Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

SKKN 2020Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (17.31 MB, 84 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO AN GIANG
TRƯỜNG THPT NGUYỄN HIỀN
_________________

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
An Giang, ngày 15 tháng 2 năm 2021

BÁO CÁO
Kết quả thực hiện sáng kiến, cải tiến, giải pháp kỹ thuật, quản lý, tác nghiệp, ứng
dụng tiến bộ kỹ thuật hoặc nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng
I- SƠ LƯỢC LÝ LỊCH TÁC GIẢ:
- Họ và tên: LÊ THỊ HUYỀN TRÂN
Nam, nữ: NỮ
- Ngày tháng năm sinh: 05 - 10 - 1981
- Nơi thường trú: ấp Bình Hồ 1 - xã Mỹ Khánh – TPLX - AG
- Đơn vị công tác:trường THPT Nguyễn Hiền
- Chức vụ hiện nay: Giáo viên
- Trình độ chun mơn: Cử nhân chính trị
- Lĩnh vực cơng tác: Giáo dục
II.- SƠ LƯỢC ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH ĐƠN VỊ:
Từ thực tế tơi đã quan sát ở tại trường THPT Nguyễn Hiền, các em vẫn còn tồn tại
rất nhiều vấn đề đáng phải suy nghĩ như tình trạng học sinh nói tục, chửi bậy, thu mình
trong các giờ ra chơi tập trung lên mạng chơi game, yêu đương sớm, có những hành vi
thiếu chuẫn mực với bạn khác giới. Có những học sinh cư xử thiếu lễ phép trước thầy cô
giáo như: tỏ thái độ thách thức khi bị nhắc nhở, xem thường những quy định của trường
lớp, không chào. Nhiều em ý thức kỉ luật yếu, kĩ năng sống còn thiếu dẫn đến các em có
những ứng xử khơng lành mạnh trước thầy cơ, bạn bè. Hơn nữa nhận thấy tính cấp bách
của việc rèn kĩ năng sống (KNS) cho học sinh trước tình hình chung của xã hội hiện
nay, tơi rất trăn trở làm thế nào để rèn kĩ năng sống cho các em
a. Thuận lợi


- Bộ và Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức nhiều lớp tập huấn, bồi dưỡng cho cán
bộ quản lý, giáo viên về giáo dục KNS cho học sinh phổ thơng, hướng dẫn tích hợp giáo
dục KNS vào các địa chỉ qua một số môn học và hoạt động giáo dục ở các cấp học phổ
thơng.
- Nhìn chung cán bộ quản lý và giáo viên trong các trường phổ thông đã bước đầu
làm quen với thuật ngữ “kỹ năng sống”, mặc dù mức độ hiểu biết có khác nhau.
- Một số hoạt động giáo dục KNS đã được đa số các trường chú ý thực hiện trong
khuôn khổ và yêu cầu của Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
do Bộ Giáo dục và Đào tạo phát động.
- Giáo dục KNS từ nhà trường cũng như qua các phương tiện thông tin đại chúng
đã thu hút được sự chú ý và hưởng ứng của xã hội, của phụ huynh học sinh.
- Hình thức tổ chức giáo dục KNS đã bước đầu được thực hiện trong một số môn
học, thông qua hoạt động ngoại khoá và các hoạt động trải nghiệm với nội dung khá đa
dạng.
b. Khó khăn
- Khi thực hiện giáo dục KNS, giáo viên cịn gặp nhiều khó khăn, lúng túng (chưa
có tài liệu cho giáo viên và học sinh, tiêu chí đánh giá chưa cụ thể,…). Tổ chức giáo dục
KNS có những đặc thù riêng khác với các hoạt động giáo dục khác, nội dung giáo dục
1


khơng chỉ diễn ra trong mơn học mà cịn thơng qua một số hoạt động khác (hoạt động
ngoài giờ lên lớp, câu lạc bộ,...) cho nên phải tính đến cơ sở vật chất, kinh phí để thực
hiện.
- Giáo viên quen với việc tập trung cung cấp kiến thức mà không hoặc ít quan tâm
giáo dục KNS cho học sinh.
- Xã hội phát triển kéo theo nhiều hệ lụy như sự bùng nổ của công nghệ thông tin,
sự hội nhập của nhiều nền văn hoá các nước phương Tây, của lối sống thực dụng …Nhận
thức của xã hội chưa cao, chưa chú trọng hợp tác trong giáo dục, văn hoá xã hội thấp trong
đó kĩ năng sống của các em yếu dẫn đến dễ vấp ngã, ảnh hưởng đến sự phát triển nhân

cách, đạo đức của học sinh.
- Gia đình, cha mẹ các em phải bươn chải trong cuộc mưu sinh, bỏ quên con
cái, dẫn đến sự buông lỏng trong quản lí, nhiều phụ huynh có tư tưởng khốn trắng
cho nhà trường, “trăm sự nhờ thầy, nhờ cô”, họ chỉ chú trọng đến việc con mình học
có giỏi hay khơng, có được lên lớp khơng. Họ tìm thầy dạy giỏi cho con học thêm vào mọi
khoảng thời gian trống mà quên đi điều quan trọng rằng cái gốc của sự học là học làm
người. Bởi vậy ngồi việc học văn hố, thời gian còn lại một số em lao vào các trị chơi vơ
bổ trên mạng, trên điện thoại di động, số cịn lại thì sống thờ ơ, vơ cảm, ích kỉ.
- Tên sáng kiến/đề tài giải pháp: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh thông qua công tác chủ nhiệm
- Lĩnh vực: Chủ nhiệm
III. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN:
3. Thực trạng của công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông hiện nay
3.1. Một trong những hạn chế của giáo dục phổ thông hiện nay là chưa chú trọng
giáo dục KNS cho học sinh
Theo Điều 2 của Luật Giáo dục năm 2005, mục tiêu giáo dục là đào tạo con người
Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp,
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng
nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, nội dung và phương pháp giáo dục trong các nhà trường hiện nay là còn
xem trọng việc dạy chữ, chưa chú trọng đúng mức dạy làm người, nhất là việc giáo dục
KNS cho học sinh.
Thông báo 242-TB/TW ngày 15/4/2009 của Bộ Chính trị (khóa X) về tiếp tục thực hiện
Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến
năm 2020, đã nêu một trong những hạn chế của giáo dục phổ thông như sau: “Giáo dục
phổ thông mới chỉ quan tâm nhiều đến “dạy chữ”, chưa quan tâm đúng mức đến “dạy
người”, kỹ năng sống và “dạy nghề” cho thanh thiếu niên”.
3.2. Thực trạng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông
Trong thực tế, khi xây dựng chương trình dạy học, nội dung dạy học trên lớp, giáo viên

đều phải xây dựng 3 mục tiêu: cung cấp kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành thái độ.
Đây là yêu cầu mang tính nguyên tắc trong dạy học và giáo viên đều nhận thức sâu sắc
yêu cầu này. Tuy nhiên, có thể nói rằng do phải chạy theo thời gian, phải chuyển tải nhiều
nội dung trong khi thời gian có hạn, giáo viên có khuynh hướng tập trung cung cấp kiến
thức mà ít quan tâm rèn luyện kỹ năng cho học sinh, nhất là kỹ năng ứng xử với xã hội,
ứng phó và hịa nhập với cuộc sống.
2


Trong thời gian gần đây, giáo dục KNS cho học sinh được quan tâm nhiều hơn. Giáo
dục KNS cho học sinh phổ thơng hiện nay khơng bố trí thành một môn học riêng trong hệ
thống các môn học của nhà trường phổ thông bởi KNS phải được giáo dục ở mọi lúc, mọi
nơi khi có điều kiện, cơ hội phù hợp. Do đó, giáo dục KNS phải thực hiện thơng qua từng
môn học và trong các hoạt động giáo dục. Vì vậy, cơ hội thực hiện giáo dục KNS rất nhiều
và rất đa dạng. Có thể đề cập tới một số phương thức tổ chức sau: Thông qua dạy học các
môn học; qua chủ đề tự chọn; qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp; qua hoạt động trải
nghiệm.
Sự phối hợp chặt chẽ giáo dục KNS với các hoạt động giáo dục vốn đã được lồng ghép
vào chương trình giáo dục từ nhiều năm nay như giáo dục bảo vệ mơi trường, phịng
chống ma t, giáo dục pháp luật, sức khỏe sinh sản vị thành niên, … tạo nhiều cơ hội và
điều kiện để triển khai giáo dục KNS.
3.3. Thực trạng kỹ năng sống của học sinh phổ thông
Thời gian qua, dù giáo dục KNS có được quan tâm nhưng hiệu quả vẫn còn nhiều hạn
chế thể hiện qua thực trạng về KNS của học sinh còn nhiều khiếm khuyết.
Thực tế cho thấy, tình trạng học sinh thiếu KNS vẫn xảy ra, biểu hiện qua hành vi ứng
xử không phù hợp trong xã hội, sự ứng phó hạn chế với các tình huống trong cuộc sống
như: ứng xử thiếu văn hóa trong giao tiếp nơi cơng cộng; thiếu lễ độ với thầy cô giáo, cha
mẹ và người lớn tuổi; chưa có ý thức bảo vệ mơi trường, giữ gìn vệ sinh công cộng, gây
phiền hà cho người khác khi sử dụng điện thoại di động, ....
A.Hiện trạng ban đầu trước khi áp dụng:

