Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tài liệu Tiểu luận: Tìm hiểu cây vải ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 27 trang )

TRƯỜNG ………………….
KHOA……………………….

Tiểu luận
Đề tài:


TÌM HIỂU CÂY VẢI
MỤC LỤC

Tran
g
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÂY VẢI 4
1. Cây vải: 4
2. Nguồn gốc và phân bố 4
3. Các giống vải chủ yếu ở Việt Nam và trên thế giới 5
3.1. Vải thiều Thanh Hà: 7
3.2. Vải Hùng Long: 7
3.3. Vải Lai Bình Khê : 7
3.4. Vải lai Yên Hưng : 7
4. Đặc điểm sinh lý dinh dưỡng của cây vải 8
4.1. Đặc điểm sinh trưởng phát triển của cây vải 8
4.2. Đặc điểm hệ rễ của cây vải 9
4.3. Nhu cầu dinh dưỡng của cây vải 9
4.3.1. Nhu cầu dinh dưỡng đạm 10
4.3.2. Nhu cầu về dinh dưỡng lân 10
4.3.3. Nhu cầu dinh dưỡng kali 11
4.3.4. Nhu cầu về các yếu tố dinh dưỡng khác 12
II. CÁC YÊU CẦU VỀ SINH THÁI CỦA CÂY VẢI 12
1. Yêu cầu về nhiệt độ 12
2. Yêu cầu về lượng mưa và độ ẩm 13


3. Yêu cầu về ánh sáng 14
4. Yêu cầu về đất đai 15
III. CÁCH TRỒNG VÀ CHĂM SÓC CHO VẢI 16
1. Chọn và chuẩn bị đất trồng 16
1.1. Chọn đất : 16
1.2. Chuẩn bị đất trồng : 16
2. Chuẩn bị cây giống 16
3. Kỹ thuật trồng và chăm sóc vải 16
3.1. Thời vụ trồng: 16
3.2. Khoảng cách trồng: 17
3.3. Cách trồng: 17
4. Bón phân cho cây vải 17
4.1. Tình hình sử dụng phân bón cho cây vải 17
4.2. Các loại phân bón truyền thống 18
4.3. Các loại phân bón mới 18
4.4. Các chế phẩm Fito tăng năng suất cây trồng và Phân phức hợp
HCVS Fitohoocmon 19
4.4.1. Chế phẩm Fito tăng năng suất cây trồng 19
4.4.2 Phân phức hợp HCVS Fitohoocmon 22
* Thành phần chủ yếu của phân phức hợp HCVS Fitohoocmon 22
- Phân mùn hữu cơ cao cấp: phân gia súc, gia cầm, than bùn và các phế
phụ phẩm nông nghiệp 22
- Phân đa lượng: đạm, lân và kali 22
- Phân trung lượng: Canxi, magie, lưu huỳnh, … 22
4.5. Phương pháp bón phân cho vải 23
4.6. Quy trình bón phân Hữu cơ vi sinh Fito - Việt Séc cho cây Vải
Thiều - huyện Thanh Hà: cây có tuổi từ 10 - 14 24
4.6.1. Thúc lộc thu: 24
4.6.2. Thúc ra hoa: 24
4.6.3. Thúc quả non lần 1: 24

4.6.4. Thúc quả non lần 2: 24
4.7. lượng phân PHHCVS Fito - Việt Séc bón cho vải ở các lứa tuổi: 24
Bảng 5. Lượng phân bón cho vải theo các lứa tuổi cây 25
5. Cắt tỉa tạo tán: 25
6. Sâu bệnh chính và biện pháp phòng trừ 25
6.1. Bọ xít : 25
6.2. Sâu đục thân cành : 25
6.3. Rệp hại hoa, quả non : 26
IV. THU HOẠCH VẢI 27
CÂY VẢI
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÂY VẢI
1. Cây vải:
Cây vải có tên khoa học là Nephelium litchi, Litchi chinensis Sonn; Chi:
Vải Litchi; Họ: Bồ hòn Sapindaceae; Bộ: Bồ hòn Sapindales; Phân lớp: Hoa
hồng Rosidae; Lớp: Ngọc lan Dicotyledoneae (Magnoliosida); Ngành: Ngọc lan
Magnoliophyta (Angiospermae).
Theo Võ Văn Chi, Dương Đức Tiến (1978), [Phân loại thực vật bậc cao,
NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội], Menzen (2002)[Tr.8-13.
The Lychee crop in Asia and the Pacific, FAO.] và Hoàng Thị Sản (2003) thì họ
Bồ hòn có 150 chi với trên 2000 loài phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận
nhiệt đới đặc biệt là ở Châu Á và Châu Mỹ. Ở Việt Nam họ Bồ hòn được biết
đến với 25 chi và trên 70 loài phân bố trên khắp đất nước, nhiều loài điển hình
cho rừng thứ sinh ẩm nhiệt đới trong đó có một số cây cho quả ăn ngon như vải,
nhãn, chôm chôm,…
Về đặc điểm phân loại cây vải là cây gỗ nhỡ, thường xanh. lá kép lông
chim, hoa nhỏ không có cánh hoa, bầu có ngăn, vỏ quả mỏng màu đỏ hồng hay
đỏ nâu mặt ngoài sần sùi có hạt, ăn hơi chua hay ngọt.
2. Nguồn gốc và phân bố
Theo FAO (1989) theo tài liệu này viết về cây vải đã ghi lại thời gian vào
năm 100 trước công nguyên Hoàng Đế Hán Vũ đã đem vải vào miền Nam

Trung Quốc và Bắc Inđônêxia. Cuối thế kỷ 17, cây từ trung Quốc đầu tiên được
đưa vào Mianma cuối thế kỷ 18 được đưa sang Ấn Độ (Singh và Singh, 1954),
năm 1775 đưa sang quần đảo Tây Ấn, năm 1854 đưa sang Austraylia (Queen và
Auco 1962) năm 1870 đưa sang Nam Phi (Marlen, 1957) năm 1872 đưa sang
Hawai (Gvove, 1952) năm 1886 đưa vào Florida của Mỹ (Barley, 1916)…
Theo Trần Thế Tục (2004) nguồn gốc cây vải có ở giữa miền Nam Trung
Quốc và Miền Bắc Việt Nam và bán đảo Malai. Hiện nay ở núi Tạ Hải Sơn tỉnh
Quảng Đông, núi Hồ Lĩnh, Kim Cổ Lĩnh (đảo Hải Nam) ở vùng phía Nam của
Xisuang Bana (Vân Nam) còn những cánh rừng có nhiều cây vải dại mọc. Theo
nhiều tài liệu của Trung Quốc cho biết có rất nhiều nơi ở miền nam Trung Quốc
có cây vải dại như các tỉnh Quảng Đông, Vân Nam, đảo Hải Nam… và theo
điều tra của các nhà khoa học Trung Quốc, đã điều tra thực địa và từ góc độ lịch
sử hình thái và đặc trưng quần lạc sinh thái đã kết luận đảo Hải Nam có cây vải
dại, ngoài ra ở Hoa Châu, Liêm Giang, Dương Xuân và trên sáu ngọn núi lớn ở
huyện giáp ranh huyện Bác Bạch và huyện Hồ Bắc của tỉnh Quảng Tây đều có
cây vải dại chứng tỏ cây vải có nguồn gốc từ Trung Quốc.
Ở nước ta, cây vải được trồng từ cách đây khoảng 2000 năm và phân bố
từ 18 - 19
0
Vĩ Bác trở ra nhưng chủ yếu vần là vùng đồng bằng Sông Hồng,
trung du miền núi phía Bắc và một phần khu 4 cũ. Theo các tài liệu lịch sử thì
cách đây 10 thế kỷ dưới thời Bắc thuốc vải là một trong những cống vật hằng
năm mà Đại Việt phải mang cống nộp cho Trung Hoa. Cây vải dại cũng đã được
tìm thấy ở vườn quốc gia Ba Vì, Hà Tây và nhiều nơi khác. Từ đó, miền Bắc
Việt Nam cũng được coi là nguồn gốc của cây vải.
Ngày nay, cây vải được trồng ở trên 20 nước trên thế giới nhưng chủ yếu
phân bố ở vùng Đông Nam Á ở Châu Á: Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Việt
Nam, Mianma, Lào, Campuchia, Malaisia, Philippin, Inđônêxia, Srilanca, Nhật
Bản, Ixrael.
Ở Châu Phi: Nam Phi, Morithiuyt, Madagatca, Rênyniong, Gabông, Cônggô…

