Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích tính tương thích giữa một công ước quốc tế cơ bản về quyền con người với pháp luật việt nam lấy minh chứng thông qua pháp luật và thực tiễn thực thi một công ước quốc tế đó tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.49 KB, 14 trang )

1

Khoa Luật Đại Học Quốc Gia Hà Nội

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ HỌC PHẦN LÝ LUẬN PHÁP
LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI

Phân tích tính tương thích giữa một cơng ước quốc tế cơ
bản về quyền con người với pháp luật Việt Nam. Lấy
minh chứng thông qua pháp luật và thực tiễn thực thi
một cơng ước quốc tế đó tại Việt Nam.
Sinh Viên Thực Hiện:
Mã SV:
Lớp: Luật Học

Hà Nội, 11/2021

1


2

2


3

MỤC LỤCY
PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG............................................................................3
PHẦN II: TÍNH TƯƠNG THÍCH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
NGƯỜI KHUYẾT TẬT VỚI CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CỦA


NGƯỜI KHUYẾT TẬT..........................................................................................6
1. Tính tương thích của Luật người khuyết tật ...................................................6
2. Tính tương thích của Bộ luật lao động..............................................................8
3. Tính tương thích của Luật Giáo dục.................................................................9
4. Chính sách khuyến khích doanh nghiệp tạo việc làm cho người khuyết
tật…………………………………………………………………………………...9
PHẦN III: KẾT LUẬN.........................................................................................12
PHẦN IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………..13

PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG


4

Việt Nam gia nhập các điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người vào đầu
những năm 80 của Thế kỷ XX, ngay thời điểm đủ điều kiện tham gia các Công
ước quốc tế về quyền con người sau khi trở thành thành viên Liên hợp quốc năm
1977. Đó là dấu mốc rất đáng ghi nhận bởi bối cảnh đất nước lúc đó vừa ra khỏi
chiến tranh, gặp nhiều khó khăn trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội
và văn hóa. Trước đó, Việt Nam đã tham gia bốn Công ước quốc tế Geneva
(1949) về bảo hộ nạn nhân chiến tranh, đối xử nhân đạo với tù nhân chiến tranh
vào năm 1957. Chính vì vậy, việc gia nhập các Công ước quốc tế về quyền con
người của Việt Nam là một minh chứng rõ nét về nỗ lực của Nhà nước Việt Nam
trong việc bảo vệ, thúc đẩy và tôn trọng các quyền con người theo các chuẩn
mực quốc tế.
Đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về quyền
con người, cụ thể: Công ước về các Quyền Dân sự và Chính trị 1966 (ICCPR),
gia nhập ngày 24-9-1982; Công ước về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa
1966, gia nhập ngày 24-9-1982; Cơng ước về Xố bỏ mọi hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ 1979, ký kết ngày 29-7-1980, phê chuẩn ngày 17-2-1982;

Công ước về Xố bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc 1969, gia nhập ngày 9-61982; Công ước về Quyền Trẻ em 1989, ký kết ngày 26-1-1990, phê chuẩn ngày
28-2-1990 và hai Nghị định thư bổ sung về trẻ em trong xung đột vũ trang (ký
kết ngày 8-9-2000, phê chuẩn ngày 20-12-2001) và chống sử dụng trẻ em trong
các hoạt động mại dâm và tranh ảnh khiêu dâm (ký kết ngày 8-9-2000, phê
chuẩn ngày 20-12-2001); Công ước về Quyền của Người khuyết tật 2006, ký
ngày 22-11-2007 và phê chuẩn ngày 5-2-2015; Cơng ước Chống tra tấn và các
hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người,
ký ngày 7-11-2013 và phê chuẩn ngày 5-2-2015.
Nhà nước Việt Nam luôn xác định việc tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền
và tự do cơ bản của con người là nguyên tắc cơ bản của mọi chiến lược phát triển


