Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Quan niệm tu thân trong tư tưởng Khổng Mạnh Luận văn thạc sĩ khoa học Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 125 trang )




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC




LÊ KINH NAM





QUAN NIỆM VỀ TU THÂN
TRONG TƯ TƯỞNG KHỔNG – MẠNH







LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC TRIẾT HỌC










Huế, 2008




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC




LÊ KINH NAM



QUAN NIỆM VỀ TU THÂN
TRONG TƯ TƯỞNG KHỔNG – MẠNH

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80




LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Thanh Bình
Trường Đại học KHXH và Nhân văn,
Đại học quốc gia Hà Nội





Huế, 2008



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC




LÊ KINH NAM



QUAN NIỆM VỀ TU THÂN
TRONG TƯ TƯỞNG KHỔNG – MẠNH





TÓM TẮT
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC TRIẾT HỌC


Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60.22.80

Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THANH BÌNH










Huế, 2008



A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nho giáo có lịch sử tồn tại và phát triển hơn 2000 năm. Trải qua nhiều thăng
trầm của lịch sử, Nho giáo đã để lại dấu ấn của mình không chỉ trong sách vở mà cả
trong đời sống tinh thần của nhiều thế hệ người Trung Quốc nói riêng và một số

nước châu Á nói chung. Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống văn hoá,
tinh thần, phong tục, tập quán của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Nho giáo trong thời gian dài là hệ tư tưởng thống trị trong kiến trúc thượng
tầng của Trung Quốc và nhiều nước phương Đông. Trải qua nhiều biến cố của lịch
sử, Nho giáo có lúc được đề cao, tôn sùng, được xem là quốc giáo, nhưng cũng có
khi Nho giáo bị mạt sát đến thậm tệ, thậm chí bị phủ định sạch trơn. Mặc dù vậy,
cho đến ngày nay, Nho giáo vẫn tồn tại và ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống văn
hoá tinh thần của nhiều nước phương Đông. Những ý nghĩa tích cực của nó vẫn tồn
tại mãi mãi với lịch sử tư tưởng của nhân loại. Với tư cách là một học thuyết có hệ
thống, Nho giáo chủ yếu là đề cập tới lĩnh vực chính trị và đạo đức. Việc kế thừa
những tư tưởng tiến bộ của Nho giáo, đặc biệt là quan niệm về tu thân trong Nho
giáo Khổng - Mạnh* có ý nghĩa rất lớn đối với việc xây dựng, bồi dưỡng đạo đức
mới cho người Việt Nam nói chung và đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng ở nước
ta hiện nay, đặc biệt là khi chúng ta đang mở rộng và phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ trước tới nay, đặc biệt là trong thời gian gần đây, trên thế giới và ở Việt
Nam, có nhiều cuộc hội thảo, nhiều công trình nghiên cứu khoa học, nhiều chuyên
khảo, nhiều bài viết trên các tạp chí đã bàn và đánh giá sự ảnh hưởng của Nho giáo
đối với sự phát triển của xã hội, con người trong lịch sử và hiện nay. Tuy có không
ít sự nhìn nhận và có nhiều ý kiến còn trái ngược nhau, song đại đa số các công
trình nghiên cứu đã chỉ ra những giá trị và ý nghĩa tích cực của Nho giáo, của đạo
đức Nho giáo, coi những chuẩn mực, quy phạm đạo đức mà các nhà Nho đưa ra là
những yêu cầu và những phẩm chất đạo đức cơ bản để cho con người hoàn thiện
(*) Chúng tôi dùng “Khổng - Mạnh” là để chỉ Khổng tử và Mạnh tử. Đây là hai nhà triết học thời kỳ đầu của
Nho giáo với tư cách là học thuyết, hay còn gọi là Nho giáo tiên Tần, để phân biệt với Nho giáo sau này.



phẩm chất đạo đức, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cá nhân trong mối quan hệ giữa cá
nhân với gia đình và với xã hội.

Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh đã khuyên dân ta: “Người An Nam chúng ta hãy
tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần, bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng tử, về
mặt cách mạng thì đọc tác phẩm của Lênin” [10, tr.1].*
Trong khuôn khổ của luận văn này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu "Quan
niệm về tu thân trong tư tưởng Khổng - Mạnh" . Bằng việc nghiên cứu vấn đề này,
Luận văn góp phần hiểu đúng đắn và đầy đủ hơn những mặt tích cực của hệ thống
triết học Nho giáo, đồng thời cũng qua đó để hiểu sâu sắc hơn tính nhân đạo, tính
cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Từ việc nghiên cứu một số nội dung cơ bản trong quan niệm về tu thân của
Nho giáo Khổng - Mạnh, đặt nó trong giai đoạn phát triển đất nước hiện nay, dưới
tác động của nền kinh tế thị trường để từ đó chỉ ra ý nghĩa tích cực mang tính phổ
quát của nó. Bởi, đã không ít người, trong đó có một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên bị sự cám dỗ của vật chất mà sao nhãng và quên đi trách nhiệm và bổn
phận của mình đối với đất nước, với nhân dân. Vậy, làm thế nào để khắc phục được
tình trạng nói trên và góp phần tích cực vào sự ổn định, phát triển của đất nước, hơn
lúc nào hết trong lúc này, càng phải nhận thức đầy đủ ý nghĩa và vai trò to lớn của
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, không phải ngẫu nhiên mà nhiều học giả từ
phương Tây tìm về phương Đông, từ hiện tại trở về quá khứ để tìm hiểu tư tưởng và
giá trị của Nho giáo. Vấn đề đặt ra là, phương Đông cổ đại với các nhà hiền triết,
đặc biệt là Khổng tử và Mạnh tử có thể đóng góp gì vào sự thiếu hụt hiện nay của
các nước phương Tây nói riêng và xã hội loài người nói chung được hay không ?
Nho giáo Khổng - Mạnh đã bàn khá nhiều về vấn đề tu thân của con người,
nhưng chủ yếu là trên phương diện đạo đức và chính trị. Các nhà Nho đã đưa ra
được nội dung của tu thân, vai trò của tu thân đối với việc “tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ”. Trên cơ sở những nội dung và nguyên lý về tu thân, đã có nhiều công
(*) Những chú thích trong luận văn, số đầu là số tài liệu tham khảo, số sau là số trang.




trình nghiên cứu về Nho giáo Khổng - Mạnh liên quan đến vấn đề này. Phan Bội
Châu trong cuốn Khổng học đăng đã chỉ ra một cách khái quát nhất về thực chất và
mục đích trong quan niệm về tu thân của Nho giáo Khổng - Mạnh: “Hễ muốn tu
thân mà cho đúng với đạo, trước tất phải tu cho đến đạo; nhưng mà muốn tu cho
nên đạo, tất phải có chỗ mục - đích - địa. Mục - đích - địa là gì ? Chính là đức
nhân ở trong lòng người ta. Chữ “nhân” ở đây tức là chữ “chí thiện” ở sách Đại
học. Tu đạo mà cốt cho được “chỉ ư chí thiện”, tất phải thực hành cho được đức
nhân. Nên nói rằng: “tu đạo dĩ nhân” [11, tr.356]. Hồ Chí Minh đã hiểu rất sâu sắc
về Nho giáo Khổng - Mạnh và đã vận dụng nhuần nhuyễn nhiều luận điểm của nó
để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Người đã phát hiện rằng: “Học
thuyết của Khổng tử là có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân”. Trong
lời Bế mạc lớp chỉnh huấn của cán bộ trí thức năm 1953, Người nói: “Chúng ta phải
lấy câu “chính tâm tu thân” để “trị quốc bình thiên hạ”. Có thể nói rằng Người đã
nghiên cứu rất kỹ Nho giáo Khổng - Mạnh, Người đã đem lại những nội dung và ý
nghĩa mới, có lợi và phục vụ lợi ích cách mạng.
Một học giả phương Tây Will Durat, trong cuốn Lịch sử văn minh Trung
Quốc đã có những nhận xét khá tinh tế về nguyên lý tu thân trong Nho giáo Khổng
- Mạnh: “Khổng tử bảo thiên hạ loạn vì đất nước không được khéo trị, mà nước
không được khéo trị vì luật pháp dù nhiều đến đâu cũng không thay thế được trật tự
tự nhiên trong xã hội, trật tự này được đặt cơ sở trên gia đình. Gia đình bê bối,
không làm được nhiệm vụ duy trì trật tự xã hội kể trên là vì người ta quên rằng nếu
mình không sửa được mình (tu thân) không thể tề gia được. Họ không tu thân được
vì lòng họ bất chính, không gột được hết những dục vọng hỗn độn trong tâm hồn”
[54, tr.5].
Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu khá công phu về
Nho giáo nói chung và về Nho giáo Khổng - Mạnh nói riêng, trong đó không ít
công trình đã đề cập đến vấn đề mà luận văn quan tâm như: Nho giáo của Trần
Trọng Kim, đã luận giải về khái niệm tu thân, do ông đã bám sát triết tự chữ Hán và
tư tưởng Khổng - Mạnh. Trong hai cuốn sách Nho giáo và đạo đức do Vũ Khiêu

chủ biên và Nho giáo xưa và nay do Vũ Khiêu (chủ biên), đã có rất nhiều bài viết,