Ở Châu Mỹ: Hoa Kỳ, Hondurat, Panama, Cuba, Trinidat, Pôctoorico, Brazil…
Ở Châu Đại Dương: Autraylia, Newzilan,…
Ở Việt Nam, đã hình thành một số vùng trồng cây vải tập trung như Lục
Ngạn (Bắc Giang), Thanh Hà (Hải Dương), Đông Triều (Quảng Ninh), Đồng Hỷ
- Phú Lương (Thái Nguyên), Đình Lập - Hữu Lũng (Lạng Sơn), Chương Mỹ
(Hà Tây), Phù Yên - Bắc Yên (Sơn La), Phú Thọ. Ngoài ra còn một số địa
phương ở Tây Nguyên như Đăk Nông, Đăk Lắk, Kontum…
3. Các giống vải chủ yếu ở Việt Nam và trên thế giới
Ở Việt Nam sự phân chia các giống vải còn mang tính chất tương đối, xét
theo phẩm chất quả, có các nhóm: vải chua, vải nhỡ, vải thiều; xét theo thời gian
thu hoạch, có các nhóm vải: vải chín sơm, chính vụ và vải chín muộn.
- Nhóm vải chua: (hay còn gọi là tu hú) cây cao lớn, lá to, phiến lá mỏng.
Khi ra hoa, chùm hoa vải từ cuống đến nụ hoa đêu phủ một lớp lông đen. Quả
thường chín vào cuối tháng 4 và đầu tháng 5. Khi chín vỏ quả màu đỏ tươi,
trọng lượng quả 30 - 50g, vỏ dày, hạt to, cùi mỏng và rất chua, tỷ lệ cùi chiếm
60 - 65% trọng lượng quả. Ở nước ta hiện còn ở các tỉnh trung du và miền núi
như Phú Thọ, Hà Tây, Tuyên Quang, Quảng Ninh…
- Nhóm vải nhỡ: cây to trung bình, tán cây thường to 5 - 7m, dạng trứng,
lá thường to, cây sinh trưởng khỏe, chùm hoa không có lông đen, nhưng hoa
mọc thưa hơn vải chua, quả chín muộn hơn nhóm vải chua nhưng sớm hơn
nhóm vải thiều. Quả có trọng lượng trung bình từ 28 - 34g.
- Nhóm vải thiều: cây có tán hình mâm xôi cao từ 10 - 15m, lá nhỏ, phiến
lá dày bóng, khả năng chịu hạn tốt, phù hợp với đất có độ pH 5 - 6, khi ra hoa
chùm hoa không phủ lớp lông đên mà có màu trắng vàng, chín chính vụ (tháng
6). Trọng lượng quả trung bình 18 - 25g, vỏ quả mỏng, hạt nhỏ, dày cùi, tỷ lệ ăn
được 70 - 80% cùi thơm và ngọt hơn 2 nhóm vải trên.

Quả vải thiều gốc
- Quả tròn, hạt nhỏ cùi dày, gai nhỏ
- Ăn ngon, ngọt và thơm

Ngoài ra còn có một số giống có thể được biết đến với vài tên khác nhau
theo cách gọi của từng địa phương. Tuy nhiên, hiện nay theo Vũ Mạnh Hải và
Nguyễn Văn Dũng (2002) Viện Nghiên cứu Rau quả đã thu thập và mô tả 33
giống vải được trồng ở các vùng khác nhau trong đó có nhiều giống có triển
vọng đã và đang được phát triển ngoài sản xuất như giống Hùng Long, Yên
Hưng, Yên Phú,…
Có thể kể đến một số giống vải:
3.1. Vải thiều Thanh Hà:
Cây sinh trưởng tốt, lá mầu xanh đậm. Quả hình cầu,
khi chín mầu đỏ tươi, gai thưa, ngắn. Trọng lượng quả trung
bình 20,7g (45 - 55 quả/kg), tỷ lệ phần ăn được trung bình 75%, độ Brix 18 -
21%. Ðây là giống chín chính vụ, thời gian cho thu hoạch 5/6 - 25/6.
3.2. Vải Hùng Long:
Cây sinh trưởng rất tốt, lá hình lòng máng phẳng, xanh đậm. Quả hình
tròn hơi dài, khi chín có màu đỏ sẫm, gai thưa, nổi. Trọng lượng quả trung bình
23,5g (40 - 45 quả/kg), tỷ lệ phần ăn được 72,0% , độ Brix 17 - 20%. Ðây là
giống chín sớm, thời gian cho thu hoạch 10/5 - 20/5.
3.3. Vải Lai Bình Khê :
Cây sinh trưởng rất tốt, lá mầu xanh tối. Quả hình trứng, khi chính có mầu
đỏ sẫm, vỏ mỏng, gai thưa, ngắn. Trọng lượng quả trung bình 33,5g (28 -
35quả/kg), tỷ lệ phần ăn được 71,5%, độ Brix 17 - 20%. Ðây là giống vải chín
sớm, thời gian cho thu hoạch 5/5 - 15/5.
3.4. Vải lai Yên Hưng :
Cây sinh trưởng khỏe, mầu xanh hơi vàng. Quả hình tim, khi chín mầu đỏ
vàng, gai thưa. Trọng lượng quả trung bình 30,1g (30- 35quả/kg), tỷ lệ phần ăn
được 73,2%, độ Brix 18 - 20%. Ðây là giống chín sớm, thời gian cho thu hoạch
10/5 - 20/5.
Các giống vải trên thế giới thì hiện tại Trung Quốc là nước có số lượng
giống vải nhiều nhất. Tuy vậy trong số hơn 200 giống vải được trồng ở Trung
Quốc chỉ có khoảng 15 giống là có khả năng sản xuất theo hướng hàng hoá, ở

