Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi trong trường mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.07 KB, 21 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
THỂ CHẤT CHO TRỂ 4 – 5 TUỔI TRONG TRƯỜNG MẦM NON”

Quảng Bình
1


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI: “MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
THỂ CHẤT CHO TRỂ 4 – 5 TUỔI TRONG TRƯỜNG MẦM NON”

Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Hồng
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị cơng tác: Trường mầm non Kim Thủy

Quảng Bình
2


I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài, sáng kiến, giải pháp:
Như chúng ta đã biết: “Bậc mầm non là một mắt xích quan trọng trong hệ
thống giáo giáo dục quốc dân”. Trong giai đoạn này trẻ sẽ được tiếp thu những
kiến thức, những hình ảnh xung quanh trẻ một cách dễ dàng qua các môn học: làm


quen với toán, âm nhạc, khám phá khoa học, thể dục, làm quen văn học và tạo
hình. Thực tế hiện nay một số trẻ năm nay mới đi học nên kỹ năng vận động của
một số trẻ còn hạn chế trẻ chưa thực sự hứng thú tham gia vào hoạt động, thực hiện
các kỹ năng vận động lúng túng, thể lực kém, khả năng chú ý chưa cao. Xuất phát
từ yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích
cực chủ động sáng tạo của học sinh theo quan điểm chỉ đạo của Bộ Giáo dục và
Đào tạo. Chính vì vậy tơi đã tìm hiểu và nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp nâng
cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi trong trường mầm non”
2. Những điểm mới của đề tài, sáng kiến, giải pháp:
2.1. Điểm mới của đề tài
Phát triển thể chất trong trường học nói chung, bậc mầm non nói riêng, cùng
với các tiết học khác có nhiệm vụ quan trọng trong việc phát triển toàn diện con
người, trang bị cho trẻ những kiến thức cơ bản, có hệ thống về khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội, kỹ năng sống, phát triển thể chất. Phát triển thể chất trong trường
học cũng là một môn học quan trọng đối với trẻ, ở mơn học này ngồi việc các em
được trang bị những kiến thức cơ bản để rèn luyện sức khỏe, nâng cao thể chất mà
còn nâng cao tư duy, phát triển tồn diện về đức, trí, thể, mỹ đáp ứng yêu cầu của
xã hội trong giai đoạn mới.
Bước sang lứa tuổi cuối lớp mẫu giáo nhỡ, hoạt động của trẻ được mở rộng,
đa dạng hơn. Vì vậy, vai trị, vị trí của trẻ khơng chỉ được mở rộng về số lượng,
phạm vi mà còn biến đổi cả về chất lượng. Ngoài ra, hằng ngày các em phải đáp
ứng rất nhiều yêu cầu của cuộc sống đối với lứa tuổi. Trong học tập ở nhà trường,
giáo viên đặt ra những yêu cầu đối với các em cao hơn, cần các em giải quyết các
nhiệm vụ học tập độc lập, tự giác hơn. Cuối năm học, các em còn phải đáp ứng yêu
cầu học tập để chuyển lớp. Trẻ cuối độ tuổi mẫu giáo nhỡ không thể tránh khỏi
những áp lực nặng nề tác động từ nhiều phía đến quá trình học tập của các em, làm
cho các em cám thấy căng thẳng, mệt mỏi và chán nản với việc học tập của mình.
Do vậy, hiện tượng khơng tập trung ln ln nảy sinh trong q trình học tập.
Đây là một trong những nội dung của nhà trường để hỗ trợ trẻ hướng đến sự phát
triển và hoàn thiện nhân cách cho các em.

Xuất phát đặc điểm lĩnh vực phát triển thể chất, kinh nghiệm giảng dạy của
bản thân và tình hình thực tế tại đơn vị mà tơi công tác trong những năm qua, tôi
chọn đề tài: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ 4 –
3


5 tuổi trong trường mầm non” nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, góp phần
nâng cao chất lượng của lớp mẫu giáo nhỡ.
2.1. Phạm vi áp dụng đề tài sáng kiến:
Đề tài: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5
tuổi trong trường mầm non” áp dụng cho việc giảng dạy môn thể dục cho học sinh
lớp mẫu giáo nhỡ trong trường mầm non.
Tuy nhiên, đề tài này cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất
mong quý đọc giả, bạn bè đồng nghiệp và các đồng chí cán bộ quản lý, lãnh đạo
ngành góp ý, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn và áp dụng rộng rải hơn.
II. PHẦN NỘI DUNG:
1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu:
Được thành lập trong giai đoạn thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục
giai đoạn 2000 - 2010. Mục tiêu quan trọng nhất của Giáo dục Lệ Thuỷ lúc đó
“xố bản trắng về giáo dục mầm non” . Điểm trường nơi tơi cơng tác là điểm khó
khăn, do đó cơ sở vật chất còn tạm bợ. Học sinh trong lớp có nhiều độ tuổi khác
nhau, các cháu chưa hề hay biết một từ tiếng Việt, chưa biết gọi cô giáo, bạn bè
trong lớp,… với trẻ mọi thứ đều sợ sệt và rất xa lạ, bỡ ngỡ.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn
sau:
* Thuận lợi.
Các cấp lãnh đạo cũng luôn quan tâm đến việc phát triển thể chất cho trẻ, tôi được
tham dự các buổi kiến tập, nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ, thực
hiện các mục tiêu của ngành.
Được sự động viên giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của Ban giám hiệu và của các giáo

viên trong trường tơi ln hồn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ban phụ huynh lớp cũng tích cực ủng hộ tơi trong q trình giảng dạy và thực
hiện nhiệm vụ được giao.
Diện tích lớp học, sân trường đủ cho trẻ tham gia hoạt động. Có phịng học thống
mát, sân trường sạch đẹp, an tồn, giáo viên có chun mơn nghiệp vụ, u trẻ, trẻ
khỏe nhiệt tình.
Bản thân tơi ln tìm tịi những bài tập thể dục, các trị chơi vận động, học hỏi các cách
tận dụng những nguồn nguyên vật liệu thải bỏ để có thể biến chúng thành những dụng
cụ học tập và đồ chơi đơn giản giúp trẻ được học, được khám phá và khắc sâu kiến thức.
* Khó khăn.
Sự phát triền khơng cân đối giữa chiều cao và trọng lượng, giữa xương ống tay,
ống chân, xương ngón tay, ngón chân đã dẫn đến sự thiếu cân đối như cao mà gầy.
Các em rất lóng ngóng, vụng về, không khéo léo khi làm việc, thiếu thận trọng,
4


hay làm đổ vỡ. Điều này gây cho các em biểu hiện tâm lý khó chịu. Các em ý
thức được sự lóng ngóng, vụng về của mình nên cố che giấu nó dẫn đến điệu bộ
khơng tự nhiên. Điều này tạo nên những mâu thuẫn trong tâm lý của trẻ giữa một
bên là bề ngồi có dáng vẻ của người lớn trong khi khả năng và những biểu hiện
của bản thân còn nhiều hạn chế. Do mới đầu năm học lên trẻ cịn nhút nhát chưa
tích cực tham gia, kỹ năng thực hiện còn lúng túng, chưa vững.
Một số loại đồ dùng phục vụ cho các hoạt động giáo dục thể chất còn thiếu, hay
đã cũ.
Do đặc thù phần lớn phụ huynh là nơng dân nên họ cũng chưa có điều kiện quan
tâm tới con em mình.
Lớp tơi phụ trách có 24 cháu, vào đầu năm học tơi đã tiến hành khảo sát chất
lượng. Kết quả khảo sát đầu năm học 2019 – 2020 như sau:
TT


Nội dung

Số lượng

Tỉ lệ

1

Trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào hoạt động

12

50

2

Thực hiện các kỹ năng vận động.