5

kinh tế-xã hội của đất nước. Đây cũng là sự hiện thực hóa các cam kết đối với
các khn khổ pháp lý và thể chế quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trong đó có
các khuyến nghị UPR mà Việt Nam đã chấp thuận. Thực tiễn thời gian qua cho
thấy Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Bên cạnh các điều ước quốc tế về quyền con người cơ bản nêu trên, Việt Nam đã
tham gia nhiều công ước quốc tế khác liên quan đến việc bảo vệ quyền con
người và Luật Nhân đạo quốc tế, như: Nghị định thư bổ sung Công ước Geneva
về bảo hộ nạn nhân trong các cuộc xung đột quốc tế (gia nhập ngày 28-8-1981);
Công ước Quốc tế về Ngăn ngừa và Trừng trị Tội ác Diệt chủng 1948 (gia nhập
ngày 9-6-1981); Công ước Quốc tế về Ngăn chặn và Trừng trị Tội ác Apartheid
1973 (gia nhập ngày 9-6-1981); Công ước Quốc tế về Không áp dụng những hạn
chế luật pháp đối với các Tội phạm Chiến tranh và Tội ác chống Nhân loại 1968
(gia nhập ngày 4-6-1983); Công ước về Chống Tội phạm có tổ chức xuyên quốc
gia 2000 (ký kết ngày 13-12-2000, phê chuẩn ngày 8-6-2012).
Song song với các hoạt động nêu trên, việc hướng đến những chuẩn mực cơ bản
và phổ quát về quyền con người, đưa những qui định chung đã được quốc tế thừa

nhận rộng rãi về các quyền con người vào pháp luật, chính sách của Việt Nam,
phù hợp điều kiện đặc thù của Việt Nam, là một công tác trọng tâm trong việc
triển khai chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế về quyền con người.
Việt Nam luôn xác định, xây dựng Nhà nước Pháp quyền của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân và đảm bảo các quyền con người được thể chế hóa trong Hiến
pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013.
Không chỉ tham gia ngày càng nhiều các công ước quốc tế về quyền con người,
Việt Nam luôn nghiêm túc trong thực thi trách nhiệm, nghĩa vụ của một quốc gia
thành viên các công ước, đặc biệt là nghĩa vụ nội luật hóa quy định của các cơng
ước. Nhờ đó, các quyền con người được quy định ngày càng cụ thể và toàn diện


6

hơn trong luật pháp Việt Nam. Tiêu biểu nhất chính là Hiến pháp 2013 với một
chương riêng quy định về quyền con người và quyền công dân và hàng loạt các
bộ luật, luật đã và đang được điều chỉnh, sửa đổi hoặc ban hành mới theo tinh
thần Hiến pháp 2013 và các công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân được
triển khai đồng bộ và xun suốt thơng qua các chương trình xây dựng Luật,
pháp lệnh của Quốc hội và các chính sách, cơ chế nhằm triển khai các Luật và
văn bản luật này trên thực tế. Tính từ năm 2009 đến nay, Quốc hội đã ban hành
và sửa đổi nhiều đạo luật quan trọng nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, vững chắc
cho việc tôn trọng và bảo đảm thực thi quyền con người. Các đạo luật được ban
hành mới liên quan đến quyền con người như: Luật Trách nhiệm Bồi thường của
Nhà nước (2009), Luật Khám chữa bệnh (2009), Luật Lý lịch tư pháp (2009),
Luật Người cao tuổi (2010), Luật Người khuyết tật (2010), Luật nuôi con nuôi
(2010), Luật Thi hành án hình sự (2010), Luật Tố tụng hành chính (2010), Luật
Khiếu nại (2011), Luật Tố cáo (2011), Luật Phòng, chống mua bán người (2011),
Luật Cơng đồn (2012), Luật Xử lý các vi phạm hành chính (2012), Luật Phổ

biến, giáo dục pháp luật (2012)… Một số đạo luật quan trọng khác cũng được
Quốc hội sửa đổi, bổ sung như: Luật Bầu cử Quốc hội sửa đổi và Luật bầu cử
Đại biểu Hội đồng Nhân dân sửa đổi (2010), Bộ luật Lao động sửa đổi (2012),
Luật Luật sư sửa đổi, bổ sung (2012), Luật Xuất bản sửa đổi (2012). Chính phủ
cũng ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành luật, phù hợp với
tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.

PHẦN II: TÍNH TƯƠNG THÍCH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
NGƯỜI KHUYẾT TẬT VỚI CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CỦA
NGƯỜI KHUYẾT TẬT


7

1.Tính tương thích của Luật người khuyết tật:
Trong những năm qua, mặc dù đất nước cịn nhiều khó khăn nhưng Đảng và Nhà
nước Việt Nam đã luôn dành sự quan tâm đến đời sống mọi mặt của người
khuyết tật. Đã có các chủ trương, chính sách, pháp lệnh ra đời để đảm bảo quyền
lợi và ưu đãi trong đời sống tinh thần, vật chất, việc làm cho người khuyết tật.
Trong số đó có Pháp lệnh Người tàn tật đã được Ủy ban Thường vụ Quốc Hội
ban hành năm 1998. Tại điều 31 Pháp lệnh có quy định lấy ngày 18/04 hàng năm
là ngày bảo vệ chăm sóc người tàn tật.
Ngày 22/11/2007 Việt Nam ký kết Công ước quốc tế về quyền của người khuyết
tật. Sự kiện pháp lý này đã thể hiện được tinh thần, ý thức trách nhiệm của Nhà
nước đối với việc bảo đảm, thực thi quyền con người, quyền của người khuyết
tật. Có thể nói, tồn bộ tinh thần, nội dung quy định của Công ước đã ảnh hưởng
tích cực đến việc xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật về người khuyết tật
ở Việt Nam.
Năm 2010, sau 03 năm chuẩn bị kể từ năm 2007 là năm Việt Nam ký kết công
ước Quốc Hội đã thông qua Luật Người khuyết tật để thay thế cho Pháp lệnh

