Báo cáo khảo sát tuyến điểm du lịch
Hà Nội - Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam
Lời Mở Đầu
Du lịch là “sứ giả của hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia, các
dân tộc”. Trên thế giới, du lịch hiện được xem là một trong những ngành
kinh tế hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, thu hút được nhiều quốc gia
tham gia vì những lợi ích to lớn về kinh tế - x• hội mà nó mang lại. Điều này
càng thể hiện rõ hơn trước xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá.
Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đ• đặt ra mục tiêu “Từng bước đưa
nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ trong khu vực. Phấn đấu
sau năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du
lịch phát triển trong khu vực”. Kế hoạch phát triển kinh tế x• hội 5 năm
2006-2010 cũng xác định mục tiêu sau năm 2010 du lịch Việt Nam được xếp
vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực; Phát triển
nhanh dịch vụ du lịch chất lượng cao; Đảm bảo quan hệ hài hoà giữa phát
triển du lịch và quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên, môi trường và văn
hoá.
Bên cạnh đó việc đào tạo cán bộ công nhân viên của ngành du lịch đang
được nước ta hết sức quan tâm, những học sinh, sinh viên của các trường
đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp về ngành du lịch ngày càng
được quan tâm, chú ý và được dành khá nhiều chế độ đào tạo đặc biệt.
Ngoài khối lượng kiến thức được truyền tải trên lớp, qua sách vở, báo chí,
kênh thông tin đại chúng thì những chuyến đi thực tế là không thể thiếu, chỉ
khi đi thực tế chúng ta mới hiểu bản chất, được cụ thể hoá những vấn đề đ•
học. Kinh nghiệm thực tế qua những chuyến đi rất cần cho sinh viên du lịch
để làm quen với công việc của mình sau này, giúp cho sinh viên củng cố
được rất nhiều kiến thức hình thành nên ý tưởng định hình cho công việc sau
này.
Đáp ứng với yêu cầu cấp bách trên, để đào tạo sinh viên theo chiều sâu,
giúp sinh viên cọ sát với thực tế, vừa qua khoa du lịch trường đại học dân
lập Đông Đô đ• kết hợp với công ty du lịch Nam Việt tổ chức cho sinh viên
khoá 12 khoa du lịch đi thực tế khảo sát tuyến điểm du lịch: “Hà Nội - Nghệ
An - Quảng Bình - Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam” từ ngày 23/3 – 3/4/2009.
Qua chuyến đi thực tế sinh viên đ• học được rất nhiều kiến thức bổ ích, mở
rộng tầm nhìn tầm hiểu biết. Đặc biệt qua chuyến đi khảo sát tuyến điểm du
lịch vừa qua giúp cho sinh viên, những người làm du lịch trong tương lai
cảm thấy tự tin hơn khi nói với du khách những điểm đ• đi qua. Con mắt
nhìn về Việt Nam đ• rộng hơn, tự hào hơn. Chuyến đi cũng gắn kết những
người làm du lịch trong tương lai lại bên nhau, lời hứa cùng giúp nhau
thành công.
Qua chuyến đi này em xin chân thành cảm ơn tiến sỹ Vũ Đình Thụy cùng
các thầy cô trong khoa đ• hết sức tận tình chỉ bảo giúp đỡ chúng em trong
suốt quá trình thực hiện chuyến hành trình. Do thời gian có hạn nên không
thể tránh khỏi sai sót mong quý thầy cô giúp đỡ cho bài báo cáo của em
được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện: Lê Văn Thái
1. Tính cấp thiết của vấn đề
Trên bước đường phát triển của Việt Nam hiện nay, du lịch là một hướng
chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - x• hội nhằm góp
phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đó tuyến điểm
du lịch là những phân vị quan trọng trong tổ chức l•nh thổ du lịch ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động kinh doanh phát triển du lịch của cả nước. Vậy làm
thế nào để hiểu rõ được các tuyến điểm du lịch của cả nước? Nắm bắt các tài
nguyên thiên nhiên trên các tuyến điểm đó để có thể tìm ra những thế mạnh
và tiềm năng của từng tuyến điểm để có thể phát triển trong tương lai đưa du
lịch trở thành trọng điểm kinh tế của đất nước.
Báo cáo khảo sát tour tuyến giúp cho chúng ta có thể nghiên cứu xác
lập cơ sở khoa học lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng tuyến, điểm du
lịch. Xác định rõ các tài nguyên thiên nhiên, tiềm năng thế mạnh của từng
tuyến điểm để có thể phát triển tuyến điểm du lịch đó cũng như phát triển du
lịch, đưa đất nước ta trở nên ngày càng giàu mạnh hơn. Báo cáo khảo sát
tuor tuyến hết sức quan trọng và cần thiết, góp phần giải quyết vấn đề thực
tiễn đặt ra trong phát triển du lịch Việt Nam.
2. Mục đích và ý nghĩa
a. Mục đích
Tìm hiểu rõ về phạm vi, vai trò của tuyến điểm: “ Hà Nội - Nghệ An -
Quảng Bình - Quảng Trị - Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam” trong công cuộc
đổi mới và phát triển du lịch bền vững đối với đất nước.
Tìm hiểu và nêu rõ tiềm năng du lịch nổi trội của các tuyến điểm đ• đi qua,
các tiềm năng thế mạnh của từng vùng miền để được định hướng và phát
triển tối ưu trong tương lai.
Xác định chính xác về đường đi, quốc lộ, tỉnh lộ, mốc đánh dấu đường, thời
gian di chuyển và khoảng cách giữa các tuyến điểm đ• tham quan.
Báo cáo chất lượng của dịch vụ du lịch.
b. ý nghĩa
Qua chuyến đi thực tế sinh viên đ• bước đầu định hướng và nắm bắt được
công việc của mình trong tương lai và khám phá được những kinh nghiệm
mới trong các chương trình du lịch.
Sinh viên có thể tận mắt tham quan các danh lam thắng cảnh trên các tuyến
điểm tham quan. Có thể đánh giá nhận xét về các khu du lịch, các địa điểm
đ• tham quan. Giúp sinh viên nắm bắt được các tuyến điểm du lịch, tiềm
năng du lịch của từng địa phương.
Từ thực trạng của từng tuyến điểm du lịch, sinh viên những nhà làm du lịch
trong tương lai có thể đưa ra những ý kiến nhận xét đánh giá về các điểm
mạnh và điểm yếu trong du lịch của từng địa phương. Đưa ra các định
hướng và giải pháp để phát triển du lịch trong tương lai.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về thực trạng các giá trị tiềm năng, tài nguyên của các tuyến
điểm đi qua.
Nghiên cứu về các hiện trạng khai thác tài nguyên phục vụ du lịch, tính hấp
dẫn của các điểm du lịch đối với khách du lịch.
Nghiên cứu về lịch trình đường đi, quốc lộ và khoảng cách giữa các tuyến
điểm đ• tham quan.
Tìm hiểu vah công tác quản lý và bảo tồn di sản tại các địa điểm tham quan.
Nghiên cứu về chất lượng của các dịch vụ.
4. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về các giá trị tài nguyên phục vụ du lịch của từng địa phương đ•
đi qua và tham quan.
Tập chung nghiên cứu các giá trị tài nguyên tại địa điểm tham quan
Các tỉnh đ• đi qua mà không tham quan thì chỉ mô tả mức độ, các tỉnh tham
quan thì cần mô tả chi tiết các giá trị tài nguyên và tiềm năng du lịch, các
điều kiện và tiềm năng có thể phát triển du lịch trong tương lai.
Nghiên cứu về phương pháp hướng dẫn, điều hành du lịch và tổ chức
chương trình du lịch.
Nghiên cứu về các dịch vụ liên quan tới chương trình du lịch như: khách
sạn, vận chuyển, ăn uống….
5. Kết cấu của báo cáo
Bố cục của báo cáo gồm 3 chương:
Chương I: Chương trình và giá tuor
Chương II: Tiềm năng và thực trạng
Chương III: Định hướng và giải pháp
CHƯƠNG I: CHƯƠNG TRìNH Và GIá TOUR
I. CHƯƠNG TRìNH
Hà Nội - Quảng Bình - Quảng Trị - Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam - Nghệ An
- Hà Nội
(Thời gian: 11 ngày - 10 đêm - Phương tiện: Ôtô - Thuyền)
Ngày thứ 1: Hà Nội – Quảng Bình
Sáng: 05h30 hướng dẫn viên cùng xe đón quý khách đi Vinh. Quý khách
nghỉ ăn sáng tại Phủ Lý (Quý khách tự túc trả tiền)
12h30 Quý khách ăn trưa tại thành phố Vinh.
Chiều: 13h30 Xe tiếp tục đưa quý khách đi Đồng Hới.
17h30 Tới Đồng Hới quý khách nhận phòng nghỉ ngơi (Tại khách sạn Đồng
Hới hoặc tương đương)
19h00 Quý khách ăn tối tại khách sạn.