11

45,8

3

Trẻ tập trung chú ý.

10

41,6


4

Cân nặng

16

66,7

5

Chiều cao

16

66,7

Qua bảng khảo sát trên tôi thấy việc các mặt phát triển của trẻ còn khá thấp,
trẻ chưa hứng thú tham gia các giờ học thể dục, kỹ năng thực hiện các vận động
còn kém, trẻ chưa tập trung chú ý trong giờ học, trẻ chưa linh hoạt, chưa nhanh
nhẹn, nhiều trẻ có nguy cơ suy dinh dưỡng, thấp cịi nên tôi luôn băn khoăn làm
sao để nâng cao tỉ lệ cho trẻ và đưa ra một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo
dục thể chất cho trẻ.
* Nội dung của đề tài:
- Giáo dục thể chất mầm non là một trong những mục tiêu của chương trình chăm
sóc giáo dục trẻ nhằm giáo dục phát triển toàn diện cho trẻ, thơng qua các vận
động: đi, bị, chạy, nhảy, trườn, trèo, tung, ném, bắt … trẻ có nhiều cơ hội để
luyện tập, với nhiều hình thức luyện tập phong phú, vận động hình thể và sự dẻo
dai, khéo léo của cơ thể. Đòi hỏi các thao tác, kỹ năng và vận động phải linh hoạt và
nhanh nhẹn hơn. Khi trẻ vận động trẻ biết làm thế nào để thực hiện chính xác nhanh
nhẹn và khơng sai phương pháp để cơ thể khỏe mạnh hơn.

Đây cũng chính là một trong những hoạt động mà trẻ mầm non nói chung và trẻ
4 - 5 tuổi nói riêng rất thích thú tham gia.
Giáo dục thể chất trong trường mầm non cần đảm bảo các yêu cầu sau:
5


Trẻ khỏe mạnh, cân năng chiều cao phát triển bình thường theo lứa tuổi.
Giữ được thăng bằng khi đi trên ghế thể dục.
Kiểm soát được vận động khi thay đổi hướng theo vật chuẩn.
Phối hợp tốt vận động tay- mắt trong tung/ đập/ ném- bắt bóng; cắt giấy theo
đường thẳng, tự cài cúc buộc dây giầy.
Nhanh nhẹn khéo léo trong vận động chạy nhanh, bị theo đường dích dắc.
Biết tên một số món ăn và ích lợi của ăn uống đủ chất.
Thực hiện được một số việc tự phục vụ trong sinh hoạt khi được nhắc nhở.
Biết tránh một số vận dụng gây nguy hiểm, nơi an toàn.
Vậy muốn trẻ có một cơ thể khỏe mạnh, cơ thể phát triển bình thường thì ngay từ khi cịn
nhỏ cần có những nội dung cũng như phương pháp, biện pháp luyện tập cho trẻ phù hợp, để
trẻ phát triển toàn diện và bản thân tôi là một giáo viên Mầm non, cũng đang dạy độ tuổi này
nên tôi đã chọn đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ 4 - 5
tuổi trong trường mầm non”
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu 24 trẻ lớp mẫu giáo nhỡ ghép 3-4, 4- 5 tuổi trong năm học
2019 - 2020.
Căn cứ vào thực tế và kinh nghiệm tôi chọn nghiên cứu đề tài “Một số giải pháp
nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi trong trường mầm non”
2. Các giải pháp
Trong cuộc sống của mỗi chúng ta, từ bé đến lúc trưởng thành ai cũng giao
tiếp và vận động, giao tiếp là hoạt động vô cùng quan trọng giúp con người hồn
thiện nhân cách, chính vì lẽ đó mà mơn thể dục trở thành mơn học được xem là
quan trọng trong nhà trường, vì nó giúp cho các cháu luyện tập và vui chơi giải trí

đồng thời thể dục không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày, vì thể dục khơng
những giúp cho các cháu trong nhà trường mầm non mà còn giúp cho mọi người,
mọi lứa tuổi trong xã hội. Trong quá trình giáo dục thể chất cho trẻ mầm non, các
nhiệm vụ giáo dục thể chất mầm non được thực hiện bằng các hình thức khác
nhau. Chính vì vậy tơi đã đưa ra các giải pháp sau:
* Giải pháp 1: Nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của giáo viên.
- Nghiên cứu tài liệu chuyên môn và tham khảo các tài liệu liên quan
Trước hết, đòi hỏi giáo viên nắm chắc đặc trưng bộ môn, chương trình của
các lớp trong bậc học, chuẩn kiến thức kỹ năng và phương pháp cơ bản của môn
học. Trên cơ sở đó để vận dụng một cách linh hoạt nhưng đáp ứng u cầu đề ra.
Thường xun tìm tịi, nghiên cứu các tài liệu về phát triển thể chất qua sách
báo, mạng Internet, đặc biệt là những tài liệu nghiên cứu về sự phát triển tâm sinh
lý lứa tuổi học sinh ở bậc mầm non, qua đó tìm ra phương pháp giáo dục phù hợp
và hiệu quả.
6


- Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, dự giờ đồng nghiệp:
Tăng cường học tập, tích lũy kiến thức, đặc biệt là những kiến thức chuyên
môn thông qua các chuyên đề ở trường, cụm, các bài học về bồi dưỡng thường
xuyên, tập huấn. Chuẩn bị cho mình những kĩ năng thị phạm kĩ thuật các động tác
một cách chuyên nghiệp nhằm kích thích thu hút học sinh trong các giờ học.
Tích cực dự giờ, học hỏi kinh nghiệm của các đồng nghiệp, nhất là những
người có năng lực chun mơn, có kinh nghiệm nhiều năm trong nghề, có uy tín
trong giảng dạy và giáo dục học sinh.
- Chuẩn bị bài dạy chu đáo:
Trên cơ sở phân phối chương trình, giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung
bài dạy, những kiến thức, kỹ năng cần cung cấp cho các em, đặc biệt các loại trang
thiết bị, đồ dùng dạy học, sân bãi…
Giáo viên cần nghiên cứu kỹ để chuẩn bị các hình thức tổ chức lớp học cho phù