những nhận định, đánh giá những giá trị của Nho giáo Khổng - Mạnh. Trong cuốn
Nho giáo xưa và nay của Quang Đạm, tác giả đã luận giải rất nhiều vấn đề, trong đó
vấn đề tu thân được tác giả đặt trong mối quan hệ với “tề gia trị, quốc, bình thiên hạ”.
Ngoài ra, còn có rất nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan
đến đề tài này, như Nho giáo và sự phát triển ở Việt Nam của Vũ Khiêu. Khổng tử
của Nguyễn Hiến Lê. Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với người Việt
Nam hiện nay do Nguyễn Tài Thư chủ biên. Vừa qua tác giả Nguyễn Thanh Bình có
công trình nghiên cứu Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của
nó ở Việt Nam (Từ nửa đầu thế kỷ XI đến nửa đầu thế kỷ XIX). Trong cuốn sách này,
tác giả đã bàn nhiều vấn đề, trong đó có một số vấn đề liên quan đến nội dung của
luận văn như: Quan điểm của Nho giáo về con người, Quan điểm của Nho giáo về xã
hội lý tưởng và Quan niệm của Nho giáo về tư tưởng đức trị. Những nội dung này đã
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến luận văn của tác giả.
Liên quan đến đề tài này còn có một số luận án, đề tài đã được bảo vệ như:
Trần Đình Thảo với “Quan niệm của Nho giáo nguyên thuỷ về con người qua mối
quan hệ thân – Nhà nước - thiên hạ”; Nguyễn Thị Tuyết Mai với “Quan niệm của
Nho giáo về con người về giáo dục và đào tạo con người”. Ngoài ra còn có rất
nhiều công trình nghiên cứu, các bài viết công phu, giá trị có liên quan đến luận văn
của tác giả mà do dung lượng về thời gian mà tác giả chưa đề cập tới.
Mặc dù, có rất có nhiều công trình nghiên cứu về Nho giáo nói chung và Nho
giáo Khổng - Mạnh nói riêng liên quan đến vấn đề tu thân. Nhưng có lẽ chưa có
công trình nào nghiên cứu cụ thể, có hệ thống về tư tưởng tu thân của Nho giáo
Khổng - Mạnh . Có lẽ do tư tưởng này các nhà Nho không tập trung bàn như các
phạm trù: nhân, lễ, chính danh, trung, hiếu… mà nó nằm tản mát trong Kinh,
Truyện (Tứ thư, ngũ kinh); chính vì vậy mà vấn đề này chưa được nghiên cứu toàn
diện và có hệ thống. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đã có đóng góp quan

trọng về nội dung, vị trí, và ý nghĩa quan niệm về tu thân trong tư tưởng Khổng -
Mạnh. Đó là tài liệu quan trọng giúp chúng tôi tìm hiểu đầy đủ, sâu sắc và có hệ
thống hơn về vấn đề này.



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Trong luận văn này, thông qua việc nghiên cứu một số nội dung cơ bản trong
quan niệm tu thân của Nho giáo Khổng - Mạnh, để từ đó nêu ra một số ý nghĩa tích
cực của nó đối với việc bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng
viên Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ:
Xuất phát từ lý do chọn đề tài, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến
đề tài và để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là phải giải quyết các
vấn đề sau:
- Trình bày những cơ sở chính trị - xã hội và tiền đề tư tưởng cho sự xuất
hiện học thuyết đạo đức của Nho giáo và nguyên lý xuất phát cho sự hình thành
quan niệm về tu thân trong tư tưởng Khổng - Mạnh.
- Trình bày và phân tích một số nội dung cơ bản của quan niệm tu thân trong
tư tưởng Khổng - Mạnh.
- Nêu ra và phân tích một số ý nghĩa tích cực trong quan niệm tu thân của
Nho giáo Khổng - Mạnh đối với việc bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ,
đảng viên ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa vào các sách kinh điển của của Nho giáo (chủ yếu là
Tứ thư) và những công trình nghiên cứu về vấn đề liên quan đến luận văn này trong
những năm gần đây.
Luận văn còn chủ yếu dựa trên những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –

Lênin, Tư tưỏng Hồ Chí Minh và các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam để
nhìn nhận, đánh giá khách quan những vấn đề mà luận văn đề cập tới.
4.2. Phương pháp nghiên cứu



Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp nghiên cứu lịch sử
triết học, phương pháp biện chứng duy vật của triết học Mác – Lênin và kết hợp với
một số phương pháp nghiên cứu khoa học khác như: phân tích và tổng hợp; lôgíc
với lịch sử; so sánh và đối chiếu; quy nạp và diễn dịch, v.v
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn trình bày tương đối có hệ thống nội dung cơ bản của quan niệm tu
thân trong tư tưởng Khổng - Mạnh, để có thể làm tài liệu tham khảo trong việc
giảng dạy, nghiên cứu và học tập Nho giáo nói chung và học thuyết về đạo đức của
Nho giáo nói riêng.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Nội dung của
luận văn gồm 2 chương 8 tiết.

