Trong thời kì phát triển tột bậc của khoa học công nghệ hiện nay, con người chúng
ta đã sáng tạo ra những máy móc, thiết bị hiện đại, tân tiến một cách hoàn hảo, đáp ứng
nhu cầu của con người về đời sống kinh tế lẫn xã hội. Sở dĩ, ta đề cao nền kinh tế tri thức
về mọi mặt bằng nhiều cách trong đó có sự góp mặt của cơng nghệ cao là bởi vì việc sử
dụng các thiết bị hữu ích đó đã tác động một cách mạnh mẽ, làm bước đà để đóng góp nên
nhiều thành tựu to lớn cho toàn nhân loại. Song, khi con người gắn liền và sử dụng quá
mức thì dù những cơng cụ khoa học đó có lợi hại đến đâu, có hay đến nhường nào thì giờ
đây nó cũng mang trong mình “con dao hai lưỡi”. Như chúng ta đã biết, thời đại ngày nay
là thời kì hội nhập và cùng nhau phát triển hay gọi tắt là thời kì “mở cửa”, vì vậy mỗi quốc
gia trên thế giới đều có cơ hội tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, áp dụng những thành
tựu khoa học kĩ thuật đưa vào cuộc sống.Bên cạnh việc tiếp thu một cách lành mạnh, thì
ngày nay lại tạo nên một “cơn bão thiết bị thông minh”, mọi người dần rời xa, lãng quên
những giá trị cốt lõi của cuộc sống mà cứ thế “cắm mắt” vào điện thoại, máy tính thay vì
tạo dựng cho chính bản thân mình một cốt cách một lối sống tươi đẹp, tận hưởng “cái đẹp”
thực sự của cuộc sống bằng cách không ngừng học tập. nhưng không chỉ đơn giản như
vậy, học ở đây không chỉ gói gọn bằng những lí thuyết trên trang giấy mà cịn chính là đạo
đức là những kĩ năng sống thiết thực. Theo như công tác chủ nhiệm, được tiếp xúc nhiều
với học sinh của lớp, tôi càng nhận thấy nhiều hơn về việc thiếu kĩ năng sống của học sinh
đang ngày càng trầm trọng. Có thể là nó sẽ khơng bộc phát ngay bây giờ, nhưng ngày qua
ngày, lầm bước sẽ càng lầm bước, như thế khác gì là phá hủy cả tương lai đất nước khi đào
tạo ra những cơng dân yếu ớt, khơng có chút kĩ năng sống nào cả. Giới trẻ nói chung và
học sinh nói riêng, đang ngày càng chạy theo vật chất mà lãng quên đi giá trị cuộc sống,
chẳng những quên đi mà càng làm xấu làm cho cuộc sống của chính mình như một con rơbốt, làm theo những gì đã lập trình mà hồn tồn khơng có hướng đi nào cho cuộc đời của
mình. Vì thế mà hiện trạng thiếu kĩ năng sống của học sinh cần được đặt lên hàng đầu hiện
nay.
Trường THPT Nguyễn Hiền nơi tôi đang công tác là ngơi trường ln có truyền
thống đi đầu trong cơng tác triển khai thực hiện các mục tiêu giáo dục, do đó ngay từ đầu
3



năm học chúng tôi đã được ban giám hiệu chỉ đạo triển khai nhiệm vụ rèn kĩ năng sống
cho học sinh. Ban lãnh đạo nhà trường luôn theo sát, quan tâm, hỗ trợ cho giáo viên trong
công tác giảng dạy cũng như trong giáo dục. Học sinh của trường thuộc nhiều địa bàn khác
nhau, ý thức học tập của các em tương đối tốt nên không cần đến ban quản sinh. Được sự
cho phép của Sở giáo dục và đào tạo trường tổ chức cho học sinh học hai buổi một ngày.
Buổi sáng học thời khố biểu chính khố, buổi chiều học theo thời khố biểu học phụ đạo
các mơn Tốn, Lí, Hố, Sinh, Văn, Sử, Địa, Tiếng Anh nên học sinh có điều kiện học tập,
vui chơi sinh hoạt tập thể, tránh tình trạng học sinh đến trường một buổi cịn một
buổi rong chơi lêu lổng. Mơ hình tổ chức này được toàn thể phụ huynh hoan nghênh,ủng
hộ
Từ thực tế tơi đã quan sát ở các em vẫn cịn tồn tại rất nhiều vấn đề đáng phải suy
nghĩ như tình trạng học sinh nói tục, chửi bậy, thu mình trong các giờ ra chơi tập trung lên
mạng chơi game, yêu đương sớm, có những hành vi thiếu chuẫn mực với bạn khác giới.
Có những học sinh cư xử thiếu lễ phép trước thầy cô giáo như: tỏ thái độ thách thức khi bị
nhắc nhở, xem thường những quy định của trường lớp, không chào. Nhiều em ý thức kỉ
luật yếu, kĩ năng sống còn thiếu dẫn đến các em có những ứng xử khơng lành mạnh trước
thầy cơ, bạn bè. Hơn nữa nhận thấy tính cấp bách của việc rèn kĩ năng sống cho học sinh
trước tình hình chung của xã hội hiện nay, tôi rất trăn trở làm thế nào để rèn kĩ năng
sống cho các em. Tập thể lớp 11c10 do tơi phụ trách có 43 học sinh, gia đình các em phần
lớn thuộc vùng ven thành phố, có đủ các thành phần kinh tế, hồn cảnh gia đình khơng
hồn thiện. Các em dồi dào về thể lực, trí tuệ nhạy bén, thích tìm tịi, sáng tạo,thích tự
khẳng định mình, có em ngoan hiền, ý thức học tập tốt. Nhưng vẫn có một vài học sinh
trầm, ít bộc lộ cảm xúc, một số em chưa ngoan sống ích kỉ, phụ huynh học sinh của lớp
chưa thực sự quan tâm chăm lo tới việc học tập, rèn luyện của con em mà chủ yếu tạo
điều kiện về kinh tế, quan tâm đến kết quả cuối kì. Cịn có trường hợp suy nghĩ khoán
trắng cho giáo viên chủ nhiệm và nhà trường. Nhiều em trong cuộc sống đời thường các
em biết đi xe máy, biết sử dụng điện thoại di động, biết sử dụng máy vi tính, lên mạng và
sử dụng các tiện nghi hiện đại nhưng lại ứng xử chưa có văn hố trong giao tiếp nơi cơng
cộng, tham gia giao thông trong khi thiếu hiểu biết về luật giao thơng, chưa có ý thức bảo
vệ mơi trường. Trong tư duy biết cách nhận xét đánh giá người khác qua hành động,

ngôn ngữ, cử chỉ…nhưng lại thiếu lễ độ với thầy cô giáo, cha mẹ, người lớn tuổi. Trong ăn
mặc các em biết cách chọn trang phục hợp thời trang, trong giao tiếp biết cách làm quen,
kết bạn, trong quan hệ biết cách tặng quà, ga-lăng với bạn khác giới nhưng bên cạnh đó
các em cịn thiếu sự đồng cảm, chia sẻ, sống thờ ơ với bạnbè, người thân và những người
xung quanh… Phải chăng các em có kĩ năng sống nhưng lại thiếu nhận thức về việc rèn
kĩ năng sống ?
Trước thực trạng trên, là một giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm - người luôn
được các bậc phụ huynh, học sinh nhìn nhận như người cha, người mẹ thứ hai của các em
bởi sự gần gũi , thấu hiểu với các em nên tôi nhận thấy tầm quan trọng rất lớn của việc rèn
kĩ năng sống cho học sinh lớp chủ nhiệm để những học sinh trong tay mình trở thành con
người “vừa hồng vừa chuyên”, tôi tự nhủ phải rèn kĩ năng sống cho học sinh ở mọi lúc,
mọi nơi, nhằm giúp các em có nhiều kiến thức và cách ứng xử phù hợp. Mục đích của tơi
cũng chỉ là làm sao để các em hãy trong trắng, hồn nhiên đúng với lứa tuổi của mình, chú
tâm vào việc học, trau dồi kĩ năng học tập hiệu quả, sống tốt trong cuộc sống hiện đại ngày
nay. Mỗi học sinh phải là một con người có nhân cách đàng hồng, được tơn trọng, được
thể hiện cá tính sáng tạo của mình một cách hồn nhiên, vô tư nhất.
*Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
Đặc điểm tâm, sinh lý lứa tuổi học sinh Trung học Phổ thông:

4


- Đặc điểm nổi bật nhất là sự phát triển tự ý thức. Bên cạnh sự phát triển của tự ý
thức và tự đánh giá, tính tự trọng của HSTHPT cũng phát triển mạnh. Vì thế, rất cần xây
dựng chủ đề tự xác định giá trị cho các em.
-Các mối quan hệ giao tiếp của học sinh THPT ngày càng được mở rộng về phạm
vi và đặc biệt được phát triển về mặt chất lượng. Tuy nhiên, kinh nghiệm và giao tiếp của
các em cịn hạn chế. Nên cần có chủ đề KN giao tiếp để giúp các em biết giao tiếp có hiệu
quả với người khác.
- Ở lứa tuổi này, đời sống tình cảm, xúc cảm của học sinh rất phong phú, đa dạng,

đồng thời áp lực trong quan hệ giới tính, trong học tập để đạt được mục tiêu cùng với rất
nhiều yếu tố khác trong đời sống gia đình, các mối quan hệ trong nhà trường và cộng đồng
có thể gây căng thẳng cho các em. Nên cần có chủ đề giáo dục kĩ năng ứng phó với xúc
cảm, căng thẳng cho HSTHPT. -Do thiếu kinh nghiệm và KNS, do suy nghĩ cịn nơng cạn
nên các em có thể có những hành vi bạo lực với người khác khi có mâu thuẫn, xung đột.
Một thực tế đang tồn tại khá phổ biến các hiện tượng HS THPT giải quyết mâu thuẫn với
nhau bằng bạo lực, thậm chí các em nữ cũng tham gia. Vì vậy, cần giúp các em thay đổi
nhận thức, thái độ và hành vi để giải quyết mâu thuẫn một cách tích cực, mang tính xây
dựng.
Giáo dục và đào tạo ở bất cứ thời điểm nào cũng đều có mục tiêu là giáo dục tồn
diện học sinh cả về đức, trí và các năng lực khác cho học sinh. Đảng ta xác định con người
vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển xã hội, để thực hiện thành công sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần phải có những con người lao động mới
phát triển tồn diện. Nếu đơn thuần chỉ thiên về đào tạo tri thức (dạy chữ), sẽ tạo nên thế
hệ học sinh khơng tồn diện. Khó ứng phó với thực tế của cuộc sống. Nền kinh tế xã hội
nước ta đang phát triển với một tốc độ nhanh, kéo theo đó là sự xuất hiện nhiều vấn đề mà
đòi hỏi mỗi con người cần có những kĩ năng sống nhất định để có thể giải quyết hiệu quả
những vấn đề đặt ra.
Và nhà trường phổ thơng có mục đích quan trọng nhất là dạy chữ cho các em,
truyền đạt những tri thức khoa học để các em chuẩn bị đầy đủ hành trang tri thức bước vào
đời. Các em học sinh khi đến trường ngồi tiếp xúc với mơi trường giáo dục các em cịn
tiếp xúc với xã hội mà ở đó nhiều vấn đề của cuộc sống địi hỏi các em phải có kĩ năng
giải quyết hợp lí mới đem lại hiệu quả tích cực. Lí thuyết đã chỉ ra rằng con người là tổng
hòa của các quan hệ xã hội. Mỗi con người đều bị chi phối bởi các quan hệ đa phương , đa
chiều. Cuộc sống là một bức tranh đa dạng, sinh động nhưng cũng đầy thách thức, phức
tạp. Để tồn tại và phát triển trong thế giới ngày nay và đương đầu một cách có hiệu quả
với hàng loạt những vấn đề gặp phải, mỗi người cần phải có bản lĩnh, có những kỉ năng
riêng để xử lí với những đòi hỏi và thử thách hàng ngày. Bởi vậy, chúng ta chỉ quan tâm
đến việc dạy nội dung kiến thức nói riêng sẽ rất khó tạo ra thế hệ học sinh có đầy đủ phẩm
chất trong cơng cuộc đổi mới hiện nay.