hợp với tiết dạy và điều kiện sân bãi của nhà trường.
Ngoài việc chuẩn bị của giáo viên, giáo viên cần nhắc nhở học sinh chuẩn bị
bài ngay cuối tiết học trước để các em chuẩn bị tâm thế, trang phục, dụng cụ học
tập (nếu có) để tiết học có chất lượng.
Nội dung bài dạy cần soạn trước ít nhất 2 ngày, bài soạn bảo đảm đầy đủ các
hoạt động của thầy và trò, thời gian và khối lượng vận động, đảm bảo tính khoa
học, phù hợp với điều kiện, giáo viên cần xem nhiều lần để thâm nhập bài dạy
đồng thời có thể bổ sung những vấn đề mới.
Nội dung câu hỏi đảm bảo tính lơgic, rõ nghĩa, dễ hiểu, ngắn gọn, câu hỏi mang
tính gợi mở, cần phân loại câu hỏi theo đối tượng học sinh.
- Một số giải pháp thực hiện trong giờ học:
Kiểm tra sân bãi, dụng cụ đối với các tiết dạy thực hành: Đối với các tiết dạy
thực hành ngồi trời, để có tiết dạy thành cơng và đảm bảo an tồn cho thầy và trị,
bắt buộc người giáo viên cần kiểm tra kỹ các yếu tố liên quan đến bài dạy như:
dụng cụ, sân bãi, hố nhảy, đường chạy, trang phục của học sinh… tạo tâm lý thoải
mái, an toàn cho học sinh trong học tập.
Giáo dục thể chất cho trẻ mầm non là một trong những nhiệm vụ hàng đầu,
quan trọng nhất giúp trẻ phát triển thể lực được tốt cơ thể khỏe mạnh hài hòa, cân
đối là một trong những nhiệm vụ quan trọng của trường mầm non. Trong chương
trình chăm sóc giáo dục trẻ, phát triển thể lực thông qua các hoạt động một ngày
của trẻ như: chăm sóc ni dưỡng, giáo dục, phát triển vận động thể chất. Đó là
nội dung cơ bản ảnh hưởng trực tiếp của việc nâng cao chất lượng của quá trình
giáo dục thể chất cho trẻ nhằm đào tạo thế hệ trẻ phát triển trí tuệ, cường tráng về
thể chất, phong phú về tinh thần và trong sáng về đạo đức. Ở lứa tuổi này, cơ thể
trẻ đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ và hoàn thiện dần. Do vậy trẻ chỉ có
thể phát triển tốt nếu như được chăm sóc một cách hợp lý. Giáo dục thể chất mầm
7


non là một trong những nội dung giáo dục quan trọng của nhà trường nhằm đào

tạo thế hệ trẻ Việt Nam phát triển trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về
tinh thần và trong sáng về đạo đức.
* Giải pháp 2: Khảo sát để nắm được tình hình thể trạng của từng trẻ.
Ngay từ đầu năm học tôi tiến hành tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý, tìm hiểu nhận thức và
khả năng của từng trẻ phối hợp cùng phụ huynh trao đổi về tình trạng sức khỏe của từng
trẻ ở lớp, ở nhà. Từ đó thấy được những điểm mạnh điểm yếu của cá nhân trẻ để xây
dựng đề tài phù hợp để phát triển thể chất cho trẻ một cách tốt nhất.
Các đề tài cần tập luyện từ dễ đến khó, tập luyện với các vận động cơ bản:
Đi, bò, chạy, nhảy, leo, trèo, trườn, bật.
Vận động của bàn tay, sự khéo léo của các ngón tay, phối hợp được vận động mắt - tay,
kỹ năng sử dụng các đồ dùng dụng cụ.
Phát triển các nhóm cơ xương: cơ tay, cơ lưng, cơ bụng…
Trẻ thực hiện được các vận động theo nhạc: nhịp điệu, hiệu lệnh bằng lời với các dụng
cụ: gậy, vịng, bóng,…
Ví dụ: Với bài tập vận động: “Bật liên tục về phía trước”
Yêu cầu của bài tập là trẻ phải bật được liên tục về phía trước qua các ơ, với những trẻ
khá khi cô hướng dẫn trẻ sẽ tập dễ dàng, nhưng với một số trẻ nhút nhát chưa mạnh dạn
cô động viên, khích lệ trẻ, trẻ nào thể lực kém cơ cho trẻ thực hiện nhiều lần (số lần cách
nhau không tập liên tục trẻ sẽ mệt mất sức) với tốc độ tăng dần để đạt được, yêu cầu kỹ
năng vận động của bài tập.
Bản thân đã nắm bắt được đặc điểm của từng trẻ, cô gần gũi nên trẻ rất thoải mái
trẻ thực hiện vận động trẻ tự nhiên, không bị gị bó hay áp đặt, trẻ hứng thú tham
gia. Trẻ phát triển được các vận động tinh thô và các tố chất nhanh, bền, khéo
cũng được phát triển.
* Giải pháp 3: Giáo dục thể chất thông qua các hoạt động nhằm nâng
cao chất lượng
+ Thể dục sáng
Thể dục buổi sáng đối với trẻ em hàng ngày có ý nghĩa rất lớn, đặc biệt là trẻ ở
lứa tuổi mầm non. Thể dục buổi sáng giúp trẻ có được sự sảng khối cho cả ngày.
Trước khi tập cơ cùng trẻ trị chuyện về ích lợi tập thể dục sáng, cho trẻ biết được

tập thể dục sáng giúp cơ thể khoẻ mạnh hơn…
- Khởi động:
Tôi chọn các bài hát liên khúc cho trẻ đi vòng tròn thực hiện các kiểu đi, chạy: Đi
thường, đi bằng mũi bàn chân, đi bằng gót chân, chạy nhanh, chạy chậm... dưới
nền nhạc một bài hát về chủ đề hay nền nhạc khởi động nào đó theo yêu cầu 3- 4
phút, rồi về đội hình hàng ngang hay dọc theo yêu cầu của cô.
- Trọng động:
8


Cô cho trẻ tập các động tác tay, chân, bụng, bật kết hợp lời ca một bài hát về chủ
đề theo cô.
Động tác tay: hai tay lên cao hạ xuống.
Động tác chân: hai tay giang ngang ra trước hạ xuống, chân khuỵu.
Động tác lưng, bụng: nghiêng người sang 2 bên. Bật tiến, lùi.
Cô giới thiệu bài tập và tập mẫu cho trẻ tập theo cô các động tác 2 lần x 4 nhịp.
Trẻ tập cô chú ý bao quát, sửa sai và động viên trẻ kịp thời.
Cho trẻ tập 2, 3 lần sau mỗi lần tập cô cùng trẻ nhận xét.
- Hồi tĩnh:
Kết thúc: cho trẻ làm “chim bay” (Những chú chim bay từ từ, nhẹ nhàng).
Hoạt động thực hiện trong khoảng 15 phút.
Tập luyện thường xuyên, thể lực của trẻ nâng cao, củng cố các nhóm cơ, hình
thành tư thế đúng đắn, bên cạnh đó cịn rèn luyện được những kỹ năng vận động
cần thiết khác như: nhanh nhẹn, khéo léo.
Khi tham gia buổi tập trẻ nên mặc quần áo thích hợp để dễ vận động,các dụng cụ
như: gậy, nơ, vòng,… cần được chuẩn bị đầy đủ để tăng thêm hứng thú cho trẻ.
Q trình tập cơ cần bao quát các tư thế của từng động tác, tư thế sai cơ cần sửa
kịp thời cho trẻ.
Ví dụ: Khi tập các động tác tay hai tay dang ngang, lên cao, khi trẻ tập hai tay
dang ngang cao bằng vai, đưa lên cao tay phải thẳng hơi chếch hình chữ v đồng

thời hai lòng bàn tay phải hướng vào nhau, mắt nhìn theo tay, chân rộng bằng vai.
Quá trình hình thành cho trẻ những thói quen thể dục. Với những động tác đơn
giản, bài hát phù hợp với chủ điểm trẻ đang học trẻ được tập theo tiếng nhạc góp
phần rèn luyện và phát triển cảm giác nhịp điệu, khả năng quan sát, ghi nhớ, chú ý
có chủ định. Rèn luyện tính trung thực, tính kỷ luật, tinh thần tập thể, tự tin cho
trẻ.
+ Giáo dục thể chất thông qua các hoạt động học có chủ đích
Để giáo dục thể chất cho trẻ có thể nói hoạt động có chủ đích đóng vai trị rất
quan trọng, bởi qua giờ học trẻ được làm quen với những vận động cơ bản với
những kiến thức và kỹ năng một cách chính xác nhất. Chính vì vậy mỗi khi dạy
trẻ một vận động nào đó tơi đều nghiên cứu để tìm ra những hình thực tổ chức sao
cho trẻ hứng thú và tích cự hơn khi tập luyện.
Ví dụ: Qua hoạt động thể dục với bài tập: “Bật xa 35- 40 cm” (Loại tiết: cung cấp
kiến thức mới) chủ đề gia đình tơi tổ chức dưới hình thức hội thi “Bé khỏe khéo”,
gồm 3 phần:
+ Phần 1: Đồng diễn diễn thể dục
+ Phần 2: Bé khỏe khéo
+ Phần 3: Trao giải
9