Sau khi ăn tối quý khách tự do đi thăm quan tượng đài Mẹ Suốt, thành cổ
Đồng Hới, chiến lũy Đào Duy Từ, b•i biển Nhật Lệ.
Ngày thứ 2: Phong Nha – Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn – Quảng Trị
Sáng: Quý khách tự do ăn sáng, làm thủ tục trả phòng.
07h00 xe đưa quý khách đi dộng Phong Nha.
Quý khách lên thuyền đi thăm động Phong Nha (Quý khách chỉ đi thăm
động nước).
2h00 Quý khách ăn trưa tại Phong Nha.
Chiều: 13h00 Xe tiếp tục đưa quý khách đi Đông Hà theo đường Hồ Chí
Minh. Trên đường đi xe đưa quý khách vào thăm nghĩa trang Trường Sơn
đoàn vào làm lễ dâng hương tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ.
Quý khách tiếp tục hành trình trên đường đi quý khách tìm hiểu về đường 9
lịch sử, căn cứ Khe Sanh, căn cứ Làng Vây, sân bay Tà Cớn.
Tới Đông Hà quý khách nhận phòng tại khách sạn Thành Quả (Hoặc tương
đương). Quý khách ăn tối tại khách sạn.
20h00 Quý khách tự do tham khảo và mua săm hàng hóa tại thị x• Đông Hà.
Ngày thứ 3: Quảng Trị – Huế
Sáng: 6h30 Quý khách tự do ăn sáng, làm thủ tục trả phòng.
07h00 Quý khách lên xe, xe đưa quý khách ghé thăm Thành Cổ Quảng Trị
đoàn làm lễ dâng hương tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ đ• hy sinh tại
Thành Cổ Quảng Trị. (nằm bên sông Thạch H•n). Quý khách tham quan bảo
tàng, tìm hiểu về 81 ngày đêm máu lửa tại Thành Cổ Quảng Trị, chụp ảnh
lưu niệm.
10h00 Xe đưa quý khách về Huế.
11h30 Tới Huế xe đưa quý khách ăn tại nhà hàng.
12h00 Quý khách nhận phòng nghỉ ngơi tại khách sạn Đồng Lợi (Hoặc
tương đương).
Chiều: 14h30 Xe đưa quý khách đi tham quan tại b•i biển Thuận An.
17h00 Quý khách lên xe về khách sạn, nghỉ ngơi tại khách sạn.
19h00 Quý khách ăn tối tại khách sạn.
Quý khách tự do đi tham quan thành phố Huế.
Ngày thứ 4: Tham quan Huế mộng mơ
Sáng: 06h30 Quý khách tự do ăn sáng
07h00 Xe đưa quý khách đi tham quan cầ Tràng Tiền, chùa Thiên Mụ, Đại
Nội với lầu Ngũ Phụng, Điện Thái Hòa, Tử cấm Thành, Thế Miếu, Cửu
Đỉnh….
11h30 Quý khách ăn trưa tại khách sạn.
Chiều: 14h00 Xe đưa quý khách đi tham quan Lăng Tự Đức, Lăng Khải
Định, Đàn Nam Giao.
18h30 Đoàn ăn tối nghỉ ngơi.
20h10 Quý khách lên thuyền nghe ca Huế trên sông Hương
Quý khách tự do tham quan Thành Phố Huế về đêm.
Ngày thứ 5: Huế
Sáng: 06h30 Quý khách tự do ăn sáng.
07h00 Quý khách lên xe đi thăm Lăng Minh Mạng, chùa Từ Đàm.
11h30 Quý khách ăn trưa tại khách sạn.
Chiều: 14h00 Quý khách tự do đi chợ mua sắm tại chợ Đông Ba.
18h00 ăn tối tại khách sạn.
Ngày thứ 6: Huế - Đà Nẵng - Hội An.
Sáng: 06h00 Xe và hướng dẫn viên đưa quý khách đi Đà Nẵng, quý khách
dùng chân tại b•i biển Lăng Cô.
Xe tiếp tục đưa quý khách đi chui qua đèo Hải Vân trên đường đi quý khách
ngắm nhìn cảnh thành phố Đà Nẵng.
11h15 Xe đua quý khách tới Hội An.
11h30 Quý khách ăn trưa, nhận phòng nghỉ ngơi tại khách sạn ở Hội An.
Chiều: 14h00 Quý khách tham quan phố cổ Hội An ( Chùa Cầu Nhật Bản,
Hội Quán Phúc Kiến).
19h00 Ăn tối tại khách sạn sau đó quý khách tự do tham quan thị x• Hội An
về đêm.
Ngày thứ 7: Hội An - Mĩ Sơn - Đà Nẵng
Sáng: 06h30 Quý khách tự do ăn sáng làm thủ tục trả phòng.
07h00 Xe và hướng dẫn viên đưa quý khách đi thăm Thánh Địa Mỹ Sơn
(Tại huyện Du Xuyên).
11h00 Xe đưa quý khách về Đà Nẵng, quý khách nhận phòng nghỉ ngơi. (
Tại khách sạn Công Đoàn Thanh Bình).
12h30 Quý khách ăn trưa nhận phòng nghỉ ngơi.
Chiều: 14h30 Xe đưa quý khách đi tham quan khu du lịch Nôn Nước, Núi
Ngũ Hàng Sơn, làng trạm khắc đá.
17h45 Xe đưa quý khách về khách sạn
18h30 Quý khách ăn tối tại nhà hàng hoặc khách sạn, tự do tham quan sông
Hàn, tự do xem bắn pháo hoa quốc tế.
Ngày thứ 8: Tham quan tại Đà Nẵng
Sáng: 07h00 Quý khách tự do ăn sáng, xe đưa quý khách đi thăm bảo tàng
Chăm (Quý khách nghe giới thiệu về văn hóa của dân tộc Chăm Pa).
11h30 Quý khách ăn trưa tại nhà hàng hoặc khách sạn.
Chiều: 14h00 Quý khách tự do đi chợ và tham quan thành phố Đà Nẵng…
18h30 Quý khách ăn tối tại khách sạn, tự do tham quan sông Hàn….
Ngày thứ 9: Đà Nẵng – Đồng Hới
Sáng: 07h00 Quý khách tự do ăn sáng, quý khách làm thủ tục trả phòng, xe
đua quý khách về Đồng Hới.
Trên đường đi quý khách ghé tham quan chợ Đông Hà.
11h30 Quý khách ăn trưa tại nhà hàng hoặc khách sạn.
Chiều: 12h30 Xe cùng hướng dẫn đưa quý khách về Quảng Bình, trên đường
quý khách tìm hiểu về căn cứ Cồn Tiêu - Dốc Miếu, khu DMZ….
Quý khách nghe giới thiệu về sông Bến Hải – Cầu Hiền Lương, vĩ tuyến 17
thiêng liêng.
Xe đưa quý khách đi thăm địa đạo Vịnh Mốc, tìm hiểu về cuộc sống của
người dân Vĩnh Linh trong địa đạo. 16h30 Tới Đồng Hới, quý khách nhận
phòng nghỉ ngơi tại khách sạn Đồng Hới.
Quý khách ăn tối tại khách sạn, tự do tham quan thành phố Đồng Hới, tự do
đi mua sắm tại các cửa hàng, siêu thị….
Ngày thứ 10: Đồng Hới - Cửa Lò
Sáng: 06h30 Quý khách tự do ăn sáng.
07h00 Quý khách làmg thủ tục trả phòng, 07h30 xe đưa quý khách về Cửa
Lò. Trên đường đi quý khách ghé thăm ng• ba Đồng Lộc. Đoàn làm lễ dâng
hương tưởng niệm các hùng liệt sỹ đ• hy sinh tại ng• ba Đồng Lộc. Quý
khách tham quan bảo tàng, tìm hiểu về sự hy sinh anh dũng của 10 cô gái
thanh niên xung phong tại ng• ba Đồng Lộc, chụp ảnh lưu niệm.
Xe tiếp tục hành trình đưa quý khách về Nghệ An
12h30 Quý khách ăn trưa tại thành phố Vinh.
Chiều: 13h30 Xe đưa quý khách về cửa lò.
14h30 Xe tiếp tục đưa quý khách về Cửa Lò về tới Cửa Lò quý khách nhận
phòng nghỉ ngơi tại khách sạn.
Quý khách tự do tham quan b•i biển Cửa Lò.
19h00 Quý khách ăn tối tại khách sạn
Ngày thứ 11: Cửa Lò - Quê Bác - Hà Nội
Sáng: 06h30 Quý khách tự do ăn sáng
07h30 Quý khách trả phòng, xe đưa quý khách đi thăm quê Bác (Quê Ngoại,
quê Nội, Nhà lưu niệm Bác Hồ).
11h30 Xe đưa quý khách về thành phố Vinh
12h00 Quý khách ăn trưa tại nhà hàng hoặc khách sạn.
Chiều: 13h00 Xe đưa quý khách về Hà Nội. Kết thúc chương trình.