*Vì sao phải giáo dục kỹ năng sống cho HS trong nhà trường:
- Kỹ năng sống không phải là những gì quá cao siêu, phức tạp. Việc giáo dục kỹ
năng sống cho HS bao gồm những nội dung hết sức đơn giản, rất gần gũi với các em, đây
là những kiến thức tối thiểu để các em có thể tự lập trong học tập, vui chơi giải trí và sinh
hoạt thường ngày.
- Mặc dù, hiện nay chúng ta trong thời đại Công nghệ-Thông tin và hội nhập quốc
tế, HS có những hiểu biết khá phong phú nhờ truy cập Internet, nhưng kỹ năng sống của
các em còn nhiều hạn chế. Ở lứa tuổi bắt đầu " bước vào đời", bắt đầu sống độc lập, làm
việc và sẽ có những va chạm xã hội, các em cũng rất cần được trau dồi kỹ năng sống. Một
trong những nội dung quan trọng của phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực" là việc phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để cung cấp kiến
thức về kỹ năng sống cho học sinh; đặc biệt cho học sinh nữ nhằm giúp các em có kỹ năng
5


tự bảo vệ trước những vấn đề xã hội có nguy cơ ảnh hưởng đến sữ khỏe và an toàn cuộc
sống như: kỹ năng nhận diện một vấn đề, biết cách xác định tình huống, biết cách từ chối,
kỹ năng xử lý mâu thuẫn, kỹ năng ra quyết định, biết nấu ăn, tự chăm sóc sức khỏe...
- Theo một nghiên cứu mới được ngành giáo dục cơng bố, có trên 95% các em nhận
thức chưa đúng về kỹ năng sống; 77,7% chưa bao giờ được đào tạo, tập huấn về kỹ năng
sống; 76,4% trả lời rất cần được tập huấn kiến thức về kỹ năng sống. Hầu hết các em lúng
túng khi trả lời hoặc chưa biết cách xử lý các tình huống thường gặp trong cuộc sống.Từ
kết quả này cho thấy, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ngày càng trở nên thiết yếu
nhằm góp phần đào tạo “con người mới” với đầy đủ các mặt “đức, trí, thể, mỹ”, “nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín” hay “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”… Nhưng việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh phải phù hợp với lứa tuổi, cấp học, văn hóa của từng vùng… sao cho học sinh
cảm thấy gần gũi với cuộc sống của bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội, chứ không
chỉ trên sách vở hay những lời nói sng.
- Thực tế hiện nay một bộ phận lớn học sinh còn yếu về kĩ năng giao tiếp, kĩ năng
sinh hoạt tập thể, kĩ năng hóa giải căng thẳng… thiếu hiểu biết về pháp luật, đạo đức, lối

sống. Đặc biệt kĩ năng sống còn kém, chưa biết ứng xử với lối sống văn hóa và chưa biết
đấu tranh với những văn hóa đồi trụy, phản động, chưa nhận thức được việc phạm tội, vi
phạm đạo đức của mình, chủ yếu là đua địi phạm tội một cách hồn nhiên, ít chịu tu dưỡng,
rèn luyện, sống bng thả theo thị hiếu tầm thường. Nhiều em có hồn cảnh kinh tế khá
nhưng thiếu ý trí vươn lên tự bng thả mình và trượt dài trên con đường vi phạm pháp
luật, đạo đức. Vấn đề học sinh hiện nay thiếu kĩ năng sống, thiếu tự tin, tự lập, sống ích kỉ,
vơ tâm, thiếu trách nhiệm với gia đình, bản thân đang là những càn trở lớn cho sự phát
triển của thanh thiếu niên hiện nay khiến khơng ít các bậc phụ huynh làm cha làm mẹ phải
phiền lịng vì con, khiến nhà trường phải bận tâm vì những đối tượng học sinh này trong
xã hội phát triển năng động như hiện nay mà đúng ra các em sẽ rất năng động, tự tin khi
được thể hiện mình trong cuộc sống và trong sinh hoạt, học tập. Vấn đề khác là nhiều học
sinh có cuộc sống khép kín với thực tại, ln đắm mình vào thế giới ảo của Internet của
thế giới game…., mà quên đi hoặc đánh mất những cơ hội kết bạn, thể hiện khả năng tiềm
ẩn của mình trước đám đơng và ngồi xã hội. Bên cạnh đó các em chưa được sự quan tâm
chăm sóc, động viên, giáo dục từ phía gia đình như cha mẹ chỉ biết lao vào kiếm tiền mà
khơng quan tâm gì đến việc học tập, sinh hoạt và những hoạt động khác của con em mình
như thế nào
- Để cùng học tập sinh sống và làm việc trong xã hội hiện đại, những kĩ năng trên
là không thể thiếu. Nhiều ý kiến của các chuyên gia giáo dục và xã hội cho rằng rất nhiều
học sinh ở nước ta hiện nay thiếu các kĩ năng để có thể đương đầu và giải quyết các vấn đề
trong cuộc sống. Trong nhà trường phổ thông trong suốt thời gian dài chúng ta chỉ quan
tâm đến giáo dục trí dục, nhiều trường, nhiều địa phương lấy tỉ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp,
học sinh đạt điểm cao là thước đo chất lượng giáo dục mà ít quan tâm đến sự chăm ngoan,
chuyên cần, phát triển nhân cách của học sinh.
- Vì vậy việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là điều hết sức cần thiết cho
tương lai các em và cần được bắt đầu rèn luyện từ từng hành vi cá nhân đơn giản nhất,
theo đó hình thành tính cách và nhân cách. Do phần lớn thời gian học sinh ở trường học,
nơi hàng ngày diễn ra cuộc sống thực của trẻ, thế nên bắt buộc trẻ phải được rèn luyện từ
trong nhà trường sau đó mới đến gia đình. Nhưng rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ như thế
nào cho hiệu quả, thu hút được giới trẻ và các bậc phụ huynh luôn là vấn đề trăn trở của

các nhà trường, của những người làm công tác giáo dục và của toàn xă hội hiện nay.Bác
Hồ của chúng ta đã từng nói:“Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng cịn có đức mà
khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”. Thật vậy, ngồi việc học tập thì việc rèn luyện đạo
đức của mỗi người học sinh là vô cùng quan trọng. Nói đến đức người ta có thể dễ dàng
6


hiểu đó là những kỹ năng sống sao cho có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Kỹ năng
sống là điều hết sức quan trọng với tất cả mọi người, chứ khơng riêng gì học sinh.
- Tơi xin trình bày những điều rút ra từ thực tiễn tơi đã áp dụng cho lớp chủ nhiệm
của mình trong năm học 2017 -2018 vừa qua, tại lớp 11c10 của trường THPT Nguyễn
Hiền, rất mong được sự chia sẻ của đồng nghiệp cùng đóng góp trong việc giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh cấp THPT hiện nay. Với phạm vi đề tài tơi xin mạnh dạn trình bày
ở đây là: Một số biện pháp giáo dục nâng cao kỹ năng sống cho học sinh thông qua
công tác chủ nhiệm
B. Vấn đề nghiên cứu, Giả thuyết nghiên cứu:
Câu hỏi nghiên cứu
Giả thuyết khoa học
1.Tại sao học sinh ngày nay lại không
Rèn luyện kĩ năng sống là một điều cần xuất
thường dành thời gian cho kĩ năng sống? phát từ chính nỗ lực của bản thân học sinh và
2.Yếu tố dẫn đến việc chểnh mảng trong cần dành cho thời gian ngày qua ngày, cố gắng
rèn luyện kĩ năng của học sinh là gì?
khơng ngừng, sự chểnh mảng có thể là do bản
3. Bằng những cách nào để “đánh thức” thân không dám thử thách và việc đánh thức kĩ
sự học hỏi kĩ năng sống?
năng là một điều yếu tố quan trọng.
*Khái niệm “kĩ năng sống”
Kĩ năng sống chính là năng lực của mỗi người giúp giải quyết những nhu cầu và
thách thức của cuộc sống một cách có hiệu quả.