B. NỘI DUNG
Chương 1
BỐI CẢNH RA ĐỜI VÀ NGUYÊN LÝ XUẤT PHÁT CHOSỰ HÌNH
THÀNH QUAN NIỆM TU THÂN TRONG NHO GIÁO KHỔNG - MẠNH
1.1. Những điều kiện và tiền đề cho sự ra đời Nho giáo Khổng -
Mạnh
Trước hết phải khẳng định rằng, tư tưởng Nho giáo đã xuất hiện trước thời
Khổng tử. Nhưng với tính cách là một học thuyết có hệ thống, Nho giáo xuất hiện
từ thời Khổng tử và ông được coi là người sáng lập ra Nho giáo.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu và có nhiều quan điểm khác nhau về sự
phân chia các giai đoạn (thời kỳ) hình thành, phát triển của Nho giáo. Căn cứ vào sự
phát triển, biến đổi những nội dung cơ bản của Nho giáo, việc chia lịch sử Nho giáo
thành ba giai đoạn chính như trong Giáo trình lịch sử triết học do Giáo sư Nguyễn
Hữu Vui chủ biên là hợp lý hơn cả. Đó là các giai đoạn: Nho giáo Khổng - Mạnh,
Hán Nho và Tống Nho. Trong các tài liệu, công trình nghiên cứu về Nho giáo ở
Trung Quốc, Việt Nam và nhiều nước khác, Nho giáo Khổng - Mạnh (hay Nho giáo
nguyên thuỷ, Nho giáo tiên Tần) là giai đoạn đầu tiên, gắn liền với Khổng tử, Mạnh
tử và Tuân tử, đặc biệt là những tư tưởng của Khổng tử và Mạnh tử.
1.1.1. Điều kiện về kinh tế - xã hội.
Theo triết học Mác - Lênin đã chỉ rõ, Nho giáo cũng như bất cứ một hình thái
xã hội nào khác, sự hình thành, phát triển và biến đổi của nó bao giờ cũng bị quy
định, chi phối bởi tồn tại xã hội (hay điều kiện kinh tế - xã hội) nhất định và phản
ánh cái tồn tại xã hội ấy. Vì vậy mà việc trình bày điều kiện kinh tế - xã hội cho sự
ra đời tư tưởng Khổng - Mạnh gắn liền với điều kiện kinh tế - xã hội cho sự ra đời
Nho giáo nói chung.
Thời Xuân Thu, nền kinh tế Trung Quốc đang chuyển từ thời đại đồ đồng

sang thời đại đồ sắt. Việc dùng bò kéo cày đã trở thành phổ biến. Phát minh về đồ
sắt đã mang lại những tiến bộ mới trong việc chế tạo, cải tiến và sử dụng công cụ



lao động phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Nhờ công cụ phát triển mà ruộng đất
do nông nô vỡ hoang biến thành ruộng tư ngày một nhiều. Tầng lớp quý tộc có
quyền thế cũng chiếm dần ruộng của công xã làm ruộng tư. Chế độ “tỉnh điền” dần
tan rã. Sau đó, chế độ tư hữu ruộng đất còn được pháp luật Nhà nước thừa nhận và
bảo vệ.
Do việc sử dụng công cụ bằng sắt trở thành phổ biến trong sản xuất nông
nghiệp và cùng với việc mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động, sự phân công
trong việc sản xuất thủ công nghiệp cũng đã đạt tới mức chuyên nghiệp cao hơn,
thúc đẩy hàng loạt các ngành nghề thủ công nghiệp phát triển, như nghề luyện sắt
nghề rèn, nghề đúc, nghề mộc, nghề làm đồ gốm… Thương nghiệp cũng phát triển,
tiền tệ đã xuất hiện, trong xã hội đã hình thành tầng lớp thương nhân giàu có.
Sự phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế đã tác động lớn đến lĩnh vực
chính trị - xã hội. Đây là thời kỳ mà ở Trung Quốc lúc này là sự đan xen giữa hình
thái chiếm hữu nô lệ với phong kiến. Triều đại nhà Chu ngày càng suy sụp, chế độ
tông pháp không còn được tôn trọng, các quan hệ về kinh tế, chính trị và xã hội,
giữa thiên tử và các nước chư hầu ngày càng lỏng lẻo, trật tự lễ, nghĩa nhà Chu
không còn được coi trọng. Hệ quả tất yếu dẫn đến là làm xuất hiện một cục diện
mới trong xã hội Trung Quốc. Thời Xuân Thu, đó là “triều đại nhà Chu từ đầu Đông
Chu đến đây là hết hẳn. Tình trạng xen kẻ lẫn nhau giữa các hình thái chiếm hữu nô
lệ cứ lùi dần và hình thái phong kiến cát cứ mới nẩy sinh với xu thế hướng tới tập
quyền ngày càng mạnh mẽ cũng chấm dứt” [17, tr.21]. Nhiều nước chư hầu đã
giành giật địa vị bá chủ thiên hạ, chinh phạt lẫn nhau, càng làm cho mâu thuẫn vốn
có trong xã hội và mâu thuẫn giai cấp ngày càng trở nên gay gắt, sự rối loạn trong
xã hội ngày càng tăng. Tình trạng lễ, nghĩa, cương thường đảo lộn, đạo đức suy đồi,
“chư hầu lấn quyền thiên tử, đại phu lấn quyền chư hầu, tôi giết vua, con giết cha,

