Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Lược sử hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng và pháp luật về ngân hàng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.43 KB, 16 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------------------------------------

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỌC KỲ HÈ 2020 - 2021
MÔN HỌC: LUẬT NGÂN HÀNG

LƯỢC SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG NGÂN
HÀNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG
Thực hiện:
Họ & Tên sinh viên: - Lớp:
Mã sinh viên:
Ngày sinh:
Mã lớp học phần: BSL 1005 (2 tín chỉ)
Giảng viên giảng dạy: TS. Nguyễn Vinh Hưng
Hà Nội – Tháng 11 Năm 2021

Ở VIỆT NAM


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................3
1 – LÝ LUẬN CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VÀ
PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG........................................................................3
2 – SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
...............................................................................................................................8
KẾT LUẬN........................................................................................................13
Danh mục tài liệu tham khảo........................................................................14




Phạm Khánh Linh 18061346|

1

MỞ ĐẦU

Lĩnh vực ngân hàng, từ trước đến nay, vẫn ln là một trong những lĩnh vực
đóng vai trị quan trọng trong q trình vận hành và phát triển của nền kinh tế thị
trường ở hầu hết các quốc gia. Do vậy mà Nhà nước luôn quan tâm đến quản lý
tiền tệ, tín dụng, ngân hàng. Đương nhiên, một trong những công cụ hữu hiệu mà
nhà nước sử dụng để quản lý ở đây phải nhấn mạnh tới khía cạnh pháp luật.
Ở Việt Nam, từ những năm 90, hệ thống pháp luật ngân hàng đã có những
bước phát triển đáng kể, tạo nên hành lang pháp lý thuận lợi cho các các tổ chức
tín dụng trong hoạt động kinh doanh. Chúng đóng một vai trị khơng nhỏ vào q
trình tăng trưởng của nền kinh tế. Cơng dân và đặc biệt là các doanh nghiệp ngày
càng nhận được nhiều hơn các tiện ích mà những dịch vụ này mang lại. Nhất là
trong bối cảnh hiện nay, khi Nhà nước pháp quyền Việt Nam rất chú trọng vào
việc hoàn thiện hệ thống pháp luật ngân hàng trong xu thế hội nhập kinh tế quốc
tế.
Tìm hiểu về pháp luật ngân hàng ở Việt Nam, chắc chắn không thể bỏ qua
quá trình hình thành và phát triển, những nấc thang lịch sử làm nên hệ thống pháp
luật trong lĩnh vực này như thời điểm hiện nay. Quả thực, pháp luật ngân hàng thế
giới nói chung, đặc biệt là pháp luật ngân hàng tại Việt Nam nói riêng đã đi qua
nhiều cung bậc thăng trầm để đi đến phát triển được như hôm nay.
Nhận thấy được tầm quan trọng của những tri thức về lịch sử hình thành và
phát triển của hệ thống ngân hàng nói chung, pháp luật ngân hàng nói riêng, tơi lựa
chọn “Lược sử hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng và pháp luật về
ngân hàng ở Việt Nam” là đề tài cho bài tiểu luận kết thúc học phần Luật ngân

hàng. Thông qua đề tài này, tơi mong muốn có thể phần nào đóng góp đưa ra sự
tổng hợp các tri thức lý luận liên quan đến nội dung nội dung đề tài nói trên, trên
cơ sở hệ thống các nguồn pháp luật về ngân hàng tại Việt Nam. Trong q trình
đó, tơi có lồng ghép một số ý kiến cá nhân, nhận xét về đề tài này. Bài tiểu luận sử




Phạm Khánh Linh 18061346|2

dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: Phương pháp thu thập và xử lý
thông tin thứ cấp; phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp so sánh, đối
chiếu. Đồng thời, các nội dung trong bài tiểu luận này dựa trên cơ sở lý luận của
Chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cuối cùng, do các hạn chế khách quan như thời gian nghiên cứu, nguồn
thơng tin có thể truy cập cho nghiên cứu trong thời điểm dịch bệnh kéo dài; cùng
với hạn chế chủ quan về khả năng tiếp thu kiến thức hay khả năng kiến giải của cá
nhân đối với đề tài nghiên cứu; bài tiểu luận này sẽ khơng thể tránh khỏi cịn thể
hiện nhiều thiếu sót. Do đó, tơi rất mong nhận được sự cảm thơng, góp ý từ quý
thầy, cô cùng người đọc. Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên – Phạm Khánh Linh