(*) Theo UNICEF, giáo dục dựa trên kĩ năng sống cơ bản là sự thay đổi trong
hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến thức, thái độ và
hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức (phải làm gì) và thái độ (ta
đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng vào giá trị nào) thành hành động (làm gì
và làm như thế nào)
(*) Theo WHO kĩ năng sống là khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép
cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống. Trong
giáo dục, kĩ năng sống là một tồn tại những khả năng được rèn luyện và đáp ứng các nhu
cầu cụ thể của cuộc sống hiện đại hoá.
Rèn kĩ năng sống cho học sinh khơng ngồi mục đích đáp ứng mục tiêu giáo dục
toàn diện; phù hợp với 4 trụ cột của giáo dục theo quan niệm của UNESCO: "học để biết,
học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình". Giúp học sinh thích ứng
được với cuộc sống đầy những biến động khôn lường của xã hội hiện nay. Thúc đẩy những
hoạt động mang tính xã hội, phát huy các nhân tố tích cực, hạn chế các nhân tố tiêu cực,
xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực. Góp phần tích cực cho việc đổi mới
phương pháp học tập của học sinh.
Từ những quan niệm trên có thể thấy kĩ năng sống bao gồm một loạt các kĩ năng cụ
thể cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. Bản chất của kĩ năng sống là khả
năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học
tập và làm việc hiệu quả.
C. Thiết kế và phương pháp thực hiện nghiên cứu:
*Giai đoạn 1: Thu nhập dữ liệu và phân tích
+Soạn và phát phiếu câu hỏi gồm có 5 câu bao quanh vấn đề liên quan đến các kĩ
năng sống và tìm hiểu rõ nguyên nhân học sinh thường thiếu kĩ năng sống ( mỗi câu sẽ có
phần ghi ý kiến nhằm giúp học sinh bày tỏ quan điểm rõ hơn).
+Bộ câu hỏi sẽ được phát cho lớp tôi chủ nhiệm và cho phụ huynh của các em.
+Học sinh không nhất thiết ghi rõ họ tên, những thông tin cá nhân mà chỉ đơn thuần
nêu lên ý kiến, suy nghĩ về kĩ năng sống một cách chân thực và tự nguyện.
7



+Sau khi thu nhập được thơng tin thì sẽ thu phiếu khảo sát về và kiểm tra lại các
phiếu câu hỏi đã hoàn thành theo đúng tinh thần khảo sát hay chưa, nếu chưa thì loại bỏ
các bài khảo sát làm nhiễu thông tin đi, chất lọc lại thông tin một cách kĩ càng và bắt đầu
nghiên cứu những vấn đề xoay quanh để đưa ra một đường lối nghiên cứu đa diện.
+ Vì số lượng câu trả lời khác nhau sẽ rất nhiều, ý kiến đa dạng nên tôi sẽ thống kê
lại cũng như tóm gọn nội dung các ý kiến, nhìn một cách tổng quát, trong lúc thực hiện
khơng có sự bất cơng xãy ra, cũng như khơng gạt bỏ các ý kiến tiêu cực hay sai trái từ các
em học sinh mà tiếp nhận và phân tích rõ hơn lí do.
+Những hiểu biết trên sẽ giúp tơi trong nhiều việc như:
 Nhìn nhận vấn đề một cách tồn diện hơn, đa khía cạnh.
 Có được những ý kiến hay và sáng tạo trong việc định hướng kĩ năng sống
cho các em học sinh.
 Đưa ra những kế hoạch giúp các em tăng hứng thú trong việc rèn luyện kĩ
năng sống thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm.
 Rút ra được nhiều kinh nghiệm thông qua việc nghiên cứu kĩ năng sống.
Giai đoạn 2: Tiến hành thực nghiệm
*Đối tượng thực nghiệm:
+Học sinh lớp tôi chủ nhiệm: 11c10
+Đối tượng nghiên cứu sẽ được quan sát, theo dõi và áp dụng các phương pháp.
*Phương pháp thực nghiệm:
+Phỏng vấn đối tượng: chọn vài cá nhân để phỏng vấn cũng như chọn những cá
nhân có ý kiến đối lập để phỏng vấn trước và sau khi thực nghiệm.
+Quan sát và ghi nhận những đặc điểm của đối tượng trước và sau khi áp dụng.
+Sử dụng các minh chứng thực tế như quan điểm bản thân, quá trình rèn luyện của
đối tượng để đưa vào thực nghiệm.
* Bảng khảo sát dành cho học sinh:
Câu 1: Em có thường hay quan tâm đến các kĩ năng sống hay khơng?
A.Có
B.Khơng

Ý kiến khác:....................................................................................................
Câu 2: Theo em nghĩ kĩ năng sống có quan trọng khơng?
A.Có
B.Khơng
Ý kiến khác:....................................................................................................
Câu 3: Em đã học được những kĩ năng nào rồi?
A.Kĩ năng giao tiếp
B.Kĩ năng quản lí thời gian
C.Kĩ năng thốt hiểm
D.Kĩ năng đối đãi
E. Kĩ năng kiềm chế cảm xúc
Ý kiến khác:................................................................................................
Câu 4:Nếu cô mở một buổi bàn luận về kĩ năng sống, em có tham gia khơng?
A.Có
B.Khơng
8


Câu 5: Em có nghĩ em là một người có kĩ năng sống?
A.Có
B.Khơng
* Bảng khảo sát dành cho phụ huynh:
Câu 1: Anh, chị có thường gắn bó, hỏi han con mình về việc học, vui chơi hay
khơng?
A.Có
B.Khơng
Ý kiến khác:.................................................................................................
Câu 2: Anh, chị có thường hay dạy bảo con về các kĩ năng sống hay khơng?
A.Có
B.Khơng

Câu 3: Theo anh, chị con của mình có mắc những bệnh như trầm cảm hay
khơng?
A.Có
B.Khơng
Câu 4: Con của anh, chị có thường đua địi, khó dạy hay qt nạt khi ở nhà
hay khơng?
A.Có
B.Khơng
Câu 5: Theo anh chị, con của mình có đủ bản lĩnh để bước vào đời chưa?
A.Có
B.Khơng
Ý kiến khác:..................................................................................................
D.Phân tích kết quả khảo sát:
*Kết quả khảo sát học sinh:

9


Bảng 1.1. Khảo sát câu hỏi 1 dành cho học sinh
Thơng qua số liệu trên, ta có thể thấy được việc rèn luyện kĩ năng sống đối với học sinh
dường như cịn khá là xa lạ và khơng được quan tâm đến nhiều. Việc học sinh quan
tâm đến chỉ dừng lại ở con số 33% trong khi việc ngược lại đến 43% phần cịn lại thì
các em dường như xem nó là một việc bình thường và khơng để ý nhiều đến.

Bảng 1.2. Bảng khảo sát câu hỏi 2 dành cho học sinh
Lại là một số liệu đáng lo, số lượng học sinh nghĩ rằng kĩ năng sống quan trọng lại chỉ
chiếm 23% thấp hơn cả so với số lượng ước tính của bản thân tơi, việc kĩ năng sống trở
nên bình thường hay khơng cần thiết thực sự cho các em lên đến con số cần phải suy
xét là 35%, 34%.


10


Bảng 1.3. Khảo sát câu hỏi 3 dành cho học sinh
Các kĩ năng của các em dù cho nằm ở tỉ trọng tương đối ổn song lại mất cân bằng và kĩ
năng thoát hiểm riêng chỉ 9% là một điều đáng lo, vì xung quanh chúng ta, thiên tai có
thể bất ngờ ập đến hay các tình huống nguy hiểm đến tính mạng vẫn tồn tại song song
chúng ta. Đó đáng lẽ phải là kĩ năng được đặt ở tầm quan trọng để học hỏi và rèn luyện
ấy thế lại chỉ vỏn vẹn con số nhỏ bé ấy.

Bảng 1.4.Khảo sát câu hỏi 4 dành cho học sinh
Tiếp tục là việc học sinh khơng có mấy hứng thú với việc học hỏi kĩ năng sống.

11


Bảng 1.5.Khảo sát câu hỏi 5 dành cho học sinh
Trái ngược với tất cả nghiên cứu trên, tỉ lệ các em học sinh tự cho mình là có kĩ năng
sống lại cao hơn là không. Đây là một câu hỏi lớn, liệu các em có thực sự hiểu rõ được
kĩ năng sống hay không
*Kết quả khảo sát phụ huynh:

Bảng 2.1.Khảo sát câu hỏi 1 cho phụ huynh
Theo kết quả khảo sát, ta thấy được đa số tâm thế phụ huynh là sử dụng phương pháp
bảo bọc con và ít khi quan tâm đến cảm nhận đến các em.

12


Bảng 2.2.Khảo sát câu hỏi 2 dành cho phụ huynh

Ta thấy được, việc dạy con về kĩ năng sống lại không được chú trọng.

Bảng 2.3.Khảo sát câu hỏi 3 dành cho phụ huynh
Câu hỏi đặt ra là phụ huynh có nghĩ con họ trầm cảm hay không, kết quả thu được trái
ngược với hiện trạng trầm cảm, tự kỷ của học sinh hiện nay.

13


Bảng 2.4. Khảo sát câu hỏi 4 dành cho phụ huynh
Việc hay đòi hỏi vật chất từ ba mẹ là một biểu hiện của việc phụ thuộc vào ba mẹ cùng
thái độ không tốt dành cho ba mẹ.