Trong hoạt động học có thể đưa phần gây hứng thú vào bằng lồng ghép qua kể
một đoạn truyện.
VD: Kể một câu chuyện có tình tiết thỏ bị xa suống một hố sâu, nhiệm vụ của
chúng mình bật qua một đoạn đường nhỏ để cứu thỏ gây hứng thú cho trẻ tò mò
và muốn được tham gia.
Trong vận động cơ bản “Bật xa 35- 40 cm”: Tôi cho trẻ thực hiện dưới hình thức
thi đua để trẻ hứng thú hơn khi tập.
Trò chơi vận động nên chọn các bài tập phù hợp với tính chất của vận động cơ
bản

Ví dụ: Bật xa 35- 40 cm là vận động mang tính chất động nên khi chọn trị chơi
vận động thì tơi chọn những trị chơi mang tính chất tĩnh như: truyền tin, ném
bóng, ném vịng cổ chai…
Trong phần hồi tĩnh: tơi đã sử dụng một số bài hát, đoạn nhạc có giai điệu nhẹ
nhàng như “Chim mẹ chim con” ở chủ điểm thế giới động vật, hay bài hát “cho
con” trong chủ đề gia đình…với những động tác của chú chim non, chú gà ngộ
nghĩnh đáng yêu.
Trẻ rất hứng thú tham gia họat động, trẻ tự nhiên sôi nổi, các vận động phù hợp.
Trên 93% trẻ thực hiện thành thạo kỹ năng vận động các yêu cầu về kiến thức và
kỹ năng của bài tập.
+ Giáo dục thể chất cho trẻ thơng qua hoạt động ngồi trời, phát triển
vận động có chủ đích ngồi trời.
Những trị chơi trong hoạt động ngồi trời của trẻ mầm non rất đa dạng, đó là
những trò chơi hàng ngày trẻ được tham gia vận động, đơn giản dễ nhớ, dễ chơi.
Ví dụ: Trị chơi “Kéo co”: tơi tổ chức như sau:
Cơ giới thiệu trị chơi, luật chơi, cách chơi:
Luật chơi: Bên nào giẫm vào vạch trước là thua cuộc.
Cách chơi: Chia trẻ thành 2 nhóm bằng nhau, tương đương sức nhau xếp thành 2
hàng dọc đối diện nhau. Mỗi nhóm chọn một trẻ khỏe nhất đúng đầu hàng ở vạch
chuẩn, cầm sợi đây thừng và trẻ khác cũng cầm vào dây. Khi có hiệu lệnh của cơ,
tất cả kéo mạnh dây về phía mình. Nếu người đứng đầu hàng nhóm nào giẫm
chân vào vạch chuẩn trước là thua cuộc.
Hay những trò chơi vận động khác phù hợp với các chủ đề khác nhau như: Chim
sẻ và ô tô. Mèo đuổi chuột. Lộn cầu vồng. Thỏ tìm chuồng. Rồng rắn lên mây…
Trong trị chơi tất cả trẻ đều được tham gia chơi, đều bình đẳng như nhau, trẻ thích
thú, chơi khơng biết mệt là gì, thỏa mãn nhu cầu chơi của trẻ, các mối quan hệ của trẻ
được củng cố và phát triển, trẻ bộc lộ những nhu cầu của bản thân mình, trẻ bộc lộ
khả năng hoạt động trong tập thể với những vị trí tương ứng.
Có thể nói trong hoạt động ngồi giáo dục thể chất cho trẻ rất quan trọng, trẻ được
vui chơi bên cạnh đó cịn phát triển kỹ năng vận động, các tố chất nhanh, mạnh,

10


bền, những trị chơi này mang tính tập thể cao, khi tham gia trị chơi trẻ phải đồn
kết để có được những chiến thắng, do đó nó cịn hình thành cho trẻ tinh thần đoàn
kết, yếu tố này cũng rất quan trọng để hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ.
Thơng qua hoạt động phát triển vận động có chủ đích ngồi trời tơi có thể cho trẻ
ơn luyện củng cố các kỹ năng vận động trong giờ học thể dục dưới hình thức các
trị chơi nên trẻ rất vui vẻ và tích cực tham gia, kết quả đạt trên trẻ được nâng cao
rõ rệt. Ngồi ra trẻ cịn được chơi với rất nhiều những đồ dùng đồ chơi ngồi trời
như: Xích đu, đu quay, cầu trượt, thang leo…Qua đó giúp trẻ phát triển tố chất
vận động như nhanh nhẹn khéo léo…Bên cạnh đó tơi cịn chuẩn bị rất nhiều
những vật liệu tư thiên nhiên như: sỏi, lá cây, cát nước…để trẻ được trải nghiệm
và phát triển những kỹ năng vận động tinh.
+ Giáo dục thể chất qua giờ ăn
Khi đến giờ ăn cơ có thể gợi ý trẻ về các thức ăn ngày hơm đó có những chất
gì.
Ví dụ: thịt lợn thì có chất đạm, rau có nhiều các loại vitamin, hàng ngày cần ăn đủ các
nhóm cơ bả như: chất đạm, chất bột đường, chất béo, và vitamin, để trẻ nhận thức
được tầm quan trọng của giờ ăn và cố gắng ăn hết xuất của mình.
Trước và trong khi ăn có ảnh hưởng rất lớn đến cảm giác muốn ăn không chỉ
người lớn mà trẻ cũng như vậy. Chính vì vậy, cơ khơng để trẻ bị ức chế bởi một lý
do nào đó trong khi ăn cần tạo bầu khơng khí ấm cúng vui vẻ, n tĩnh, nhẹ
nhàng cho trẻ tránh những gây xúc động mạnh…trẻ hứng thú ăn thì cảm giác
ngon miệng của trẻ sẽ được tăng lên.
Ăn uống đầy đủ giúp cơ thể khoẻ mạnh. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cân nặng
và chiều cao nhưng chất lượng của dinh dưỡng vẫn là chủ yếu. Trẻ em nếu ăn
uống hợp lý thì tất phát triển về chiều cao.
Qua giờ ăn trò chuyện với trẻ về các chất dinh dưỡng, tầm quan trọng của
giờ ăn giúp trẻ ăn hết xuất, ăn ngon miệng nên tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng và thấp cịi

của lớp tơi giảm đáng kẻ so với đầu năm.
+ Giáo dục thể chất cho trẻ mọi lúc, mọi nơi
Giáo dục thể chất cho trẻ không chỉ ở trong các hoạt động học mà cần rèn luyện
cho trẻ mọi lúc mọi nơi.
Tôi đã tham gia hội thi làm đồ dùng đồ chơi phát triển thể chất cho trẻ trong
trường mầm non. Phối hợp với các bậc phụ huynh học sinh trong cụm để làm đồ
dùng đồ chơi. Kết quả đạt giải nhất. Qua những đồ dùng đồ chơi tự làm giúp trẻ
hứng thú tìm hiểu các đồ dùng đồ chơi và được trải nghiệm với các đồ dùng, đồ
chơi để phát triển thể chất, với những trải nghiệm trên trẻ rất hứng thú và tích
lũy được nhiều kỹ năng sống trong khi trải nghiệm thực tế.
* Giải pháp 4: Kết hợp cùng phụ huynh nâng cao thể lực cho trẻ
11