II: GIá TOUR
Giá trọn gói: 2360.000 Đồng/ 01 khách
Mức giá bao gồm:
Xe ôtô Huyndai Aerospacec máy lạnh, đưa đón theo chương trình
Thuyền du lịch tham quan Phong Nha.
Thuyền đi trên sông Hương nghe ca Huế
Các bữa ăn theo chương trình (mức ăn 60.000 đồng/người/ngày bao gồm 2
bữa ăn chính mỗi bữa 30.000 đồng và không bao gồm ăn sáng).
Phòng nghỉ tiêu chuẩn: Điều hòa, tivi, vệ sinh khép kín có khóa an toàn (ở từ
04-06 sinh viên/phòng. Trong phòng có 2 giường ở 4 sinh viên, 3 giường ở 6
sinh viên, 2 giường to phòng víp cũng ở 6 sinh viên).
Vé thắng cảnh 01 lần tại tất cả các điểm tham quan theo chương trình.
Tiền lễ dâng hương tại nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn.
Tiền lễ dâng hương tại Thành Cổ Quảng Trị.
Tiền Lễ dâng hương tại ng• ba Đồng Lộc.
Tiền lễ dâng hương tại quê nội và quê ngoại Bác Hồ.
Bảo hiểm du lịch suốt tuyến ( Mức cao nhất là 10.000.000 đồng /01 vụ)
Hướng dẫn viên có kinh nghiệm nhiệt tình hướng dẫn suốt tuyến (tới các
điểm tham quan có các hướng dẫn viên tại điểm tham quan thuyết minh)
Không bao gồm: Chi phí cá nhân như giặt là, điện thoại, thuế VAT.
III. NHậN XéT
Ưu điểm:
Với chương trình du lịch kéo dài trong 11 ngày 10 đêm với mức giá
2360.000 đồng là tương đối hợp lý.
- Chương trình của công ty đưa ra đ• khai thác được trọng tâm các tuyến
điểm du lịch du lịch của các vùng miền tiêu biểu và đặc sắc.
Chương trình đ• biết lựa chọn thời gian đúng thời điểm bắn pháo hoa quốc tế
tại Đà Nẵng.
Chương trình đ• gây được hứng thú hấp dẫn cho du khách trước chuyến đi.
Nhược điểm:
Công ty Nam Việt đ• có những thay đổi rút ngắn về thời gian trong quá trình
thực hiện chương trình du lịch.
Trong quá trình thực thi hợp đồng công ty Nam Việt đ• giảm bớt không đi
tham quan ở một số nơi như: Chùa từ Đàm, Đàn Nam Giao tại Huế.
Về chương trình thời gian tự do của du khách quá nhiều, vai trò của người
hướng dẫn còn chưa được sử dụng triệt để. Bởi vậy nhiều du khách không
có người hướng dẫn nên không thể tận dụng tối ưu hoá khoảng thời gian
rảnh rỗi của mình và nhiều nơi họ không thể biết được các giá trị vẻ đẹp
tiềm ẩn điểm bên trong của điểm đến.
CHƯƠNG II: TIềM NĂNG Và THựC TRạNG
I. Khái quát tài nguyên du lịch tại các điểm đi qua
? Hà Nội
Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội hiện
nay có diện tích 3.324,92 km², gồm một thị x•, 10 quận và 18 huyện ngoại
thành. Hà Nội là thủ đô, đồng thời cũng là thành phố lớn thứ hai Việt Nam
về dân số với 6,233 triệu người. Thuộc đồng bằng sông Hồng trù phú, nơi
đây đ• sớm trở thành một trung tâm chính trị và tôn giáo ngay từ những buổi
đầu của lịch sử Việt Nam. Năm 1010, Lý Công Uẩn, vị vua đầu tiên của nhà
Lý, quyết định xây dựng kinh đô mới ở vùng đất này với cái tên Thăng
Long. Trong suốt thời kỳ của những triều đại Lý, Trần, Lê, kinh thành
Thăng Long là nơi buôn bán, trung tâm văn hóa, giáo dục của cả miền Bắc.
Khi Tây Sơn rồi nhà Nguyễn lên nắm quyền trị vì, kinh đô được chuyển về
Huế và Thăng Long bắt đầu mang tên Hà Nội từ năm 1831, dưới thời vua
Minh Mạng. Năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của Liên bang Đông
Dương và được người Pháp xây dựng, quy hoạch lại. Trải qua hai cuộc
chiến tranh, Hà Nội là thủ đô của miền Bắc rồi nước Việt Nam thống nhất và
giữ vai trò này cho tới ngày nay.
Hà Nội là một thành phố có tiềm năng để phát triển du lịch. Hà Nội mở rộng
địa giới, ngành du lịch cũng đứng trước vận hội, điều kiện mở rộng hơn
những tiềm năng mới từ vùng đất vốn giàu có di tích văn hóa và đầy ắp
huyền thoại lịch sử của tỉnh Hà Tây trước đây với định hướng phát triển các
loại hình du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa, lễ hội và làng
nghề.Trong nội ô, cùng với các công trình kiến trúc, Hà Nội còn sở hữu một
hệ thống bảo tàng đa dạng bậc nhất Việt Nam. Thành phố cũng có nhiều lợi
thế trong việc giới thiệu văn hóa Việt Nam với du khách nước ngoài thông
qua các nhà hát sân khấu dân gian, các làng nghề truyền thống, kiến trúc
Hà Nội cũng là một trung tâm văn hóa, giáo dục với các nhà hát, bảo tàng,
các làng nghề truyền thống, những cơ quan truyền thông cấp quốc gia và các
trường đại học lớn.
? Hà Nam
Diện tích: 849,5 km2
Dân số: 811,126 người (2006) với mật độ dân số 941 người/km2
Hà Nam nằm ở tọa độ địa lý trên 20o vĩ độ Bắc và giữa 105o-110o kinh độ
Đông, phía Tây-Nam châu thổ sông Hồng, trong vùng trọng điểm phát triển
kinh tế Bắc Bộ. Vị trí địa lý, sự đa dạng về đất đai, địa hình và thổ nhưỡng,
điều kiện khí hậu thuỷ văn thuận lợi, nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ
văn hóa, có khả năng tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật-công
nghệ, hạ tầng kinh tế - x• hội đ• phát triển của Hà Nam là những yếu tố tích
cực để phát triển một nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp tiên tiến và đa
dạng, cả về chăn nuôi và trồng trọt, lâm nghiệp và thủy sản. Tiềm năng về
phát triển kinh tế của tỉnh còn rất lớn, với sự đầu tư mạnh mẽ, khai thác và
sử dụng một cách hợp lý sẽ thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng về kinh tế -
x• hội trong tương lai. Các điểm du lịch tại đây quy mô tuy nhỏ nhưng với
nhiều phong cảnh đẹp nằm trong phạm vi bán kính hẹp đi lại dễ dàng, đây là
những tiềm năng để phát triển du lịch nếu được sự đầu tư tôn tạo.
? Ninh Bình
Diện tích: 1.400 km²
Dân số: khoảng 900.000 người (2003) với mật độ dân số 643 người/km²
Ninh Bình tiếp giáp với 4 tỉnh: Hòa Bình ở phía tây bắc, Hà Nam ở phía bắc,
Nam Định ở phía đông, Thanh Hóa ở phía tây nam, biển (vịnh Bắc Bộ) ở
phía đông nam.
Ninh Bình là tỉnh có tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú. Địa danh này
nằm ở vị trí cửa ngõ cực nam của tam giác châu thổ sông Hồng và miền Bắc,
nơi có nhiều danh lam thắng cảnh gắn với vùng đất là kinh đô của Việt Nam
thế kỷ X với nhiều di tích lịch sử. Trong quy hoạch phát triển vùng kinh tế
duyên hải Bắc Bộ, Ninh Bình được ưu tiên phát triển thành một trung tâm du
lịch. Ninh Bình có tiềm năng du lịch rất lớn, nhiều danh lam thắng cảnh và
di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng như: Cố đô Hoa Lư , Khu du lịch Tam Cốc -
Bích Động, Vườn quốc gia Cúc Phương, khu du lịch sinh thái hang động
Tràng An…
? Thanh Hóa
Diện tích: 11.106 km², đứng thứ 6 trong cả nước.
Dân số: 3,62 triệu người(2005), đứng thứ hai cả nước. Mật độ dân số trung
bình: 317 người/km².
Thanh Hoá là hình ảnh thu nhỏ của Việt Nam, nằm ở phía Nam vùng trọng
điểm kinh tế Bắc Bộ, có tiềm năng phát triển với chính sách đầu tư hấp dẫn,
vị trí mang tính chiến lược lâu dài, rất thuận tiện để phát triển một nền kinh
tế công - nông nghiệp - dịch vụ hiện đại và hoàn chỉnh.