Phạm Khánh Linh 18061346|3

NỘI DUNG

1 – LÝ LUẬN CHUNG LIÊN QUAN ĐẾN HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VÀ

PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG
1.1. Sự hình thành của hoạt động ngân hàng
Xã hội lồi người đã trải qua hành trình phát triển rất dài, cả về kinh tế và
văn hóa. Từ thuở sơ khai, khi con người sản xuất được một lượng của cải, vật chất
dư thừa và có tính chun mơn hóa, thì nhu cầu trao đổi tất yếu sẽ phát sinh. Nhu
cầu ấy địi hỏi phải có một loại hàng hóa đặc biệt dùng làm tài sản thanh tốn. Do
đó, tiền tệ ra đời. Sự xuất hiện của đồng tiền đã làm cho sự trao đổi hàng hóa trở
nên thuận lợi hơn, cũng như đảm bảo việc tích lũy của cải, vật chất dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, việc sử dụng tiền trong thanh tốn cũng có những trở ngại nhất
định do các quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau thường có những đồng tiền khác
nhau. Do đó, việc mua bán hàng hóa giữa các quốc gia đương nhiên cần phải có sự
trao đổi giữa các đồng tiền khác nhau. Những tài liệu nghiên cứu về quá trình phát
triển của hoạt động ngân hàng đều ghi nhận, hoạt động trao đổi tiền tệ đã có từ
thời Hi Lạp, La Mã cổ đại, nơi có những đơ thị lớn nhộn nhịp diễn ra việc trao đổi
hàng hóa giữa thương nhân các nước. Đã có những người chuyên thực hiện việc
này như là một công việc kinh doanh và họ kiếm lời nhờ nhu cầu đổi tiền của các
thương nhân.
Sự tích lũy của cải đã dẫn đến sự xuất hiện của những tầng lớp dân cư giàu
có. Những người này có nhu cầu được bảo quản, giữ gìn tài sản, mà chủ yếu là tiền
hoặc vàng bạc. Ở châu Âu thời trung cổ, nhà thờ thường là nơi bảo quản tiền và tài
sản quý hiểm cho dân cư và cộng đồng. Những người thợ kim hoàn cũng là người
cất trữ vàng bạc, do họ có kiến thức về việc bảo quản chúng.
Cịn ở Trung Quốc, các hội buôn tiền đã xuất hiện từ rất lâu. Những hội
bn tiền khơng chỉ đảm bảo giữ gìn an toàn các tài sản là vàng và bạc, mà họ còn




Phạm Khánh Linh 18061346|4


làm cho việc cất trữ, chuyển nhượng trở nên dễ dàng hơn bằng cách phát hành các
chứng thư văn bản, thường gọi là ngân phiếu. Cùng với quá trình phát triển của xã
hội, bên cạnh những người dư thừa của cải, thì cũng xuất hiện những chủ thể cần
vốn để đáp ứng những nhu cầu của mình như kinh doanh hay tiêu dùng. Những
hạn chế về thông tin và sự thiếu tin cậy lẫn nhau làm cho những người thừa vốn và
thiếu vốn ít có cơ hội tiếp cận với nhau trực tiếp mà phải thông qua một chủ thể
thứ ba có khả năng.
Những tiền để nêu trên đã làm xuất hiện một ngành kinh doanh mới, đó là
hoạt động ngân hàng. Xuất hiện ở châu Âu từ nhiều thế kỷ trước, các ngân hàng ra
đời nhằm đáp ứng nhu cầu gửi giữ tài sản, chuyển đổi đồng tiền, cũng như khơi
thơng dịng chảy về vốn giữa những người dư thừa của cải và những người có nhu
cầu được sử dụng vốn. Theo các tài liệu nghiên cứu, ngân hàng đầu tiên được tổ
chức theo mơ hình như hiện nay là Banco Di Rialto thành lập ở Venise (nay thuộc
về Italia) vào năm 1587. Với quá trình phát triển lâu dài của mình, hoạt động ngân
hàng ngày càng phong phú, giữ vai trò to lớn trong việc nâng cao năng lực sản
xuất của cải vật chất của xã hội.
1.2. Bản chất hoạt động ngân hàng
Hoạt động ngân hàng, với q trình phát triển lâu dài, khơng dễ có thể định
nghĩa một cách chính xác. Các học giả có uy tín trên thế giới đều có chung quan
điểm, định nghĩa hoạt động ngân hàng là một việc khó khăn, do hoạt động ngân
hàng ngày một đa dạng, theo các nhánh và các hướng khác nhau, thâm nhập vào
nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm đáp ứng những đòi hỏi của nền kinh tế và những
quy định của pháp luật. Chính vì vậy, pháp luật nhiều nước khơng tiếp cận khái
niệm hoạt động ngân hàng theo cách truyền thống bằng cách mơ tả bản chất của
nó, mà thường là liệt kê các hoạt động được coi là hoạt động ngân hàng. Theo cách
đó, hoạt động ngân hàng thường được thể hiện ra bởi một, hoặc một số các hoạt
động sau đây:





Phạm Khánh Linh 18061346|5

- Nhận tiền gửi từ công chúng: là việc các chủ thể hoạt động ngân hàng sẵn
sàng nhận tiền nhàn rỗi của cơng chúng, cho dù đó là những khoản tiền lớn hay
nhỏ, với số lượng không hạn chế.
- Cấp tín dụng: là việc tài trợ vốn có thời hạn dựa trên ngun tắc hồn trả
thơng qua nhiều hình thức khác nhau như cho vay, chiết khấu, bảo lãnh, cho th
tài chính, bao thanh tốn và các hình thức tín dụng khác.
- Cung cấp dịch vụ hỗ trợ thanh toán: việc thanh toán sẽ trở nên dễ dàng
hơn với các dịch vụ của các chủ thể hoạt động ngân hàng như séc, ủy nhiệm chi,
ủy nhiệm thu, thư tín dụng, thẻ ngân hàng,...
- Chuyển đổi tiền tệ: các chủ thể hoạt động ngân hàng có thể đáp ứng nhu
cầu chuyển đổi từ đồng tiền quốc gia này sang đồng tiền quốc gia khác theo yêu
cầu của khách hàng.
- Các nghiệp vụ khác: như các nghiệp vụ tư vấn, quản lý tài sản, kinh doanh
chứng khoán, tài trợ dự án,...
Ở Việt Nam, theo Luật Các tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi, bổ sung năm
2004), hoạt động ngân hàng được định nghĩa như sau: “Hoạt động ngân hàng là
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh
toán”1. Như vậy, mặc dù đã đưa ra định nghĩa, nhưng thực pháp luật Việt Nam
cũng chỉ liệt kê những khía cạnh hoạt động ngân hàng như nhiều quốc gia khác.
Nhận thấy được điều đó, để phù hợp hơn với thông lệ, đồng thời làm rõ
nghĩa hơn từng nội dung của hoạt động ngân hàng, Luật Các tổ chức tin dụng năm
2010 đã đưa ra định nghĩa về hoạt động ngân hàng như sau:
“Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc
một số các nghiệp vụ sau đây:
a. Nhận tiền gửi;
____________________________

1

Khoản 3 , Điều 20 , Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997 (sửa đổi năm 2004).




