế, hàng giả, hàng kém chất lượng, lừa đảo, lợi ích nhóm tiêu cực lũng đoạn
việc quản lý, điều hành, phân phối nói chung... Thực chất đó là việc đề cao q
mức lợi ích cá nhân, bất chấp luật pháp, đạo đức để đạt được lợi ích cá nhân.
Song ở thái cực ngược lại, lại có những lợi ích cá nhân chính đáng chưa được
quan tâm đúng mức, tạo điều kiện phát triển, nhiều giá trị cho sự phát triển cá
nhân chưa được
tạo lập, thành phần kinh tế tư nhân chưa thực sự phát huy một cách hiệu quả
tối đa... Cùng với đó, càng hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế thị trường
mạnh mẽ thì càng đặt ra vấn đề là phải làm cho cá nhân thỏa mãn lợi ích chính
đáng, đồng thời phải thúc đẩy đạt được những lợi ích xã hội để vừa bảo đảm sự
phát triển, vừa giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. trong giai đoạn tiếp tục
đẩy mạnh đổi mới hiện nay. Cụ thể, Đảng ta xác định: “Bảo đảm lợi ích, sự kết
hợp hài hịa các lợi ích và phương thức thực hiện lợi ích cơng bằng, hợp lý cho
mọi người, cho các chủ thể, nhất là lợi ích kinh tế”. Chính vì vậy, việc giải
quyết các quan hệ lợi ích một cách hài hịa, nhất là giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội chính là tạo động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay. Thực chất của việc giải quyết quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã
hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay là quá trình tác
động vào việc nhận thức và thực hiện lợi ích của cá nhân và xã hội, tạo ra sự
hài hòa, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
3.
3.1.
Thực trạng về quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay:
Quan hệ lợi ích kinh tế giữa những người lao động với người lao động:
Trong nền kinh tế thị trường, nhiều người muốn bán sức lao động. Để thực
hiện lợi ích kinh tế của mình, người lao động không chỉ phải quan hệ với
người sử dụng lao động mà cịn phải quan hệ với nhau cho nên hình thành
quan hệ lợi ích kinh tế giữa những người lao động với người lao động. Nếu có
quá nhiều người bán sức lao động thì người lao động phải cạnh tranh với nhau.
Hậu quả là tiền lương của người lao động bị giảm xuống, một bộ phận người
lao động bị sa thải. Nếu những người lao động thống nhất được với nhau, họ
có thể thực hiện được những yêu sách của mình đối với những người sử dụng
lao động.
Để hạn chế mâu thuẫn lợi ích kinh tế trong nội bộ, đặc trưng với những người
sử dụng lao động, những người lao động đã thành lập tổ chức riêng. Sự đoàn
kết giúp đỡ lẫn nhau giữa những người lao động trong giải quyết các mối quan
hệ là rất cần thiết nhưng phải dựa trên những quy định của pháp luật.
Tại Việt Nam hiện nay nhiều người lao động làm việc trong các doanh nghiệp
có nguồn gốc xuất thân từ nơng thơn nên quan hệ họ hàng, đồng hương có ý
nghĩa nhất định trong việc giải quyết quan hệ lợi ích kinh tế giữa họ với nhau.
Nhìn chung người lao động ít có xung đột về lợi ích kinh tế, hoặc nếu có thì
vấn đề xung đột cũng được những người lao động dễ dàng giải quyết với nhau.
3.2.
Quan hệ lợi ích kinh tế giữa những người lao động với người sử dụng
lao động:
Người lao động là người có đủ thể lực và trí lực để lao động, tức là có khả
năng lao động. Khi họ bán sức lao động sẽ nhận được tiền lương (hay tiền
công) và chịu sự quản lý, điều hành của người sử dụng lao động. Bản chất của
tiền lương là giá cả của hàng hóa sức lao động, chỉ đủ để tái sản xuất sức lao
động. Người sử dụng lao động là chủ doanh nghiệp (nhà tư bản trong CNTB),
cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có th mướn, sử dụng lao
động theo hợp đồng lao động. Là người trả tiền mua hàng hóa sức lao động
nên người sử dụng lao động có quyền tổ chức, quản lý q trình làm việc của
người lao động. Lợi ích kinh tế của người sử dụng lao động thể hiện tập trung
ở lợi nhuận mà họ thu được trong quá trình kinh doanh. Lợi ích kinh tế của
người lao động thể hiện tập trung ở thu nhập (trước hết là tiền lương, tiền
thưởng) mà họ nhận được từ việc bán sức lao động của mình cho người sử
dụng lao động. Lợi ích kinh tế của người lao động và người sử dụng lao động
có quan hệ chặt chẽ, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn nhau.