Người tàn tật năm 1998. Luật số 51/2010/QH12, tại điều 11 chính thức ghi nhận
ngày 18 tháng 4 hàng năm là Ngày Người khuyết tật Việt Nam.
Luật Người khuyết tật và Pháp lệnh người tàn tật đều cùng điều chỉnh những
quan hệ trong lĩnh vực thực thi quyền của người khuyết tật. Tuy nhiên trong hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam, Luật là văn bản có tính ổn định
cao, cho nên mỗi văn bản luật được soạn thảo và ban hành đều mang tầm nhìn
chiến lược và phát triển của xã hội. Trong khi đó Pháp lệnh lại điều chỉnh những
quan hệ có tính ổn định thấp dễ thay đổi trong một thời gian ngắn.


8

Chính vì vậy, việc thay thế pháp lệnh bằng Luật là bằng chứng thể hiện bước
chuyển lớn lao, căn bản về nhận thức và hành động thực tế của Nhà nước và xã
hội Việt Nam đối với vấn đề người khuyết tật. Đó là sự chuyển biến từ cách thức
tư duy nhìn nhận vấn đề người khuyết tật như việc nhân đạo, từ thiện sang tư duy
về người khuyết tật trên cơ sở quyền con người.
Trước khi ban hành Luật Người khuyết tật 2010, Việt Nam đã có một quá trình
tổng kết, rà sốt và đánh giá các quy định và thực tiễn sau hơn 10 năm thi hành
Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998. Từ đó làm cơ sở cho việc nghiên cứu xác
định nội dung chính sách pháp luật trong lĩnh vực người khuyết tật nói chung và
việc xây dựng Luật Người khuyết tật nói riêng.
Luật Người khuyết tật ra đời hướng đến sự bình đẳng của cộng đồng đối với
người khuyết tật, từ đó giúp người khuyết tật có thể hịa nhập xã hội, xóa đi sự
mặc cảm về bản thân về những khiếm khuyết của mình.
Để hưởng ứng ngày người khuyết tật 18/4, cứ đến dịp này khắp nơi trong cả
nước đều có các hoạt động thiết thực như: giao lưu văn nghệ - thể thao, toạ đàm,
hội nghị, hội thảo, tư vấn và tuyển dụng việc làm, tư vấn kỹ năng sống, hướng
dẫn chăm sóc bảo vệ sức khỏe, khám chữa bệnh miễn phí... dành cho người
khuyết tật.

Có thể khẳng định, Việt Nam ln chủ động, tích cực thực thi cơng ước về quyền
của người khuyết tật. Vì vậy, mặc dù năm 2015 Việt Nam mới phê chuẩn Công
ước về quyền của người khuyết tật nhưng với tinh thần là nước đã ký kết tham
gia Công ước, nên về cơ bản Luật Người khuyết tật năm 2010 của Việt Nam đã
được đánh giá là khá tương thích với Cơng ước về quyền của người khuyết tật.


9

Hiện tại văn bản mới nhất trong lĩnh vực này là văn bản hợp nhất Số:
763/VBHN-BLĐTBXH ngày 28 tháng 02 năm 2019 (nghị định) quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật người khuyết tật.
2.Tính tương thích của Bộ luật lao động:
Bộ luật lao Động dành Mục 4 từ Điều 158 đến Điều 160 quy định về “Lao động
là người khuyết tật” như sau:
Chính sách của Nhà nước đối với lao động là người khuyết tật: Nhà nước bảo trợ
quyền lao động, tự tạo việc làm của người lao động là người khuyết tật; có chính
sách khuyến khích, ưu đãi phù hợp đối với người sử dụng lao động trong tạo việc
làm và nhận người lao động là người khuyết tật vào làm việc theo quy định của
pháp luật về người khuyết tật.
Đối với Sử dụng lao động là người khuyết tật thì “Người sử dụng lao động phải
bảo đảm về điều kiện lao động, cơng cụ lao động, an tồn, vệ sinh lao động và tổ
chức khám sức khỏe định kỳ phù hợp với người lao động là người khuyết tật”.
Đặc biệt khi quyết định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của người
lao động là người khuyết tật, người sử dụng lao động phải tham khảo ý kiến của
người lao động là người khuyết tật.
Các hành vi bị nghiêm cấm khi sử dụng lao động là người khuyết tật đó là làm
thêm giờ, làm việc vào ban đêm, trừ trường hợp người lao động là người khuyết
tật đồng ý.
Sử dụng người lao động là người khuyết tật nhẹ suy giảm khả năng lao động từ

51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng.