Phạm Khánh Linh 18061346|6

b. Cấp tín dụng;
c. Cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản”2.
Với bản chất là một hoạt động kinh doanh, nhưng hoạt động ngân hàng có
những đặc trưng nhất định mà các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thơng thường
khơng có. Chúng ảnh hưởng khá rõ nét đến hệ thống các quy định của pháp luật
ngân hàng, không chỉ ở Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Một là, hoạt động ngân hàng có bản chất dịch vụ kinh doanh liên quan trực
tiếp đến tiền tệ. Theo quan điểm phổ biến hiện nay trên thế giới, hoạt động ngân
hàng về bản chất là một loại hình dịch vụ kinh doanh, trong đó, các chủ thể hoạt
động ngân hàng sẽ cung cấp các tiện ích thơng qua những loại hình dịch vụ của
mình để thỏa mãn những yêu cầu của khách hàng như cho vay, bảo lãnh, chiết
khấu giấy tờ có giá, dịch vụ thanh tốn,... Mục đích của hoạt động ngân hàng là
thu lợi nhuận từ những khách hàng của mình. Những hoạt động ngân hàng, trực
tiếp hoặc gián tiếp, đều liên quan đến tiền tệ. Tiền tệ được hiểu theo nghĩa rộng là
các phương tiện thanh toán, bao gồm tiền Việt Nam, ngoại tệ và các hình thức
khác. Điều này làm cho hoạt động ngân hàng khác với những hoạt động kinh
doanh khác vì nó chịu nhiều ảnh hưởng từ chính sách tiền tệ của các quốc gia phát
hành đồng tiền. Thực tiễn cho thấy ở Việt Nam, chính sách tiền tệ có những ảnh
hưởng quan trọng đối với hoạt động ngân hàng.
Hai là, hoạt động ngân hàng tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro cao. Đặc điểm này
có nguyên nhân từ bản chất của hoạt động ngân hàng. Để thực hiện hoạt động kinh

doanh này, tổ chức tín dụng có quyền nhận tiền gửi từ cơng chúng, sau đó sử dụng
phần lớn số tiền này để cấp tín dụng cho khách hàng dưới nhiều hình thức khác
nhau. Với quyền nhận tiền gửi không hạn chế về số lượng, tổ chức tín dụng ln ở
trong tình trạng vừa là chủ nợ, vừa là người có nghĩa vụ trả nợ, do đó sẽ phải chịu
áp lực từ khả năng rút tiền hàng loạt của những người gửi tiền. Hiện nay, người
gửi
____________________________




Phạm Khánh Linh 18061346|7
2

Khoản 12, Điều 4, Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi năm 2017).

tiền thường được pháp luật bảo vệ bằng quyền rút tiền bất kỳ lúc nào miễn là trong
thời gian giao dịch, trong khi đó tổ chức tín dụng lại khơng được địi nợ trước hạn
mà khơng có lý do chính đáng. Chính vì vậy, nếu xảy ra tình trạng rút tiền hàng
loạt của người gửi tiền tại một thời điểm nhất định đương nhiên ảnh hưởng nghiêm
trọng đến khả năng thanh toán của tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó, rủi ro từ hoạt
động ngân hàng còn xuất phát từ những nguyên nhân khác như sự thay đổi về tỷ
giá hối đoái, tính thanh khoản của tài sản bảo đảm, lừa đảo trong các giao dịch tín
dụng, đánh giá sai về tính khả thi của dự án và nhiều nguyên nhân khác.
Ba là, hoạt động ngân hàng có tính chun mơn nghiệp vụ cao. Xuất phát
chính từ đặc thù kinh doanh có nhiều rủi ro và liên quan đến lĩnh vực tiền tệ nên
cùng với quá trình phát triển của hoạt động ngân hàng, cho đến nay, lĩnh vực này
thường được pháp luật u cầu tính chun mơn nghiệp vụ cao. Các chủ thể hoạt
động ngân hàng phải đáp ứng các điều kiện về cơ sở vật chất, hệ thống bảo mật,
quy trình nội bộ tương đối nghiêm ngặt. Bên cạnh đó, các nhà quản lý và nhân

viên của các tổ chức tín dụng cũng phải được đào tạo, am hiểu về lĩnh vực ngân
hàng, đồng thời phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Tính chun mơn nghiệp
vụ cao trong hoạt động ngân hàng sẽ đảm bảo cho hoạt động ngân hàng được thực
hiện một cách có hiệu quả, hạn chế rủi ro trong quá trình thực hiện và nâng cao
khả năng giám sát của bản thân các tổ chức tín dụng cũng như cơ quan quản lý nhà
nước.
Bốn là, hoạt động ngân hàng có tính hợp tác và tính quốc tế sâu sắc. Trong
hoạt động ngân hàng, các tổ chức tín dụng thường khơng hoạt động riêng lẻ. Sở dĩ
như vậy vì suy cho cùng, hoạt động ngân hàng khơng thể giới hạn trong một phạm
vi hẹp mà phải đáp ứng được những yêu cầu của khách hàng cũng như của chính
tổ chức tín dụng.
Mở rộng phạm vi hợp tác này trong một nền kinh tế tồn cầu hóa như hiện
nay, hoạt động ngân hàng do đó đã có tính quốc tế sâu sắc. Các ngân hàng trên thế