Sự thống nhất về lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao
động thể hiện: nếu người sử dụng lao động thực hiện các hoạt động kinh tế
trong điều kiện bình thường họ sẽ thu được lợi nhuận, thực hiện được các lợi
ích kinh tế của mình; đồng thời, họ sẽ tiếp tục sử dụng lao động nên người lao
động cũng thực hiện được lợi ích kinh tế của mình vì có việc làm, nhận được
tiền lương. Ngược lại, nếu người lao động tích cực làm việc, lợi ích kinh tế của
họ được thực hiện thông qua tiền lương được nhận, đồng thời, góp phần vào sự
gia tăng lợi nhuận của người sử dụng lao động. Vì vậy, tạo lập sự thống nhất
trong quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động là điều
kiện quan trọng thực hiện lợi ích kinh tế của cả hai bên.
Tuy nhiên, quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao
động cịn có mâu thuẫn. Tại một thời điểm nhất định, thu nhập từ các hoạt
động kinh tế là xác định nên lợi nhuận của người sử dụng lao động tăng lên thì
tiền lương của người lao động giảm xuống và ngược lại. Vì lợi ích của mình,
người sử dụng lao động ln tìm cách cắt giảm tới mức thấp nhất các khoản
chi phí trong đó có tiền lương của người lao động để tăng lợi nhuận. Tuy
nhiên, tiền lương là điều kiện để tái sản xuất sức lao động nên mức tiền lương
thấp nhất người sử dụng lao động phải trả cho người lao động là mức tiền
lương tối thiểu. Vì lợi ích của mình, người lao động sẽ đấu tranh đòi tăng
lương, giảm giờ làm, bãi công… Nếu mâu thuẫn không được giải quyết hợp lý
sẽ ảnh hưởng xấu đến các hoạt động kinh tế.
Để bảo vệ lợi ích kinh tế của mình, người lao động và người sử dụng lao động
đã thành lập các tổ chức riêng. Cơng đồn là tổ chức quan trọng nhất bảo vệ
quyền lợi người lao động. Người sử dụng lao động có các nghiệp đồn, hội
nghề nghiệp… Trong xã hội hiện đại, đấu tranh giữa các bên cần phải tuân thủ
các quy định của pháp luật.
Báo cáo chính trị trình Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã đề ra chủ trương mở
rộng hình thức thuê mướn lao động. “Trong việc thuê mướn lao động, người
lao động và người sử dụng lao động bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước, với
sự tham gia của cơng đồn, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, phải kiểm tra,
kiểm soát việc thuê mướn, sử dụng và trả công lao động, cải thiện điều kiện
lao động; bảo đảm thực hiện những quy định về bảo hộ, an toàn lao động; giải
quyết tốt mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động theo
pháp luật, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động”. Đại hội lần thứ IX và
các kỳ Đại hội tiếp theo của Đảng đều nhấn mạnh vai trị của thị trường lao
động: tiếp tục hồn chỉnh thị trường lao động, bảo đảm hài hịa lợi ích của
người lao động và người sử dụng lao động; chế độ hợp đồng lao động được
mở rộng, áp dụng phổ biến cho các đối tượng lao động; tiền lương, tiền công
phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước.
3.3.
Quan hệ lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp:
Giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp có quan hệ lợi ích kinh tế chặt chẽ với
nhau. Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp vừa là đối tác, vừa là đối thủ
của nhau, từ đó tạo ra sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa họ.
Các doanh nghiệp liên kết và cạnh tranh với nhau trong ứng xử với người lao
động, với những người cho vay vốn, cho thuê đất, với nhà nước, trong chiếm
lĩnh thị trường… Trong cơ chế thị trường, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa
các doanh nghiệp làm cho họ cạnh tranh với nhau quyết liệt. Hệ quả tất yếu là
các doanh nghiệp có giá trị cá jbiệt cao hơn giá trị xã hội và các rủi ro khác bị
thua lỗ, phá sản… bị loại bỏ khỏi thương trường. Đồng thời, những người thu
được nhiều lợi nhuận sẽ phát triển nhanh chóng.