10

Sử dụng người lao động là người khuyết tật làm công việc nặng nhọc, độc hại,
nguy hiểm theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
ban hành mà khơng có sự đồng ý của người khuyết tật sau khi đã được người sử
dụng lao động cung cấp đầy đủ thông tin về công việc đó.
3.Tính tương thích của Luật Giáo dục:
Chính sách Dạy nghề và tạo điều kiện về việc làm đối với người khuyết tật cũng
được quy định xuyên suốt với chủ trương “Nhà nước bảo đảm để người khuyết
tật được tư vấn học nghề miễn phí, lựa chọn và học nghề theo khả năng, năng lực
bình đẳng như những người khác.”
Cơ sở dạy nghề có trách nhiệm cấp văn bằng, chứng chỉ, công nhận nghề đào tạo
khi người khuyết tật học hết chương trình đào tạo và đủ điều kiện theo quy định
của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề.
Cơ sở dạy nghề tổ chức dạy nghề cho người khuyết tật phải bảo đảm điều kiện
dạy nghề cho người khuyết tật và được hưởng chính sách ưu đãi theo quy định
của pháp luật.
Người khuyết tật học nghề, giáo viên dạy nghề cho người khuyết tật được hưởng
chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật.
4.Chính sách khuyến khích doanh nghiệp tạo việc làm cho người khuyết tật
Nhà nước tạo điều kiện để người khuyết tật phục hồi chức năng lao động, được
tư vấn việc làm miễn phí, có việc làm và làm việc phù hợp với sức khỏe và đặc
điểm của người khuyết tật.


11


Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân không được từ chối tuyển dụng người
khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc hoặc đặt ra tiêu chuẩn tuyển
dụng trái quy định của pháp luật nhằm hạn chế cơ hội làm việc của người khuyết
tật.
Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật
tùy theo điều kiện cụ thể bố trí sắp xếp công việc, bảo đảm điều kiện và môi
trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật.
Cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật
phải thực hiện đầy đủ quy định của pháp luật về lao động đối với lao động là
người khuyết tật.
Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật cũng
được hưởng chính sách ưu đãi. Cụ thể nếu sử dụng từ 30% tổng số lao động trở
lên là người khuyết tật thì cơ sở sản xuất, kinh doanh được hỗ trợ cải tạo điều
kiện, môi trường làm việc phù hợp cho người khuyết tật; được miễn thuế thu
nhập doanh nghiệp; được vay vốn với lãi suất ưu đãi theo dự án phát triển sản
xuất kinh doanh; được ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước và miễn, giảm
tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất, kinh doanh theo tỷ lệ lao
động là người khuyết tật, mức độ khuyết tật của người lao động và quy mơ
doanh nghiệp.
Nhà nước khuyến khích cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhận người khuyết tật
vào làm việc. Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật được
hưởng chính sách ưu đãi.
– Doanh nghiệp sử dụng từ 10 người khuyết tật làm việc ổn định:


12

+ Hỗ trợ kinh phí cải tạo điều kiện, mơi trường làm việc phù hợp cho người
khuyết tật theo quy định của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Mức hỗ trợ
theo tỷ lệ người khuyết tật làm việc ổn định tại cơ sở sản xuất, kinh doanh, mức