mỗi vùng sinh thái có một số giống chủ lực.
Ở Ấn Độ có khoảng 50 giống vải được trồng ở các bang khác nhau. Ở
Bang Bihat nơi có diện tích vải lớn nhất của Ấn Độ có những giống quan trọng
là Shahi, Kasba, China, Deshi, Purbi… Giống được trồng phổ biến ở Uttar
Pradesh là Dehra Dun. Những giống cho năng suất và phẩm chất tốt ở Ấn Độ là
West Bengal, Bombai, Elaichi, China, Bedana.
Ở Austraylia, những vùng trồng vải tập trung nằm theo dải bờ biển từ
Cairrus, Atherton Tablelands Ingham, Mackay, Bundaberg đến Coffs Harbuor
với các giống vải chính là Fay Zee Siu, Taiso, Bengal… (G.W Vallance, 1986),
S.K.Mitra. Ở bảng trên là các giống vải chính được trồng trên thế giới.
Bảng 1. Giống vải chính của một số nước trên thế giới
TT Tên nước Các giống vải chính
1 Ấn Độ Shahi, Rose Seented, calcuttia, bedana, longia, china
2 Úc Fay Zee Siu, taiso, bengal, waichee, kwaimay pink, salathiel
3 Đài Loan Haakyip, shakeng
4 Nam Phi Taiso, bengal
5 Mỹ Taiso, Kaimana
6 Thái Lan Taiso, waichee, baidum, chacapat, Kom
7 Trung Quốc Fay Zee Siu, bahlwp, no mai chee, Souey Tung, Taiso, Brewster
Nguồn: Menzel (1995,2002)
4. Đặc điểm sinh lý dinh dưỡng của cây vải
4.1. Đặc điểm sinh trưởng phát triển của cây vải
Thời kỳ kiến thiết cơ bản bắt đầu từ sau khi trồng bằng cành chiết hay cây
ghép đến khi cây đạt 3 tuổi. Trong thời kỳ này cây vải phát triển hệ thống rễ,
thân, cành, hình thành tán cây. Thời gian đầu cây phát triển chậm. Trong thời kỳ
này đường kính thân, số cành và tán cây vải tăng dần hàng năm. Một năm cây
vải cho ra từ 4 đến 5 đợt lá non (lộc) mà sau đó có thể phát triển thành cành vào
các tháng: 2 - 3, 4 - 5, 6 - 7, 8 - 9 và nếu thời tiết ấm cả vào các tháng 10 - 11.
Thời kỳ kinh doanh của cây vải được bắt đầu từ năm thứ 4 sau trồng. Ở
thời kỳ này một năm cây vải cho 2 - 3 đợt lộc, trong đó: đợt lộc xuân vào

khoảng tháng 2, đợt lộc sau thu hoạch quả vào khoảng tháng 6 - 7 và đợt lộc thu
vào khoảng tháng 9 - 10. Cây vải không ra hoa trên cành 1 năm, nên đợt lộc thu
sẽ tạo ra các cành thu cho hoa và quả vào năm sau rất có ý nghĩa cho năng suất
vải vào vụ tới.
Tháng 10 - 11 là giai đoạn ủ mầm hoa nên cần dinh dưỡng, nhưng cần lưu
ý giảm lượng đạm sử dụng. Từ tháng 2 - 6 là thời kỳ cây ra hoa kết quả, nếu quả
nhiều thì không ra lá cần được cung cấp nhiều dinh dưỡng đặc biệt là đạm và
kali để nuôi quả.
Đọt lá trên đó chùm hoa đã nảy sinh gọi là đọt mẹ, đọt mẹ càng già (ra
vào tháng 6 - 7) càng có khả năng sinh ra nhiều chùm hoa khoẻ, thuần hoá cho
nhiều quả hơn. Khi cây vải thụ phấn xong, hạt phát triển trước, khoảng 3 - 4
tuần trước khi quả chín, hạt ngừng phát triển, cùi phát triển nhanh, giai đoạn này
cây cần nhiều nước và dinh dưỡng, đặc biệt là N, K, Ca.
Thời kỳ kinh doanh cây vải cho năng suất và nhu cầu dinh dưỡng tăng
dần trong khoảng 10 năm (từ năm thứ 4 đến năm thứ 14 sau trồng), từ năm thứ
15 sau trồng cây vải thường mới cho năng suất ổn định.
Ở thời kỳ già (cỗi), một năm cây chỉ ra 2 đợt lộc vào các tháng 2 và tháng
9, cây có năng suất quả giảm dần, cùng với hiện tượng chết cành. Nhu cầu dinh
dưỡng của cây cũng giảm so với thời kỳ kinh doanh.
4.2. Đặc điểm hệ rễ của cây vải
Cây vải có bộ rễ rất khoẻ bao gồm rễ phát triển theo chiều đứng và rễ phát
triển ngang.
Đại bộ phận hệ rễ của cây vải tập trung ở tầng đất 0 - 60cm, dù rễ có thể
lan xa gấp 1,5 - 2 lần so với hình chiếu của tán cây và có thể ăn sâu tới 1,6m.
Tuy nhiên phần lớn rễ tơ - là các rễ hút thức ăn tập trung ở độ sâu 0 - 40cm với
phạm vi chiều rộng trong và ngoài hình chiếu mép tán cây 10 - 50cm.
Bộ rễ cây vải hoạt động mạnh vào 3 thời kỳ: thời kỳ 1 - từ sau ra hoa rộ
đến giữa tháng 6 - là thời kỳ bộ rễ hoạt động mạnh nhất với nhiều rễ nhất; thời
kỳ thứ 2 - từ sau thu hoạch quả (giữa tháng 8), lượng rễ ít; thời kỳ thứ 3 - trước
và sau phân hoá mầm hoa (vào trung tuần tháng 10), trong điều kiện mùa đông,

nhiệt độ đất giảm dần, lại khô hạn nên rễ hoạt động chậm dần hoặc ngừng hẳn.
4.3. Nhu cầu dinh dưỡng của cây vải
Nghiên cứu về dinh dưỡng của cây vải còn ít, thông qua các tài liệu hiện
có thể thấy cây vải cần nhiều kali và đạm, rồi đến lân. Ở thời kỳ cây con cây cần
nhiều đạm và lân còn ở giai đoạn kinh doanh của cây vải cần nhiều kali nhất rồi
đến đạm và lân.
Bảng 2: Tỷ lệ các chất dinh dưỡng cây vải hút vào trong lá và quả
Tỷ lệ cây hút các chất dinh
dưỡng
N P2O5 K2O CaO MgO
Trong lá 7,8 1,0 4,6 2,3 2,5
Trong quả 1,6 1,9 5,3 1,3 1,0
Nguồn: Trần Thế tục, 1997
4.3.1. Nhu cầu dinh dưỡng đạm
Đạm có tác dụng rất lớn trong việc phát triển lá, thân, cành và tạo tán của
cây vải nên có vai trò quyết định đối với sự sinh trưởng và phát triển của cây.
Đạm còn có tác dụng lớn đến việc ra hoa, đậu quả, số lượng và trọng lượng quả
nên có tác dụng quyết định đối với năng suất quả vải. Đạm là yếu tố dinh dưỡng
rất quan trọng ở thời kỳ cây con - kiến thiết cơ bản của cây vải. Ở thời kỳ kinh
doanh của cây vải, đạm ngoài tác dụng lớn đến sự phát triển cành, lá và tạo tán
của cây còn có ảnh hưởng quyết định đến năng suất và phẩm chất quả.
Trong một nhiệm kỳ kinh tế, nhu cầu đạm của cây vải tăng dần hàng năm,
tăng mạnh ở thời kỳ đầu kinh doanh và đạt cực đại ở thời kỳ cây có năng suất ổn
định, rồi giảm dần ở thời kỳ cây già cỗi. Trong một năm nhu cầu đạm của cây
vải cao sau khi thu hoạch để phục hồi và phát triển cành thu cho việc ra quả ở
năm sau (tháng 7 - 8) rồi giảm mạnh khi chuẩn bị phân hoá mầm hoa (tháng 12)
và lại tăng mạnh vào đầu xuân (tháng 2 - 3) khi cây phát triển cành xuân và ra
hoa đậu quả, rồi lại giảm dần cho đến trước thu hoạch quả.
4.3.2. Nhu cầu về dinh dưỡng lân
Lân có tác dụng lớn đối với sự phát triển của hệ rễ và khả năng hấp thu

