Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

de cuong on tap ngu van lop 11 hoc ki 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.1 KB, 7 trang )

SỞ GD & ĐT QUẢNG NAM

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN 11
Học kì I - Năm học 2017-2018
I. Tiếng Việt:
1. Ngữ cảnh là gì? Các nhân tố của ngữ cảnh? Vai trò của ngữ cảnh?
2 . Thế nào là ngơn ngữ báo chí? Các thể loại báo chí? Đặc trưng của ngơn ngữ báo chí?
3 .Chức năng của ngơn ngữ báo chí là gì?
II. Làm văn:
1. Lập luận phân tích là gì?
2. Tác dụng của lập luận phân tích trong văn nghị luận?
3. Phỏng vấn là gì? Trước cuộc phỏng vấn người phỏng vấn cần chuẩn bị như thế nào?
III. Văn học:
1. Phân tích tâm trạng của Hồ Xuân Hương qua bài: Tự tình(Bài II).
2. Nêu cảm nhận về cảnh thu và tình thu trong bài: Câu cá mùa thu(Thu điếu) của Nguyễn
Khuyến.
3. Vì sao chị em Liên ( trong truyện ngắn Hai đứa trẻ ) của Thạch Lam cố thức để đợi chuyến
tàu đêm đi qua? Qua đó tác giả muốn nói điều gì?
4. Hãy phân tích vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao trong tác phẩm “ Chữ người tử tù” của Nguyễn
Tuân?
5. Phân tích nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích: “Hạnh phúc của một tang gia”(Trích Số đỏ)
của Vũ Trọng Phụng?
6. Bi kịch của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm” Chí Phèo” của Nam Cao?

-------Hết-------

ĐÁP ÁN ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN NGỮ VĂN 11
Học kì I - Năm học 2010 -2011


I. Tiếng Việt:


1. Câu 1:
- Ngữ cảnh là bối cảnh lời nói, ở đó người nói (người viết) tạo ra lời nói thích ứng, cịn người
nghe (người đọc) căn cứ vào đó để hiểu đúng ý.
- Các nhân tố của ngữ cảnh:
+ Nhân vật giao tiếp.
+ Bối cảnh ngồi ngơn ngữ.
+ Văn cảnh.
- Vai trò của ngữ cảnh: tạo lập câu và lĩnh hội câu.
2. Câu 2:
- Ngôn ngữ báo chí là ngơn ngữ dùng để thơng báo tin tức thời sự trong nước và quốc tế, phản
ánh chính kiến của tờ báo và dư luận quần chúng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.
- Các thể loại báo chí: Bản tin, phóng sự, tiểu phẩm, quảng cáo….
- Đặc trưng của ngơn ngữ báo chí:
+ Tính thơng tin thời sự.
+ Tính ngắn gọn.
+ Tính sinh động hấp dẫn.
3. Câu 3:
Chức năng của ngơn ngữ báo chí: thơng tin thời sự, phản ánh dư luận và ý kiến của quần chúng
đồng thời nêu lên quan điểm chính kiến của tờ báo nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
II. Làm văn:
1. Câu 1:
Lập luận phân tích là thao tác chia nhỏ các đối tượng thành các yếu tố bộ phận để xem xét rồi
tổng hợp nhằm phát hiện ra bản chất của đối tượng.
2. Câu 2:
Tác dụng của lập luận trong văn nghị luận:
Nhằm làm sáng tỏ đối tượng đang nghiên cứu trong tương quan với đối tượng khác làm cho bài
nghị luận rõ ràng, cụ thể, sinh động và có sức thuyết phục.
3. Câu 3:
Phỏng vấn là một cuộc hỏi đáp có mục đích nhằm thu thập thông tin hoặc cung cấp thông tin về
một chủ đề quan tâm.