trật tự xã hội rất là rối loạn” [1, tr. 25,26] diễn ra ở nhiều nơi, thể chế nhà Chu bị vi
phạm nghiêm trọng. Bên cạnh đó là tình trạng trên yếu dưới mạnh, do tầng lớp địa
chủ mới lên ngày càng giàu có, lấn át quý tộc cũ, “thậm chí tầng lớp này còn chiếm
cả chính quyền như họ Quý thị ở nước Lỗ, họ Trần ở nước Tề” [63, tr.25]. Tình
trạng rối loạn xã hội và các quan hệ xã hội, chiến tranh liên miên ở nhiều nơi, xuất



hiện nhiều cuộc bạo động, khởi nghĩa nông dân phản kháng chống lại chế độ nhà
Chu, tất cả là những hợp lực đẩy nhà Chu đến bờ vực diệt vong. Mặt khác, “sự rối
loạn trật tự xã hội đã tạo ra một tình trạng phi nhân tính, vô đạo đang thống trị xã
hội, làm cho các mối quan hệ xã hội bị biến dạng ghê gớm” [6, tr 14].
Trước một thực trạng xã hội về chính trị như vậy, thì một vấn đề cấp bách
được đặt ra đó là cách thức tổ chức, quản lý như mô hình nhà Chu không còn phù
hợp nữa. Và còn phải làm thế nào để thiết lập lại trật tự kỷ cương cho xã hội, làm
cho xã hội ổn định và phát triển. Đây là vấn đề lý luận và thực tiễn không phải dễ
dàng trong bối cảnh có rất nhiều học thuyết ra đời. Song dù sao đi nữa thì điều quan
trọng là phải lựa chọn mô hình xã hội nào cho phù hợp với tình hình Trung Quốc
thời bấy giờ để đất nước thoát ra khỏi tình trạng rối loạn để phát triển. Rõ ràng đây
còn là câu hỏi lớn và nỗi băn khoăn cho thời đại và là nội dung chủ yếu trong đời
sống tư tưởng chính trị - xã hội của Trung Quốc thời bấy giờ. Sự ra đời của nhiều
học thuyết đã phản ánh lập trường giai cấp rất rõ là mỗi một học thuyết lại bảo vệ
lợi ích của giai cấp, của tầng lớp mình mà phê phán (cải tạo hay xoá bỏ) trật tự xã
hội cũ. Tình trạng ấy đã tạo nên cục diện “Bách gia tranh minh”, “Bách gia chư tử”
mà kết cục là đã tạo ra nhiều tầng lớp kẻ sĩ, nhiều tư tưởng khác nhau, thậm chí đối
lập nhau trong thời Xuân thu - Chiến quốc. Sự ra đời của tư tưởng Nho giáo Khổng
- Mạnh cũng đặt trong bối cảnh ấy. Khổng tử và sau đó là Mạnh tử đã đưa ra học
thuyết “đức trị” nhằm thực hiện đường lối trị nước bằng đạo đức, trong đó các ông
đòi hỏi mọi người phải kiên trì, nổ lực, tu thân, học đạo để làm cho “người người
hữu đạo”, “nhà nhà hữu đạo”, thực hiện được lý tưởng “tề gia, trị quốc, bình thiên

hạ”.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng
Sự ra đời của Nho giáo Khổng - Mạnh còn bắt nguồn từ đời sống tư tưởng
(tôn giáo, chính trị, đạo đức) của Trung Quốc từ trước đến bây giờ, đặc biệt dưới
thời nhà Chu.
Về tôn giáo, như chúng ta đã biết, để biện hộ, bảo vệ, duy trì địa vị và vai trò
thống trị vĩnh viễn của mình, nhà Chu đề cao tư tưởng “kính trời”, “hợp mệnh trời”,