Phạm Khánh Linh 18061346|8

giới đã và đang hợp tác với nhau để cung cấp ngày càng tốt hơn các dịch vụ xuyên
biên giới như thanh toán hay chuyển tiền, thậm chí cả cấp tín dụng. Và để tạo
thuận lợi cho các giao dịch có tính quốc tế này, nhiều hiệp định quốc tế và tập
quán quốc tế được hình thành đáp ứng cho việc chuẩn hóa các giao dịch quốc tế
của ngân hàng.
2 – SƠ LƯỢC VỀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM
2.1. Giai đoạn 1945-1951:
Trong suốt thời kỳ phong kiến cho đến nửa đầu thế kỷ 19, Việt Nam hầu
như không tồn tại định chế ngân hàng. Tuy nhiên những hoạt động trong lĩnh vực
ngân hàng như in đúc, cho vay đã xuất hiện trong đời sống kinh tế xã hội.

Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, bắt đầu cho giai đoạn thực dân
nửa phong kiến ở Việt Nam. Với mục đích đơ hộ lâu dài và nhằm tạo thuận lợi cho
hoạt động giao thương phục vụ cho chính quyền thuộc địa, tổng thống Pháp giai
lúc bấy giờ đã ban hành Sắc lệnh ngày 21/01/1875 thành lập ngân hàng Đơng
Dương. Ngân hàng này có chức năng chủ yếu là phát hành tiền, tiến hành cho vay,
chiết khấu. Về bản chất, ngân hàng Đông Dương là ngân hàng thương mại cổ phần
với chức năng đổi tiền, cho vay tín dụng. Tuy nhiên, đây cũng là ngân hàng được
phép phát hành tiền trên tồn cõi Đơng Dương. Giai đoạn này, nó được xem như
một cơng cụ cung cấp phương tiện để thực dân Pháp có thể tiến hành đầu tư, kinh
doanh, cũng như cung cấp các dịch vụ tiền tiền tệ cho chính quyền đơ hộ. Sau khi
Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 23/11/1946 tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội
khoá I đã quyết định giao cho Bộ Tài chính phát hành giấy bạc Việt Nam trong
phạm vi cả nước. Bộ Tài chính là cơ quan phát hành và quản lý tiền tệ. Ngày
3/2/1947, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 14/SL về việc thành lập Nha Tín dụng
trực thuộc Bộ Tài chính.
2.2. Giai đoạn từ 1951 đến 1986:
2.2.1. Giai đoạn từ 1951-1975:




Phạm Khánh Linh 18061346|9

Ngày 6/5/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 15/SL thành lập Ngân
hàng Quốc gia Việt Nam là một bộ trực thuộc Chính phủ, tham gia vào việc lập kế
hoạch phát triển kinh tế quốc gia, thực hiện những hoạt động liên quan đến ngân
hàng, tiền tệ theo quy định; Sắc lệnh 17/SL bãi bỏ Nha Ngân khố quốc gia và Nha
tín dụng sản xuất thuộc Bộ Tài chính. Ngày 21/5/1951, Chính phủ ra Sắc lệnh
19/SL cho phép Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam được phát hành giấy bạc 20 và 50
đồng; Sắc lệnh 20/SL ấn định tỷ lệ giá trị đồng bạc do Ngân hàng phát hành so với