Bảng 2.5.Khảo sát câu hỏi 5 dành cho phụ huynh
Phụ huynh chọn cách tự định hướng cho con thay vì hướng dẫn và tin vào khả năng
của con em.
*Kết luận chung: thông qua khảo sát tôi nhận thấy được những câu hỏi lớn được đặt ra và
cũng như những nguyên nhân bao quanh về 2 khía cạnh chủ quan lẫn khách quan, đồng
14


thời tôi nhận thấy nếu thông qua công tác chủ nhiệm tơi có thể giải quyết được vấn đề
thiếu kĩ năng sống của các em.
E. Nguyên nhân cần phải giáo dục kỹ năng sống cho các em: do học sinh thiếu
kỹ năng sống.
Như tơi đã phân tích ở hiện trạng, việc học sinh dần cách xa kĩ năng sống đó là do
bởi 3 nguyên nhân cụ thể xuất phát từ bản thân, gia đình và chính cả xã hội.
Trước hết, là do chính bản thân của các em, nếu chúng ta so sánh giữa lớp học sinh
hay nói chung là lớp trẻ thì ta có thể thấy được những điểm khác biệt vô cùng lớn, khác
nhau về đời sống vật chất lẫn thế giới tâm hồn trong mỗi cá nhân. Giới trẻ hiện nay theo

tơi quan sát thì các em có một điều ln mải mê đuổi theo đó là hình thức bên ngồi. Đồng
ý rằng hình thức ngoại hình cũng là một yếu tố tác động đến các mối quan hệ trong cuộc
sống, giúp chúng ta có nhiều cơ hội hơn trong một số trường hợp nhưng các em lại quá sa
đà vào việc chăm chút bản thân, chính vì thế mà nó đã “ngốn” đi một khoảng thời gian hơi
lớn của các em. Đó cũng chính là ngun nhân khiến cho các em không dành thời gian cho
việc học hỏi và rèn luyện các kĩ năng sống. Mặt khác, khơng chỉ vì sự phơ trương hình
thức mà ngun nhân chính khiến các em thiếu kĩ năng sống có thể nói là trầm trọng như
vậy đó là do bản thân của các em xem nhẹ các kĩ năng sống vì nghĩ nó cần thiết hoặc có
thể là do bản tính tự cao của mình. Theo như trường hợp tơi nhận thấy thì số đơng học sinh
cho rằng kĩ năng sống chỉ là việc khơng quan trọng có thể bỏ qua hay thậm chí là nó
khơng có lợi ích gì tác động tích cực đến cuộc sống của các em. Đó chính là sai lầm mấu
chốt đang “ăn sâu” vào trong tiềm thức của các em. Lấy ví dụ cụ thể hằng ngày như một
việc bạn nghĩ là quan trọng sẽ được đặt ưu tiên lên hàng đầu và ngược lại nếu nó khơng
q cần thiết thì chúng ta sẽ dễ dàng lãng quên để nó sang một bên rồi cất đi từ nào khơng
hay biết, thì ở đây cũng thế, việc đánh giá kĩ năng sống ở một tầm mức thấp hơn các việc
khác như trao dồi kiến thức, phấn đấu cho ngoại hình bản thân hay các thú vui, những sở
thích hằng ngày khác thì lâu ngày, kĩ năng sống cũng sẽ bị lu mờ. Còn đáng buồn hơn nữa
khi có một số bộ phận lớp trẻ cho rằng mình qua giỏi để học những kĩ năng sống tầm
thường đó, các em cho rằng mình có thể tự biến chuyển để giải quyết mọi vấn đề không
cần phải trải qua học tập, rút kinh nghiệm. Chính bởi lối tự cao đó, mà các em đã tự hại
chính mình và khiến chính bản thân mình thiếu kĩ năng sống nghiêm trọng. Hơn thế nữa,
việc các em khơng có được nhận định đúng đắn thế nào là kĩ năng sống hay làm cách nào
để học được đã làm cho các em lúng túng hoặc học một cách không đúng đắn, không
chuẩn xác làm các em tốn thời gian, công sức, khiến cho việc học kĩ năng sống trở nên
nhàm chán, khơng có hứng thú để tiếp xúc.
Chính vì những ngun nhân xuất phát từ bản thân đó mà đã khiến tơi đặt ra câu
hỏi lớn “Gia đình đã thực hiện được trọn vẹn chức năng giáo dục con cái hay chưa?”. Như
chúng ta đều biết, gia đình là một phần tử của xã hội, là nơi dạy bảo nên những lớp người
trong tương lai, vai trị của gia đình là vô cùng quan trọng mà bậc nhất là bậc làm cha làm
mẹ. Cũng vì thế mà các em thiếu kĩ năng sống cũng là một phần tác động từ gia đình.

Theo bảng thống kê khảo sát thu được thì việc cha mẹ dạy bảo cho con em về kĩ năng
sống là tương đối khá ít, trong khi đó cha mẹ lại có tư tưởng chu tồn q mức cho con
của mình. Hiểu rằng, là bậc cha mẹ ai cũng sẽ mong muốn con mình sẽ được sung túc sẽ
được sống một cách hạnh phúc trọn vẹn nên cha mẹ thường sẽ lo lắng hết mực cho con,
nhưng đó khơng phải là lí do mà cha mẹ lấy ra để giải thích cho việc khơng giáo dục con
em kĩ năng sống vì sợ con sẽ mệt khi tham gia các lớp huấn luyện hay là dồn những kiến
thức vô bổ vào đầu. Nhìn xa hơn về các nước phát triển ở bên phía trời Tây, cách giáo dục
của họ vơ cùng cải tiến và triệt để. Họ có chăm sóc có chăm sóc con cái cẩn thận nhưng họ
khơng q bảo vệ con, họ cho con cơ hội để sống độc lập, tập cho con tự làm và chịu trách
nhiệm cho việc mình làm, tập cho con các kĩ năng xã hội, các kĩ năng sống thoát hiểm
15


ngay cả khi đó là một đất nước ít xảy ra thiên tai. Từ đó mà chúng ta nhìn nó về phía Việt
Nam ta, cha mẹ chưa thực sự tạo điều kiện cho con sống độc lập hay có thể nói là cha mẹ
chưa đặt niềm tin vào con của mình, đó cũng chính là ngun nhân tạo cho các em có tâm
thế phụ thuộc vào cha mẹ q mức,khơng tự trang bị cho mình những điều tất yếu để bước
vào đời. Một yếu tố khác chúng ta có thể đề cập đến đó chính là việc tư tưởng tiêu cực của
cha mẹ ảnh hưởng lên tử tưởng cho con cái. Như tơi đã nói, việc học sinh đang dần xem kĩ
năng sống khơng cần thiết đang tăng lên đó cũng xuất phát là do cha mẹ cũng có cái nhìn y
như vậy, nên họ đâu thể nào dạy cho con họ cách nhìn khách quan về kĩ năng sống, mọi
thứ chỉ là chủ quan.
Cuối cùng đó chính là do xã hội, như một “domino” nếu như một thẻ bị đổ thì lần
lượt các thẻ cịn lại cũng sẽ từ từ từng lớp một đổ xuống, và điều đó cũng là hình ảnh
tượng trưng cho việc lan truyền tư tưởng không khả quan về kĩ năng sống. Một tế bào gia
đình cho rằng kĩ năng sống khơng cần thiết, một tế bào khác nhìn vào xã hội khơng thấy
một cánh tay nào từ tế bào gia đình tiên phong trong việc giáo dục con cái về kĩ năng sống
thì cũng sẽ cứ thế mà im lìm và khơng dạy dỗ cho con mình, để mọi chuyện đến đâu hay
đến đó, dần dần hết gia đình này đến gia đình khác rồi dần dần là cả xã hội. Việc tác động
lên nhau như vậy sẽ ảnh hưởng hết sức khôn lường, khó mà đổi mới được. Hơn thế nữa,

việc “mất bị mới lo làm chuồng” cũng là điều cần nhắc đến, xã hội chưa thực sự để tâm
đến nhiều việc giáo dục học sinh kĩ năng trong đời sống trong học tập sinh hoạt hằng ngày
đợi đến khi có sự việc gì đáng tiếc xảy ra mới nơn nao đẩy mạnh và sau một thời gian lại
vụt tắt.
F. Biện pháp đề ra:
Chính vì những ngun nhân đó đều dẫn đến những hậu quả khó lường ảnh hưởng
đến học sinh- những chủ nhân tương lai của đất nước, ngày một lệch lạc trong cuộc sống
nên suy cho cùng cần phải đề ra những giải pháp tối ưu hóa vấn đề trên. Để giải quyết vấn
đề này cần nhiều giải pháp đề ra trên nhiều phiến diện ở bản thân, gia đình và xã hội.
Nhưng thông qua công tác chủ nhiệm, tôi thiết nghĩ để triệt tiêu được việc này thì cần
đánh trọng tâm vào học sinh, chính là đánh vào tâm lí vào bản thân của các em. Chỉ cần
bản thân tốt hơn thì có thể dẫn truyền nhựng tích cực đó lan sang gia đình, xã hội.
Qua cơng tác chủ nhiệm, tơi đã có những kế hoạch giáo dục các em về kĩ năng sống
thơng qua 3 tiêu chí : Gần gũi, Tin tưởng và Thực nghiệm. Tôi đề cao 3 điều đó bởi lẽ để
chuyển biến tư tưởng của một ai thì chính bản thân tơi cần phải gắn bó gần gũi và hiểu
được thực sự các em nghĩ gì, các em bị vướng mắc ở đâu, tiếp đến là tin tưởng vào khả
năng của các em. Niềm tin là một phương thuốc diệu kì, nó là động lực thúc đẩy rất lớn và
đồng thời lí thuyết sẽ mãi là lí thuyết sng nếu khơng được đưa vào thực hành vận dụng
vào đời sống. Chỉ có việc áp dụng vào cuộc sống thực tế của các em thì mới có thể giúp
các em nhìn nhận lại những quá trình mà các em đã trải qua, xem xét lại thật sự về hành vi
thái độ của mình có đúng mực hay khơng, nó đã ảnh hưởng như thế nào đến bản thân và từ
đó các em sẽ có cách nhìn mới hơn, thiết thực và đúng mực hơn. Tôi không đề cao bản
chất của chuẩn mực, thang đo mà xã hội xưa nay đã đề ra nhưng mà tôi thiết nghĩ dù các
em có đang sống ở một thế giới hiện đại, nơi sáng tạo vô vàn tri thức, sự hội nhập của các
quốc gia không chỉ về kinh tế mà cịn là văn hóa, xã hội, nhưng việc giữ gìn bản sắc dân
tộc là điều cần thiết, cái nào xấu thì xóa bỏ cịn cái đẹp trong đạo đức, nhân cách, “thuần
phong mĩ tục” của người dân Việt Nam thì cần phải duy trì và phát huy. Vì vậy mà cốt lõi
cuối cùng vẫn là hướng dẫn các em cách làm người, làm một
người lương thiện, một con người tốt có ích cho xã hội,và điều đó càng khẳng định được
vai trò lớn của việc giáo dục kỹ năng sống cho các em.