dinh dưỡng của cây vải, vì vậy có ảnh hưởng rõ đến sinh trưởng và phát triển
của cây. Lân thúc đẩy quá trình phân hoá mầm hoa, hình thành quả, sự thành
thục của quả và hạt nên có tác dụng nâng cao năng suất và sớm cho thu hoạch
quả. Lân cũng ảnh hưởng rõ tới phẩm chất của quả vải. Lân còng làm tăng khả
năng chống hạn chống rét và chống chịu sâu bệnh hại cho cây vải.
Cây vải thiếu lân có lá tối màu, thiếu nhiều thì ở ngọn lá và mép lá có
màu vàng nâu cục bộ và lan dần ra đến gần gân chính. Thiếu lân không chỉ ảnh
hưởng xấu đến khả năng hút dinh dưỡng, sinh trưởng và phát triển của cây vải
mà còn ảnh hưởng xấu đến việc ra hoa, đậu quả, năng suất và chất lượng quả.
Nhưng khi vải được cung cấp quá thừa lân làm cho hàm lượng N và K trong cây
giảm có thể ảnh hưởng xấu tời cây.
Trong một nhiệm kỳ kinh tế, nhu cầu lân của cây vải tăng dần hàng năm,
đặc biệt cần thiết ở thời kỳ kiến thiết cơ bản. Trong một năm nhu cầu lân của
cây vải cao vào thời kỳ từ sau khi thu hoạch để phục hồi và phát triển cành thu
cho việc ra quả ở năm sau và chuẩn bị phân hoá mầm hoa (từ tháng 7 - 8 đến
tháng 12) rồi giảm dần cho đến trước thu hoạch quả.
4.3.3. Nhu cầu dinh dưỡng kali
Kali là yếu tố dinh dưỡng mà cây vài hút nhiều nhất. Kali có tác dụng
quan trọng trong việc tổng hợp các chất gluxit, giúp cho cấu tạo các mô cứng
cáp, vận chuyển các sản phẩm quang hợp đến các cơ quan dự trữ của cây được
thuận lợi. Vì vậy kali còn có tác dụng làm tăng độ ngọt và các phẩm chất quả,
tăng khả năng cất giữ, tăng khả năng bảo vệ của vỏ quả. Kali làm tăng khả năng
chịu hạn, chịu lạnh, chịu nóng, tăng khả năng chống chịu sâu bệnh, giúp cho quả
nhanh lớn và chóng thành thục.
Thiếu kali màu sắc lá hơi nhạt, ở ngọn lá có hiện tượng trắng màu tro,
khô; mép lá có màu nâu gụ lan dần xuống tận gốc lá. Thiếu kali có ảnh hưởng
xấu đến không chỉ sinh trưởng phát triển mà còn có ảnh hưởng xấu rõ tới năng
suất và chất lượng quả của cây vải.
Nhu cầu kali theo nhiệm kỳ kinh tế của cây vải cũng tăng hàng năm tương
tự như đối với đạm. Nhu cầu kali hàng năm của cây vải tăng dần từ sau thu

hoach quả và đạt cao nhất ở thời kỳ cây ra hoa rồi giảm dần từ khi đậu quả cho
đến lúc thu hoạch.
Hàm lượng kali trong lá cao thời gian chín của cây vải có tương quan
thuận với năng suất vải cao.
4.3.4. Nhu cầu về các yếu tố dinh dưỡng khác
- Cây vải có nhu cầu khá cao về MgO và CaO
Mg cần thiết cho quá trình quang hợp thuận lợi ở cây, tạo khả năng chịu
hạn tốt hơn cho cây vải, đồng thời có tác dụng làm tăng độ ngọt cho quả vải.
Ca có tác dụng lớn trong việc hấp thu dinh dưỡng của cây vải do có tác
dụng tốt đến phát triển hệ thống rễ bên và lông hút của cây, nhất là trong điều
kiện đất trồng vải trên đất chua. Ca còn có tác dụng giúp cây vải có khả năng
chịu úng tạm thời, có ảnh hưởng tốt đến việc tích luỹ chất gluxit vào quả. Vì vậy
Ca có ảnh hưởng đáng kể đến sinh trưởng, năng suất và chất lượng vải.
- Có ý kiến cho rằng Clo cũng là yếu tố dinh dưỡng có nhu cầu khá rõ đối
với cây vải nên dùng một lượng nhất định bón cho vải sẽ mang lại hiệu quả tích
cực (Trần Thế Tục, 1997).
- Theo một số nhà khoa học khác như Phạm Văn Côn [(2005) Các biện
pháp điều khiển sinh trưởng và phát triển, ra hoa, kết quả cây ăn trái, Nxb Nông
nghiệp]; Phạm Minh Cương [(1988), Nghiên cứu ảnh hưởng của một số yếu tố
dinh dưỡng và chất điều hoà sinh trưởng đến năng suất, chất lượng của 2 giống
vải thiều Thanh Hà và Phú Hộ trên đất đồi Vĩnh Phú và Hà Bắc, Luận văn Tiến
sỹ Nông nghiệp, Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam;và cộng sự
(2005), "Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật tăng năng suất vải", Tạp chí
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Nxb Lao động xã hội] và Nguyễn Văn
Dũng (2005), ["Nghiên cứu ảnh hưởng của một số chất điều tiết sinh trưởng và
dinh dưỡng qua lá đến khả năng ra hoa, đậu quả, năng suất phẩm chất vải chín
sớm", Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, số đặc san, Nxb Nông
nghiệp trang 81 - 84]…thì Bo, Zn, GA
3
, IAA có tác dụng làm tăng tỷ lệ đậu quả,

tăng trọng lượng quả và hàm lượng vitamin C trong quả.
II. CÁC YÊU CẦU VỀ SINH THÁI CỦA CÂY VẢI
1. Yêu cầu về nhiệt độ
Đối với cây vải thì nhiệt độ là một trong những nhân tố chủ quan tác động
đến sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực của cây vải. Nhiệt độ bình
quân năm thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của cây vải từ 21 - 26
0
C thì có
phản ứng tốt. Giống chín sớm là ở 4
0
C, giống chín muộng là ở 0
0
C thì ngừng
sinh trưởng sinh dưỡng. Khi nhiệt độ từ 8 - 10
0
C thì khôi phục sinh trưởng, nhiệt
độ từ 10 - 12
0
C cây sinh trưởng chậm, nhiệt độ trên 21
0
C cây sinh trưởng tốt, ở
nhiệt độ 23 - 26
0
C là thời kỳ cây sinh trưởng mạnh nhất. Khi nhiệt độ giảm
xuống 0
0
C thì cây chưa bị rét gây hại, ở nhiệt độ -2
0
C bắt đầu tổn hại đến vải, rét
càng kéo dài ở nhiệt độ thấp thì thời gian cây vải bị hại càng nghiêm trọng.