Thanh Hoá được biết đến với nhiều danh lam thắng cảnh hấp dẫn khách du
lịch trong và ngoài nước. Nói đến du lịch Thanh Hoá, trong tâm trí mỗi
người đều nghĩ đến Sầm Sơn - nơi tắm biển lý tưởng mà người Pháp đ• biết
khai thác cách đây 100 năm và nhanh chóng trở thành nơi nghỉ mát nổi
tiếng. Tuy nhiên, với bờ biển dài trên 100km còn cho phép Thanh Hoá đầu
tư phát triển thêm nhiều khu du lịch biển hấp dẫn khác, như khu du lịch nghỉ
mát Nam Sầm Sơn, khu du lịch sinh thái biển Hải Tiến (huyện Hoằng Hoá),
khu du lịch nghỉ mát Hải Hoà (huyện Tĩnh Gia)
II. Các giá trị tài nguyên du lịch tại điểm tham quan
? Nghệ An
? Đôi nét về tỉnh Nghệ An
Diện tích: 16.371 km2.
Dân số (2004): 2.994.731 người.
Tỉnh lỵ: Thành phố Vinh.
Nghệ An là một tỉnh lớn ở phía Bắc Trung bộ, phía Bắc giáp Thanh Hóa,
phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp Lào, phía Nam giáp Hà Tĩnh. Địa
hình của tỉnh Nghệ An bao gồm núi, đồi và thung lũng, độ dốc thoải dần từ
tây bắc xuống đông nam. Hệ thống sông ngòi dày đặc, quốc lộ 1 và tuyến
đường sắt Bắc - Nam đoạn chạy qua tỉnh dài hơn 94 km. Bờ biển dài 82 km,
có Cửa Lò là cảnh biển quan trọng của miền Trung. Tỉnh có sân bay Vinh,
có đường biên giới với Lào dài 419 km. Giao thông đường bộ, đường sắt,
đường thủy và đường hàng không đều thuận lợi.
Nghệ An là một mảnh đất đ• sản sinh nhiều danh nhân lịch sử, nhà khoa
bảng, nhà khoa học, nhà văn nổi tiếng như Mai Hắc Đế, thi sĩ Hồ Xuân
Hương Cũng như các tỉnh khác của Việt Nam, truyền thống văn hóa của
tỉnh rất phong phú. Là một tỉnh có nhiều dân tộc cùng sinh sống, mỗi dân tộc
đều mang một bản sắc văn hóa, ngôn ngữ riêng giàu truyền thống. Nghệ An
là xứ sở của nền văn hóa dân gian đặc sắc với những điệu hò, hát phường
vải, hát đò đưa Du khách đến với bất kỳ lễ hội nào của tỉnh Nghệ An đều
có thể thưởng thức loại hình sinh hoạt văn hóa đặc sắc này.
Các dân tộc ít người của tỉnh Nghệ An có những loại hình âm nhạc riêng.
Dân tộc Khơ-mú có âm nhạc nữ đuổi chim thú, nhạc khí gắn trên gậy chọc
lỗ, tra hạt. Thăm đao là loại nhạc cụ bằng tre nứa; đàn môi được chế tạo
bằng những mảnh cật tre vót mỏng. Ngoài ra họ còn có nhiều loại sáo,
khèn Còn người H'Mông lại có nhiều loại khèn và đàn môi để bày tỏ tình
cảm, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống, của quê hương đất nước.
? Quê ngoại Bác Hồ
Trong chương trình du lịch đoàn du lịch đại học Dân Lập Đông Đô chúng
tôi cùng công ty Nam Việt đ• dừng chân ghé thăm quê Bác Hồ, vị cha già
kính yêu của chúng ta. Khi về thăm quê Bác, điểm đầu tiên chúng tôi dừng
chân là quê ngoại Bác. Đầu tiên tôi cứ phân vân m•i: “Tại sao chúng ta
không đi thăm quê nội Bác trước mà lại đi thăm quê ngoại?” Mặc dù khoảng
cách từ quê nội và quê ngoại của Bác cách nhau không xa, chỉ cách khoảng
2km. Khi đến nơi hỏi thăm những người hướng dẫn viên tại điểm tôi mới
biết rằng nơi đây chính là nơi bác đ• sinh ra và sống trong suốt qu•ng đời ấu
thơ và khi lớn lên những năm rời Huế sau khi mẹ mất Bác mới cùng cha của
mình là cụ Sinh Sắc trở về quê nội sinh sống. Khi hỏi thăm tôi cũng mới biết
rằng không chỉ riêng đoàn chúng tôi mà tất cả các đoàn du lịch khác khi về
thăm quê Bác cũng đều như vậy. Phải chăng người ta muốn giới thiệu, dẫn
dắt người tham quan theo trình tự thời gian từ khi Bác sinh ra đến khi Bác
lớn lên….
Điểm dừng chân đầu tiên chúng tôi đến làng Chùa( hay còn gọi là làng
Hoàng Trù): Quê ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nơi Người cất tiếng khóc
chào đời và được mẹ nuôi dạy trong những năm ấu thơ. Khu này rộng
3500m2, có 3 ngôi nhà, 2 ngôi nhà tranh một ngôi là nơi ông bà ngoại Bác ở
và một ngôi nơi Bác cùng cha mẹ ở và một ngôi nhà mái (là nơi thờ tự của
dòng họ Hoàng). Từ khi Bác theo cha mẹ về quê Nội thì lần duy nhất Bác về
thăm lại quê Ngoại là vào ngày 9/12/1961 sau hơn 50 năm xa cách Người đ•
thốt lên:
" Quê hương nghĩa trọng, tình cao
Năm mươi năm ấy biết bao nhiêu tình "
ảnh: Căn nhà quê ngoại chủ tịch Hồ Chí Minh
Bước vào ngôi nhà tranh tre 3 gian đơn sơ ấy chỉ với những vật dụng thông
thường nhưng khi nghe hướng dẫn viên giới thiệu nhiều người đ• không cầm
được nước mắt. Ngôi nhà tranh nhỏ bé đơn sơ đ• chứa đựng biết bao tình
thương yêu của người mẹ tần tảo sớm chiều nuôi con. Khi bước vào trong
ngôi nhà tranh nhỏ bé ấy, ấn tượng nhất đối với tôi là khung cửi của mẹ Bác
Hồ, ngày xưa chỉ với khung cửi ấy bà đ• sớm chiều dệt vải nuôi chồng nuôi
con. Khung cửi ấy với tôi không chỉ là vật dụng thông thường mà nó còn là
một đại diện cho một người vợ tần tảo, của một tình yêu bao la vô bờ bến
của người mẹ dành cho con. Không những vậy, nó còn là một đại diện cho
người phụ nữ Việt Nam anh hùng….
Một ấn tượng nữa là giọng nói có sức truyền cảm rất lớn, đi vào lòng khách
tham quan của các cô hướng dẫn viên tại điểm nói giọng Sứ Nghệ đặc trưng
này. Từ lời kể của các cô hướng dẫn viên này, những mẩu chuyện thời ấu
thơ của Bác dần hiện lên trong tôi. Những mẩu chuyện ấy được thuyết minh
thật hay, truyền tải đến người nghe không chỉ là nội dung mà còn chứa đựng
nhiều cảm xúc làm người nghe xúc động vô cùng.
? Quê nội Bác
Rời quê ngoại của Bác, chúng tôi tiếp tục hành trình tới thăm làng Sen quê
nội của Bác tên chữ là Kim Liên ( bông sen vàng). Làng có nhiều hồ thả sen
suốt hai bên đường. Ngôi nhà Bác sống thuở nhỏ dựng bằng tre, gỗ 5 gian
lợp tranh. Trong nhà có những đồ dùng giống như các gia đình nông dân:
phản gổ, chõng tre, võng gai, bàn thờ Nhà được dựng năm 1901 do công
sức và tiền của dân làng góp lại làm tặng Ông Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ
của Bác khi Ông Sắc đỗ Phó Bảng đem lại vinh dự cho cả làng.
Điều đặc biệt mà chúng ta nhận thấy khi về thăm quê Bác là cả quê nội lẫn
quê ngoại Bác đều trồng những hàng cau xanh mướt, những vườn rau, khoai
và hoa màu… Bởi lẽ khi Bác về thăm quê có người đề nghị với Bác là vườn
trồng hoa Bác mỉm cười và nói: “Bác đồng ý trồng hoa nhưng nên trồng
khoai lang, rau cải những loại cây lương thực dễ trồng. Củ và lá có thể thu
hoạch phục vụ đời sống nhân dân lại còn có cả hoa nữa”. Bởi vậy, theo lời
dặn của Người, mọi khu đất quanh nhà đều trồng khoai lang và hoa màu…
Quê nội, quê ngoại Bác Hồ và các di tích nơi đây đ• minh chứng cho một
con người lịch sử vĩ đại và trở thành một quần thể du lịch hấp dẫn, độc đáo
mỗi ngày thu hút hàng ngàn lượt người từ khắp mọi miền về hội tụ, bày tỏ
lòng biết ơn và thành kính sâu sắc đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Một lần về thăm quê Bác đ• để lại trong tôi và những người tới thăm nơi đây
những ấn tượng đẹp không phai. Thăm quê Bác cũng như mỗi lần nghĩ về
Bác lòng tôi lại cảm thấy rạo rực lạ thường.