Trong tất cả các hoạt động giáo dục nói chung và giáo dục thể chất nói riêng để đạt hiệu
quả tốt nhất cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình– giáo viên hết sức quan trọng.
Ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát trẻ, biết được tình hình: đặc điểm
của từng trẻ, dưới sự chỉ đạo của nhà trường tôi đã tổ chức họp phụ huynh thông
qua nhiệm vụ trọng tâm trong năm học và đề ra phương hướng để nâng cao chất
lượng chăm sóc giáo dục trẻ trong nhà trường. Đã được phụ huynh đặc biệt quan
tâm và thảo luận sôi nổi. Tôi trao đổi với phụ huynh về kiến thức, sự cần thiết
phải phải nâng cao thể lực cho trẻ như thế nào. Tơi đề nghị các bậc phụ huynh cần
quan tâm tìm hiểu cách rèn luyện ở trường để tìm ra phương pháp hiệu quả kết
hợp cùng nhà trường chăm sóc giáo dục trẻ.
VD. Huy động từ phụ huynh học hỗ trợ đồ dùng phế liệu, kinh phí, giúp đỡ về
ngày cơng để giúp giáo viên trong thực hiện dạy trẻ phát triển thể chất.
Trong các giờ đón trả trẻ, trao đổi với phụ huynh về vấn đề học tập sức khỏe của
trẻ, đặc biệt với những trẻ suy dinh dưỡng, thấp còi.
Sự phối hợp chặt chẽ, với kết quả đạt được cuối năm như trên phụ hunh rất phấn
khởi, đặc biệt là những phụ huynh có trẻ từ suy dinh dưỡng, thấp cịi, lên bình

thường. Chính từ kết quả này mà tôi đã tạo được niềm tin với phụ huynh, phụ
huynh rất tin tưởng khi đưa con tới lớp, tôi cũng đã làm tốt công tác tuyên truyền
tới từng phụ huynh về vấn đề nâng cao chất lượng thể lực cho trẻ. Phụ huynh đã
nhiệt tình ủng hộ, qun góp ngun vật liệu để làm dùng đồ chơi phục vụ cho
các hoạt động giáo dục thể chất cho trẻ.
+ Phát triển thể chất cho trẻ thông qua hoạt động lao động
Giáo dục lao động là một bộ phận quan trọng của giáo dục phát triển tồn
diện, nhằm hình thành ở trẻ những phẩm chất của người lao động mới: yêu lao
động, quý trọng người lao động; giúp trẻ nắm được một số kĩ năng lao động đơn
giản phục vụ cho sinh hoạt và chuẩn bị cho trẻ sau này tham gia vào đời sống lao
động.
Giáo dục lao động có ý nghĩa quan trọng đối với các mặt giáo dục khác và có quan
hệ mật thiết với chúng, giúp cho q trình giáo dục nhân cách phát triển toàn diện
diễn ra thuận lợi
Lao động của trẻ mẫu giáo gắn liền với trò chơi. Mối liên hệ qua lại này thể hiện ở
các hình thức khác nhau: Hành động của trẻ thường nhằm mơ tả q trình lao động
của người lớn, các yếu tố của hành động lao động được thể hiện trong trò chơi,
hoạt động lao động phục vụ…
Khi trẻ tham gia lao động, động cơ thúc đẩy trẻ tích cực, tự giác thường do động
cơ chơi chi phối: được làm bác cấp dưỡng bày bàn ăn, chia cơm canh cho các bạn;
được trở thành người làm vườn tưới nước cho cây; dọn bàn ghế, cất đồ chơi thật
nhanh để thắng bạn… Do vậy, khi tổ chức cho trẻ lao động cần quán triệt phương
châm: “Làm mà chơi, chơi mà làm”. Nghĩa là giờ lao động của trẻ phải diễn ra nhẹ
12


nhàng như là chơi vậy, hay ít ra cũng cần đưa yếu tố chơi để kích thích tính tích
cực, tự giác của trẻ.
– Lao động tự phục vụ
Lao động tự phục vụ là hình thức lao động nhằm thoả mãn những nhu cầu sinh

hoạt cá nhân hằng ngày, nhằm chăm sóc cho bản thân mình (tắm rửa, cởi quần áo,
thu dọn giường ngủ, chuẩn bị chỗ làm việc đi giày dép v.v…).
Ý nghĩa của lao động tự phục vụ trước hết là ở sự cần thiết của nó, khuynh hướng
thoả mãn những nhu cầu sinh hoạt cá nhân hằng ngày của trẻ. Do hành động được
lặp đi lặp lại hằng ngày, các kĩ xảo tự phục vụ được trẻ lĩnh hội vững chắc, tạo điều
kiện thuận lợi cho trẻ nắm kinh nghiệm thực tế và độc lập hành động. Đồng thời,
trẻ ý thức được mọi người đều có trách nhiệm lao động liên quan đến những nhu
cầu sống hằng ngày của mình. Lao động tự phục vụ bắt đầu được nhận thức như
một trách nhiệm, như là sự bắt buộc.
Ở tuổi mẫu giáo bé, hình thức lao động này rất vừa sức và hấp dẫn đối với trẻ. Tuy
nhiên, lúc đầu đối với trẻ hình thức lao động này có thững khó khăn nhất định (vì ở
tuổi này sự phát triển các ngón tay, cử động của các ngón tay và sự phối hợp giữa
chúng chưa hoàn thiện, trẻ chưa ý thức được về thứ tự các hành động, chưa biết đặt
kế hoạch, dễ mất tập trung v.v…). Giáo viên phải hình thành cho trẻ kỹ năng tự
phục vụ, rèn luyện cho trẻ tính độc lập, tính cẩn thận và thói quen giữ gìn sạch sẽ.
Giáo viên phải biết tổ chức quá trình lao động tự phục vụ cho mọi trẻ, đưa nội
dung phức tạp dần. Giáo viên phải thật kiên trì dạy trẻ kĩ xảo lao động tự phục vụ
với phương pháp cơ bản là trình bày cách làm của từng động tác đơn giản và trình
tự của chúng, vừa làm mẫu, vừa giải thích. Giáo viên phải tiếp xúc với từng em,
nhất là các em còn yếu. Đưa trẻ vào thực hành với sự nỗ lực, sự cẩn thận, chu đáo
của cơ nhằm đạt được kết quả phía trẻ. Hướng dẫn trẻ theo một cách làm nhất định,
theo một trình tự hành động hợp lí. Ở lớp bé có thể dạy trẻ tự ăn, tắm rửa, mặc và
cởi quần áo. Q trình hướng dẫn cho trẻ có được những thói quen văn hố – vệ
sinh phải rất tỉ mỉ, lâu dài, giáo viên phải luôn củng cố, kiểm tra, nhắc nhở, nêu
gương và đưa trẻ vào rèn luyện hằng ngày.
Trẻ mẫu giáo nhỡ đã có được những kĩ năng tự phục vụ đơn giản như ở lớp bé. Tuy
nhiên, cần củng cố những kĩ năng, kĩ xảo đã có và hình thành kĩ xảo tự phục vụ
phức tạp hơn. Nâng cao yêu cầu đối với chất lượng hành động, đối với hành vi có
tổ chức trong q trình chăm sóc bản thân, giúp đỡ bạn và yêu cầu hình thành được
thói quen (bày bàn ăn, chuẩn bị cho giờ học, lau bụi trên giá, quét sân v.v…).