Ảnh hưởng của nhiệt độ vào mùa đông liên quan chặt chẽ tới quá trình phân hoá
mầm hoa của vải. Theo Bành Kính Ba, nghiên cứu trên các giống vải cho thấy
thời gian nhiệt độ từ 0
0
C - 10
0
C thuận lợi cho chùm hoa phân nhánh và phân hoá
mầm hoa. Ở điều kiện từ 11 - 19
0
C cành hoa và lá đều có thể phát triển sớm trở
thành các chùm hoa có giá trị về kinh tế.
Thể nguyên thuỷ của hoa vải là mầm hỗn hợp có hoa có lá, nhiệt độ cao ức
chế sự hình thành các cơ quan hoa mà thiên về sinh trưởng sinh dưỡng, thúc đẩy sự
sinh trưởng của lá. Trái lại, nhiệt độ thấp thúc đẩy sự phân hoá cành hoa nhỏ và cơ
quan hoa, ức chế sự phát dục của nguyên thuỷ của lá, thiên hướng về sinh thực.
Nhiệt độ cũng ảnh hưởng tới tỷ lệ đực cái của hoa vải. Ở Trung Quốc qua
phân tích liên tục từ năm 1978 - 1985 về quan hệ giữ nhiệt độ bình quân ngày
của tháng 1 - 2 và tỷ lệ phần trăm hoa cái trong năm đã phát hiện giữa chúng có
mối tương quan nghịch R = - 0,86 có nghĩa là nhiệt độ còn ảnh hưởng đến thời
kỳ nở hoa và sự phát triển của quả. Nhiệt độ bình quân hữu hiệ càng cao thì quả
sinh trưởng phát triển càng nhanh, ngược lại nhiệt độ bình quân hữu hiệu càng
thấp thì sinh trưởng của quả càng chậm.
Nhiệt độ là một trong những nhân tố khí hậu chính khó điều khiển được
nó quyết định diện tích trồng trọt và ảnh hưởng rõ rệt đến năng suất cây trồng.
Cây vải thuộc nhóm cây ăn quả Á nhiệt đới nên yêu cầu về nhiệt độ khá khắt
khe… Theo nghiên cứu của trường đại học Hoa Nam (Trung Quốc): ở thời kỳ
hình thành chồi hoa tháng 11, 12 gặp troèi lạnh và khô, đọt hoa ra tốt. Ngược lại
nếu trời nóng và ẩm thì ra đọt lá, vào tháng 1,2 khi nở hoa đậu quả nếu thời tiết
tốt, không có gió Bắc mưa phùn kéo dài thì thụ phân thuận lợi, đậu quả nhiều.
2. Yêu cầu về lượng mưa và độ ẩm

Cây vải có nguồn gốc ở các vùng có lượng mưa hàng năm là 1.250 -
1.700mm, độ ẩm không khí là 75 - 85 % nên nó chịu được độ ẩm không khí
cao ở thời kỳ sinh trưởng thân lá. Trong những tháng mưa nhiều, bộ lá cây
vẫn xanh tốt. Vải kém chịu úng hơn các cây ăn quả khác như nhãn, xoài,…
nhưng có khả năng chịu hạn tốt hơn. Tháng 11 - 12 cây vải cần có thời tiết
khô và lạnh để phân hoá mầm hoa.
Những tháng vào mùa hè và mùa thu là thời gian cây vải sinh trưởng
mạnh yêu cầu lượng lúa lớn. Những tháng mùa đông, mưa nhiều, vải dễ phát lộc
đông, không thuận lợi cho phân hoá mầm hoa theo tác giả Ngô Tố Phần và Nghê
Diệu Nguyên, nhân tố mưa ảnh hưởng đến hoa vải chủ yếu trong giai đoạn phân
hoá trục chùm hoa, thời ky phân hoá hoa, đủ nước thì tổng số hoa/chùm và số
hoa đực/chùm giảm nhưng số hoa cái không bị ảnh hưởng nhiều nên tỷ lệ hoa
cái tăng. Mưa nhiều trong thời gian hoa đang nở dẫn đến làm thối hoa, tỷ lệ đậu
quả rất thấp có thể dẫn đến mất mùa. Phấn hoa ngâm trong nước nửa giờ có một
số bộ phận bắt đầu nảy mầm, 1 - 1,5 giờ phần lớn nảy mầm, sau 2 giờ cơ bản
ngừng nảy mầm. Nếu ngâm phấn hoa trong nước nửa giờ, màng ngoài của 70%
số hạt phấn bắt đầu trương lên, khoảng 1 giờ, đầu trên ống phấn hoa bị vỡ ra,
nguyên sinh chất chảy ra ngoài và ngừng sinh trưởng.
Ở các tỉnh phía Bắc nước ta năm 2005 nhiệt độ những tháng cuối năm rất
thuận lợi cho phân hoá mầm hoa, chùm hoa to, hoa nở nhiều nhưng khi hoa nở,
gặp mưa dầm kéo dài nhiều ngày làm tỷ lệ đậu quả thấp do đó năng suất giảm
sụt đặc biệt là giống vải thiều.
3. Yêu cầu về ánh sáng
Cây vải yêu cầu đầy đủ ánh sáng. Tổng số giờ chiếu sáng thích hợp cho
vải cả năm 1800 - 2000 giờ. Ánh sáng đầy đủ làm tăng khả năng đồng hoá của
cây, xúc tiến quá trình phân hoá mầm hoa làm tăng màu sắc của vỏ quả và làm
tăng phẩm chất của quả. Nếu không đủ ánh sáng hoặc trồng quá dày, quá trình
quang hợp bị hạn chế thì sự ra hoa đậu quả sẽ khó khăn. Nếu khi ra hoa gặp
nhiệt độ quá cao không khí quá khô cường độ ánh sáng mạnh, lượng nước bốc
hơi lớn sẽ làm cho chỉ nhị héo, nồng độ dịch ở đầu nhuỵ quá cao không lợi cho

thụ phấn, thụ tinh, thời tiết thuận lợi cho việc ra hoa, thụ phấn thụ tinh là trong
thời kỳ ra hoa có nhiều ngày nắng ráo, sau đó lại có mưa rào rồi trời lại quang.
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng thời tiết, khí hậu tháng riêng có tương
quan chặt chẽ với năng suất vải. trong tháng 1 nếu nhiệt độ thấp (11 - 15
0
C), trời
quang từ 15 - 22 ngày trở lên, thời gian chiếu sáng 117giờ/tháng, số ngày mưa ít
(ít hơn 10 ngày) lượng mưa ít (dưới 50mm) độ ẩm không khí thấp (< 73%) thì
năm đó được mùa. Ngược lại thì mất mùa vải.
4. Yêu cầu về đất đai
Theo một số tác giả thì cây vải có tính thích nghi cao với điều kiện đất
đai, có thể trồng vải trên nhiều loại đất.
- Đất bãi ven sông là loại đất phù sa có lý hoá tính thích hợp với vải, độ
ẩm tốt, nên ở đây cây vải sinhtrưởng phát triển tốt, sản lượng cao, chất lượng tốt
vì vậy ở ven sông Hồng, sông Đáy, sông Lô có nhiều vườn vải.
- Đất đồi dốc, sa thạch hoặc phiến thạch ở các tỉnh trung du miền núi: Đặc
điểm chung là đất nghèo dinh dương, nhưng thoát nước tốt, tầng canh tác thường bị
thiếu nước, về mùa khô, cây vải trồng trên đất đồi không cao lớn như vùng đất phù
sa ven sông và đồng bằng song cây vẫn xanh tốt và cho năng suất cao.
- Đối với đất có mạch nước ngầm gần với mặt đất thì ảnh hưởng đến sự sinh
trưởng và phát triển của cây vải muốn có năng suất ở vùng này thì trước khi trồng
phải lên líp và vượt đất cao lên thì cây vải vẫn sinh trưởng và cho năng suất cao.
Độ pH thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của cây vải là 5,5 - 6,5.
Mức độ thích nghi của cây vải thiều đối với các loại đất được thể hiện ở bảng
Bảng 3. Mức dộ thích nghi của cây vải thiều đối với đất đai
Chỉ tiêu
Mức độ thích nghi
Rất thích hợp Thích hợp Ít thích hợp Không thích hợp N
Loại đất P, F
P