? B•i biển Cửa Lò
Vị trí: B•i biển Cửa Lò thuộc thị x• Cửa Lò, tỉnh Nghệ An; cách thành phố
Vinh 18km.
Đặc điểm: B•i biển rộng dài, một trong những b•i tắm đẹp nhất nước, nằm
giữa quần thể du lịch - văn hóa xứ Nghệ. ở đây có nguồn hải sản phong phú,
đặc biệt có mực nhảy và mực câu nổi tiếng cả nước.
Cửa Lò nằm giữa quần thể du lịch - văn hóa xứ Nghệ và đang tiến dần đến
"công nghiệp du lịch" nhưng thị x• biển này vẫn giữ được nhiều nét "hoang
sơ". Nơi tiếp giáp Cửa Hội, Cửa Lò đang hình thành khu du lịch sinh thái.
Với b•i tắm rộng dài hơn 10km, dọc đường Bình Minh (con đường rộng,
thoáng nhất thị x•) được bao quanh bởi rừng phi lao bạt ngàn, rừng cây vừa
chắn cát, vừa là điểm dạo chơi lý thú.
Sông Lam đổ ra Cửa Hội, dòng chảy mạnh ra biển Đông theo hải lưu hướng
về phía nam mang theo bao phù sa để biển Cửa Lò quanh năm trong xanh,
nước biển trong vắt nhìn thấy cát, nước biển Cửa Lò không mặn chát mà vừa
phải. Mùa hè, cũng là lúc gió tây nam vượt Trường Sơn đổ về, buổi sáng gió
tây nam đìu hiu ru sóng biển dập dìu; chiều muộn, trước khi hoàng hôn
buông xuống thì cũng là lúc gió tây ngừng thổi nhường chỗ cho gió nồm.
Trong một ngày, Cửa Lò đón hai luồng gió, với hai cảm giác khác nhau.
Đến Cửa Lò du khách còn được thưởng thức các loại hải sản cua, ghẹ mực
với giá bình dân.
? Hà Tĩnh
? Tổng quan
Diện tích: 6.055,6 km²
Dân số: 1.286.700 người, mật độ dân số 212 người/km²
Hà Tĩnh trải dài từ 17°54’ đến 18°50’ vĩ Bắc và từ 103°48’ đến 108°00’
kinh Đông. Phía bắc giáp tỉnh Nghệ An, phía nam giáp tỉnh Quảng Bình,
phía tây giáp nước Lào, phía đông giáp biển Đông.
Hà Tĩnh là một tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển du lịch, Hà Tĩnh có nhiều
di tích lịch sử, văn hóa và thắng cảnh, quê hương của nhiều bậc danh nhân.
Cảnh quan của tỉnh có thác Vũ Môn, vườn quốc gia Vũ Quang, hồ Kẻ Gỗ,
suối nước nóng Sơn Kim, đèo Ngang, chùa Hương Tích, Hòn Bớc, Hòn
Lám, các b•i tắm đẹp như Thiên Cầm, Đèo Con, Xuân Thành, Chân Tiên.
Các thắng cảnh phần lớn đều phân bổ dọc đường quốc lộ 1A và quốc lộ 8.
Hà Tĩnh nổi tiếng về "Văn vật Hồng Lam" với các di chỉ khảo cổ rú Dầu, rú
Rơm, đồ sắt Vân Chàm, Minh Long, đồ đồng Đức Lâm, đồ gốm Cảm Trang,
đồ mộc Thái Yên, lụa Hạ, vải Hồ. D•y Hoành Sơn còn lưu giữ lũng cổ đắp
ghép từ thế kỷ thứ 4.
Sự giao hòa, đan xen giữa văn hóa dân gian và văn hóa bác học làm cho môi
trường văn hóa, giá trị nhân văn của Hà Tĩnh có sức thu hút du lịch rất lớn.
? Ng• ba Đồng Lộc
Có lẽ không ai trong chúng ta không ít nhất một lần được nghe đến địa danh
"Ng• ba đồng Lộc", một cái tên đ• đi vào lịch sử dân tộc và gắn liền với
những chiến công của các đơn vị Thanh niên xung phong trong giai đoạn
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Song không phải tất cả chúng ta đều đ• có
dịp đến Ng• ba Đồng Lộc, đ• nhìn thấy những gì còn lại trên mảnh đất này
và đ• nghe câu chuyện về những con người ở đây trong thời kỳ máu lửa.
Hôm nay, đoàn sinh viên Đông Đô chúng tôi đ• có mặt tại nơi đây để ngắm
nhìn lại những tàn dư của chiến tranh, tái hiện lại những hình ảnh đấu tranh
anh dũng của nhân dân ta trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.
Ng• ba Đồng Lộc nằm trên đường Trường Sơn, thuộc địa phận Đồng Lộc,
Can Lộc, Hà Tĩnh. Ng• ba Đồng Lộc có tổng diện tích 50ha nằm gọn trong
một thung lũng hình tam giác, hai bên đồi núi trọc, giữa là con đường độc
đạo, mặt đường giống như một lòng máng, bom địch thả xuống bên nào đất
đá cũng lên xuống đường làm cản trở giao thông.
Ng• Ba đồng Lộc là yết hầu của mạch giao thông nối liền "hậu phương lớn
miền Bắc" với "tiền tuyến lớn miền Nam". Tất cả mọi con đường từ Bắc
vào Nam đều phải vượt qua ng• ba Đồng Lộc. Ng• ba Đồng Lộc được coi
như cổ họng, vượt qua được sẽ phân tán toả ra nhiều tuyến đường khác nhau
đi vào nam. Ng• ba Đồng Lộc là trọng điểm có tầm quan trọng chiến lược
nên trong chiến tranh phá hoại kẻ địch âm mưu ném bom huỷ diệt nhằm
chặn đứt sự chi viện sức người, sức của, vũ khí, súng đạn, lương thực của
hậu phương lớn miền Bắc x• hội chủ nghĩa đối với tiền tuyến lớn miền Nam.
Chỉ tính riêng 240 ngày đêm từ tháng 3 đến tháng 10/1968 không quân địch
đ• trút xuống đây 48.600 quả bom các loại.
Cũng từ mảnh đất anh hùng ấy, đ• xuất hiện bao tấm gương anh hùng trẻ
tuổi gan dạ, sẵn sàng quyết tử cho tổ quốc quyết sinh như “vua” phá bom
Vương Đình Nhỏ, Chị nữ anh hùng La Thị Tám…. Điển hình hơn đó là sự
hy sinh anh dũng của 10 cô gái thanh niên xung phong mà chúng tôi đ• có
vinh dự được đến nơi đây kính viếng hương hồn các chị và lắng nghe lại
những câu chuyện xúc động một thời kỳ oanh liệt những năm kháng chiến
chống mỹ cứu nước.
Theo lời anh Quân, hướng dẫn viên tại ng• ba Đồng Lộc kể lại mà tôi đ• ghi
âm lại được với một giọng nói vô cùng xúc động chúng tôi dần lạc vào câu
chuyện của các cô gái thanh niên xung phong tại ng• ba Đồng Lộc: “Các cô
gái thanh niên xung phong này đ• có mặt tại Ng• ba Đồng Lộc vào những
ngày ác liệt nhất. Thường thì mọi hoạt động ở Ng• ba Đồng Lộc đều diễn ra
về đêm, ban ngày để mặc cho máy bay Mỹ bắn phá. Nhưng đêm ngày
23/7/1968 có lệnh đặc biệt phải thông đường. Nhận được lệnh của đại đội,
10 cô gái TNXP đ• ra ng• ba giữa ban ngày với cuốc xẻng trên vai. Ra ng•
ba giữa ban ngày làm nhiệm vụ, chỉ có mấy chiếc hầm sơ sài ở chân đồi che
chở, mạng sống chỉ hoàn toàn trông chờ vào sự may mắn. đúng như dự
đoán, sau mấy lần máy bay trinh sát điện tử A35 rẹt qua, buổi chiều hôm ấy
15 lần các tốp máy bay lao tới trút bom vào mục tiêu nhỏ xíu phía dưới ng•
ba mù mịt vì khói bom, 3 lần tiểu đội các cô bị bom vùi, nhưng sau đó các
cô lại rũ đất đứng lên tiếp tục công việc. Nhưng đến lượt bom thứ 15 ấy, lúc
công việc đang dở dang, một quả bom rơi ngay trước cửa hầm của họ. Một
phút trôi qua rồi năm phút trôi qua, trên đài quan sát không thấy ai trong số
mười cô rũ đất đứng dậy. Cả trận địa lặng đi rồi òa lên tiếng khóc nức nở
của những người đồng đội. Các cô đ• hy sinh rồi! ”
Khi nghe kể đến đây, Chúng tôi cùng các thầy cô giáo có mặt trong viện Bảo
tàng đều rưng rưng nước mắt. Nhưng mọi người thực sự òa lên khóc khi
nghe người hướng dẫn kể chuyện về cái chết của tiểu đội phó Hồ Thị Cúc.