Trước cuộc phỏng vấn người phỏng vấn cần xác định rõ mục đích phỏng vấn, có sự hiểu biết
nhất định về đối tượng phỏng vấn từ đó xây dựng một đề cương phỏng vấn với hệ thống câu hỏi
thích hợp.
III. Văn học: Dàn ý sơ lược.
1. Câu 1: Tâm trạng của Hồ Xuân Hương qua bài: Tự tình(Bài II).
a. Hai câu đề.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non”.
 Hình ảnh một con người cơ đơn ngồi một mình trong đêm khuya, cộng vào đó là tiếng trống canh
báo hiệu sự trơi chảy của thời gian.
 Cách dùng từ: Cụ thể hóa, đồ vật hóa, rẻ rúng hóa cuộc đời của chính mình.
 Câu thơ ngắt làm 3 như một sự chì chiết, bẽ bàng, buồn bực. Cái hồng nhan ấy không được quân tử
u thương mà lại vơ dun, vơ nghĩa, trơ lì ra với nước non.
Hai câu thơ tạc vào không gian, thời gian hình tượng một người đàn bà trầm uất, đang đối diện với
chính mình.
b. Hai câu thực.
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa trịn”.
- Uống rượu mong giải sầu nhưng không được, Say lại tỉnh. tỉnh càng buồn hơn.


- Hình ảnh người phụ nữ uống rượu một mình giữa đêm trăng, đem chính cái hồng nhan của mình
ra làm thức nhấm, để rồi sững sờ phát hiện ra rằng trong cuộc đời mình khơng có cái gì là viên mãn
cả, đều dang dở, muộn màng.
- Hai câu đối thanh nghịch ý: Người say lại tỉnh >< trăng khuyết vẫn khuyết  tức, bởi con người
muốn thay đổi mà hồn cảnh cứ ỳ ra  vơ cùng cơ đơn, buồn và tuyệt vọng.
c. Hai câu luận.
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.
- Động từ mạnh: Xiên ngang, đâm toạc-> Tả cảnh thiên nhiên kì lạ phi thường, đầy sức sống: Muốn

phá phách, tung hồnh - cá tính Hồ Xn Hương: Mạnh mẽ, quyết liệt, tìm mọi cách vượt lên số
phận.
- Phép đảo ngữ và nghệ thuật đối: Sự phẫn uất của thân phận rêu đá, cũng là sự phẫn uất, phản
kháng của tâm trạng nhân vật trữ tình.
d. Hai câu kết.
“Ngán nỗi xuân đi, xn lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con”.
- Hai câu kết khép lại lời tự tình.
Nỗi đau về thân phận lẽ mọn, ngán ngẩm về tuổi xuân qua đi không trở lại, nhưng mùa xuân của đất
trời vẫn cứ tuần hoàn.
 Nỗi đau của con người lâm vào cảnh phải chia sẻ cái khơng thể chia sẻ:
Mảnh tình - san sẻ - tí - con con.
 Câu thơ nát vụn ra, vật vã đến nhức nhối vì cái duyên tình hẩm hiu, lận đận của nhà thơ. Càng gắng
gượng vươn lên càng rơi vào bi kịch.
=> Với cách sử dụng từ ngữ sáng tạo giàu sức biểu cảm, kết hợp với các biện pháp nghệ thuật: đảo
từ, đối, động từ mạnh, xây dựng hình ảnh độc đáo…Bài thơ thể hiện tâm trạng, thái độ: vùa đau
buồn, vừa phẫn uất cho duyên phận hẫm hiu, bẽ bàng nhưng vẫn không thôi khát vọng hạnh phúc
2. Câu 2 : cảnh thu và tình thu trong bài: Câu cá mùa thu(Thu điếu) của Nguyễn Khuyến.
a. Cảnh thu:
- Điểm nhìn từ trên thuyền câu -> nhìn ra mặt ao nhìn lên bầu trời -> nhìn tới ngõ vắng -> trở về với
ao thu( khác với Thu vịnh )
-> Cảnh thu được đón nhận từ gần -> cao xa -> gần. Cảnh sắc thu theo nhiều hướng thật sinh động.
- Mang nét riêng của cảnh sắc mùa thu của làng quê Bắc bộ: Khơng khí dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh
vật:
+ Màu sắc: Trong veo, sóng biếc, xanh ngắt
+ Đường nét, chuyển động: Hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, mây lơ lửng.
-> Hình ảnh thơ bình dị, thân thuộc, khơng chỉ thể hiện cái hồn của cảnh thu mà còn thể hiện cái
hồn của cuộc sống ở nông thôn xưa.
"Cái thú vị của bài Thu điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh trúc, xanh trời,
xanh bèo" ( Xuân Diệu ).