Các doanh nghiệp khơng chỉ cạnh tranh trong cùng ngành, mà còn cạnh tranh
giữa các ngành, bằng việc di chuyển vốn (tư bản) từ ngành này sang ngành
khác. Từ đó hình thành tỷ suất lợi nhuận bình qn, tức là các doanh nghiệp đã
chia nhau lợi nhuận theo vốn đóng góp. Sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích
kinh tế giữa các doanh nghiệp biểu hiện tập trung ở lợi nhuận bình quân mà họ
nhận được.
Sự thống nhất về lợi ích kinh tế làm cho doanh nghiệp liên kết chặt chẽ với
nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Quan hệ chặt chẽ về lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp
với doanh nghiệp làm cho họ trở thành đội ngũ doanh nhân. Trong cơ chế thị
trường, đội
ngũ này đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội nên cần được
tôn vinh, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển.
3.4.
Quan hệ lợi ích kinh tế giữa cá nhân, tập thể, xã hội:
Trong cơ chế thị trường, cá nhân tồn tại dưới nhiều hình thức. Người lao động,
người sử dụng lao động đều là thành viên của xã hội nên mỗi người đều có lợi
ích cá nhân và có quan hệ chặt chẽ với lợi ích xã hội. Nếu người lao động và
người sử dụng lao động làm việc theo đúng các quy định của pháp luật và thực
hiện được các lợi ích kinh tế của mình thì họ đã góp phần phát triển nền kinh
tế, thực hiện lợi ích kinh tế của xã hội. Khi lợi ích kinh tế của xã hội được thực
hiện, xã hội phát triển sẽ tạo lập môi trường thuận lợi để người lao động và
người sử dụng lao động thực hiện tốt hơn các lợi ích kinh tế của mình. Ngược
lại, nếu giữa người lao động và người sử dụng lao động nảy sinh mâu thuẫn
không giải quyết được; hoặc người lao động và người sử dụng lao động cộng
tác với nhau làm hàng giả, hàng nhái, trốn thuế… thì lợi ích kinh tế của xã hội
sẽ bị tổn hại. Biểu hiện là nền kinh tế chậm phát triển, chất lượng cuộc sống
của người dân chậm được cải thiện… Từ đó ảnh hưởng xấu đến lợi ích kinh tế
của các chủ thể, trong đó có lợi ích kinh tế của người lao động và người sử
dụng lao động.
Sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, xã hội quyết định sự tồn tại, phát triển
của cá nhân nên lợi ích xã hội đóng vai trị định hướng cho lợi ích cá nhân và
các hoạt động thực hiện lợi ích cá nhân. Lợi ích xã hội là cơ sở của sự thống
nhất giữa các lợi ích cá nhân, tạo ra sự thống nhất trong hoạt động của các chủ
thể khác nhau trong xã hội. Ph. Ăngghen đã từng khẳng định: “Ở đâu khơng có
lợi ích chung thì ở đó khơng thể có sự thống nhất về mục đích và cũng khơng
thể có sự thống nhất về hành động được”. Quan hệ lợi ích giữa các chủ thể trên
cho thấy, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội có quan hệ nhiều chiều.
Quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội bao gồm cả mặt thống nhất và
mâu thuẫn với nhau; trong đó thường thể hiện ở trạng thái mất cân bằng do các
chủ thể lợi ích khi thì đề cao lợi ích này, khi thì đề cao lợi ích kia. Điều này thể
hiện sự phức tạp của quan hệ lợi ích trong một hồn cảnh lịch sử cụ thể. Trong
q trình thực hiện lợi ích của mình, mỗi chủ thể ln có xu hướng bảo vệ lợi
ích thiết thân, khó chấp nhận từ bỏ lợi ích bản thân, dù điều đó có thể tạo mâu
thuẫn, xung đột với các chủ thể lợi ích khác. Thực chất của việc giải quyết
quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay là quá trình tác động vào việc nhận thức và thực hiện lợi
ích của cá nhân và xã hội, tạo ra sự hài hòa, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
Các cá nhân, tổ chức hoạt động trong cùng ngành, cùng lĩnh vực, liên kết với
nhau trong hành động để thực hiện tốt hơn lợi ích riêng (lợi ích cá nhân, tổ
chức)
của họ hình thành nên “lợi ích nhóm”. Đó là các hiệp hội ngành nghề, các tổ
chức chính trị, xã hội, các nhóm dân cư chung một số lợi ích theo vùng, theo
sở thích… Các cá nhân, tổ chức hoạt động trong các ngành, lĩnh vực khác nhau
nhưng có mối liên hệ với nhau, liên kết với nhau trong hành động để thực hiện
tốt hơn lợi ích riêng mình hình thành nên “nhóm lợi ích”. Đó là mơ hình liên
kết giữa 4 nhà trong nông nghiệp: nhà nông – nhà doanh nghiệp – nhà khoa
học – nhà nước; mơ hình liên kết trên thị trường nhà ở: nhà doanh nghiệp kinh
doanh bất động sản – ngân hàng thương mại – người mua nhà…
“Lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” nếu phù hợp với lợi ích quốc gia, khơng gây
tổn hại đến các lợi ích khác cần được tơn trọng, bảo vệ và tạo điều kiện vì đất
nước có thêm động lực phát triển; ngược lại, khi chúng mâu thuẫn với lợi ích
quốc gia, làm tổn hại các lợi ích khác thì cần phải ngăn chặn.
Trong thực tế, “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi ích” có sự tham gia của cơng chức,
viên chức hoặc các cơ quan công quyền nhiều khả năng sẽ tác động tiêu cực
đến lợi ích xã hội và các lợi ích kinh tế khác vì quyền lực nhà nước sẽ bị lạm
dụng và phục vụ cho lợi ích của các cá nhân. Điều cần lưu ý, “lợi ích nhóm”
và “nhóm lợi ích” tiêu cực thường khơng lộ diện. Vì vậy, việc chống “lợi ích
nhóm” và “nhóm lợi ích” tiêu cực vơ cùng khó khăn. Đảm bảo sự thống nhất
giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, việc chống “lợi ích nhóm” và “nhóm lợi
ích” tiêu cực phải được thực hiện quyết liệt, thường xuyên.
3.5.
Quan hệ lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp với xã hội:
Trong cơ chế thị trường, lợi ích doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ, gắn liền với
lợi ích xã hội. Có thể nói chúng thống nhất với nhau vì doanh nghiệp là bộ
phận cấu thành của xã hội. Do đó, lợi ích của doanh nghiệp được thực hiện thì
lợi ích của xã hội cũng được thực hiện. Doanh nghiệp hoạt động ngày càng có
hiệu quả, lợi ích doanh nghiệp ngày càng được đảm bảo thì lợi ích xã hội càng
phát triển, nền kinh tế đi lên, đảm bảo việc làm và thu nhập ổn định đối với
người lao động. Ngược lại, lợi ích xã hội càng được thực hiện tốt thì xã hội có
mơi trường tốt, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp gia tăng lợi ích kinh tế
của mình.
Trong nền kinh tế thị trường, sản lượng đầu ra và các yếu tố đầu vào đều được
thực hiện thông qua thị trường. Do đó, mục tiêu của doanh nghiệp chỉ được
thực hiện trong mối quan hệ và phù hợp với mục tiêu của xã hội và ngược lại.
Khi doanh nghiệp và xã hội hành động vì mục tiêu chung hoặc các mục tiêu
thống nhất với nhau thì các lợi ích kinh tế giữa chúng thống nhất với nhau. Ví
dụ như để thực hiện lợi ích của mình, doanh nghiệp cải tiến kỹ thuật, nâng cao
chất lượng sản phẩm, thay đổi mẫu mã sản phẩm… thì lợi ích doanh nghiệp
và lợi
ích xã hội thống nhất với nhau. Chủ doanh nghiệp càng thu được nhiều lợi
nhuận thì nền kinh tế, đất nước ngày càng phát triển.