“thờ thượng đế”, “trời và người hợp nhất”. Nhà Chu cho rằng trời là lực lượng có
nhân cách, có ý chí và có uy quyền tuyệt đối, quyết định mọi hành động và số phận
của con người. Theo đó, mà nhà Chu còn cho rằng, “vì Nhà Ân không biết mệnh
trời, hành động không hợp với mệnh trời, do vậy Thượng đế đã trừng phạt và để cho
nhà Chu thay thế nhà Ân cai trị dân” [8, tr.15].
Về chính trị, các tầng lớp quý tộc và tư tưởng của nhà Chu cho rằng, vì họ
làm theo đúng “mệnh trời”cho nên được “nhận dân” từ tay nhà Ân để “hưởng dân”
và “trị dân” suốt đời. Và vì vậy, cũng theo họ, nếu kẻ nào chống lại thì nhà Chu sẽ
thay mệnh trời mà chém giết. Họ đều quả quyết rằng vua nhà Chu là thiên tử, là
người duy nhất thay trời thống trị thiên hạ, là người chủ sở hữu duy nhất về đất đai
lẫn con người. Như vậy, tư tưởng chính trị nhà Chu là hết sức phản động, nhưng đã
được phủ lên trên nó một vỏ bọc “duy tâm”, một lớp son tôn giáo là “ý trời” và
“mệnh trời”.
Về đạo đức, tư tưởng đạo đức cơ bản của nhà Chu thể hiện chủ yếu ở hai
phạm trù Đức và Hiếu. Có Đức, Hiếu mới có được mệnh trời. nhà Chu đã lấy hai
chữ Đức và Hiếu thông qua “mệnh trời” nhằm củng cố và tuyên truyền sự tồn tại
vĩnh viễn địa vị thống trị của tầng lớp quý tộc nhà Chu.
Từ quan niệm chính trị - tôn giáo “Thiên nhân hợp nhất” hết sức duy tâm và
phản động, nhà Chu khẳng định rằng, vì các bậc tiên vương nhà Chu có đức mà
được sánh cùng thượng đế, được thượng đế cho trị nước, trị dân và hưởng nước,

hưởng dân…; cho nên các vua đời sau phải biết kính cái đức đó, phải biết bồi
dưỡng cái đức đó để cho con cháu của họ được trị nước, trị dân và hưởng nước,
hưởng dân lâu dài. Hiếu là thờ phụng tổ tiên, là phải nhớ công lao của tổ tiên mà giữ
gìn phép tắc mà tổ tiên để lại. Có cái đức, hiếu như vậy, mới nhận được mệnh trời
mà được hưởng nước, hưởng dân mãi mãi.
Nho giáo Khổng - Mạnh không thể không và trên thực tế đã tiếp nhận vào hệ
thống tư tưởng của mình những tư tưởng tôn giáo, chính trị, đạo đức trên đây của
nhà Chu, chủ yếu và “thực chất cũng là tiếp nhận một phương thức chính trị mà giai
cấp thống trị của các triều đại trước đây đã thực hiện là sử dụng thần quyền để củng



cố và thực hiện vương quyền (tuy nhiên không chấp nhận sự lấn át của thần quyền
đối với vương quyền) trong việc cai trị.” [8, tr.16].
Đến thời Khổng - Mạnh, Nho giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội,
không thể không liên hệ mật thiết với đời sống kinh tế và phản ánh đời sống kinh tế
xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Do vậy, để khắc phục tình trạng rối loạn xã hội,
nhằm đưa xã hội vào trạng thái ổn định và phát triển, ở phương diện nào đó, tư
tưởng Nho giáo Khổng - Mạnh vẫn sử dụng sức mạnh của thần quyền. Nhưng mặt
khác và là mặt cơ bản, tư tưởng Khổng - Mạnh phải khẳng định địa vị đứng trên của
vương quyền đối với thần quyền cũng như vị trí, vai trò của con người trong những
diễn biến của lịch sử.
Trong lịch sử, cũng như trong đời sống chính trị - xã hội ở các nước phương
Đông nói chung và Trung Quốc nói riêng, địa vị thống trị xã hội không phải nhất
thiết lúc nào cũng bị quyết định bởi địa vị kinh tế. Thực tế lịch sử cho thấy, từ thời
kỳ trước Khổng tử và Mạnh tử ở Trung Quốc, tất cả các thế lực thống trị xã hội phải
quan tâm, dù ở một mức độ nào đó, đến đời sống của con người, của nhân dân và
đến vai trò của họ. “Ngay trong Kinh thư, đã cho thấy nhiều tư tưởng thể hiện sự
quan tâm của tầng lớp thống trị đến đời sống của nhân dân, đến vai trò của người
dân, như tuy thừa nhận “mệnh trời” luôn có uy quyền tối cao, tuyệt đối nhưng lại