- Không gian thu tĩnh lặng, phảng phất buồn:
+ Vắng teo
+ Trong veo
Các hình ảnh được miêu tả
+ Khẽ đưa vèo
trong trạng thái ngưng
+ Hơi gợn tí.
chuyển động, hoặc chuyển
+ Mây lơ lửng
động nhẹ, khẽ.
- Đặc biệt câu thơ cuối tạo được một tiếng động duy nhất: Cá đâu đớp động dưới chân bèo
-> không phá vỡ cái tĩnh lặng, mà ngược lại nó càng làm tăng sự yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật
-> Thủ pháp lấy động nói tĩnh.
b. Tình thu.
- Nói chuyện câu cá nhưng thực ra là để đón nhận cảnh thu, trời thu vào cõi lòng.


+ Một tâm thế nhàn: Tựa gối ôm cần
+ Một sự chờ đợi: Lâu chẳng được.
+ Một cái chợt tỉnh mơ hồ: Cá đâu đớp động..
- Không gian thu tĩnh lặng như sự tĩnh lặng trong tâm hồn nhà thơ, khiến ta cảm nhận về một nỗi cô
đơn, man mác buồn, uẩn khúc trong cõi lòng thi nhân.
-> Nguyễn khuyến có một tâm hồn hồn gắn bó với thiên nhiên đất nước, một tấm lịng u nước
thầm kín mà sâu sắc.
=> Bút pháp thủy mặc Đường thi và vẽ đẹp thi trung hữu họa của bức tranh phong cảnh; vận dụng
tài tình nghệ thuật đối. Cảnh thu đẹp nhưng buồn và tĩnh lặng. Qua đó bộc lộ tình u thiên nhiên,
yêu quê hương đất nước và tâm sự thời thế của tác giả.
3. Câu 3 : Chị em Liên thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua..
Liên và An là hai đứa trẻ từng sống ở Hà Nội rồi gia đình thất cơ lỡ vận, phải chuyển về quê - một
phố huyện hẻo lánh. Hai chị em được mẹ cho trơng coi một cửa hàng tạp hố bé xí. Ngày nao cũng