Tuy nhiên, quan hệ lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp với xã hội cũng có những
mâu thuẫn với nhau. Vì lợi ích của mình, các doanh nghiệp có thể làm hàng
giả, trốn thuế, bn lậu…lúc đó xã hội sẽ xuất hiện những sản phẩm khơng đạt
tiêu chuẩn, những khoản phí thiếu sót dẫn đến người dân bị ảnh hưởng tới sức
khỏe, ngân sách nhà nước bị thâm hụt. Do đó, lợi ích của xã hội sẽ bị tổn hại.
Hay vì tiết kiệm chi phí, doanh nghiệp có thể cắt giảm những khâu xử lý rác
thải, hoặc trực tiếp xả chất thải của doanh nghiệp mình ra ngồi mơi trường. Ví
dụ như ở nước ta cũng đã xuất hiện nhiều vụ việc gây bức xúc trong dư luận
như: Công ty Vedan làm ô nhiễm sông Thị Vải hay vụ Formosa Hà Tĩnh gây ô
nhiễm biển miền Trung…Khơng chỉ vậy, một số doanh nghiệp cịn khơng đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, các khâu bảo quản sơ sài, dụng cụ không đảm
bảo chất lượng, cơ sở hạ tầng và thiết bị lỏng lẻo, tất cả chỉ để gia tăng lợi
nhuận một cách phi chân chính. Hậu quả là gì? Mơi trường bị ơ nhiễm: khơng
khí, nguồn nước… ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân. Vậy xã hội làm sao
phát triển, lợi ích xã hội làm sao có thể gia tăng.
Do đó, để đảm bảo lợi ích xã hội, cần nâng cao nhận thức, đạo đức kinh doanh
và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Các bộ,
ngành, các quy pháp pháp luật lần lượt ra đời để điều chỉnh hành vi, hoạt động
của từng doanh nghiệp phù hợp với yêu cầu, lợi ích và sự phát triển của kinh
tế, đất nước và của xã hội. Bên cạnh đó, các bộ, ngành cần có trách nhiệm, làm
việc hiệu quả và nghiêm túc. Các quy pháp pháp luật nên điều chỉnh kịp thời,
phù hợp với doanh nghiệp và xã hội trong từng giai đoạn, thời kì nhất định.
4.
4.1.
Đánh giá chung về quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Những kết quả đạt được:
Sau gần 35 năm đổi mới, mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh tế ở
Việt Nam đã từng bước được điều chỉnh phù hợp với trình độ của nền kinh tế
và cam kết hội nhập quốc tế. Có nhiều kết quả đã đạt được khẳng định quá
trình nỗ lực và phấn đấu của tất cả mọi người, từ các nhân, doanh nghiệp đến
Đảng và nhà nước. Như đã đề cập đến, mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các
chủ thể là mối quan hệ biện chứng, có tác động qua lại lẫn nhau. Ví dụ như nhà
nước quản lý và tác động đến doanh nghiệp, người dân và người lao động
thông qua hệ thống luật pháp và chính sách kinh tế, tổ chức duy trì hoạt động
của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, giám sát, sử dụng tài chế bắt
buộc doanh nghiệp, người dân và người lao động cư xử đúng pháp luật. Doanh
nghiệp tác động trở lại nhà nước, người dân và người lao động thơng qua
những hành vi như: đóng
thuế cho nhà nước, xác định giá cả, quy mô thị trường, tạo công ăn việc làm
cho người lao động. Người dân, người lao động thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình đối với nhà nước và doanh nghiệp theo hiến pháp và pháp luật, đó là
quyền sở hữu tài sản hợp pháp, tư liệu sản xuất, hay quyền được lao động và
thụ hưởng xứng đáng với đóng góp của mình. Những tác động tích cực sẽ góp
phần đưa nền kinh tế phát triển, lợi ích xã hội được nâng cao. Những kết quả
đã đạt được có thể kể đến như:
Thứ nhất, Việt Nam là quốc gia có thể chế chính trị ổn định so với các quốc
gia trên thế giới cũng như trong khu vực. Do đó, nước ta trở thành miền đất
màu mỡ để các doanh nghiệp quốc tế chuyển hướng đầu tư. Nhà nước đã tạo
nên môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi và kinh doanh phục vụ lợi ích của
mình. Có thể thấy rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã chọn Việt Nam mở
rộng quy mô sản xuất như: Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam đặt
trụ sở tại KCN Yên Phong (Bắc Ninh), công ty Honda Việt Nam, hay công ty ô
tô TOYOTA Việt Nam…Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng ngày càng tiết kiệm
chi phí và nâng cao sức mạnh do nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ngày càng hoàn thiện, phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và hội
nhập quốc tế. Công tác quản lý của nhà nước cũng ngày càng có hiệu quả và
được cải thiện, cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản.