Với học sinh THPT Nguyễn Hiền, qua nghiên cứu chúng tơi nhận thấy có những kĩ
năng cần thiết ở học sinh THPT là :
16


1. Kỹ năng tự nhận thức:Tự nhận thức là tự mình nhìn nhận, tự đánh giá về bản
thân. Kĩ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình, như cơ thể,
tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh giá đúng về tiềm
năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu,…của bản thân mình; quan tâm
và ln ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng
thẳng. Tự nhận thức là một KNS rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người giao
tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có thể cảm thơng được với
người khác. Ngồi ra, có hiểu đúng về mình, con người mới có thể cớ những quyết định,
những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản thân, với điều kiện thực tế và
yêu cầu xã hội. Ngược lại, đánh giá khơng đúng về bản thân có thể dẫn con người đến
những hạn chế, sai lầm, thất bại trong cuộc sống và trong giao tiếp với người khác. Để tự
nhận thức đúng về bản thân cần phải được trải nghiệm qua thực tế, đặc biệt là giao tiếp với
người khác
2. Kĩ năng giao tiếp: Kĩ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản
thân theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngơn ngữ cơ thể phù hợp với hồn cảnh và văn
hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan
điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu, mong muốn và cảm
xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn cần thiết. Kĩ năng giao tiếp giúp con người biết
đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi
mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc nhưng không làm hại gây tổn thương cho người khác. Kĩ
năng này giúp chúng ta có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm biết gìn giữ mối
quan hệ tích cực với các thành viên trong gia đình- nguồn hỗ trợ quan trọng cho mỗi
chúng ta, đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn bè mới và đây là yếu tố rất
quan trọng đối với niềm vui cuộc sống. Kĩ năng này cũng giúp kết thúc các mối quan hệ
khi cần thiết một cách xây dựng. Kĩ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kĩ năng

khác như bày tỏ sự cảm thông, thương lượng, hợp tác, tìm kiếm sự giúp đỡ, giải quyết mâu
thuẫn, kiếm sốt cảm xúc. Người có kĩ năng giao tiếp tốt biết dung hòa đối với mong đợi
của những người khác, có cách ứng xử khi làm việc cùng và ở cùng với những người khác
trong một môi trường tập thể, quan tâm đến những điều người khác quan tâm và giúp họ
có thể đạt được những điều họ mong muốn một cách chính đáng.
3. Kĩ năng suy nghĩ, sáng tạo:Tư duy sáng tạo là khả năng nhìn nhận và giải quyết
vấn đề theo một cách mới, với ý tưởng mới, theo phương thức mới, cách sắp xếp và tổ
chức mới; là khả năng khám phá và kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng, quan
niệm, sự việc; độc lập trong suy nghĩ. Kĩ năng tư duy sáng tạo giúp con người tư duy năng
động với nhiều sáng kiến và óc tưởng tượng; biết cách phán đốn và thích nghi; có tầm
nhìn và khả năng suy nghĩ rộng hơn các người khác, khơng bị bó hẹp vào kinh nghiệm
trực tiếp đang trải qua; tư duy minh mẫn và khác biệt. Tư duy sáng tạo là một KNS quan
trọng bởi vì trong cuộc sống con người thường xuyên bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ
hoặc ngẫu nhiên xảy ra. Khi gặp những hồn cảnh như vậy địi hỏi chúng ta phải có tư duy
sáng tạo để có thể ứng phó một cách linh hoạt và phù hợp. Khi một người biết kết hợp tốt
giữa kĩ năng tư duy phê phán và tư duy sáng tạo thì năng lực tư duy của người ấy càng
được tăng cường và sẽ giúp ích rất nhiều cho bản thân trong việc giải quyết vấn đề một
cách thuận lợi và phù hợp nhất.
4. Kĩ năng ra quyết định:Trong cuộc sống hàng ngày, con người ln phải đối mặt
với những tình huống, những vấn đề cần giả quyết buộc chúng ta phải lực chọn, đưa ra
quyết định hành động. Kĩ năng ra quyết định là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa
chọn phương án tối ưu để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống một
cách kịp thời. Mỗi cá nhân phải tự mình ra quyết định cho bản thân; không nên trông chờ,
phụ thuộc vào người khác; mặc dù có thể tham khảo ý kiến của những người tin cậy trước
khi ra quyết định. Để đưa ra quyết định phù hợp chúng ta cần:
17


- Xác định vấn đề hoặc tình huống mà chúng ta đang gặp phải.
- Thu thập thông tin hoặc vấn đề về tình huống đó.

- Liệt kê các cách giải quyết vấn đề/ tình huống đã có.
- Hình dung đây đủ về kết quả sẽ xảy ra nếu chúng ta lựa chọn mỗi phương án giải
quyết.
- Xem xét về suy nghĩ và cảm xúc của bản thân nếu giải quyết theo từng phương án đó.
- So sánh giữa các phương án để quyết định lựa chọn phương án tối ưu.
- Kĩ năng ra quyết định rất cần thiết trong cuộc sống, giúp cho con người có được sự
lựa chọn phù hợp và kịp thời, đem lại thành công trong cuộc sống. Ngược lại, nếu khơn có
kĩ năng ra quyết định, con người ta có thể có những quyết định sai lầm hoặc chậm trễ, gây
ảnh hưởng tiêu cực đến các mối quan hệ, đến công việc và tương lai cuộc sống của bản
thân; đồng thời cịn có thể làm ảnh hưởng đến gia đình, bạn bè và những người có liên
quan.
- Để ra được quyết định một cách phù hợp, cần phối hợp với những KNS khác như: kĩ
năng tự nhận thức, kĩ năng xác định giá trị, kĩ năng thu thập thông tin, kĩ năng tư duy phê
phán, kĩ năng tư duy sáng tạo…
- Kĩ năng ra quyết định là phần rất quan trọng của kĩ năng giải quyết vấn đề.
5. Kĩ năng ứng phó với căng thẳng: Trong cuộc sống hàng ngày, con người
thường gặp những tình huống gây căng thẳng cho bản thân. Tuy nhiên, có những tình
huống có thể gâu căng thẳng cho người này nhưng lại không gây căng thẳng cho người
khác và ngược lại. Khi bị căng thẳng mỗi người có tâm trạng, cảm xúc khác nhau: cũng có
khi là những cảm xúc tích cực nhưng thường là những cảm xúc tiêu cực gây ảnh hưởng
không tốt đến sức khỏe thể chất và tinh thần của con người. Ở một mức độ nào đó, khi một
cá nhân có khả năng đương đầu với căng thẳng thì đó có thể là một tác động tích cực, tạo
sức ép buộc cá nhân đó phải tập trung vào cơng việc của mình, bứt phá thành cơng. Nhưng
mặt khác, sự căng thẳng cịn có một sức mạnh hủy diệt cuộc sống cá nhân nếu căng thẳng
đó quá lớn, kéo dài và giải tỏa nổi. Khi bị căng thẳng, tùy từng tình huống, mỗi người có
thể có cách ứng phó khác nhau. Cách ứng phó tích cực hay tiêu cực khi căng thẳng phụ
thuộc vào cách suy nghĩ tích cực hay tiêu cực của cá nhân trong tình huống đó. Kĩ năng
ứng phó với căng thẳng là khả năng con người bình tĩnh, sẵn sàng đón nhận những tình
huống căng thẳng như là một phần tất yếu của cuộc sống, là khả năng nhận biết sự căng
thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả của căng thẳng, cũng như biết cách suy nghĩ và

ứng phó một cách tích cực khi bị căng thẳng. Chúng ta cũng có thể hạn chế những tình
huống căng thẳng bằng cách sống và làm việc điều dộ, có kế hoạch, thường xuyên luyện
tập thể dục thể thao, sống vui vẻ, chan hòa, tránh gây mâu thuẫn không cần thiết với mọi
người xunh quanh, không đặt ra cho mình những mục tiêu quá cao so với điều kiện và khả
năng của bản thân,… Kĩ năng ứng phó với căng thẳng rất quan trọng, giúp con người:
- Biết suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi căng thẳng.
- Duy trì được trạng thái cân bằng, không làm tổn hại sức khỏe thể chất và tinh thần
của bản thân,… Kĩ năng ứng phó với căng thẳng rất quan trọng, giúp con người:
- Biết suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi căng thẳng.
-Duy trì được trạng thái cân bằng, không làm tổn hại sức khỏe thể chất và tinh thần
của bản thân.
-Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp, không làm ảnh hưởng đến người xung quanh. Kĩ
năng ứng phó với căng thẳng có được nhờ sự kết hơp của các KNS khác như: kĩ năng tự
nhận thức, kĩ năng xử lý cảm xúc, kĩ năng giao tiếp, tư duy sáng tạo, kĩ năng tìm kiếm sự
giúp đỡ và kĩ năng giải quyết vấn đề.
6. Kĩ năng quản lý thời gian: Kĩ năng quản lý thời gian là khả năng con người biết
sắp xếp các công việc theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm
18


trong một thời gian nhất định. Kĩ năng này rất cần thiết cho việc giải quyết vấn đề, lập kế
hoạch, đặt mục tiêu và đạt được mục tiêu đó; đồng thời giúp con người tránh được căng
thẳng do áp lực công việc. Quản lý thời gian là một trong những kĩ năng quan trọng trong
nhóm kĩ năng làm chủ bản thân. Quản lý thời gian tốt góp phần rất quan trọng vào sự
thành cơng của cá nhân và của nhóm.
7. Kĩ năng đạt mục tiêu: Mục tiêu là cái đích mà chúng ta muốn đạt tới trong một
khoảng thời gian hoặc một cơng việc nào đó. Mục tiêu có thể về nhận thức, hành vi hoặc
thái độ. Kĩ năng đặt mục tiêu là khả năng của con người biết đề ra mục tiêu cho bản thân
trong cuộc sống cũng như lập kế hoạch để thực hiện được mục tiêu đó. Muc tiêu có thể
được đặt ra trong một khoảng thời gian ngắn, như một ngày, một tuần (mục tiêu ngắn hạn).