giá trị đồng bạc do Bộ Tài chính phát hành. Ngày 27/5/1951 Thủ tướng CP ra nghị
định 94/Ttg quy định về tổ chức Ngân hàng quốc gia. Theo đó, tổ chức của Ngân
hàng Quốc gia Việt Nam bao gồm: ở trung ương, chi nhánh liên khu, chi nhánh ở
tỉnh và chi nhánh ở nước ngoài. Các chi nhánh khơng có tư cách pháp nhân, hoạt
động với tư cách là cơ quan cấp dưới đại diện của Ngân hàng quốc gia Việt Nam.
Chức năng của ngân hàng bao gồm: phát hành giấy bạc, điều hoà sự lưu hành tiền
tệ, quản lý ngân sách quốc gia; huy động vốn trong nhân dân, điều hịa, mở rộng
tín dụng; quản lý ngoại tệ và thanh toán các khoản giao dịch với nước ngoài... Như
vậy, ở giai đoạn này, Việt Nam xây dựng ngân hàng quốc gia theo mơ hình một
cấp được thiết lập từ trung ương đến địa phương. Hệ thống ngân hàng một cấp tồn
tại cho đến những năm 80. Đến những năm 60, hệ thống ngân hàng Việt Nam ghi
nhận thêm hình thức hợp tác xã tín dụng và Quỹ tiết kiệm. Hệ thống hợp tác xã tín
dụng cho nhiệm vụ làm đại lý cho ngân hàng quốc gia Việt nam, thực hiện việc
huy động vốn nhàn rỗi trong xã viên hợp tác xã và cho vay. Ngày 26/10/1961 Hội
đồng Chính phủ ban hành Nghị định 171/CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ
chức của Ngân hàng nhà nước Việt Nam (tên mới của Ngân hàng Quốc gia). Trong
hệ thống ngân hàng cũng đã xuất hiện nhu cầu tách bạch giữa chức năng quản lý
tiền tệ với các hoạt động kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng. Do vậy, trên cơ sở của
Nghị định này, ngân hàng nhà nước Việt đã phân biệt thành hệ thống Chi nhánh
ngân hàng nhà nước trung tâm tại các đơn vị tỉnh thành và hệ thống chi nhánh
ngân hàng nghiệp vụ tại các thị xã và Chi điếm ngân hàng nghiệp vụ tại các huyện
làm nhiệm vụ kinh doanh, giao dịch trực tiếp với khách hàng. Ngày 30/10/1962




Phạm Khánh Linh 18061346|10

Hội đồng Chính phủ ra Nghị định 115/CP thành lập ngân hàng ngoại thương Việt
Nam làm nhiệm vụ tín dụng, thanh tốn đối ngoại trong hệ thống ngân hàng nhà

nước Việt Nam. Ngân hàng nhà nước Việt Nam chỉ thực hiện chức năng quản lý
ngoại hối mà khơng cịn trực tiếp thực hiện hoạt động giao dịch ngoại tệ, chuyển
giao hoạt động này cho ngân hàng ngoại thương.
2.2.2. Giai đoạn từ 1975 đến 1987:
Miền Nam Việt Nam từng tồn tại các hệ thống ngân hàng của chế độ ngụy
quyền Việt Nam Cộng hòa. Sau 1975, hệ thống các ngân hàng này được tiếp quản
và đặt dưới quyền quản lý của chính phủ cách mạng lâm thời. Ngày 6/6/1975
chính phủ cách mạng lâm thời ban hành nghị định 04/ PCT-75 thành lập ngân hàng
quốc gia Việt Nam. Trong thời gian này, Việt Nam vẫn tồn tại hai hệ thống ngân
hàng và hai loại tiền tệ trên lãnh thổ Việt Nam.
Ngày 16/6/1977, nghị định 163-CP của Chính phủ ban hành quy định lại cơ
cấu bộ máy nhà nước. Trong đó, các ngân hàng như ngân hàng nơng nghiệp, ngân
hàng công nghiệp, ngân hàng thương nghiệp, ngoại thương, quỹ tiết kiệm XHCN
đều nằm trong một hệ thống của ngân hàng nhà nước Việt Nam. Các ngân hàng
này khơng có tư cách pháp nhân, chỉ đóng vai trị như cục, vụ cơ quan chức năng
của ngân hàng nhà nước.
Ngày 24/6/1981 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định 259/CP chuyển ngân
hàng kiến thiết Việt Nam trực thuộc Bộ Tài chính sang trực thuộc ngân hàng nhà
nước Việt Nam và thành lập ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam. Giai đoạn
này đã đánh dấu bước hoàn thiện tiếp tục của hệ thống ngân Việt Nam, cụ thể bao
gồm: Ngân hàng nhà nước và 3 ngân hàng chuyên nghiệp là Ngân hàng ngoại
thương, Ngân hàng đầu tư và quỹ tiết kiệm XHCN.
1981 – 1985, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định 65/HĐBT về chức năng,
nhiệm vụ và tổ chức của ngân hàng nhà nước. Trên cơ sở đó, hệ thống ngân hàng
bao gồm: Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng chuyên nghiệp trực thuộc Ngân
hàng nhà nước. Những ngân hàng chuyên nghiệp này có tư cách pháp nhân hoạt
động theo chế độ hạch toán kinh tế. Đây được xem như tiền đề để tiến tới chuyển