“Sau hơn hai tiếng đồng hồ, đồng đội đ• đào đất tìm được xác chín người,
đặt lên 9 cái cáng xếp hàng ngang, chỉ riêng có Hồ Thị Cúc là vẫn chưa tìm
được. Cả mặt trận quyết tâm phải tìm bằng được Cúc bởi mười cô gái đ•
cùng chiến đấu bên nhau, gắn bó thân thiết với nhau như chị em một nhà,
nên mọi người quyết định phải tìm bằng được Cúc rồi mới tổ chức an táng
cho các cô. Nhưng 2 tiếng, 3 tiếng và đến hết ngày hôm đó, đồng đội vẫn
chưa tìm được Cúc. đồng đội bật khóc…” nhà thơ Yến Thanh đ• viết thành
một bài thơ:
Cúc ơi
Tiểu đội đ• xếp một hàng ngang
Cúc ơi em ở đâu không về tập hợp?
Chín bạn đ• quây quần đủ hết
Nhỏ-Xuân-Hà-Hường-Hợi-Rạng-Xuân- Xanh
A trưởng Võ Thị Tần điểm danh
Chỉ thiếu mình em
(Chín bỏ làm mười răng được!)
Bọn anh đ• bới tìm vết cuốc
Đất sâu bao nhiêu bọn anh không cần
Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng
Cúc ơi! Em ở đâu?
Đất nâu lạnh lắm
Da em xanh
áo em thì mỏng!
Cúc ơi! Em ở đâu?
Về với bọn anh tắm nước sông Ngàn Phố
Ăn quýt đỏ Sơn Bằng
Chăn trâu cắt cỏ
Bài toán lớp Năm em còn chưa nhớ
Gối còn thêu dở
Cơm chiều chưa ăn
ở đâu hỡi Cúc
Đồng đội tìm em
Đũa găm, cơm úp
Gọi em
Gào em
Khan cổ cả rồi
Cúc ơi!
Phải chăng hương hồn cô Cúc linh thiêng đ• nghe được lời đồng đội. Ba
ngày sau, đồng đội tìm thấy thi thể cô nằm sâu trong lòng đất đá, đầu vẫn đội
nón, vai vác cái cuốc, các đầu ngón tay đều thâm tím. Mọi người bảo rằng
cô đ• cố gắng bới đất chui lên nhưng hầm sâu quá Cuối cùng thì các cô
cũng lại được quây quần cùng nhau dưới lòng đất mẹ, khu mộ của các cô đặt
dưới một ngọn đồi thoai thoải, cách tượng đài chiến thắng 200 mét.
Dù trời vẫn còn đang lác đác mưa ngâu, theo chân anh hướng dẫn viên thầy
và trò chúng tôi cùng nhau ra khu mộ của mười cô gái thanh niên xung
phong thắp hương tưởng niệm cho giấc ngủ vĩnh hằng của các chị. Hôm nay
chiến tranh không còn nữa, nhưng khúc ca hào hùng và bi tráng của các chị
vẫn còn vang m•i. Tên tuổi của các chị sẽ m•i m•i sống cùng với Ng• ba
Đồng Lộc!
? Quảng Bình
? Tổng quan
Diện tích: 8.055 Km2
Dân số: 854.918 người (Số liệu năm 2007)
Tỉnh Quảng Bình nằm gọn giữa Đèo Ngang và Đèo Hải Vân nơi giao thoa
những điều kiện tự nhiên, kinh tế - x• hội miền Bắc và miền Nam, có đường
biên giới tiếp giáp với Lào hơn 200 km là những điều kiện rất thuận lợi để
phát triển du lịch.
Bờ biển Quảng Bình: trải dài hơn 116 km, với 5 cửa sông lớn (S.Roòn,
S.Ranh, S.Lý Hoà, S.Dinh và S.Nhật Lệ), đây là một dạng bờ biển bồi tụ và
mài mòn xen kẽ tạo cho biển Quảng Bình nhiều b•i tắm đẹp như Nhật Lệ,
Đá Nhảy, Bảo Ninh, Quang Phú. Ngoài khơi còn có 5 hòn đảo nhỏ là Hòn
La, Hòn Gió, Hòn Cỏ, Hòn Nồm, Hòn Chùa trong đó đáng chú ý là Hòn Gió
- nhân dân trong vùng quen gọi là Đảo Chim - đây là nơi sinh sống của rất
nhiều loài chim, một giá trị sinh thái đặc biệt hấp dẫn du khách…. Trong số
các hang động đó, đáng chú ý nhất là hệ thống hang động thuộc phạm vi khu
vực Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng. Đây là khu vực vừa được
UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên của thế giới. Ngoài ra, Quảng
Bình là cái nôi của kho tàng văn hoá văn nghệ dân gian đa dạng, thể hiện ở
đây có nhiều loại nhạc cụ như trống, thanh la, chiêng núm, kèn, đàn, khèn
bè, đàn ống, lồ ô, sáo 6 lỗ , các làng x• văn hoá nổi tiếng như Sơn, Hà,
Cảnh, Thổ, Văn, Võ , các lễ hội truyền thống như: lễ hội cầu ngư, hội trải
Quảng Bình, đua thuyền Lệ Thuỷ
Quảng Bình còn là nơi lưu giữ nhiều di tích lịch sử, văn hoá, cách mạng: các
dấu tích của thời kỳ đồ đá, đồ đồng, dấu tích của vương quốc Chăm Pa cổ
cũng được tìm thấy ở đây khá nguyên vẹn. Hệ thống luỹ thành do Đào Duy
Từ xây dựng - dấu tích của một thời kỳ nội chiến tương tàn giữa Nhà
Nguyễn ở Đàng Trong và Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài kéo dài hơn 2 thế kỷ -
cũng là một điểm có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch. Trải qua hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Quảng Bình là một trong những
chiến trường ác liệt nhất đồng thời cũng là nơi lưu lại dấu ấn về những chiến
công vang dội mà quân và dân Quảng Bình đ• lập nên, tiêu biểu là làng
chiến đấu Cự Nẫm, Cảnh Dương, đường mòn Hồ Chí Minh
? Phong Nha Kẻ Bàng
Trên đường thiên lý từ Bắc vào Nam, qua đèo Ngang, ranh giới tự nhiên của
Hà Tĩnh và Quảng Bình, tiếp theo là sông Gianh, du khách đi dộ 16km nữa
là đến huyện Bố Trạch, rẽ vào con đường hướng Tây Bắc chừng 17km là
gặp dòng sông Son, nước trong vắt, uốn khúc quanh co giữa vùng đồi cỏ
tranh, lau sậy và rừng thưa.
Sông Son còn có những tên khác là sông Chài, sông Troóc, là một chi nhánh
của sông Gianh, trên thủy trình lặng lẽ đ• phối hợp với những hang động đá
vôi với miền Tây Quảng Bình, tạo nên một dải kỳ quan trong lòng núi: hệ
thống hang động Phong Nha kỳ bí và ngoạn mục, hấp dẫn lạ thường.
Du khách phải dùng thuyền và chuẩn bị đèn pin khi vào quan sát động này.
Nhìn từ xa, cửa động dường như áp sát, mật nước. Cửa vòm thẳng, xéo từ
phải hạ thấp xuống qua trái, cao gần 10m và rộng tới 25m, một cái mõm
chệch qua bên của một m•nh thú khổng lồ. Thạch nhũ từ trên vòm buông
xuống tua tủa như những chiếc răng cực lớn. Gió từng đợt thổi ào ào, luồn
lách qua nhiều hang hốc, khe đá, đôi lúc thoát ra những tiếng rú, rền rĩ, vang
động kéo dài theo vách đá âm u. Vì thế mới được gọi là Phong Nha, vì
Phong là gió, Nha là răng.
Tới cửa động, thuyền dừng lại, tắt máy và người ta phải cố chèo chống để
luồn vào hang trên một dòng nước trào ra trong tối tăm. Dòng nước như
muốn đẩy thuyền lùi lại, không cho vào.
Bên cửa động có bàn thờ sơn thần và dấu tích một tượng Chàm (chỉ còn lại
cái bệ, tượng đ• mất từ lâu).
Động dài tời 1451m, chia ra nhiều đoạn khúc. Sâu vào phía trong khoảng
600m, có lối rẽ ngang phía phải, dẫm vào một nhánh động phủ hình thước
thợ, có một cạnh gần song song với động chính, dài chừng 300m. Tận cùng
là một b•i rộng, ngổn ngang những khối đá lớn, khá vuông vức, phẳng phiu
như đ• qua bàn tay đẽo gọt của con người.
Trong động phụ này, cách chỗ rẽ vào khoảng 200m có một bàn thờ của
người Chăm đặt giữa hai cột đá thiên nhiên, dưới một cái vòm tuyệt đẹp.
Trên vách có tới gần 100 mảng khắc chữ Chăm cổ. Xung quanh có nhiều bệ
tượng. Dưới nền động, giữa những phế tích là những tượng nhỏ hình thù kỳ
dị. Chính vì những di tích này mà động Phong Nha còn có tên là Chùa Hang.