Các doanh nghiệp, người dân và người lao động tích cực tham gia thị trường,
phát triển sản xuất kinh doanh và tiêu dùng các hàng hóa sản phẩm dịch vụ,
góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Nhà
nước cũng đã tích cực cải thiện môi trường đầu tư và kinh doanh, tạo môi
trường thuận lợi để các doanh nghiệp có động lực khởi nghiệp. Có thể thấy, số
doanh nghiệp khởi nghiệp khơng ngừng tăng lên qua các năm, làm cho Việt
Nam trở thành nền kinh tế năng động, sôi nổi. Đặc biệt hơn, với những chính
sách cải cách, đổi mới với mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, nhà
nước đã thu hút các doanh nghiệp đầu tư làm thay đổi bộ mặt của nông thôn,
đất nước. Đời sống của người dân ngày càng được sung túc, đủ đầy hơn với
những điều kiện thuận lợi hơn trước kia rất nhiều. Từ đó, nhân dân sống mới
hơn, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo giảm xuống, mức thu nhập bình quân đầu
người lại tăng lên đáng kể.
Nguồn huy động vốn đầu tư phát triển xã hội ngày càng tăng lên, hiệu quả sử
dụng dần được nâng cao, vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh làm cho kinh tế
Việt Nam ngày càng phát triển. Các loại hình doanh nghiệp ra đời tạo việc làm,
thu nhập cho người lao động càng nhiều. Đặc biệt, việc làm cho doanh nghiệp,
các cơ sở kinh tế phi nông nhiệp đã giúp hàng triệu lao động chuyển từ cơng
việc có mức lương thấp sang làm các ngành có mức lương cao hơn, thúc đẩy
dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang cơng nghiệp và dịch vụ. Bên cạnh
đó, các doanh nghiệp cịn góp phần thực hiện an sinh xã hội: xây dựng nhà tình
nghĩa, trường học, cầu cống… ở các vùng sâu vùng xa, các vùng khó khăn và
vùng dân
tộc ít người. Sự phát triển đó đã giúp những người nghèo và các tầng lớp yếu
thế trong xã hội được tiếp cận hàng hóa, dịch vụ với giá cả hợp lý, bình dân,
làm gia tăng chất lượng cuộc sống của họ.
4.2.
Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế:
a)
Những hạn chế:
Trong thời gian qua, nhận thức và thực hiện mối quan hệ giữa Nhà nước, thị
trường, doanh nghiệp và xã hội đã có những chuyển biến tích cực và có nhiều
kết quả khả quan, Nhà nước đã thực hiện chức năng, vai trị của mình trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở tơn trọng vai trị,
chức năng và ngun tắc của thị trường và đề cao vai trò giám sát, phản biện
của các tổ chức xã hội. Tuy vậy, trong từng thành tố của mối quan hệ này hoạt
động cịn có những hạn chế, yếu kém chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.