độ khuyết tật của người lao động và quy mô của cơ sở sản xuất, kinh doanh theo
quy định của Thủ tướng Chính phủ.
+ Vay vốn ưu đãi theo dự án phát triển sản xuất kinh doanh từ Ngân hàng Chính
sách xã hội. Điều kiện vay, thời hạn vay, mức vốn vay và mức lãi suất vay thực
hiện theo quy định hiện hành áp dụng đối với dự án vay vốn giải quyết việc làm;
Nói chung, vai trị của chính sách, pháp luật là cơ sở chính trị - pháp lý để soạn
thảo, ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật nhằm bảo
đảm quyền của người khuyết tật. Chính sách, pháp luật người khuyết tật phải đặt
trong tổng thể hệ thống chính sách pháp luật của Nhà nước và là bộ phận không
thể tách rời của tồn bộ chính sách pháp luật nói chung.
Mặt khác, tư tưởng, nguyên tắc chính sách, pháp luật người khuyết tật cũng phải
được lồng ghép sâu sắc trong nội dung chính sách pháp luật của tất cả các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, đời sống người dân Việt Nam, đặc biệt là
người khuyết tật cịn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng nông thôn, miền núi, vùng
sâu, vùng xa; bản thân nhiều người khuyết tật cũng còn nặng tâm lý tự ti, nhận
thức về xã hội và chính mình cịn nhiều hạn chế. Cơng tác tun truyền, giáo dục
về quyền con người, quyền công dân, về vấn đề khuyết tật ở Việt Nam chưa có
hiệu quả cao, ảnh hưởng khơng nhỏ đến tính chủ động tích cực của cộng đồng,
các nhóm xã hội, cũng như các cá nhân.
Do vậy, để phát huy các yếu tố thuận lợi trong nước cũng như quốc tế, khắc phục
những khó khăn nhằm hiện thực hoá quyền của người khuyết tật, khi Việt Nam


13

trở thành thành viên Công ước, cần chú trọng việc nghiên cứu chuyên sâu các
quy định của Công ước để tiếp nhận, nội luật hố một cách đầy đủ, tồn diện các
quyền của người khuyết tật theo lộ trình thích hợp với điều kiện phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước đồng thời quán triệt đầy đủ nghĩa vụ của quốc gia thành

viên Công ước để sớm xác định chủ động việc thực thi nghiêm chỉnh các nghĩa
vụ đó.
PHẦN III: KẾT LUẬN
Cùng với triển khai đồng bộ các văn bản pháp luật về quyền con người, Việt
Nam đã tăng cường và mở rộng chương trình giáo dục, đào tạo về quyền con
người cho các cán bộ của các cơ quan nhà nước nhằm tăng cường nhận thức,
năng lực và hiệu quả công tác nhân quyền ở cơ sở.
Các nội dung giáo dục về quyền con người đã và đang được đưa vào chương
trình dạy học ở các trường phổ thông, lồng ghép vào một số môn học chuyên sâu
trong các trường đại học có đào tạo chuyên ngành Luật.
Trên bình diện quốc tế, Việt Nam ngày càng chủ động và tích cực hơn tại các cơ
chế của Liên hợp quốc về quyền con người, đặc biệt là đảm nhiệm vai trò thành
viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016. Ở cấp độ khu
vực, Việt Nam tham gia nghiêm túc vào quá trình xây dựng Tuyên ngơn Nhân
quyền ASEAN, Ủy ban liên chính phủ ASEAN về quyền con người, đóng góp
tích cực trong các Ủy ban ASEAN về phụ nữ và trẻ em, về lao động di cư…
Ở cấp độ song phương, Việt Nam hiện có cơ chế Đối thoại nhân quyền chính
thức với năm nước/đối tác, bao gồm Mỹ, EU, Thụy Sỹ, Na Uy và Australia. Bên
cạnh đó, Việt Nam cũng có nhiều kênh trao đổi khơng chính thức về các vấn đề
quyền con người, tham gia nhiều diễn đàn liên quan đến các khía cạnh khác nhau
của quyền con người. Nhìn chung, trong các hoạt động hợp tác song phương


14

cũng như tại các diễn đàn đa phương về quyền con người, Việt Nam ln thể
hiện hình ảnh tích cực, chủ động và có những đóng góp thiết thực nhằm thúc đẩy
nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực quyền con người trên tinh
thần đối thoại, tăng cường hiểu biết lẫn nhau.
Những thành tựu đạt được trong công cuộc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người

ở Việt Nam xuất phát trước hết từ truyền thống nhân văn, nhân đạo của dân tộc
Việt Nam; từ ý chí, nguyện vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam và sự cố gắng,
nỗ lực và chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam, hướng tới một xã hội
luôn đặt con người ở trung tâm của sự phát triển và một nhà nước pháp quyền
“của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”. Đó cũng là kết quả của sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa bản chất ưu việt, tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa, của
truyền thống văn hóa, các đặc thù của dân tộc Việt Nam với việc thực hiện
nghiêm túc các chuẩn mực chung và nghĩa vụ quốc tế về quyền con người được
quy định trong các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người mà Việt Nam là
thành viên.
PHẦN IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Nghị định 763/VBHN-BLĐTBXH, 2019
2.Luật Người khuyết tật 2010
3.Luật Lao động 2019
4.Công ước về Quyền của Người khuyết tật 2006
5.Luật Giáo dục 2019



×