thể hiện ra, thậm chí đồng nhất với “ý dân”, “lòng dân”. Những câu sau: “Trời nhìn
tự dân ta nhìn”, “Trời nghe tự dân ta nghe”, “Sự sáng suốt ở trời thể hiện ra sự sáng
suốt ở dân”, “Dân muốn gì trời cũng phải theo”,…không phải là ít trong cuốn sách
này. Điều này nói lên rằng, việc quan tâm đến đời sống và vai trò của dân có ý
nghĩa như một hằng số trong đời sống chính trị ở các nước phương Đông” [8, tr.17].
Như đã trình bày ở trên, dưới triều đại nhà Chu, địa vị và uy quyền của trời,
mệnh trời đã được vận dụng để chống lại nhà Ân, vào việc luận giải và biện hộ cho
sự tồn tại vĩnh viễn của nhà Chu. Tuy nhiên đến thời Xuân Thu, sự suy yếu về mọi
mặt của nhà Chu đã cho thấy, sự linh thiêng và sự bất khả xâm phạm của thần
quyền đã bị xâm phạm; nó báo hiệu sự thắng lợi của quyền lực trần thế trước quyền
lực thần thánh Cho đến cuối thời Xuân Thu, với sự suy đồi của tầng lớp thống trị,



trật tự, kỷ cương theo mô hình nhà Chu bị rối loạn, sự khốn cùng của đời sống nhân
dân đã làm lay chuyển gốc rễ địa vị thống trị của thần quyền. Bởi vậy, một vấn đề
thực tiễn đặt ra cho các nhà tư tưởng, các học phái, các tầng lớp thống trị là phải tìm
ra và luận giải những công cụ, những phương thức cai trị mới.
Trong bối cảnh đó, sự xuất hiện của Nho giáo (mà cũng chính là Nho giáo
Khổng - Mạnh) là một tất yếu khách quan, nhằm giải quyết một nhu cầu mà thực
tiễn của xã hội Trung Quốc đặt ra lúc bấy giờ. Tuy nhiên, khác với các học thuyết,
giáo phái khác, Nho giáo Khổng - Mạnh đặc biệt đề cao đạo đức, coi đạo đức là
phương tiện, là công cụ chủ yếu để quản lý, duy trì trật tự xã hội, đưa xã hội từ
“loạn” tới “trị”. Có nghĩa là, trong học thuyết của Khổng - Mạnh, đạo đức và chính
trị gắn bó chặt chẽ với nhau, và vì vậy, có thể coi học thuyết của Khổng tử và Mạnh
tử là học thuyết về đạo đức - chính trị.
1.2. Nguyên lý xuất phát của quan niệm về tu thân trong Nho giáo
Khổng - Mạnh
1.2.1. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về con người
Vấn đề con người là một trong những vấn đề cơ bản nhất, chủ yếu nhất trong

tư tưởng Khổng - Mạnh. Ở tư tưởng Khổng - Mạnh, con người ngay từ đầu đã được
đề cập tới và có thể nói rằng, Khổng - Mạnh đặc biệt đề cao vai trò của con người,
“coi con người cùng với trời đất là tiêu biểu của tất cả, và nói rõ: trời, đất người là
tam tài” [17, tr.64]. Trong quan niệm của Khổng tử và Mạnh tử, vấn đề con người
gắn liền, liên quan trực tiếp đến việc củng cố, ổn định trật tự, kỷ cương của xã hội.
Trong đó, coi trọng đạo đức là tư tưởng chủ đạo trong quan niệm của Khổng -
Mạnh về con người. Mà vấn đề con người bao hàm hệ các vấn đề như: đạo làm
người, tính người, giáo dục và đào tạo con người, phân loại con người và xây dựng
mẫu người lý tưởng.vv , việc nghiên cứu làm rõ các vấn đề trên là cần thiết và có ý
nghĩa. Nhưng để phục vụ cho đề tài luận văn, chúng tôi chỉ đi vào nghiên cứu hai
vấn đề có liên quan nhất, đó là vấn đề bản tính con người và vai trò của con người
trong Nho giáo Khổng - Mạnh. Bởi vì, hai vấn đề này là cơ sở lý luận, là nguyên lý
xuất phát hình thành quan niệm về tu thân trong tư tưởng Khổng - Mạnh.