, F
S
F
K
, F
V
F
a
, F
q
Không có
Độ dốc 0 - 8 8 - 15 15 - 25 >25
Độ dày tầng đất >100 70 - 100 50 - 70 < 50
Độ phì của đất N 1 N2 N3 Không có
Nguồn: Viện nghiên cứu Rau Quả - Báo cáo tuyển chọn vải chín sớm
Ghi chú:
+ N1: Rất thích hợp + F
q:
: Đất vàng trên đá cát
+ N2: Thích hợp
+ F
k
: Đất nâu đỏ trên macma bazơ và
trung tính
+ N3: Ít thích hợp + F
v
: Đất nâu đỏ trên đá vôi
+ F
s
: Đất đỏ vàng trên phiến thạch sét

và biến chất
+ P: Đất phù sa
+ F
p
: Đất nâu vàng trên phù sa cổ + P
a
: Đất đỏ vàng trên đá macma axit
III. CÁCH TRỒNG VÀ CHĂM SÓC CHO VẢI
1. Chọn và chuẩn bị đất trồng
1.1. Chọn đất :
Vải thích hợp trồng trên đất phù xa ven sông hay đất có tầng dày, độ phì
cao, giữ ẩm và thoát nước tốt. ở những vùng đất xấu phải có chế độ chăm sóc
thích hợp nhưng độ dốc phải dưới 20%, pH KCL. 5,5 - 6,5.
1.2. Chuẩn bị đất trồng :
- Phát quang, dọn sạch cây, san phẳng hoặc cày bừa một lần, nhặt sạch cỏ
dại. Vùng đất dốc phải thiết kế làm bậc thang theo đường đồng mức, mỗi bậc
thang rộng 1,5 - 2,0m, sâu 0,8 - 1,0m; Líp rộng 7 - 12m. Thiết kế lô, thửa, đường
đi, hệ thống tưới tiêu và trồng cây chắn gió ở những vườn có diện tích rộng 1 - 3
ha trở lên.
- Ðào hố kích thước : Dài x rộng x sâu : là 08m x 0,8m x 0,6m cho vùng
đồng bằng và 1m x 1m x 0,8m cho vùng đồi. Bón lót : 30 - 50kg phân chuồng
hoai mục : 0,7 - 1,0Kg Supe lân; 0,5 - 1Kg vôi bột cho một hố. Công việc đào
hố, bón lót, lấp hố làm trước khi trồng ít nhất 1 tháng.
2. Chuẩn bị cây giống
Phải chọn cây giống đúng giống quy định. Với các giống chín sớm phải
có đường kính gốc là : 1 - 1,5cm ; đường kính cành ghép : 0,7cm, chiều dài cành
ghép trên 40cm. Với các giống chính vụ, các chỉ tiêu tương ứng là : 0,8 - 1cm,
0,5 - 0,7cm và 30 - 40cm. Cây . Cây giống phải có 2 -3 cành cấp 1 trở lên và
không được nhiễm các loại sâu bệnh hại nguy hiểm.
3. Kỹ thuật trồng và chăm sóc vải

3.1. Thời vụ trồng:
- Vụ Xuân : tháng 2 - 3, và đầu tháng 4
- Vụ Thu : tháng 8; 9; 10.
3.2. Khoảng cách trồng:
4m x 6m; 7m x 7m hoặc 8 - 10m x 8 - 10m
3.3. Cách trồng:
Khơi một lỗ nhỏ ở chính giữa hố, đặt bầu cây giống vào sao cho cổ rễ cao
hơn mặt đất 3 - 5 cm ( ở vùng đồng bằng ) và thấp hơn mặt đất 3 - 5 cm ( ở vùng
đồi), xé bỏ túi bầu, lấp đất ấn nhẹ tay xung quanh bầu. Cắm cọc buộc dây giữ
cây, tưới đẫm nước và tủ gốc giữ ẩm cho cây.
4. Bón phân cho cây vải
4.1. Tình hình sử dụng phân bón cho cây vải
*) Hiện trạng sử dụng phân bón cho vải
- Phân bón hoá học được sử dụng với lượng lớn và liên tục trong nhiều năm
- Việc sử dụng phân bón còn tuỳ tiện, mất cân đối.
- Lượng phân chuồng, phân xanh dùng để bón cho cây vải không nhiều hoặc
không có. Và chưa sử dụng phân hữu cơ vi sinh để bón cho vải.
- Các loại phân bón và các chế phẩm tăng năng suất chất lượng cây trồng có bổ
sung các nguyên tố vi lượng, các chất điều hoà sinh trưởng rất hạn chế.
*) Nguyên nhân:
- Phân hoá học thông dụng, đa dạng và đã đi vào lòng dân từ nhiều năm nay.
Nên người dân sử dụng phân hoá học (phân vô cơ) như là một thói quen hàng
năm cho cây vải.
- Trong các nông hộ số lượng gia súc, gia cầm giảm hẳn. Do vậy, lượng phân
chuồng có để bón cho cây không còn hoặc rất ít.
Tất cả các nguyên nhân trên đã dẫn đến một hiện thực là: đất bị trai cứng
bạc màu, đất kém dinh dưỡng, giảm khả năng giữ đất giữ phân
4.2. Các loại phân bón truyền thống
4.3. Các loại phân bón mới
Nhằm giảm thiểu những tiêu cực do sử dụng không cân đối các

loại phân bón dẫn đến giảm năng suất cây trồng, ngộ độc cho đất và
nhất là gây lãng phí cho ngưới nông dân. Hiện nay, các nhà sản xuất
đã cho ra đời rất nhiều các loại phân bón khác nhau có những tính
năng vượt trội so với các loại phân truyền thống:
* Các loại phân tổng hợp NPK
* Các loại phân phức hợp HCVS (hữu cơ, vi sinh, đa - trung - vi
lượng) cung cấp đầy đủ và cân đối dinh dưỡng cho cây trồng, cải tạo
đất.
* Các chế phẩm vi sinh có chức năng cố định đạm, phân giải
xellulo và phân giải lân khó tan. Giúp ích cho cây trồng và cải tạo đất,
xử lý rác thải hữu cơ…
* Các chế phẩm Fito của Công ty Cổ phần CNSH sản xuất phù
hợp với từng loại cây trồng.
4.4. Các chế phẩm Fito tăng năng suất cây trồng và Phân phức hợp HCVS
Fitohoocmon
4.4.1. Chế phẩm Fito tăng năng suất cây trồng.
a. Fito - chống vàng lá nghẹt rễ sinh lý
- Tác dụng: Cung cấp cho cây chất bật ra rễ mới chống bệnh nghẹt rễ, tăng
cường quang hợp chống bệnh vàng lá sinh lý, kích thích
phát triển tăng năng suất và chất lượng.
- Cách dùng: Hoà tan 2 gói nhỏ vào 10lít nước, phun ướt
đẫm cây, cứ 7 - 10 ngày phun một lần.
b. Fito - Cây ngô
- Tác dụng: Cung cấp chất điều
hoà sinh trưởng vi lượng và dinh
dưỡng cho cây trồng, kích thích
cây phát triển, tăng khả năng đậu
hạt, tăng năng suất từ 10 - 15%.
- Cách dùng: Hoà tan 2 gói nhỏ trong bao với 15lít nước,
phun ướt đều vào cây ngô lúc ngô trỗ cờ, đối với ruộng