Ở nhóm trẻ lớn, nội dung phong phú hơn, mang tính chất thường xuyên và chuyển
dần thành nhiệm vụ trực nhật. Các kĩ năng, kĩ xảo mới đưa thêm vào như thu dọn
giường nằm, sửa chữa đồ chơi, chải tóc, lau giày, giữ vệ sinh trong phịng và ngồi
sân. Đặc điểm của lao động của trẻ lớn là biết tự tổ chức công việc và giúp đỡ các
em nhỏ hơn, biết tự kiểm tra và có ý thức giữ gìn đồ vật.
13


– Lao động trong sinh hoạt
Lao động sinh hoạt là hình thức lao động đi vào tồn bộ cuộc sống hằng ngày của
trường mẫu giáo. Hình thức lao động này nhằm giữ gìn sự sạch sẽ và ngăn nắp
trong lớp và ngoài sân trường, giúp đỡ người lớn tổ chức quá trình sinh hoạt hằng
ngày. Lao động sinh hoạt nhằm phục vụ chung cho tập thể, vì vậy có khả năng to
lớn để giáo dục thái độ quan tâm đến tập thể, đến các bạn.
Ở tuổi mẫu giáo bé, hình thành cho trẻ những kĩ xảo sinh hoạt sơ đẳng: giúp đỡ
dọn bàn ăn, xếp gọn đồ chơi sau khi chơi, thu dọn lá cây ngồi sân.
Ở nhóm trẻ nhỡ, nội dung lao động sinh hoạt được mở rộng hơn: trẻ hoàn toàn tự
bày bàn ăn, chuẩn bị mọi thứ cần thiết cho giờ học, giặt quần áo cho búp bê, lau
bụi trên giá để đồ chơi, quét sân v.v… Bằng các cơng việc cụ thể sẽ hình thành cho
trẻ các kĩ xảo lao động, sinh hoạt. Giáo viên tập cho trẻ những thói quen tốt trong
lao động, phát triển tính độc lập, tính tích cực và óc sáng kiến trong các cơng việc
được giao.
Ở nhóm trẻ lớn, nội dung lao động phong phú hơn, mang tính chất thường xuyên
và phần lớn chuyển thành nhiệm vụ của các em trực nhật. Trẻ giữ gìn sạch sẽ lớp
học, ngồi sân chơi, sửa chữa đồ chơi, dán lại sách vở, giúp đỡ các em nhỏ. Trẻ
nhóm lớn phải biết tự tổ chức các công việc – trẻ luôn tỏ ra cố gắng, muốn có kết
quả tốt và quan hệ tốt với bạn bè để được đánh giá cao.
- Lao động trong thiên nhiên
Lao động trong thiên nhiên là hình thức lao động cho trẻ tham gia chăm sóc cây
cối và súc vật, trồng cây ở góc thiên nhiên ngồi vườn, trong vườn hoa.

Lao động của trẻ trong thiên nhiên có ý nghĩa đặc biệt để phát triển trí tuệ, phát
triển óc quan sát, giáo dục ý thức bảo vệ thiên nhiên. Lao động trong thiên nhiên
tạo điều kiện tất để phát triển thể lực nâng cao sức chịu đựng của cơ thể. Lao động
trong thiên nhiên thường xuyên giáo dục lòng yêu lao động và mang lại niềm vui
cho trẻ trong lao động. Trẻ có được những kĩ xảo thực hành đơn giản, sử dụng các
dụng cụ lao động, biết chăm sóc cây trồng, vật nuôi, hiểu biết nhiều về sự sinh
trưởng và phát triển của cây, tập tính của các động vật.
Trẻ nhỏ, khi lao động với trẻ, giáo viên gọi tên các cây, các bộ phận của chúng, các
động tác trong lao động. Việc đó làm mở rộng vốn từ cho trẻ. Trẻ quan sát cây cối
(lá nhỏ, lá to), ngửi hoa, đếm các bông hoa nở v.v… Giáo viên giải thích sự cần
thiết chăm sóc cây cối và súc vật.
Ở nhóm trẻ nhỡ, cơng việc phức tạp hơn, trẻ tự tưới cây (gieo hạt), tưới luống, thu
hoạch rau với sự giúp đỡ của giáo viên, chuẩn bị thức ăn cho gia súc (thỏ, gà
v.v…). Trẻ bắt đầu hiểu quan hệ phụ thuộc giữa tốc độ sinh trưởng của cây, hành vi
của động vật với chất lượng chăm sóc và hiểu trách nhiệm của mình đối với chúng,
do đó, trẻ quan tâm hơn đến vật nuôi.
14


Ở nhóm trẻ lớn, các nhiệm vụ có tính chất thường xuyên và phức tạp hơn. Trẻ tưới
bằng bình tưới, xới đất, bón thúc cho cây, cho cá ăn, cuốc đất ngoài vườn rau, vườn
hoa, tham gia thu hoạch. Giáo viên dạy trẻ quan sát sự sinh trưởng của cây, phân
biệt các loại cây, hạt. Trong lao động ở góc thiên nhiên, những khái niệm của trẻ về
đời sống động vật và thực vật mở rộng hơn, trẻ hiểu mối liên hệ giữa các hiện
tượng trong thiên nhiên; độc lập, ý thức trách nhiệm trong lao động được nâng cao.
– Lao động thủ cơng
Lao động thủ cơng là hình thức cho trẻ làm các đồ vật bằng các vật liệu khác nhau
như bìa cát tơng, giấy, gỗ, các vật liệu tự nhiên (các hạt, củ, quả, vỏ cây, v.v…),
phế liệu (các mụn giẻ, ống chỉ, hộp, ống bơ v.v…) hình thức này phần lớn tiến
hành ở các nhóm trẻ lớn. Trẻ có thể làm đồ chơi, hay các đồ chơi dùng cho trị chơi