Lòng động chính có chỗ rộng tới 40m, chỗ hẹp chỉ còn 8m. Trần động có
chỗ cao tới 50m trên mặt nước. Chỗ thấp là 2m.
Từ cửa động vào sâu khoảng 100m lòng động thắt hẹp lại, trần sa thấp
xuống như gần chạm tới mặt nước. Thạch nhũ buông rèm càng làm tăng
thêm vẻ bí hiểm, xung quanh tối om. Thuyền khéo lách qua, tới bên kia,
lòng động lại nới rộng ra; trần động cao dần lên. ở hỗ vừa hẹp vừa thấp, tối
ấy, mực nước cũng sâu nhất, trên 12m.
Từng tiếng động nhỏ như tiếng hòn sỏi rơi, tiếng mái chèo khẽ khuấy nước,
kể cả tiếng nói thì thầm, tiếng nước nhẹ nhỏ giọt cũng đều được lòng hang
vòm động chuyển thành những âm vang vọng kỳ lạ.
Dưới ánh đèn, người ta tìm thấy đá lóng lánh muôn màu. Những cột đá dầm
chân dưới lòng sông, in bóng trên mặt nước phản chiếu ánh sáng lung linh,
như những hành lang mờ ảo trong lâu đài thủy cung. Cuối động là một b•i
cát có nhiều khối đá lớn lô nhô như những hòn đảo giữa lòng hồ khô cạn.
Cũng trong d•y núi cũng còn có một thắng cảnh nữa ở trên độ cao 200m
được gọi là Động Khô (để phân biệt với động Phong Nha là động hang nước
có dòng sông ngầm xuyên qua, muốn vào phải dùng thuyền chèo chống).
Lối lên động khô ở gần cửa động Phong Nha. Trong động có nhiều nhũ đá,
măng đá hình thù kỳ dị. Động có khe sâu ăn thông xuống hang ngầm.
Động khô được phát hiện vào khoảng vài chục năm về trước, chưa được chú
ý khai thác.
Trong tương lai, động nước Phong Nha lẫn động khô sẽ trở thành một cụm
thắng cảnh liên hoàn đầy quyến rũ đối với tất cả du khách.
? Tượng đài mẹ Suốt
Nhắc tới Quảng Bình không người dân nào không biết về mẹ Suốt, người
mẹ anh hùng liệt sỹ đ• dũng cảm chèo đò chở bộ đội, vũ khí, hàng hóa cần
thiết tiếp tế cho tiền tuyến miền Nam trong những năm kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Sau khi ăn tối tại khách sạn tôi cùng một vài người bạn cùng
nhau tìm đường đi thăm tượng đài mẹ Suốt. Là người dân ngoại tỉnh nên
chúng tôi không thông thạo đường tuy nhiên nhờ sự giúp đỡ của những
người dân địa phương nơi đây chúng tôi đ• nhanh chóng tìm ra không mấy
khó khăn.
Tượng đài mẹ Suốt cao 7m (tính cả bệ) tọa lạc ngay trung tâm bến đò gần
cầu Nhật Lệ, mặt hướng ra sông cách bến đò xưa khoảng 50m. Mẹ Suốt sinh
năm (1906-1968). Trong những năm tháng giặc Mỹ leo thang chiến tranh,
bắn phá ác liệt các trục giao thông, bến phà, nhất là trên con sông Nhật Lệ
được xem là huyết mạch của Quảng Bình, của miền Trung, ở đó mẹ Suốt đ•
dũng cảm chèo đò chở bộ đội, vũ khí, chở hàng hóa cần thiết từ bờ Bắc sang
bờ Nam. Mỗi năm con đò của mẹ qua lại đến 1.400 chuyến. Ngày 13-10-
1968, trong một trận bắn phá d• man của máy bay Mỹ, mẹ đ• ng• xuống bên
mái chèo quả cảm
? Sông Gianh
Tiếp tục chuyến hành trình, trên đường đi chúng tôi ngắm nhìn phong cảnh
và nghe kể về Sông Gianh, nơi chia cắt nước ta thành 2 miền đàng trong và
đàng ngoài. Sông Gianh tên chữ Đại Linh Giang một trong 5 con sông lớn
của tỉnh Quảng Bình, là con sông duy nhất chảy trong địa phận của một tỉnh
tại Việt Nam. Con sông dài khoảng 50 km nhưng lòng sông sâu, cửa sông
rộng mênh mông. Thế kỷ 17, sông Gianh là chiến tuyến của cuộc chiến tranh
Trịnh–Nguyễn. Chính tại nơi đây từng diễn ra bao trận đánh đẫm máu giữa
hai quân lính Đàng Trong và Đàng Ngoài. Nhiều thi sĩ có dịp qua sông
Gianh đều không khỏi ngậm ngùi khi nhớ về những trang sử buồn đau của
dân tộc thuở nào.
? Quảng Trị
? Tổng quan
Diện tich: 4760,1 km2
Dân số: 626,3 người, mật độ dân cư 132 người/km2
Quảng Trị là tỉnh ven biển thuộc vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Phía bắc
giáp tỉnh Quảng Bình, phía nam giáp tỉnh Thừa Thiên-Huế, phía tây giáp
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, phía đông giáp biển Đông. Trung
tâm hành chính của tỉnh là thị x• Đông Hà nằm cách 598 km về phía nam
thủ đô Hà Nội và 1.112 km về phía bắc thành phố Hồ Chí Minh . Nơi đây có
sông Bến Hải - cầu Hiền Lương, giới tuyến chia cắt hai miền Nam - Bắc
Việt Nam trong suốt 20 năm (1954 - 1975).
Trong những năm Chiến tranh Việt Nam, Quảng Trị là một trong những nơi
giặc mỹ thả bom nhiều nhất. Mảnh đất đầy máu lửa cà đau thương này đ• trở
thành nơi có nhiều di tích lịch sử và thắng cảnh hấp dẫn du khách tham quan
như: Đường mòn Hồ Chí Minh, Thành cổ Quảng trị, Nghĩa trang Trường
Sơn, Địa Đạo Vịnh Mốc. Ngoài ra đến với Quảng Trị du khách còn có thể
thỏa mái thư gi•n trên b•i biển Cửa Tùng nơi các sỹ quan hải quan Pháp
mệnh danh là “hoàng hậu của b•i tắm Đông Dương”…
? Nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn
Trong chuyến hành trình “Nam tiến” khảo sát thực tế, chúng tôi đ• ghé thăm
nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn và lắng nghe những âm vang hào hùng và bi
tráng của cha ông ta còn xót lại sau tàn dư chiến tranh của mảnh đất đầy đau
thương này. Bước xuống nghĩa trang mà lòng tôi đau xót vô cùng tất cả nơi
nơi đều là màu trắng xóa của hàng ngàn hàng vạn ngôi mộ. Dường như nơi
đây không biết tự bao giờ đ• trở thành mảnh đất “ít người nhiều ma”. Quả
thật, khi đến đây chúng ta không khỏi chua xót, ngoài nghĩa trang Trường
Sơn ra Quảng Trị còn ôm trong lòng 72 khu nghĩa trang liệt sỹ khác…. Sau
khi làm lễ tưởng niệm xong, chúng tôi mỗi người mỗi ngả tìm về khu mộ
của tỉnh nơi mình sinh ra, tôi cùng nhóm bạn của mình tìm về tỉnh Vĩnh
Phúc tìm về phần mộ cha ông, thắp hương cho những vị anh hùng đ• hy sinh
cả tuổi trẻ cống hiến cả tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp cách mạng.
Đứng nơi đây mà người tôi cứ lặng im m•i không sao thốt nên lời….
Nghĩa trang tọa lạc trên một ngọn đồi giữa 8 ngọn đồi khác bao quanh như
bông hoa 8 cánh tại x• Vĩnh Trường (huyện Gio Linh). Tổng diện tích khu
nghĩa trang 106 ha, trong đó diện tích chính đặt 10327 ngôi mộ liệt sĩ là 46
ha chia làm 5 khu: khu trung tâm (có tượng đài chính) và 4 khu đặt mộ liệt sĩ
theo địa chỉ từng tỉnh. Giữa khu IV và V có quần thể tượng đài biểu dương
tinh thần chiến đấu anh dũng của đoàn 559 và tình đoàn kết Việt – Lào.
Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn là nơi quy tập phần mộ các liệt sĩ trên tuyến
đường Trường Sơn trong những năm chiến tranh thống nhất đất nước. Mộ
bắt đầu được quy tập tại đây từ cuối năm 1974. Nghĩa trang được xây dựng
từ ngày 24/10/1975 và hoàn thành ngày 10/4/1977, đây là nghĩa trang có quy
mô lớn nhất Việt Nam, có kiến trúc, bố cục độc đáo, không giống đa phần
nghĩa trang liệt sĩ khác ở Việt Nam.Khu trung tâm nằm trên một ngọn đồi
cao 32,4m có đài tưởng niệm bằng đá trắng cao vút uy nghiêm, rỗng ruột và
khuyết ba mặt, thể hiện nỗi mất mát vô cùng. Bốn khu đặt mộ liệt sĩ được
xếp theo tỉnh, thành phố trải trên năm quả đồi. Xen kẽ các khu mộ là những
cánh rừng. Lối đi được lát đá, gạch hoặc tráng xi măng, hoa nở bốn mùa hai
bên. Mỗi khu đều có nhà tưởng niệm với kiến trúc phảng phất hình ảnh các
vùng quê đất nước
Hàng năm nghĩa trang đón khoảng 20.000 lượt người trong nước đến viếng
mộ liệt sĩ đầy đủ các tầng lớp lứa tuổi. Những người con mất cha, những
người vợ mất chồng và những người mẹ mất con đ• hy sinh cống hiến
“những giọt máu thân yêu” của mình cho sự nghiệp cách mạng lớn lao ấy.
Nhiều đoàn khách nước ngoài đ• vượt hàng vạn dặm đến nghĩa trang Trường
Sơn. Nghĩa trang dường như là nơi mà họ cảm thấy nợ Việt Nam và muốn
tìm về một thời quá khứ sai lầm của họ mà không biết làm cách nào có thể
xoa dịu nỗi đau mất mát ấy.
? Thành cổ Quảng Trị
Nhắc tới thành cổ Quảng trị chúng ta không thể không nhắc tới câu thơ vô
cùng cảm động của người cựu chiến binh năm xưa.
“Đò xuôi Thạch H•n ơi… chèo nhẹ
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai mươi hòa sóng nước
Vỗ yên bờ b•i m•i ngàn năm…”
Đó là thơ nhưng cũng là tiếng lòng, là ''hồn'' của một cựu chiến binh đ• từng
chiến đấu, đ• từng chôn cất đồng đội bên sông Thạch H•n. Dòng sông Thạch
H•n hôm nay hiền hòa, xanh ngát, khác với hình dung của du khách về một
con sông đỏ lượm màu máu của một thời lửa đạn, của 81 ngày đêm Thành
cổ rung chuyển giữa mùa hè đỏ lửa năm 1972. Cách bờ sông Thạch H•n
500m về phía Nam và chỉ cách Quốc lộ 1A 2 Km về phía Đông, di tích
Thành cổ Quảng Trị được bảo tồn ngay trung tâm thị x• Quảng Trị anh hùng
(khu phố 4, phường 2). Có thể nói, đây là điểm đến tiêu biểu nhất cho vùng
đất du lịch được mệnh danh là “miền hồi tưởng” tỉnh Quảng Trị, với những
địa danh lịch sử: đảo Cồn Cỏ, sông Bến Hải - cầu Hiền Lương, Nghĩa trang
liệt sĩ Trường Sơn, Khe Sanh - Đường 9 Nam Lào
Hơn hai thế kỷ trước, Thành cổ Quảng Trị là thành lũy quân sự của nhà
Nguyễn. Thành Quảng Trị xây dựng từ đầu đời vua Gia Long (1802),
nguyên gốc được đắp bằng đất theo dạng hình vuông, đến năm Minh Mạng
thứ 18 (1837) mới xây bằng gạch. Đây là nơi để vua ngự mỗi khi đi tuần thú,
nơi làm lễ thăng quan cho các đại quan cấp tỉnh và tổ chức các tiết lễ khác
trong năm. Suốt gần 140 năm (1809-1945) dưới thời nhà Nguyễn, Thành cổ
Quảng Trị là trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự của tỉnh Quảng Trị và là
thành lũy quân sự để bảo vệ kinh đô Huế ở phía Bắc. Tuy nhiên, đến thời
Pháp thuộc, dinh lũy này được thực dân Pháp xây dựng thành nhà lao. Từ
năm 1929-1972, nhà lao Quảng Trị là nơi giam cầm hàng ngàn sĩ phu yêu
nước, chiến sĩ Cộng sản và cả những người dân vô tội.
ảnh: Tiến sỹ Vũ Đình Thụy cùng các nam sinh viên Đông Đô lớp Vh3k12
trước bảo tàng thành cổ Quảng Trị
Thời đánh Mỹ năm 1972, vùng đất Quảng Trị được xem là chiến trường
khốc liệt nhất, nơi diễn ra những cuộc đụng đầu nảy lửa giữa ta và địch. Với
địa thế vừa là bàn đạp để thực hiện âm mưu “Bắc tiến” khi có điều kiện, vừa
là lá chắn bảo vệ “biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17”, đây là chiến
trường sinh tử đối với Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau
hai cuộc tấn công bất ngờ và quả cảm của quân ta - bắt đầu từ giữa trưa ngày
30/3/1972, thị x• Quảng Trị được giải phóng vào chiều ngày 01/5/1972. Từ
đây, bắt đầu 81 ngày đêm kiêu hùng của những chiến binh quả cảm của
chúng ta với cuộc chiến không cân sức về khí tài trong lòng Thành cổ. Báo
chí phương Tây thời bấy giờ bình luận và so sánh số bom đạn Mỹ ném
xuống chiến trường Quảng Trị khoảng 328 ngàn tấn, tương đương sức công
phá của 7 quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima (Nhật Bản) năm 1945.
Trong lửa đạn khốc liệt ấy, Thành cổ Quảng Trị với chu vi hơn 2.160m là
“túi bom” của kẻ thù. Chúng huy động tối đa lực lượng, phương tiện để
chiếm bằng được Thành cổ vì đây là địa bàn chiến lược, có thể tạo sức nặng
mặc cả với ta tại Hội nghị Paris. Không thể thống kê hết số bom đạn dội
xuống mảnh đất này. Thế nhưng, bom đạn không làm sờn lòng những chiến
sĩ anh hùng - hầu hết đều rất trẻ. Các anh, anh dũng bám trụ giữ từng tấc đất
Thành cổ. Trong một ngày, các chiến sĩ đ• phải đánh địch phản kích từ 5-7
lần, có khi 13 lần. Cuộc chiến đấu ở đây đ• diễn ra như một huyền thoại và
cách đánh cũng vượt ra những qui ước thông thường với những tấm gương
quả cảm: Phan Văn Ba nát một bàn tay vẫn xin ở lại, Hán Duy Long dùng
trung liên kẹp nách truy kích diệt 58 tên địch, 3 lần bị thương vẫn giữ vững
trận địa ở đây, lựu đạn phải để xì khói trên tay mới ném, phải trèo lên
tường cao ném xuống hoặc bò sát miệng hầm của địch mà liệng vào Cuộc
chiến đấu anh hùng 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị kết thúc bằng
thất bại của một đội quân xâm lược đông trên 5 vạn tên với thừa th•i sức
mạnh bom đạn, một lần nữa làm sáng ngời chân lý: Kẻ xâm lược có vũ khí
tối tân đến đâu cũng phải khuất phục trước những con người có ý chí thép
gang, một lòng chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Máu của các chiến sĩ và đồng bào ta đ• đổ xuống, tô thắm cho trang sử vẻ
vang của dân tộc, để xanh ngời cỏ non Thành cổ hôm nay. Di tích Thành cổ
hôm nay chỉ là một gian nhà truyền thống, những quả pháo nằm rải rác
chung quanh một nấm mồ khổng lồ mang tính biểu tượng. Trong lòng nó chỉ
vỏn vẹn cây súng và bộ quân phục giản đơn của người lính nhưng chất chứa
biết bao suy tưởng. Đến Thành cổ, thắp một nén hương ở mảnh đất thiêng
liêng ấy, chưa bao giờ bạn cảm nhận giai điệu bi tráng của hành khúc “Hồn
tử sĩ” vang lên với nhiều cung bậc cảm xúc đến vậy!
? Địa đạo Vịnh Mốc
Địa đạo Vịnh Mốc nằm ở phía Đông thị trấn Gio Linh cách quốc lộ 1 hơn 16
km. Thông ra b•i tắm Cửa Tùng (cửa biển được mệnh danh là “nữ hoàng của
các b•i tắm” dưới thời vua Minh Mạng, nơi đây là di tích lịch sử minh chứng
cho sức người dân Quảng Trị anh hùng, kiên cường bất khuất. Bắt nguồn từ
một cột mốc cắm trên eo vịnh nhỏ giữa hai ngôi làng nay đ• sát nhập thành
một: Làng Vịnh Mốc ra đời từ đấy!
“Làng Vĩnh Mốc” có 3 địa đạo chính được nối thông nhau thành một hệ
thống liên hoàn, khép kín với quy mô lớn. Hệ thống đường hầm có tổng
chiều dài 1.701m với 13 cửa ra vào (7 cửa thông ra biển, 6 cửa thông lên
đồi). ở hai bên đường hầm được khoét sâu và tạo ra những căn hộ đủ cho 2
đến 4 người sinh hoạt. Mặt bằng đường hầm được đào nghiêng từ 2 - 3o để
dễ dàng thoát nước. Toàn bộ đường hầm được chia thành 3 tầng (tầng 1 cách