giống hệt ngày nào, chúng chờ bán cho người ta những món hàng nhỏ bé, chiều chiều trong bóng
tối chập choạng của hồng hơn với tiếng ếch nhái ngồi đồng va tiếng muỗi vo ve trong nhà, hai chị
em cặm cụi tính số tiền bé nhỏ bán được trong ngày. Thế giới xung quanh hai chị em Liên cũng thật
tội nghiệp. Đó là chị Tí ngày thì mị cua bắt ốc, tối đến dọn hàng nứơc dưới gốc cây bàng với ngọn
đèn hoa kì leo lét. Đó là bà cụ Thi hơi điên, già nua với tiếng cười khanh khách. Đó là bác phở Siêu
với gánh hàng phở là món quà xa xỉ của phố huyện nghèo. Đó là vợ chồng bác Xẩm góp chuyện
bằng mấy tiếng đàn bầu. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo đi nhặt thanh tre hay thanh nứa hoặc bất
cứ thứ gì có thể dùng được. Số phận của con người đều có một cái gì đó tàn lụi, khơng tương la,
leo lét một cách tội nghiệp trong nghèo đói, buồn chán và tăm tối.
Sống trong bóng tối, trong yên lặng, trong buồn chán, may mắn thay cuối cùng hai chị em Liên
cũng tìm đựơc chút niềm vui để mong đợi, để hi vọng. Hai chị em Liên cố thức để được nhìn
chuyến tàu đi qua vơí các em đó là cái mốc điểm bước đi của thời gian đang cho các em xích lại gần
với chuyến tàu. Với các em chuyến tàu ấy là tất cả miền vui và hi vọng. Đó là Hà Nội trong q
khứ êm đềm xa xơi. Đó là niềm vui duy nhất để giải toả tâm trí sau một ngày mệt mỏi, đơn điệu và
buồn chán. Đó là âm thanh, ánh sáng, vẻ lấp lánh của cuộc đời khác hồn tồn khơng giống với
cuộc đời nghèo nàn và tẻ nhạt nơi đây. Có lẽ qua truyện ngắn này, Thạch Lam muốn nói với chúng
ta rằng : Có những cuộc đời mới đáng thương làm sao, có những ứơc mơ mới nhỏ bé, tội nghiệp
nhưng chân thành tha thiết và cảm động làm sao. Nhưng dẫu sao, sự chờ đợi của các em cũng cho
chúng ta hiểu ra rằng : Trong cuộc đời, phải biết vượt lên cái tẻ nhạt, cái vô vị hàng ngày để mà hi
vọng, dẫu hi vọng có nhỏ bé thì mới có thể còn gọi là sống là tồn tại. Hãy biết hy vọng, dừng chím
đắm trong bóng tối. Một chút hi vọng nhỏ bé thôi cũng sẽ là một liều thuốc tiên giúp chúng ta đứng
dậy, trụ vững trong cuộc đời.
=> Cốt truyện đơn giản, nổi bật là những dòng tâm trạng chảy trôi, những cảm xúc, cảm giác mong
manh mơ hồ trong tâm hồn nhân vật. Bút pháp tương phản, đối lập. Miêu tả sinh động những biến
đổi tinh tế của cảnh vật và tâm trạng con người. Ngơn ngữ, hình ảnh giàu ý nghĩa tượng trưng.
Giọng điệu thủ thỉ thấm đượm chất thơ, chất trữ tình sâu lắng;
Truyện ngắn hai đứa trẻ thể hiện niềm cảm thương chân thành của Thạch Lam đối với những kiếp
người nghèo khổ, chìm khuất trong mỏi mòn, tăm tối, quẩn quanh nơi phố huyện trước Cách mạng
và sự trân trong với mong ước bé nhỏ, bình dị mà tha thiết của họ
4. Câu 4 : Vẻ đẹp của nhân vật Huấn Cao :

- Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa:
Có tài năng viết thi pháp.
Chữ của ơng đẹp lắm, vng lắm: « có được chữ của ơng như có báu ật ở trên đời », « khơng kịp
xin chữ thì ân hận suốt đời ».
Vẻ đẹp của Huấn Cao lan truyền khắp thiên hạ và trở thành niềm mong ước của nhiều người.
- Huấn Cao là một con người có khí phách ngang tàng, một bậc anh hùng nghĩa liệt :
Có những hành động chọc trời, khuấy nước chống lại triều đình nhà Nguyễn.