Phạm Khánh Linh 18061346|11

đổi mơ hình ngân hàng một cấp ở Việt Nam sang mơ hình ngân hàng hai cấp hiện
đại.
2.3 Giai đoạn từ 1987-2004:
Năm 1986 bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI, Việt Nam bắt đầu thực hiện
công cuộc cải cách kinh tế. Một trong những nội dung quan trọng cần phải đổi mới
chính là hệ thống ngân hàng - yếu tố giữ vai trò như huyết mạch của nền kinh tế.
Ngày 26/3/1988 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 53/HĐBT về tổ chức bộ
máy Ngân hàng nhà nước. Theo đó, Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan của
Hội đồng Bộ trưởng, được tổ chức thành hệ thống thống nhất trên phạm vi toàn
quốc. Mơ hình Ngân hàng nhà nước Việt Nam bao gồm 2 cấp: Ngân hàng nhà
nước Việt Nam và các ngân hàng chuyên doanh trực thuộc. Quy định này đã bước
đầu thiết lập nên căn cứ pháp lý cho hình thức hệ thống ngân hàng 2 cấp, trong đó,
Ngân hàng nhà nước Việt Nam vẫn giữ vai trò là cơ quan chủ quản của các ngân
hàng chuyên doanh quốc doanh. Chức năng chủ yếu của Ngân hàng nhà nước Việt
Nam đã dần chủ yếu tập trung vào việc phát hành tiền, điều hịa lưu thơng tiền tệ
và đảm bảo nhiệm vụ quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, thanh toán. Các chức
năng kinh doanh trực tiếp và thực hiện các dịch vụ ngân hàng đáp ứng yêu cầu của
nền kinh tế chủ yếu do các ngân hàng chuyên doanh nhà nước đảm nhận. Điều này
đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong hoạt động ngân hàng và hệ thống
ngân hàng ở Việt Nam. Tuy nhiên, ở giai đoạn mới bắt đầu tiến hành công cuộc cải
cách, sự tách biệt giữa Ngân hàng nhà nước Việt Nam với hệ thống các ngân hàng
chuyên doanh vẫn còn chưa thật sự cụ thể. Các ngân hàng chuyên doanh vẫn được
xem như các cục, vụ trực thuộc Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Do đó, yếu tố chủ
động, tự chịu trách nhiệm và sự độc lập giữa hệ thống ngân hàng chuyên doanh
với ngân hàng nhà nước Việt Nam cần được tiếp tục cải thiện. Xuất phát từ u
cầu hồn thiện mơ hình ngân hàng 2 cấp, ngày 23/5/1990 Hội đồng nhà nước ban
hành “Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Hợp tác xã tín dụng

và cơng ty tài chính” có hiệu lực thi hành từ ngày 1/10/1990. Đây chính là căn cứ
pháp lý để chính thức xác lập mơ hình ngân hàng ở Việt Nam trở thành mơ hình 2