ngô kém phát triển phun thêm vào giai đoạn ngô có 4 - 5
lá.
c. Fito - Đậu quả
- Tác dụng: Cung cấp chất điều hoà sinh trưởng vi lượng và dinh dưỡng cho cây
trồng, tăng khả năng đậu quả, hạn chế rụng quả non, hạn chế sâu bệnh, tăng
năng suất từ 20 - 25%.
- Cách dùng: Hoà tan 2 gói nhỏ trong bao với 15lít nước, phun ướt đều cho cây
vào lúc hoa đang nở rộ và có quả non.
d. Fito - Ra chồi
- Tác dụng: Cung cấp chất điều hoà sinh trưởng vi lượng
và dinh dưỡng cho cây trồng.Kích thích nhanh ra lá , phiến
lá dày và to, kích thích phát triển và ra nhiều chồi non, tăng
năng suất từ 15 - 20%.
- Cách dùng: Hoà tan 2 gói nhỏ trong bao với 10lít nước, phun ướt đẫm cây, cứ
20 - 30ngày phun 1 lần.
e. Fito - Ra hoa
- Tác dụng: Cung cấp chất điều hoà sinh trưởng vi lượng và dinh dưỡng cho cây
trồng.Kích thích cây ra hoa và ra hoa tập trung, tạo hoa trái vụ.
- Cách dùng:
+ Đối với cây lấy quả: pha vào 2 lít nước phun trước khi ra hoa từ 5 - 10 ngày.
+ Đối với cây lấy hoa: pha vào 6 - 8lít nước phun trước khi ra hoa từ 5 - 10
ngày.
f. Fito - Rau lá
- Tác dụng: Cung cấp chất điều hoà sinh trưởng vi lượng và dinh dưỡng cho cây
trồng. Tăng kích thước lá, tăng năng suất chất xanh từ 15 - 20%.
- Cách dùng: Hoà tan 2 gói nhỏ trong bao với 15lít nước, phun vào cây trước
khi thu hoạch 15 - 20 ngày hoặc phun cho cây giống như khi xuất 5 - 10 ngày
(dùng cho các loại rau: muống, cải, bắp cải…)
g. Fito - Cây lúa
- Tác dụng: Cung cấp chất điều hoà sinh trưởng vi lượng và dinh dưỡng cho cây

trồng. Duy trì bộ lá, trổ thoát, tăng tỷ lệ hạt mẩy, tăng năng suất cây trồng từ 10
- 15%, phòng chống bệnh bạc lá.
- Cách dùng: Hoà tan 2 gói nhỏ trong bao với 15lít nước, phun 1 sào (360m
2
) từ
khi có đòng già tới lúc trổ bói.
h. Fito - Đậu lạc
- Tác dụng: Cung cấp chất điều hoà sinh trưởng vi lượng
và dinh dưỡng cho cây trồng. Tăng khả năng cố định
đạm, tăng tỷ lệ đậu quả, quả chắc, chất lượng và phẩm
chất tăng.
- Cách dùng: Hoà tan 2 gói nhỏ trong bao với 15lít nước,
phun ướt đẫm lên cây vào lúc bắt đầu ra hoa và thời kỳ ra
hoa rộ (dùng cho các loại cây họ đậu)
i. Fito - Rau củ
- Tác dụng: Cung cấp chất điều hoà sinh trưởng vi
lượng và dinh dưỡng cho cây trồng. Tăng kích thước
củ, tăng năng suất củ từ 20 - 30%.
- Cách dùng: Hoà tan 2 gói nhỏ trong bao với 15lít
nước, phun vào cây khi cây đã hình thành củ non hoặc
trước khi thu hoạch 40 ngày (dùng cho các loại cây: tỏi,
hành, cà rốt, su hào, khoai tây…).
k. Fito - Cây chè
- Tác dụng: Cung cấp chất điều hoà sinh trưởng vi lượng
và dinh dưỡng cho cây trồng. Tăng năng suất từ 15 -
30%, nâng cao chất lượng búp chè.
- Cách dùng: Hoà tan 2 gói nhỏ trong bao với 15lít
nước, phun ướt đẫm lên cây, phun sau mối lần hái búp.
m. Fito - Bón gốc cho cây hoa cây cảnh:
- Tác dụng: Cung cấp các nguồn dinh dưỡng phù hợp

cho cây hoa cây cảnh, giữ màu sắc lá và sức sống cây bền lâu, ra hoa nhiều và
tập trung.
- Cách dùng: Bón xung quanh gốc, xới trộn đều, tưới nhẹ vào gốc cây.
- Lượng bón:
+ Chậu cảnh: Bón 20 - 50g (tuỳ chậu to, bé)
+ Cây ở vườn: Bón 10 - 15g (tuỳ cây to, bé)
n. Chế phẩm giâm - chiết cành:
- Tác dụng: Kích thích ra rễ nhanh, đạt tỷ lệ cao
- Cách dùng: Cành bánh tẻ Chanh, Cam, Bưởi, Quất, Roi, hoa giấy… cắt từng
đoạn 10cm có lá. Nhúng phần gốc 1cm vào thuốc 5 giây. Cắm vào cát sạch,
phun ẩm đều đến khi ra rễ. (Lưu ý: Khi chiết cành, bôi 1 lần thuốc trên khoanh
vỏ, có thể pha loãng 10 lần trộn vào đất bó bầu.)
p. Lufain - 91
- Tác dụng: Kích thích nảy mầm, phá ngủ hạt lúa, bổ sung vi lượng, chống các
mầm bệnh (đạo ôn, tiêm lửa, khô vằn…) tăng cường phát triển, chống rét cho
mạ tăng năng suất.
- Thành phần: Vi lượng (Fe, Cu, Zn, Mn…) các chất điều hoà sinh trưởng, các
chất sát trùng bề mặt.
- Cách dùng: Pha 1 gói vào 8 lít nước ấm 50
0
C, ngâm 10kg thóc giống 24giờ
sau đó thay nước ngâm tiếp tuỳ loại thóc và ủ ấm bình thường. Bảo quản nơi
khô mát.
4.4.2 Phân phức hợp HCVS Fitohoocmon
* Thành phần chủ yếu của phân phức hợp HCVS Fitohoocmon
- Phân mùn hữu cơ cao cấp: phân gia súc, gia cầm, than bùn và các phế
phụ phẩm nông nghiệp.
- Phân đa lượng: đạm, lân và kali
- Phân trung lượng: Canxi, magie, lưu huỳnh, …
- Phân vi lượng: mangan, molipden, bo, sắt …

- Hỗn hợp các chủng giống vi sinh vật hữu ích: cố định đạm, phân giải
lân và phân giải xellulo.
* Sự khác biệt và những tính năng vượt trội của phân phức hợp HCVS so với
các loại phân đơn.
Phân PHHCVS Fitohoocmon Phân đơn N, P, K, Phân chuồng
- Cung cấp đầy đủ các loại dinh dưỡng
thiết yếu cho cây trồng, tạo độ phì
nhiêu cho đất trồng.
- Các chất dinh dưỡng được cung cấp
cân đối cho cây trồng qua từng giai
đoạn sinh trưởng và phát triển của cây
trồng.
- Cây vải khi bón phân PHHCVS Fito
thì cây khoẻ, màu lá xanh, bền màu, ra
hoa tập trung vào đợt 3; quả sai và
đều, mã quả đẹp…
- Cung cấp dinh dưỡng đơn lẻ, lượng
phân chuồng cung cấp ít. Không đủ để
đảm bảo dinh dưỡng cho cây.
- Dinh dưỡng bón vào đất dễ bị rửa
trôi, hoặc để lại tồn dư trong đất.
- Khi bón thừa hoặc thiếu một loại
phân nào đó: đạm, lân, kali hay bất kỳ
một nguyên tố nào khác cũng gây ảnh
hưởng xấu tới cây trồng.
4.5. Phương pháp bón phân cho vải
Bảng 4. Thời gian và số lần bón phân cho vải
Thời gian bón Mục đích bón
Tỷ lệ bón với tổng lượng
bón % (Phân PHHCVS)