Mục tiêu cũng có thể cho một thời gian dài như một năm hoặc nhiều năm (mục tiêu dài
hạn). Kĩ năng đặt mục tiêu giúp chúng ta sống có mục đích, có kế hoạch và có khả năng
thực hiện được mục tiêu của mình. Muốn cho một mục tiêu có thực hiện thành cơng thì
phải lưu ý đến những u cầu sau:
- Mục tiêu phải được thể hiện bằng những ngôn từ cụ thể; trả lời được những câu
hỏi như: Ai? Thực hiện cái gì? Trong thời gian bao lâu? Thời điểm hoàn thành mục tiêu là
khi nào? - Khi viết mục tiêu, cần trách sử dụng các từ chung chung, tốt nhất là đề ra những
việc cụ thể, có thể lượng hóa được.
- Muc tiêu đặt ra cần phải thực tế và có thể thực hiện được; khơng nên đặt ra những
mục tiêu quá khó so với khả năng và điều kiện của bản thân.
- Xác định được những công việc, những biện pháp cụ thể cần thực hiện để đạt
được mục tiêu.
- Xác định được những thuận lợi đã có, những địa chỉ có thể hỗ trợ về từng mặt.
- Xác định được những khó khăn có thể gặp phải trong quá trình thực hiện mục tiêu
và các biện pháp cần phải làm để vượt qua những khó khăn đó.
- Có thể chia nhỏ mục tiêu theo từng mốc thời gian thực hiện. Kĩ năng đặt mục tiêu
được dựa trên kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ
năng tìm kiếm sự hỗ trợ,…
Cùng với các nội dung giáo dục kĩ năng sống là 12 giá trị của cuộc sống cần giáo
dục là: tơn trọng, hồ bình, hợp tác, hạnh phúc, chân thật, nhân đạo, tình thương, trách
nhiệm, giản dị , khoan dung, tự do và đoàn kết. Như chúng ta đã biết, rèn kĩ năng sống cho
học sinh là nhiệm vụ rất quan trọng trong quá trình giáo dục ở các trường phổ thông, đây
là một công việc đầy khó khăn phức tạp địi hỏi người giáo viên làm cơng tác chủ nhiệm
cần phải kiên trì nhẫn nại, từng giờ, từng phút theo dõi mọi hoạt động của học sinh, phải
luôn suy nghĩ về trách nhiệm lớn lao của mình đó là “ Tất cả vì sự nghiệp giáo dục, tất cả
vì học sinh thân u”. Từ đó cần có những giải pháp cụ thể trong cơng tác chủ nhiệm lớp.
Theo tôi để rèn kĩ năng sống cho học sinh qua công tác chủ nhiệm lớp, mỗi giáo viên cần
thực hiện những giải pháp sau:
GIẢI PHÁP 1: Nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của việc giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh

Ngày xưa tôi đi học thầy cô rất quan tâm đến việc giáo dục nề nếp đạo đức , tình
cảm thầy cơ bạn bè, cách ứng xử văn hóa… Hiện nay, áp lực cơng việc của giáo viên quá
nhiều, nào là hồ sơ giáo án, nào là dự giờ kiểm tra ,nào là các phong trào thi đua… chiếm
nhiều thời gian, công việc quá lớn. Nhưng chúng ta đã khơng vì áp lực cơng việc mà quan
tâm giáo dục chuẩn mực, vì điều đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến các em… Nhận thức
được điều đó bản thân tơi khơng chỉ lo dạy kiến thức mà còn quan tâm đến việc giáo dục
kỹ năng sống cho các em.
19


Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình: Tự nhận thức,xác định giá trị,
ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ , tự trọng, tự tin… Đây là nhóm kĩ năng mà
giáo viên cần chú tâm rèn luyện cho học sinh thơng qua tính cách của mỗi cá nhân, giúp
các em cảm nhận , biết được mình là ai, cả về cá nhân trong mối quan hệ với những người
khác và trong tập thể lớp. Nhóm kĩ năng sống này giúp các em ln cảm thấy tự tin với
chính mình trong mọi tình huống ở mọi nơi.
Bất kỳ GVCN nào muốn hoàn thành nhiệm vụ của mình trước hết phải có tâm, có
tấm lịng vì tình u thương con người, có sự độ lượng, bao dung, đồng thời phải giỏi về
tâm lý lứa tuổi, có nhiều biện pháp giáo dục tinh tế. Cùng đó, giáo viên chủ nhiệm còn cần
am hiểu và biết cách tổ chức giáo dục kỹ năng sống cho học sinh. Đối với những học sinh
có biểu hiện lệch lạc về nhân cách, giáo viên chủ nhiệm chính là người thay mặt nhà
trường cùng với gia đình có những biện pháp “kéo” các em trở về với “cái thiện”, hay giúp
các em học tập những gương sáng xung quanh mình.
Làm chủ nhiệm là một nghệ thuật. Giáo viên chủ nhiệm là cầu nối quan trọng để
kết nối nhà trường với gia đình và xã hội, được coi là cánh tay đắc lực giúp Giám hiệu nhà
trường chỉ đạo sát sao, kịp thời và phù hợp với thực tiễn của trường. Hơn ai hết, giáo viên
chủ nhiệm là người trực tiếp nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý học sinh. Chẳng hạn như: học
sinh đánh nhau, trốn học, không học bài, yêu đương sớm..Do đó, ngay từ đầu năm học, tơi
thường xun chú ý đến cách ứng xử của học sinh qua lời nói, việc làm, kiểm tra việc học,
việc thực hiện nội qui trường, lớp của học sinh. Từ đó, kịp thời uốn nắn sửa chữa khi học

sinh có thái độ, hành vi đạo đức chưa tốt.
Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình: Tự nhận thức,xác định giá trị,
ứng phó với căng thẳng, tìm kiếm sự hỗ trợ , tự trọng, tự tin… Đây là nhóm kĩ năng mà tôi
đặc biệt chú tâm rèn luyện cho học sinh thơng qua tính cách của mỗi cá nhân, giúp các em
cảm nhận , biết được mình là ai, cả về cá nhân trong mối quan hệ với những người khác và
trong tập thể lớp. Nhóm kĩ năng sống này giúp các em ln cảm thấy tự tin với chính mình
trong mọi tình huống ở mọi nơi. Và muốn thực hiện được điều này đạt kết quả cao trong
rèn kĩ năng sống cho học sinh qua công tác chủ nhiệm lớp, trước hết tôi đã thực hiện
những công việc cụ thể như sau :
+ Có tình cảm thật sự đối với học sinh của mình, quan hệ với học trị như là người
bạn lớn, vừa gần gũi, yêu thương, quan tâm vừa đáng tin cậy. Phải biết chia sẻ mọi tâm tư
tình cảm và đặc biệt phải nắm được suy nghĩ, hành động của các em để có hướng giáo dục
cụ thể.Cần chú ý xây dựng mối quan hệ tốt giữa học sinh với giáo viên (với tư cách là
người lớn) được dựa trên quan hệ bình đẳng và tơn trọng lẫn nhau. Người lớn phải thực sự
tin tưởng vào các em, tạo điều kiện để
các em thỏa mãn tính tích cực, độc lập trong hoạt động. Tạo điều kiện để nâng cao tinh
thần trách nhiệm của các em bằng cách tổ chức các dạng hoạt động khác nhau để lôi kéo
các em tham gia vào đó một cách tích cực nhằm giáo dục lẫn nhau và tự giáo dục.
+ Ngoài tri thức và tài năng sư phạm, cần có lịng vị tha, biết yêu thương và
quí trọng học sinh của mình, có lối sống lành mạnh để làm gương cho học sinh noi
theo bởi làm chủ nhiệm là một nghệ thuật, đòi hỏi người giáo viên phải là tấm gương sáng
về đạo đức, mẫu mực từng lời ăn tiếng nói, tác phong làm việc cho đến trình độ chun
mơn. Nói về sự vị tha và u thương thì tơi thấy đều này rất quan trọng và nó sẽ quyết
định sự thành công trong công cuộc giáo dục nhân các cho học sinh. Trong q trình tơi
làm cơng tác chủ nhiệm khơng ít lần gặp trường hợp học sinh vi phạm, bị ghi sổ đầu bài,
tơi nhắc nhở thay vì các em nhận thấy đó là lỗi của mình, vì chưa nổ lực để hoàn thành
nhiệm vụ mà ngược lại các em hay đỗ lỗi cho hồn cảnh, viện lí do này kia biện minh cho
cái sai của mình, đơi khi các em con gay gắt trả lời khi tôi hỏi lí do tại sao vi phạm nội quy
nhà trường. Khi đó tơi sẽ khơng tiếp tục vấn đề mà nhẹ nhàng kêu em vào lớp, và hãy suy
nghĩ về cuộc trị chuyện nãy giờ, cuối giờ ở lại nói chuyện với cơ. Và khi cho học sinh đó

20


có thời gian bình tĩnh suy nghĩ và thấy cách ứng xử nhẹ nhàng của tôi như thế, cuối giờ em
học sinh này chủ động xin lỗi, và lúc này tơi chỉ để cho học sinh tự nói về lỗi của mình và
đề ra hướng khắc phục.
+ Trong quá trình làm công tác chủ nhiệm bản thân tôi tâm niệm rằng rèn kĩ năng
sống cho học sinh là thực sự cần thiết, có tác dụng to lớn trong việc xây dựng một
mơi trường giáo dục an tồn, thân thiện, hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện cho học sinh, đáp ứng được nhu cầu của xã hội và của thời đại hiện nay. Nhìn chung
thanh niên mới lớn là thời kỳ đặc biệt quan trọng đối với cuộc đời con người. Đây là thời
kì lứa tuổi phát triển một cách hài hịa, cân đối, là thời kì có sự biến đổi lớn về chất trong
tồn bộ nhân cách để các em sẵn sàng bước vào cuộc sống tự lập. Do đó, việc nhận thức
đầy đủ vị trí của lứa tuổi này để có nội dung, phương pháp giáo dục thích hợp nhằm đem
lại hiệu quả tối ưu trong hoạtđộng giáo dục vơ cùng quan trọng.
+ Kiên trì trong giáo dục học sinh theo kiểu mưa dầm thấm lâu, giáo dục đạo đức,
giáo dục kỹ năng sống phải trở thành thói quen của mình. Có người từng quan niệm rằng
sau cha mẹ, thầy cô là người gần gũi với học sinh hơn ai hết, nên hiểu các em và nắm rõ
hồn cảnh để có định hướng đúng trong dạy dỗ là then chốt của thành công trong giáo dục.
Người giáo viên chủ nhiệm phải coi mình là người trồng cây, gieo hạt, phải xác định rõ
quan điểm “Giáo dục là vạn năng”, phải chống lại quan điểm sai lầm bế tắc trước việc giáo
dục con cái của một số phụ huynh học sinh theo quan niệm:
“Cha mẹ sinh con trời sinh tính”.
Cần thấm thía lời dạy của Bác Hồ :
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Ở trường trung học phổ thông Nguyễn Hiền, nơi tôi công tác rất chú trọng đến việc bồi
dưỡng, rèn luyện để tăng cường năng lực của giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo
dục. Hàng năm Ban giám hiêụ nhà trường có kế hoạch cụ thể chi tiết để bồi dưỡng thêm
năng lực làm công tác chủ nhiệm cho đội ngũ giáo viên chủ