Phạm Khánh Linh 18061346|12

cấp, đánh dấu bước ngoặt trong quá trình đổi mới hệ thống ngân hàng và hoạt
động tiền tệ – tín dụng ngân hàng. Theo đó, ngân hàng nhà nước Việt Nam chỉ
đảm nhận vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động
ngân hàng. Các nghiệp vụ ngân hàng sẽ do hệ thống các tổ chức tín dụng trung
gian tiến hành. Các ngân hàng thương mại và những tổ chức tín dụng trung gian
được pháp lệnh trao quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về hoạt động
kinh doanh của mình. Trong quá trình thực thi hai pháp lệnh đã bộc lộ một số điểm
hạn chế trước những yêu cầu mới của quá trình phát triển kinh tế xã hội và yêu cầu
hội nhập kinh tế quốc tế chẳng hạn như hạn chế trong quy định về nghiệp vụ kinh
doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế, chưa quy định bao qt các loại hình tổ
chức tín dụng, chưa xác định rõ các hình thức huy động vốn, cấp tín dụng,... Do
vậy, ngày 12/1997 Quốc hội ban hành Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật
Các Tổ chức tín dụng. Đó là một bước tiến đáng kể trong q trình hồn thiện
pháp luật về ngân hàng. Hai đạo luật cũng đã có những tác động tích cực trong đời
sống kinh tế xã hội như tạo ra cơ sở pháp lý cao hơn cho hoạt động của ngân hàng
nhà nước và hệ thống các tổ chức tín dụng; đồng thời, điều chỉnh các hoạt động
ngân hàng theo hướng phù hợp với các quy luật của kinh tế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước. Tiếp tục xu hướng đổi mới toàn diện hệ thống và hoạt động
ngân hàng, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Ngân
hàng nhà nước Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1/8/2003 và Luật sửa đổi bổ sung
một số điều của Luật Các Tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 1/10/2004. Những
nội dung sửa đổi chủ yếu tập trung vào việc xác lập một số định nghĩa, các quy

định về hình thức của các tổ chức tín dụng, hoạt động kiểm tra, kiểm tốn trong
nội bộ các tổ chức tín dụng,... Tuy nhiên, việc sửa đổi bổ sung Luật Ngân hàng nhà
nước Việt Nam và Luật Các Tổ chức tín dụng được tiến hành theo quan điểm chưa
sửa đổi một cách cơ bản, toàn diện các quy định trong lĩnh vực ngân hàng và họat
động ngân hàng nên trước xu hướng hội nhập ngày càng mạnh mẽ, vấn đề xây
dựng đạo luật về Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng tiếp
được đặt ra trong giai đoạn hiện nay.




Phạm Khánh Linh 18061346|13

KẾT LUẬN

Lược sử hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng cùng pháp luật
ngân hàng ở Việt Nam khởi nguồn từ thời Pháp thuộc, không ngừng phát triển, đổi
thay, hoàn thiện theo thời gian. Đến thời điểm hiện tại, pháp luật về ngân hàng vẫn
còn nhiều hạn chế, các nhà làm luật vẫn tiếp tục chú trọng sửa đổi, bổ sung để phù
hợp với sự phát triển chóng mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Đặc biệt là với vấn
đề về ngân hàng, ví điện tử. Vì vậy, dẫu cịn hạn chế, nhưng pháp luật Việt Nam
đáng được ghi nhận về sự tiếp thu, cố gắng bắt kịp với xu thế chung.
Đối với đề tài “Lược sử hình thành và phát triển hệ thống ngân hàng và
pháp luật về ngân hàng ở Việt Nam”, đây là một đề tài rộng mở, cịn nhiều khía
cạnh để khai thác. Tuy nhiên, với dung lượng một bài tiểu luận ngắn, tôi xin kết
thúc đề tài này tại đây. Xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô cùng người đọc đã
dành thời gian để đọc bài tiểu luận này!





Phạm Khánh Linh 18061346|14

Danh mục tài liệu tham khảo
1. “Giáo trình luật ngân hàng”,
( />%ADt_ng%C3%A2n_h%C3%A0ng).
2. Trần Vũ

Hải

(2010),

“Giáo

trình

luật

ngân

hàng Việt

Nam”,

( />3. Lê Thị Thu Thủy (2005), “Giáo trình luật ngân hàng Việt Nam”, Đại học Quốc
gia Hà Nội, Việt Nam.






×