Cuối tháng 7 - đầu tháng 8 Hồi phục sau thu hoạch 33.4
Tháng 11 Phân hoá mầm hoa 22.2
Tháng 3 Đậu quả 1 22.2
Tháng 4 Đậu quả 2 22.2
Thường chia tổng lượng phân bón làm 4 lần bón vào các thời điểm: sau
thu hoạch, xuất hiện mầm hoa, ra hoa rộ - đậu quả. Tuy nhiên cũng có ý kiến
cho rằng chỉ cần bón vào 3 đợt: Nếu đất có thành phần cơ giới từ trung bình,
tổng lượng phân được bón vào lúc xuất hiện mầm hoa và sau khi đậu quả, mỗi
lần 50% hay bón 1 lần sau thu hoạch (tháng 7) và một lần vào sau mùa mưa
(tháng 11), và lần cuối vào lúc xuất hiện quả con.
Việc bón phân chia ra làm nhiều đợt bón là cần thiết khi trồng vải trên đất
có thành phần cơ giới nhẹ, đồng thời nhằm làm tăng hiệu quả sử dụng phân bón,
tăng năng suất và phẩm chất quả. Nhưng cũng cần quan tâm tính toán hiệu quả
kinh tế, liên quan đến công sử dụng để bón phân.
- Để bón phân cho vải, có thể bón phân vào hố hay hốc và bón phân vào
rãnh. Nên bón trước khi trời mưa, nhờ nước mưa phân thấm vào đất. Nếu gặp
hạn, trời không mưa phải hoà phân vào nước để tưới theo hình chiếu của tán cây.
- Khi bón phân vào hốc, cần cuốc những hố nhỏ có kích thước
20x20x20cm vòng quanh hình chiếu của tán cây vải trên mặt đất, các hố này
cách nhau 50cm, tạo thành vùng tròn quanh gốc vải. Cũng có thể xới những hốc
nhỏ và nông có kích thước khoảng 5 - 7cm nằm trong vùng hình chiếu của tán
cây. Sau đó rắc phân xuống hố hay hốc và lấp đất. Cách bón này thường áp dụng
để bón phân khoáng.
- Khi bón phân cho vải vào rãnh, cần xẻ rãnh xung quanh hình chiếu của
tán cây; rãnh có chiều rộng 10 - 30cm, chiều sâu 30 - 40cm. Cách bón này cần
thiết khi có bón phân hữu cơ. Khi có bón phân hữu cơ nên trộn với phân hoá học
để bón cho cây, rắc phân vào rãnh rồi lấp đất phủ kín.
Thường còn sử dụng phương pháp bón phân lên lá nhằm kịp thời cung
cấp chất dinh dưỡng vi lượng như: Bo, Zn, Fe, Mo …cho cây vải đạt năng suất
cao hơn, phẩm chất tốt hơn. Khi bón phân lên lá cần chú ý một số điểm sau: lá

non và lưng lá của cây vải là nơi có mật độ khí khổng cao có khả năng hấp thu
mạnh hơn so với lá giá và mặt trên của lá. Khi phun phân phải chọn lúc có nhiều
lá non và nên phun vào lưng lá.
4.6. Quy trình bón phân Hữu cơ vi sinh Fito - Việt Séc cho cây Vải Thiều -
huyện Thanh Hà: cây có tuổi từ 10 - 14
4.6.1. Thúc lộc thu:
- Thời điểm bón thích hợp nhất là vào cuối tháng 8 dương lịch, khi đó cây
ra lộc thu. Lượng phân sử dụng là 10kg/gốc.
- Cách bón: Bón theo hình chiếu tán cây, trước khi bón xới đất theo hình
tán, để đất khô và đập nhỏ. Rắc phân xuống và lấp một lớp đất đập nhỏ lên, tưới
ẩm cho cây
4.6.2. Thúc ra hoa:
- Thời điểm bón thích hợp là vào đầu tháng 2 dương lịch. Lúc đó cây vải
bắt đầu ra hoa. Lượng bón là 15kg/gốc.
- Cách bón: có thể xẻ rãnh hoặc rắc quanh gốc vải
4.6.3. Thúc quả non lần 1:
- Khi quả mới được hình thành (sau nở hoa 10 - 20 ngày), lượng phân sử
dụng là 10kg/gốc.
- Cách bón: có thể rắc quanh gốc rơm hoặc một lớp đất mỏng lên, sau
đó tưới ẩm.
4.6.4. Thúc quả non lần 2:
- Thời điểm bón thích hợp bón thúc quả non lần 2 nhất là sau khi bón
thúc quả non 1 một tháng, lượng phân sử dụng là 10kg/gốc. trong giai đoạn này
nên tưới gốc thường xuyên để cây hút được nhiều dinh dưỡng nhất.
- Cách bón: tương tự như trên.
4.7. lượng phân PHHCVS Fito - Việt Séc bón cho vải ở các lứa tuổi:
Bảng 5. Lượng phân bón cho vải theo các lứa tuổi cây
Tuổi cây vải Lượng phân bón
1 - 3 10
4 - 5 20

6 - 7 25
8 - 9 30
10 - 11 35
12 - 13 40
14 - 15 45
≥ 15
45
5. Cắt tỉa tạo tán:
Hàng năm tập trung cắt tỉa 3 lần :
- Vụ Xuân : Cắt tỉa cành trong tán, cành sâu bệnh, tỉa bỏ các chùm hoa
nhỏ, ra muộn.
- Vụ Hè : Cắt tỉa cành trong tán, cành sâu bệnh, cành mọc yếu, quả sâu
bệnh, quả nhỏ.
- Sau thu hoạch : Cắt tỉa toàn bộ cành tăm, cành vượt, cành sâu bệnh. Khu
lộc thu phát triển khống chế 2 - 3 cành Thu trên 1 cành mẹ để giúp cành mẹ
khỏe, ra hoa, đậu quả tốt.
6. Sâu bệnh chính và biện pháp phòng trừ
6.1. Bọ xít :
- Bọ xít trưởng thành qua Ðông, đẻ trứng vào các tháng 2, 3, 4, bọ xít non
gây hại lộc, hoa và quả non.
- Phòng trừ :
+ Bắt bọ xít trưởng thành qua Ðông vào khoảng tháng 12 -1 bằng cách rung cây
vào ban đêm, sau đó tập trung lại và đốt.
+ Ngắt các ổ trứng ở mặt dưới lá đem thiêu hủy.
+ Phun thuốc diệt bọ xít non bằng Dipterex 0,3%; Sherpa 0,2%.
6.2. Sâu đục thân cành :
- Trưởng thành đẻ trứng vào các kẽ nứt trên gốc cây và cành chính. Sâu non
nở ra đục vào phần gỗ tạo ra lỗ đục có phân mùn cưa đùn ra.
- Phòng trừ :

×