Thứ nhất, trong gần 35 năm đổi mới còn chậm đổi mới về vai trò, chức năng
của Nhà nước theo mơ hình kinh tế thị trường hiện đại do nhận thức chưa đầy
đủ về bản chất, vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường, cũng như mối
quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, chưa coi thị trường là thực thể khách
quan, đề cao vai trị Nhà nước. Bên cạnh đó, bộ máy nhà nước cịn yếu kém
trong cơng tác quản lý và thực thi nhiệm vụ, sự hạn chế về trình độ và năng lực
của đội ngũ công nhân, viên chức nhà nước đã làm cho thị trường chưa phát
huy đầy đủ chức năng, vai trị của nó. Trong việc điều hành nền kinh tế, cơng
cụ hành chính vẫn là thứ chủ lực, được sử dụng phổ biến nên vai trò điều tiết
nền kinh tế có phần mờ nhạt, trong khi lại nặng về xử lý tình huống, can thiệp
hành chính, lấn át thị trường hoặc làm thay thị trường; Nhà nước chưa thực sự
là người "trọng tài" công minh trong điều khiển “cuộc chơi” của các chủ thể
kinh tế trên thị trường. Thứ hai, tình trạng thiếu bình đẳng, hạn chế tính cạnh
tranh và làm suy giảm năng lực kinh doanh của cả doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp ngồi nhà nước. Tình trạng độc quyền, trái với quy luật cạnh
tranh ở một số lĩnh vực vẫn còn tồn tại. Quyền tự do kinh doanh chưa được tơn
trọng đầy đủ, tình trạng phân biệt đối xử trên thực tế trong việc tiếp cận nguồn
lực, ưu đãi đầu tư giữa các loại hình doanh nghiệp vẫn còn, đặc biệt là trong
việc thực thi những chính sách, quy định. Bên cạnh đó, nhà nước chưa tạo
được mơi trường kinh doanh bình đẳng, ổn định, thơng thống giữa các loại
hình doanh nghiệp. Thực tế cho thấy cịn có nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn
trong việc tiếp cận nguồn lực, chi phí gia nhập thị trường cao. Giá cả một số
hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa thật sự tuân theo nguyên tắc thị trường; một
số loại hình thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình
thành và phát triển. Những quy định về gia nhập và rút khỏi thị trường, phá
sản doanh nghiệp, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế, vi
phạm pháp luật kinh tế, kinh doanh... vẫn còn phức tạp. Bên cạnh đó, các tình
trạng nhũng nhiễu, tiêu cực cịn nhiều, các thủ tục hành chính gây khó khăn,
trở ngại cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận thị trường, làm gia tăng chi phí.
Thứ ba, thể chế kinh tế thị trường ở nước ta vẫn chưa coi vai trò, chức năng
của thị trường là một thực thể khách quan, vận động và phát triển theo quy luật
vốn có, khơng phụ thuộc vào ý chí cá nhân và tổ chức xã hội. Thể hiện rõ nhất
là vẫn còn tồn tại cơ chế xin - cho, cơ chế xét - duyệt, chính sách bao cấp ở
một số ngành, lĩnh vực và địa phương... Các yếu tố thị trường thì vẫn chưa
thực sự được đồng bộ, thị trường các yếu tố sản xuất thì chậm phát triển. Tình
trạng này cho thấy, Nhà nước chưa làm tốt vai trò kiến tạo, tạo lập điều kiện
thuận lợi để doanh nghiệp, người dân, người lao động huy động nguồn lực vào
kinh doanh và sản xuất.
Thứ tư, Nhà nước ban hành những chính sách chưa phù hợp, chưa nghĩ đến lợi
ích của những tầng lớp yếu thế hơn trong xã hội. Có thể thấy trong thực tế,
chính phủ ban hành những chính sách chỉ có lợi cho doanh nghiệp mà qn
mất vai trị, lợi ích của người lao động, người dân. Ví dụ như chính sách thu
hồi đất nông nghiệp để mở rộng khu công nghiệp, xây dựng những khu đô thị,
chợ đầu mối… khiến người dân bị mất đất đai, tuy nhiên những chính sắp bù
đắp sự mất mát ấy của người dân vẫn chưa được thoả đáng khiến họ trở nên
khó khăn hơn, mất đất, mất việc (người dân chủ yếu lao động trên đất nơng
nghiệp). Nhiều người dân vì thế đã phải bỏ quên lên thành phố tham gia vào
đội ngũ lao động phi chính thức, phi nơng nghiệp, việc làm bấp bênh, đời sống
không được đảm bảo.
Thứ năm, nhận thức và hoạt động của các tổ chức xã hội còn một số hạn chế.