Dỗ gông một cách ngang ngược.
Đuổi viên quản ngục ra khỏi phịng của mình.
Xưa nay chưa bao giờ hạ mình trước uy quyền, tiền bạc.
Coi thường quyền lực, coi thường cái chết.
- Vẻ đẹp thiên lương :
Có tâm hồn thanh cao.
Khơng bao giờ vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết chữ bao giờ.
Khi biết tấm lịng thành của viên quản ngục thì ơng cho chữ:”thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng
trong thiên hạ.
Cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong căn buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng
nhện, tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang tô
đậm nét chữ trên tấm lụa trắng tinh.
Huấn Cao là một bức tượng tạc sừng sững giữa chốn ngục tù mạnh mẽ, uy nghi; Huấn Cao đã đã
thay đổi cả tấm đời nhỏ bé của viên quản ngục- một con người yêu cái đẹp đến khổ hạnh, tận tụy
với cái đẹp như tôi tớ. Cái đẹp của thiên lương, tài hoa đã gạt phăng đi mọi tì vết của chốn ngục tù.
Huấn Cao ngay trong đêm cuối cùng của đời mình đã được tái sinh. Sự tái sinh của Huấn Cao đã
được gửi vào viên quản ngục. Một người tận tụy khổ hạnh như viên quản ngục thì ắt cái đẹp trong
Huấn Cao sẽ được nâng niu, chăm sóc.
Lời cuối cùng của Huấn Cao là lời khẳng định duy nhất chỉ có một bức tượng tạc về thiên lương và
tài hoa cũng là lời phủ định cả thời cuộc đương thời:” thầy quản nên tìm về q nhà mà ở đã , thầy
hãy thốt khỏi cái nghề này đi đã rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ơ đây, khó giữ cho thiên lương

lành vững và cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi. Xã hội này khơng có chỗ cho cái
đẹp…”. Cái đời của Huấn Cao muốn gìn giữ thiên lương phải thành kẻ tử tù. Và viên quản ngục
muốn tôn thờ cái đẹp phải làm một người dân thường để không ai chạm đến.
=> Xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao con người hội tụ nhiều vẽ đẹp lí tưởng.
5. Câu 5: Nghệ thuật trào phúng qua đoạn trích “ Hạnh phúc của một tang gia” của Vũ
Trọng Phụng.
* Cái chết của cụ cố tổ làm nhiều người hạnh phúc:
- Cụ cố Hồng: nhắm nghiền mắt lại mơ màng đến lúc mặc bộ đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa khóc
mếu máo để cho thiên hạ phải chỉ trỏ:” kìa, con giai nhớn đã già đến kia kìa!”
- Ơng phán mọc sừng đột nhiên tăng giá thêm vài nghìn đồng, khơng đau khổ vì vợ ngoại tình cũng
khơng đau xót vì ơng già đã mất mà chỉ lo phi vụ làm ăn với Xn tóc đỏ.
- Ơng Văn Minh: Khơng biết xử trí với Xn tóc đỏ ra sao vì nhờ Xn tóc đỏ mà ơng nội chết, bản
di chúc sẽ được thực hiện, của cải sẽ chia ra, hầu bao ông ta sẽ tăng thêm.
Tiệm may Âu hố và ơng Typn có thể lăng xê những mốt trang phục táo bạo nhất.
- Cô Tuyết sung sướng vì được mặc bộ đồ ngây thơ cái áo dài voan mỏng trong có coóc-sê.
- Cậu Tú Tân mừng điên người vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà chưa được dùng đến.
- Xuân tóc đỏ vênh vang hơn vì có Xn tóc đỏ mà ơng cụ lăn ra chết, lập cơng trạng cho gia đình
cụ cố Hồng.
Cái cười đau xót mỉa mai của Vũ Trọng Phụng khơng chỉ dừng lại, tác giả cịn tạo nên nhiều tình
tiết hấp dẫn khác ngay cả chi tiết trì hỗn đám tang cũng là một chi tiết đắt giá. Chỉ vì đám tang của
ông cụ già chưa đựoc cử hành mà cậu Tú Tân điên ngưịi lên, bà Văn Minh thì sốt ruột, ơng Typn
thì bực mình, họ chỉ mong ước đám tang đựơc cử hành, ngưịi chết đựoc chơn cất sớm để bản di
chúc được thực hiện, để họ đựoc hạnh phúc vì đựơc khen ngợ, vì đựơc trổ tài điện ảnh, lấy được
danh dự.
Cái chết của cha, của ông nội đã tạo nên một sự tưng dửng hiếm thấy: “ Người ta tưng bừng vui vẻ
đi đưa giấy cáo phó, gọi phường kèn xe đám ma”, Nếu khơng có các từ cáo phó, kèn, đám ma thì có
lẽ ta hiểu nhầm sang đám cưới bởi vì đây là một đám ma xưa nay hiếm .