như: con thuyền, cái nhà, xe ơm, bàn ghế, động vật v.v…
Hình thức lao động này tạo điều kiện để giáo dục kĩ thuật tổng hợp. Trẻ bắt đầu
bước vào thế giới kỹ thuật đầy hấp dẫn, điều đó có ý nghĩa quan trọng cho sự phát
triển sau này của trẻ.
Lao động thủ công phát triển năng lực thiết kế, các kĩ xảo thực hành, hứng thú lao
động, những khuynh hướng có ích, tìm hiểu các kĩ thuật đơn giản.
Trẻ tiếp thu những khái niệm bước đầu về tính chất các vật liệu: vật liệu có thể
biến đổi làm ra nhiều đồ vật, như biến đổi phải sử dụng một số dụng cụ, cách gắn
liền các bộ phận (bằng hồ, đinh, bằng lắp ghép, xếp, gấp v.v…). Ví dụ: gỗ có thể
bào, cưa, cắt, khoan, đóng đinh, gắn. Khi sử dụng gỗ có thể dùng cưa, dao, búa,
kìm, giấy ráp v.v… trẻ biết được tính chất phong phú của các vật liệu tự nhiên.
Trong lao động thủ cơng, có thể giáo dục trẻ nhiều phẩm chất như tính kiên trì, cẩn
thận, tính mục đích và ý thức vượt khó để đạt mục đích, đồng thời, giáo dục cho trẻ
óc thẩm mĩ, trí tưởng tượng sáng tạo. Cần dạy cho trẻ các kĩ năng, kĩ xảo để trẻ có
khả năng thực hiện ý định của mình. Có như vậy, mới hình thành cho trẻ hứng thú
và sự say mê trong lao động sáng tạo.
* Những hình thức tổ chức lao động cho trẻ mẫu giáo
– Giao nhiệm vụ
Nhiệm vụ lao động là công việc cụ thể mà trẻ được giao và phải hồn thành một
mình hoặc cùng với các bạn. Giao nhiệm vụ là yêu cầu trẻ phải hồn thành một
cơng việc nào đó liên quan đến lao động tự phục vụ hay lao động vì tập thể.
Giao nhiệm vụ là hình thức tổ chức lao động đơn giản nhất cho trẻ mẫu giáo. Hình
thức này rất cần thiết đối với trẻ mẫu giáo bé, vì trẻ chưa thể lao động theo ý muốn
và giáo viên dùng các nhiệm vụ đơn giản để dần dần giúp trẻ trở thành người có
ích cho tập thể và cho các bạn.
Việc thực hiện các nhiệm vụ góp phần hình thành ở trẻ tinh thần trách nhiệm đối
với công việc được giao và hình thành ở trẻ hứng thú lao động. Trẻ phải tập trung ý
chí, thể hiện sự cố gắng để kết thúc công việc và báo cáo với giáo viên về việc
15



hồn thành nhiệm vụ. Các nhiệm vụ có nội dung phù hợp với các hình thức lao
động có trong chương trình (ở góc thiên nhiên, vườn rau…).
Ở nhóm trẻ nhỏ, nhiệm vụ có tính chất cá nhân, cụ thể và đơn giản, thường gồm 1,
2 hành động (đặt thìa lên bàn, cởi áo cho búp bê để giặt…) Các nhiệm vụ tuy đơn
giản nhưng đã đưa trẻ vào hoạt động vì lợi ích của tập thể, trong điều kiện các em
chưa thể tổ chức được. Nhiệm vụ tạo khả năng cho giáo viên có những biện pháp
cá biệt trong việc hướng dẫn trẻ, giúp đỡ em này, dạy một em khác, động viên
khuyến khích em thứ ba. Tuỳ theo kinh nghiệm của mỗi trẻ mà đưa ra được nhiệm
vụ phức tạp hơn.
Ở nhóm trẻ nhỡ, số nhiệm vụ tăng lên đáng kể để rèn luyện kĩ năng trở nên bền
vững và làm phong phú thêm kinh nghiệm tham gia lao động của trẻ. Nhiệm vụ trở
thành phương tiện hình thành ở trẻ ý thức tham gia vào công việc chung có ích,
hình thành thói quen cố gắng lao động và chuẩn bị cho trẻ tham gia trực nhật ở lứa
tuổi sau.
Ở nhóm trẻ lớn, các nhiệm vụ cá nhân được đặt ra trong các hình thức lao động mà
trẻ chưa có kĩ năng hoặc phải học kĩ năng mới. Đó là hình thức tập thể, theo nhóm
(5 – 6 trẻ) buộc trẻ phải có sự tổ chức, phân cơng với nhau (cùng nhau thu dọn giá
đồ chơi, dán hộp cho các trẻ chơi trị chơi học tập, các cơng việc ở vườn trường
v.v…). Điều đó góp phần hình thành ý thức tập thể, biết quan tâm, giúp đỡ lẫn
nhau để hồn thành cơng việc. Giáo viên cần giúp đỡ khi trẻ chưa có những kĩ
năng tổ chức lao động tập thể.
- Trực nhật
Trực nhật là hình thức lao động địi hỏi trẻ hoàn thành các nhiệm vụ nhằm phục vụ
tập thể. Đây là hình thức phức tạp hơn so với nhiệm vụ. Nó địi hỏi trẻ phải độc lập
hơn – trẻ lần lượt tham gia các hình thức trực nhật được phân cơng trong mỗi ngày.
Điều đó đảm bảo cho trẻ tham gia lao động thường xuyên. Chế độ trực nhật có ý
nghĩa giáo dục to lớn, nó đặt trẻ vào trong điều kiện bắt buộc phải hồn thành các
cơng việc cần thiết cho tập thể. Điều đó giúp trẻ nâng cao tinh thần trách nhiệm
trước tập thể và trẻ hiểu được cơng việc của mình là cần thiết cho mọi người.

Chế độ trực nhật được đưa vào dần dần:
+ Ở các trẻ nhỏ chỉ đưa ra nhiệm vụ đơn giản là giúp cô bày bàn ăn cho các bạn
ngồi cùng bàn. Trẻ phân phát thìa, đĩa, cốc, bánh, hoa quả… Khi trẻ tỏ ra có kĩ xảo
cần thiết và độc lập hơn thì có thể đưa vào chế độ trực nhật nhà ăn – thường là ở
đầu năm học của lớp nhỡ. Hằng ngày, mỗi em được phân công trực nhật một bàn
ăn. Giáo viên phải hướng dẫn trẻ thực hiện thứ tự các công việc, kiểm tra và giúp
đỡ các em, cô chú ý đến đặc điểm của cá nhân trẻ. Cô đánh giá và nêu bật sự cố
gắng của các em khi làm việc, có ý thức quan tâm đến bạn và giúp đỡ người lớn.
Cuối tuổi mẫu giáo nhỡ có thể thực hiện chế độ trực nhật chuẩn bị học tập – tuỳ
theo công việc, giáo viên chỉ định từng nhóm (2 – 3 em) phụ trách và hướng dẫn
16


các em làm các việc cụ thể (phân phối đồ dùng học tập, thu dọn khi dùng xong,
làm vệ sinh). Ở nhóm lớn có chế độ trực nhật trong góc thiên nhiên. Hằng ngày,
các em trực nhật thay đổi cho nhau, sao cho mỗi em đều được tham gia tất cả các
hình thức trực nhật. Khi chọn nhóm trực nhật cần chú ý đến quan hệ bạn bè giữa
các em, thoả mãn nguyện vọng làm việc cùng nhau. Cần dạy trẻ biết phối hợp hành
động với nhau, biết thoả thuận, phân công công việc cho nhau, các biện pháp sử
dụng hợp lí thời gian và sức lực.
Trong việc tổ chức hoạt động lao động phải đặc biệt chú ý giải quyết các nhiệm vụ
giáo dục đạo đức, hình thành ở trẻ những hành vi đạo đức như giúp đỡ lẫn nhau,
tôn trọng lao động của bạn…
– Tổ chức lao động tập thể
Ở nhóm trẻ lớn có nhiều khả năng để tổ chức lao động tập thể cho trẻ. Các công
việc lao động tập thể có thể tiến hành như quét dọn phòng học, sân chơi, trồng rau,
trồng hoa, thu hoạch rau quả, trang trí lớp học, hội trường v.v…
Giáo viên cần chú ý đến việc giải thích ý nghĩa cơng việc, hướng dẫn, phân cơng
việc giữa các nhóm (đảm bảo sự cơng bằng).
Trong hình thức lao động này, giáo viên đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa

các trẻ, giúp đỡ trẻ hình thành kĩ năng lao động có tổ chức và tinh thần giúp đỡ lẫn
nhau.
Có các hình thức lao động chung và lao động phối hợp. Lao động chung là tất cả
các em cùng nhau làm việc, mỗi nhóm làm một việc để hồn thành một nhiệm vụ
chung. Lao động phối hợp mang tính chất phức tạp hơn, có sự kế tiếp nhau theo
nhiều giai đoạn của cùng một công việc. Trẻ tham gia không cùng một lúc vào quá
trình hoạt động, song vẫn tạo ra khả năng tập hợp trẻ trong công việc chung phức
tạp hơn. Hình thức này tạo ra khả năng hình thành mối quan hệ tập thể rộng hơn.
Các bậc cha mẹ nên hình thành cho con thói quen làm tốt một cơng việc trong một
khoảng thời gian nhất định. Hãy động viên để con hồn thành cơng việc tới bước
cuối cùng, hãy hướng dẫn chứ không làm thay mỗi khi trẻ gặp khúc mắc không tự
giải quyết được và hãy kết thúc bằng một phần thưởng xứng đáng với những cố
gắng của con, hãy nói với con những cố gắng đó có ý nghĩa như thế nào.
Trong thời đại hiên nay, việc dạy con biết lao động và quý trọng thành quả lao
động là việc rất quan trọng. Giáo dục con giá trị của lao động giúp con có tính tự
lập, khơng lười biếng, khơng ỷ lại vào người khác và có thể thích ứng với nhiều
hồn cảnh khác nhau. Dạy cho trẻ biết lao động, biết yêu thương, chúng sẽ học
được cách làm chủ cuộc đời với đôi bàn tay của chính mình, chúng sẽ nhận ra rằng
nỗ lực của chúng chính là sự cống hiến cho những điều cịn lớn lao hơn thế trong
tương lai.
* Kết quả đạt được
17


Từ những biện pháp tôi đã nêu trên khi thực hiện tại lớp mẫu giáo nhỡ 4-5
tuổi tôi phụ trách đến cuối năm học 2019-2020 đã đạt được kết quả như sau:
STT

Nội dung


Số lượng

Tỉ lệ

1

Trẻ hứng thú, tích cực tham gia vào hoạt động

23

95,8

2

Thực hiện các kỹ năng vận động.

22

91,6

3

Trẻ tập trung chú ý.

23

95,8

4


Cân nặng

23

95

5

Chiều cao

23

95

Sau khi thực hiện các biện pháp trên tôi nhận thấy trẻ nhanh nhẹn, linh hoạt
hứng thú hơn, trẻ tích cực và chủ động tham gia nhữngvận động và hứng thú vào
các trò chơi, kỹ năng vận động tốt hơn.
Nếu như đầu năm khi tổ chức giáo dục thể chất cho trẻ, tôi thấy các cháu rất lười
vận động, không hứng thú tham gia vận động. Nhưng qua một thời gian thực hiện
và áp dụng các biện pháp trên, tơi thấy các cháu rất thích vận động và tham gia
các vận động một cách tích cực, sơi nổi hơn, các cháu khơng cịn rụt rè mà trẻ
tham gia học tập một cách tích cực, hứng thú hơn, dẫn đến trẻ sẽ thành thục kỹ
năng, kỹ xảo, kết quả cuối cùng là trẻ phát triển mạnh về mặt thể hình và sức
khỏe. Bên cạnh đó, ngơn ngữ của trẻ cũng trở nên mạch lạc hơn, trẻ mạnh dạn và
tự tin hơn trong giao tiếp, thói quen lao động tự phục vụ ở trẻ tốt hơn. Không
những thế ở trẻ cịn hình thành những phẩm chất tốt như khả năng phối hợp hoạt
động tốt với các bạn, khả năng tự kiềm chế, nhường nhịn bạn, biết chơi cùng bạn
và biết giúp đỡ bạn. Qua hoạt động vui chơi còn rèn luyện cho trẻ cả về thể lực
giúp trẻ khỏe mạnh và nhanh nhẹn hơn rất nhiều so với đầu năm học. Tỷ lệ suy
dinh dưỡng cũng giảm rõ rệt đầu năm, đồng thời còn tạo được niềm tin cho phụ

huynh với cô giáo khi đưa trẻ đến trường mầm non.
III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của đề tài, sáng kiến, giải pháp:
Quá trình thực hiện đề tài: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
thể chất cho trẻ mẫu giáo 4- 5 tuổi trong trường mầm non” tơi thấy chương trình
chăm sóc giáo dục theo hướng đổi mới, giúp người học không thụ động, mà luôn
luôn chủ động để tiếp nhận những kiến thức kỹ năng vận động một cách đúng và
chính xác người học ở đây khơng phải ai xa lạ mà chính là những mầm non của
tương lai, của cả xã hội trẻ học mà chơi, chơi mà học, thông qua chơi một cách
chủ động.
18


Sáng kiến “Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ 4– 5 tuổi
tại trường mầm non” tôi đã áp dụng tại trường mầm non tơi đang cơng tác, và có thể áp
dụng ở tất cả các trường mầm non trong tỉnh.
Từ khi áp dụng những biện pháp trên giúp trẻ phát triển được các tố chất như:
Nhanh- mạnh - bền, trẻ nhận thức được tầm quan trọng của việc rèn luyện thể
dục, thể thao, dần hình thành cho trẻ ý thức tập luyện, từ đó trẻ tham nhiệt tình
vào các hoạt động trong ngày đạt kết quả cao, đồng thời giúp giáo viên linh hoạt
và sáng tạo hơn trong quá trình giáo dục phát triển thể chất cho trẻ, hình thành
những con người có thể chất hoàn thiện tham gia vào các hoạt động, để xây dựng
đất nước ngày càng phát triển.
Sau khi áp dụng đề tài này tôi rút ra một số kinh nghiệm như:
Cần nắm rõ đặc điểm của từng trẻ để có nội dung, biện pháp giáo dục thể chất cho
trẻ phù hợp có hiệu quả.
Tạo cho trẻ mơi trường, địa điểm, đồ dùng đồ chơi để trẻ hứng thú vận động.
2. Kiến nghị, đề xuất:
Nhà trường tạo điều kiện cho giáo viên đi học các lớp bồi dưỡng về chuyên
môn để nâng cao nghiệp vụ giảng dạy, phục vụ cho công tác giảng dạy chăm lo sức

khỏe, phát triển vận động cho học sinh. Thường xuyên, nghiên cứu, học hỏi đồng
nghiệp, sách báo những kinh nghiệm về phát triển giáo dục thể chất. Tạo điều kiện
hơn về một số đồ dùng phục vụ cho hoạt động giáo dục thể chất. Ban giám hiệu có kế
hoạch bồi dưỡng cho giáo viên về kiến thức chăm sóc giáo dục trẻ.
Trên đây là những hiểu biết của tôi về đề tài “Một số giải pháp nâng cao
chất lượng giáo dục thể chất cho trẻ 4 – 5 tuổi tại trường mầm non” tôi rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học các cấp để đề tài ngày càng hoàn
thiện hơn./.

Kim Thuỷ, ngày 20 tháng 4 năm 2020
Người viết:

19


Nguyễn Thị Thanh Hồng

Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
20


.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................

21




×