Cần nhận thức rằng, các tổ chức xã hội là sản phẩm, thành quả của quá trình
phát triển xã hội loài người, là một kiểu xã hội văn minh, hiện đại, khơng phải
là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Hiện nay, cơ sở pháp lý về các tổ
chức xã hội còn thiếu nên hoạt động chưa có sự bảo đảm đầy đủ bằng pháp
luật (ngoại trừ các doanh nghiệp xã hội có cơ sở pháp lý đã được đề cập đến
trong Luật Doanh nghiệp sửa đổi năm 2014). Vì chức năng, nhiệm vụ, cơ sở
pháp lý chưa rõ ràng nên nhiều tổ chức xã hội ở Việt Nam chưa chủ động trong
chức năng, nhiệm vụ giám sát, phản biện pháp luật, cơ chế, chính sách của
Nhà nước và giám sát các cơ quan, đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước thực
thi pháp luật... Một số tổ chức xã hội ở Việt Nam lợi dụng danh nghĩa là tổ
chức phi nhà nước đã thực hiện những ý đồ thu lợi cho cá nhân, các nhóm lợi
ích riêng, lấy tiền từ kinh phí của Nhà nước, từ các tổ chức quốc tế nhằm mục
tiêu thu lợi riêng, khơng vì mục tiêu chung của xã hội. Một số tổ chức xã hội
đã câu kết với những phần tử phản động quốc tế, chống đối đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, quốc
gia, dân tộc.
Cuối cùng, một vài những doanh nghiệp còn chưa tuân thủ quy tắc thị trường,
vi phạm quy tắc, đạo đức kinh doanh, ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng và xã
hội. Tình trạng doanh nghiệp khuyến mại, cạnh tranh khơng lành mạnh, bán
hàng đa cấp không rõ nguồn gốc, cung cấp thơng tin sai lệch, ngăn cản hoặc
tìm cách kìm hãm không cho các doanh nghiệp khác gia nhập thị trường ngày
càng gia tăng. Để tiết kiệm chi phí kinh doanh, các doanh nghiệp đã cắt giảm
các khâu xử lý rác thải hoặc trực tiếp xả thải rác công nghiệp ra ngồi mơi
trường, khiến nguồn tài ngun mơi trường càng ô nhiễm và thiệt hại. Ngoài
ra, các doanh nghiệp vẫn cịn tìm cách trốn thuế, trây ỳ khi đóng bảo hiểm y tế,
bảo hiểm xã hội gây ra một lượng thâm hụt ngân sách đáng kể.
b)
Nguyên nhân của những hạn chế:
Nguyên nhân của những hạn chế có thể bắt nguồn từ nhiều phía:
Thứ nhất, Nhà nước thiên về kiểm sốt và sở hữu, chưa phải là Nhà nước điều
tiết và tạo điều kiện để phát triển. Những chính sách của Nhà nước vẫn cịn
mang nặng tính lý thuyết, khi áp dụng vào thực tiễn chưa phát huy được hết
những ưu điểm. Bên cạnh đó, Nhà nước vẫn chưa linh hoạt đa dạng trong việc
quản lý và nâng cao trách nhiệm của mình đối với doanh nghiệp, người dân và
người lao động. Nhà nước nhiều khi còn lấn sân làm thay nhiệm vụ của doanh
nghiệp, chưa xử lý tốt mối quan hệ giữa doanh nghiệp và người dân dẫn đến
còn nhiều mâu thuẫn và xung đột. Khi nhà nước bảo vệ được lợi ích của người
dân nhưng lại khơng để tâm đến lợi ích của doanh nghiệp, khi làm tốt lợi ích
của doanh nghiệp thì lại khơng nghĩ đến lợi ích của người dân và người lao
động. Việc thực hiện chính sách, thực thi những quy định, thể chế của đội ngũ
cán bộ, cơng chức nhà nước cịn nhiều bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của
nền kinh tế thị trường, chưa có những thay đổi, xử lý phù hợp với môi trường
xã hội. Hệ thống luật pháp về kinh tế cịn chưa hồn thiện, đầy đủ, cịn chồng
chéo chưa rõ ràng và còn chưa thống nhất ở một số những điều luật. Việc thực
thi của cán bộ công chức không khách quan, kéo dài thời gian gây ra những
bức xúc, cho doanh nghiệp, người dân… gây khó khăn về mặt tài chính, gia
tăng chi phí làm thay đổi bộ mặt của một số bộ phận.
Thứ hai, việc nhận thức về mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, người
lao động và xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa rõ,
chưa phân định rõ ràng vai trò, chức năng của nhà nước, doanh nghiệp và
người dân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Đồng
thời, mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, người lao động,
xã hội chưa được giải quyết triệt để cả về lý luận và thực tiễn, gây ra những
mâu thuẫn, hoang mang khơng đáng có.