Bắt đầu là hai viên cảnh sát là Min Đơ và Min Toa đến đám tang với khuôn mặt mừng rỡ, hí hửng

vì được th người giữ trật tự. Cịn các vị tai to mặt lớn đến đám tang không vì nghĩa tử là nghĩa tận
mà đến đây để ngắm khơng mất tiền làn da trắng thập thị trong làn áo mỏng của cơ Tuyết.
Hàng phố thì vui q vì chẳng mấy khi họ được xem một đấm ma to như thế theo cà lối Ta – Tàu –
Tây, có kiệu, bát cống, lợn quay đi lọng cho đến vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm
người đi đưa, lại có cả cậu Tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ .
Còn trai thanh gái lịch trong đám ma này thì chỉ bình phẩm, chê bai nhau, ghen tng nha, hẹn hị
nhau bằng vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma .
Cảnh cậu Tú Tân bắt bẻ từng người một làm từng động tác, giữ tư thế đau buồn để cậu ta chụp ảnh.
Ông Phán mọc sừng cứ oặt người đi và khóc trong tay Xuân bên cạnh bố vợ cũng ho khạc mếu
máo và ngất đi một cách rất đúng của một người con hiếu thảo. Ơng Phán đã lén lút thanh tốn món
tiền th Xn tóc đỏ giết ơng cụ già một cái giấy bạc năm đồng gấp tư .
=> Đoạn trích: “Hạnh phúc của một tang gia” là một bi hài kịch, phơi bày bản chất nhố nhăng, đồi
bại của một gia đình đồng thời phản ánh bộ mặt thật của xã hội thuộng lưu thành thi trước Cách
mạng tháng tám
6. Câu 6 : Bi kịch của nhân vật Chí Phèo :
Chí Phèo khơng có cha mẹ, khơng họ hàng thân thích, khơng một tấc đất cắm dùi. Mới sinh ra,
Chí đã bị vứt bên cạnh cái lị gạch cũ bỏ khơng qua tay anh bỏ thả ống lươn, người đàn bà goá mù,
bác phó cối khơng có con. Chí bơ vơ từ nhà này sang nhà khác trong thân phận một đứa con hoang
thật là thê thảm. Năm hai mươi tuổi, Chí là một thanh niên khoẻ mạnh làm canh điền cho nhà Bá
Kiến, chỉ vì một cơn ghen tng Bá Kiến đẩy Chí vào tù, chấm dứt quãng đời sống lương thiện của
Chí, dập tắt ln ước mơ cháy bịng của một chàng thanh niên về một ngôi nhà nho nhỏ, chồng cày
thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, nếu có tiền thì bỏ một con lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm sào
ruộng làm .
Từ một người lương thiện, có lịng tự trọng, biết khinh những cái đáng khinh, có những ước mơ
thật bình dị, chỉ sau 7,8 năm ở tù Chí trở thành một tên lưu manh cơn đồ . Nhà tù đã cướp đi bộ mặt
lương thiện của hắn, biến Chí trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại , cái đầu thì trọc lốc, cái răng
cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết .
Bá Kiến và nhà tù thực dân đã xơ đẩy Chí Phèo vào con đường tội lỗi. Hắn ăn trong lúc say, ngủ
trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu, rạch mặt, chửi bới, doạ nạt trong lúc say. Chưa bao
giờ hắn tỉnh táo để nhớ rằng hắn có ở trên đời. Có lẽ hắn cũng khơng biết rằng hắn là con quỷ dữ