nhiệm như: việc học tập nội quy, quy định về việc đánh giá xếp loại học sinh, bồi
dưỡng giáo dục đạo đức, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh…
+ Chú ý từng cử chỉ, lời ăn tiếng nói, tác phong sư phạm cho đến trình độ chun
mơn để làm gương cho học sinh noi theo. Đây là hoạt động giúp cơ trị hiểu nhau, đồng
thời tạo một môi trường học tập thân thiện. Đối với học sinh, thầy cô giáo luôn là thần
tượng của các em. Các em luôn để ý đến thầy cơ, từ cách ăn nói đến những cử chỉ hàng
ngày. Hành vi ở trường của thầy cô tác động rất lớn đến việc hình thành nhân cách học
sinh. Vì vậy, tôi luôn trau dồi đạo đức, tác phong, không ngừng học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh để trở thành tấm gương sáng cho học sinh noi theo
+ Ngồi ra, tơi ln đặt mình vào vị trí của học sinh, phải hiểu được tâm sinh lý
của các em để có những phương pháp giáo dục đúng đắn, phù hợp cho từng đối tượng học
sinh. Cần có sự hòa nhập và hợp tác với các em, giáo viên vừa là các thầy cô, vừa là những
người bạn đồng thời cũng vừa là những nhà tư vấn tâm lý đáng tin cậy để các em có thể
chia sẽ những vui buồn và những bế tắc trong cuộc sống, trong học tập, trong các mối
quan hệ bạn bè và xã hội khác.
+ Bản thân tôi, tôi cố gắng học cách lắng nghe, tìm hiểu nguyên nhân, dùng lời lẽ
mềm mỏng bằng những tình cảm, cử chỉ yêu thương của mình khi u cầu điều gì đó với
học sinh. Đặc biệt, tơi thường dùng biện pháp động viên, khích lệ, biểu dương kịp thời để
các em bớt đi tính hung hăng đối với những học sinh nghịch ngợm, mắc lỗi. Đó là điều
kiện rất quan trọng để phát triển khả năng giao tiếp của học sinh. Bởi lẽ, học sinh không
thể mạnh dạn, tự tin trong một môi trường mà giáo viên ln gị bó và áp đặt. Trong q
trình lên lớp, tôi thường chú ý quan sát những biểu hiện chưa tích cực về thái độ học tập,
21


những cử chỉ, hành vi của các em để bắt đầu có điều chỉnh phù hợp.Quan tâm gần gũi các
em để động viên các em một cách kịp thời hoặc có biện pháp uốn nắn mỗi khi các em có
những hành vi sai phạm nhỏ nhất. Tôi luôn âm thầm theo dõi và quan sát thái độ và hành
vi của học sinh trong tiết học hay giờ ra chơi, có như vậy khi các em có bất kỳ thay đổi gì
là tơi nhanh chóng nhận ra ngay. Khi phát hiện tâm lý học sinh đó có sự thay đổi, ngay lập

tức tơi sẽ gọi học sinh đó ra trao đổi riêng để tìm hiểu cặn kẻ nguồn cơn của vấn đề, sau đó
sẽ có những lời khuyên và định hướng trong hành vi cho học sinh đó tự mình giải quyết và
vượt qua vấn đề của mình. Tuy nhiên khơng dừng lại ở đó, mà khoảng 2 – 3 ngày sau tôi
sẽ hỏi về kết quả, nếu vẫn chưa tốt thì tiếp tục định hướng cách giải quyết khác cho đến
khi bản thân của em vượt qua khó khăn của bản thân.
+ Có niềm tin vào sự thay đổi ở các em, khơng nóng vội trong q trình giáo dục.
Ln cởi mở, tâm sự, chia sẻ cùng các em mọi nơi mọi lúc.
Vì thế học sinh lớp tơi có tình cảm gắn bó rất thân thiết với giáo viên chủ nhiệm.
Các em xem tôi như người mẹ, người chị, người bạn có thể tâm sự, chia sẻ mọi suy nghĩ, ý
kiến, nguyện vọng kể cả tâm sự cho tôi nghe những tình cảm tươi mới của tuổi học trị
mong tìm thấy nơi tôi lời khuyên, lời động viên, an ủi, tìm kiếm chỗ dựa tinh thần hay cả
những quyết định khó khăn trong cuộc sống. Cũng bởi vậy mà trong những năm làm chủ
nhiệm tơi đều nhậnphần thưởng cao q nhất mà tơi nhận được đó là sự u thương, quý
trọng và niềm tin nơi các em dành cho tôi là những lời chúc mừng nhân ngày sinh nhật,
hay nhân dịp năm mới, nhân các ngày lễ lớn hay những lời động viên mỗi khi cô giáo mệt
mỏi,căng thẳng. Quả thật các em đã trưởng thành hơn rất nhiều đó là điều mà tất cả các
giáo viên chủ nhiệm đều mong nhận được là phần thưởng cao quý dành cho tơi mà khơng
có một danh hiệu hay phần thưởng nào quí giá bằng.
GIẢI PHÁP 2: Giáo dục học sinh quý trọng thời gian và sự chuyên nghiệp trong công
việc.
Giáo dục các em biết quý trọng thời gian, thực hiện nghiêm túc các quy định của
nhà trường và thực sự chuyên nghiệp trong các công việc được giao. Giúp các em hiểu rõ
trong thế giới phẳng ngày nay khi Đất Nước hội nhập thế giới một cách sâu rộng, khi con
người trở thành cơng dân tồn cầu thì sự chun nghiệp là một yếu tố hết sức quan trọng
và có tính quyết định đến tương lai của các em.
*Giờ chào cờ đầu tuần:
Nhà trường đã quy định giờ phải ổn định hàng ngũ để tiến hành chào cờ, tuy nhiên
vì những lý do khơng chính đáng hoặc vì sự thiếu ý thức kỉ luật mà các em sắp hàng chậm
trễ. Và các em hay lợi dụng giờ chào cờ đầu tuần mang theo tập sách để học bài, mang
điện thoại theo chơi game thì thật sự rất nguy hiểm, vì khi cịn ngồi ghế nhà trường mà

thực hiện cơng việc thiếu tính chuyên nghiệp, sau này khi ra xã hội các em rất khó trụ
vững trong cơng việc. Chính vì thế trong buổi sinh hoạt lớp đầu tiên tôi sẽ phân tích cụ thể
lí đo vì sao phải tn thủ và thực hiện tốt giờ sinh hoạt chào cờ, và ý nghĩa của buổi chào
cờ. Song song đó tơi đề ra quy tắc và thống nhất trong học sinh, nếu ai làm trái xem như
một lần vi phạm nội quy của nhà trường. Bên cạnh việc giao ước tôi sẽ quan sát các em, để
các em thấy rằng các em đang thực hiện một buổi chào cờ rất quan trọng, có làm như vậy
dần dần sẽ biến thành thói quen tốt cho học sinh.

22


Hoạt động chào cờ hàng tuần
*Hoạt động múa:
Song song đó, nhằm mục đích giáo dục tính chuyên nghiệp cho học sinh của mình,
tơi thường cho các em tự thực hiện những công việc phù hợp với khả năng của các em. Cụ
thể như trong hoạt động ca múa nhạc chào mừng ngày 20/11, đa số ở các lớp khác thường
hay mướn người biên đạo bài múa hay mướn giáo viên thanh nhạc tập hát, cịn riêng lớp
tơi, tơi khuyến khích các em nên tự làm, tự luyện tập. Ban dầu các em khơng đồng ý vì sợ
thua lớp khác, nhưng tôi đã nhẹ nhàng thiết phục các em
Thứ nhất: Đây là hoạt động tri ơn nhà giáo, chúng ta nên tự thực hiện nhằm thể hiện
tấm lòng biết ơn của mình
Thứ hai: Mướn người rất tốn kém tiền bạc, mà gia đình các em chủ yếu là lao động
chân tay, kiếm được đồng tiền rất cực khổ, khơng vì sự thắng thua mà làm mất đi ý nghĩa
của phong trào
Thứ ba: Đây là dịp để chúng ta thử khám phá bản thân về năng khiếu
Thứ tư: Hãy tận dụng thời gian tập luyện trong một tháng này mà rèn luyện kỹ năng
làm việc, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng hợp tác . . .
Khi tơi đã phân tích cặn kẽ như vậy tất cả các em đều thống nhất.

23



Tập múa

Sơ khảo

Công diễn

Trong các buổi lao động trái buổi được nhà trường phân công, tôi luôn quy định giờ
cụ thể và tự cho học sinh đăng kí thực hiện nhiệm vụ và tự mang dụng cụ lao động theo để
thực hiện. Tôi luôn đến sớm hơn 20 phút quan sát xem các em có đảm bảo đúng giờ và
mang theo dụng cụ lao động có đúng như đã đăng ký hay khơng. Sau khi hồn thành
nhiệm vụ, tơi sẽ tập họp các em và cho các em tự nhận xét về việc làm được và chưa làm
được, nếu chưa làm được thì tự bản thân đề ra hướng khắc phục và phải thông qua ý kiến
của tập thể.
*Hoạt động vệ sinh và bảo vệ môi trường:
24


Tham gia cạo giấy quảng cáo

25


×