của làng Vũ Đại phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, làm chảy máu và nước
mắt của nhiều người lương thiện. Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi lần hắn đi qua.
Trong một cơn say, dưới đêm trăng ngồi bãi vắng, tình u đã đến với Chí Phèo và Thị Nở. Lần
đầu tiên người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn biết làm duyên, cũng là lần đầu tiên sau chuỗi ngày chìm
đắm trong men say và tiếng chửi Chí đã nhận ra ánh sáng ngồi kia rực rỡ biết bao, nghe ra tiếng
chim hót ngồi kia vui vẻ quá. Có tiếng cười nói của những người đi chợ, anh thuyền chai gõ mái
chèo đuổi cá. Những âm thanh ấy hơm nào chả có. Nhưng hơm nay Chí mới nghe thấy. Chao ơi là
buồn. Trong cái phút tỉnh táo ấy Chí nhận ra tất cả bi kịch của cuộc đời mình. Tình yêu của Thị Nở,
sự săn sóc chân tình của Thị Nở đã đánh thức lương tri của Chí. Chí muốn trở thành người lương
thiện . Muốn được hoà nhập trong cộng đồng của xã hội lồi người biết bao. Người đàn ơng sau bao
năm làm quỷ dữ đã biết khóc , người đàn ơng sau bao nhiêu năm chỉ có rượu và tiếng chửi làm bạn
đồng hành giờ đây đang được ăn bát cháo hành bốc khói mà khơng phải doạ nạt, cướp bóc .Bát
cháo hành của Thị Nở đã đã làm thay đổi nhận thức của Chí, đã biến Chí trở thành đứa trẻ con, Chí
trở nên hiền lành và Chí mơ ước về một ngôi nhà trong tương lai. Nhưng thật tội nghiệp cho Chí,
người mà Chí đang hi vọng lại là người phụ nữ u mê, đần độn, không định đoạt được số phận của
mình. Sau chuỗi ngày u đương với Chí, khi bị bà cô ngăn cản, thị Nở trút vào tất cả vào mặt Chí
tất cả những lời thậm tệ của bà cơ. Chí đã ngẩn người, ngẩn mặt trức những lời của Thị Nở, trong
tâm trí Chí, hình ảnh Thị Nở với bát cháo hành nóng hổi vẫn ám ảnh, Chí khơng thể qn và lại
càng khơng muốn mất Thị Nở, Chí đã cố gắng đuổi theo , nắm lấy tay Thị Nở nhưng mọi cố gắng


của Chí dường như bất lực. Hi vọng vào tình yêu thương của Thị Nở, hi vọng vào tương lai được
sống trong xã hội lương thiện khơng cịn. Chí lâm vào tuyệt vọng. Chí đã quằn quại trong đau đớn,
tuyệt vọng, Chí lại bắt đầu uống rượu, nhưng càng uống lại càng tỉnh, càng tỉnh lại càng đau đớn.
Hơi rượu khơng cịn sặc sụa. Hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn ơm mặt khóc rưng rức.
Trong giây phút tuyệt vọng, trong những đớn đau tủi nhục của số phận, Chí biết rằng con đường trở
về với cuộc đời, về với xã hội lương thiện khơng cịn , lúc say nhất cũng là lúc tỉnh nhất, Chí đã đến
nhà Bá Kiến, trong tiếng kêu tuyệt vọng ai oán: Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để làm mất
những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa biết khơng! Chỉ có một
cách … biết khơng! Chỉ cịn một cách là… cái này! Biết khơng! Chí đã rút dao đâm Bá Kiến và tự

kết liễu đời mình.
=> Chí Phèo - bi kịch của người sinh ra là người nhưng khơng được làm người. Chí Phèo tố cáo
mạnh mẽ xã hội thuộc địa, phong kiến tàn bạo, cướp đi cả nhân hình và nhân tính của người nông
dân lương thiện, đồng thời nhà văn phát hiện và khẳng định bản chất tốt đẹp của con người ngay cả
khi tưởng như họ đã biến thành quỷ dữ.

-------Hết-------



×