1.2.1.1. Quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh về bản tính con người
Bản tính người (hay là nhân tính) là một trong những vấn đề lớn của lịch sử
triết học phương Đông. Trong khi triết học phương Tây thời cổ đại, chủ yếu đi tìm
hiểu những vấn đề về nguồn gốc, bản chất của thế giới, và những vấn đề thuộc về
mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh .v.v, thì các nhà triết học
phương Đông lại chú trọng đến những vấn đề thuộc về “bản tính con người”, để từ
đó đưa ra và lý giải vấn đề về vị trí, vai trò của con người. Các nhà triết học phương
Đông quan niệm rằng, bất kỳ một cải cách cơ bản nào trong xã hội cũng đều bắt đầu
một thay đổi cơ bản trong bản tính con người. Trong các học thuyết thời cổ đại
Trung Quốc, Nho giáo Khổng - Mạnh là học thuyết bàn luận về bản tính người một
cách sâu sắc nhất, đầy đủ hơn cả.
Trong tư tưởng Khổng - Mạnh, Khổng tử là người đầu tiên đưa ra quan niệm
về bản tính con người, đơn giản nhưng rất cơ bản dù rằng và hầu như ông không
giảng cho học trò. Như Tử Cống - học trò của Khổng tử đã nói rằng: “Văn chương

thầy ta thì chúng ta đều được nghe. Còn về bản tính con người cùng đạo trời thì
chúng ta chẳng được nghe thầy ta dạy”. (Phu tử chi văn chương, khả đắc nhi văn
giã. Phu tử nhi ngôn tính dữ thiên đạo, bất khả đắc nhi văn giã) [27, tr.298]. Bản
tính con người và đạo trời là vấn đề cao siêu. Khổng tử chỉ truyền đạt vấn đề này
cho những học trò đã đạt đến đạo “trung dung”, nhưng số học trò này rất hiếm nên
không thể truyền đạt đạo đó được. Trong sách Luận ngữ của Khổng tử, có ghi chép
một số lần ông nói liên quan đến “bản tính con người”. Cũng bàn về vấn đề này
trong cuốn Đại cương lịch sử triết học Trung Quốc, tập 2, Giản Chi và Nguyễn
Hiến Lê cho rằng: Khổng tử chỉ nói có một câu về bản tính con người: “Khổng tử
cũng có nói đấy nhưng chỉ nói có mỗi một câu này ở gần đầu chương Dương hoá:
Tính tương cận giã tập tương viễn giã” [12, tr.75]. Còn khi nghiên cứu cụ thể thì
cho thấy trong sách Luận ngữ Khổng tử đã có hai lần ông nói liên quan đến bản
tính con người:
- “Con người sinh ra, bản tính vốn ngay thật” (nhân chi sinh tính giã trực)
[27, tr.332].



- “Con người ta ai cũng có bản tính lành; nhưng do nhiễm thói quen cho nên
họ thành xa lánh nhau”.(Tính tương cận giã, tập tương viễn giã) [27, tr.614].
Và tất nhiên ở một chỗ khác, cũng trong sách Luận ngữ, Khổng tử có nói đến
nết người và theo chúng tôi, cái nết người ấy bao hàm cả "tính người", đó là:
- “Chỉ có bậc thượng trí và kẻ hạ ngu là không đổi nết mình” (Duy thượng trí
dữ hạ ngu bất di) [27, tr. 613].
Tuy ít luận bàn về bản tính con người, nhưng Khổng tử đã đưa ra những luận
điểm rất quan trọng này là cơ sở để học trò của ông tiếp tục kế thừa và phát triển.
Cho dù Khổng tử chưa nói bản tính của con người là ác hay là thiện một cách rõ
ràng, nhưng ngay từ đầu, Khổng tử đã khẳng định rằng: “Bản tính con người là gần
nhau”. “Gần nhau”, có nghĩa là ở con người phải có một điểm chung nào đó. Theo
Khổng tử, cái chung ấy chính là bản chất ngay thật của con người. Đó là cái nguyên

sơ, chất phát, mộc mạc, tự nhiên như trời sinh ra vậy. Cái bản tính ấy đang còn ngây
thơ, trong trắng, chưa bị hoen ố bởi vật dục và sự tác động của ngoại cảnh. Theo
Khổng tử, chỉ đến khi con người bị chi phối, ràng buộc bởi những ham muốn, dục
vọng và bởi những ảnh hưởng, những tác động của ngoại cảnh, đến khi xã hội phân
chia thành giai cấp thì cái tính người ấy mới tha hoá và làm cho con người dần dần
“xa nhau” . Về vấn đề này, Khổng tử muốn nhấn mạnh vai trò tu dưỡng đạo đức và
ảnh hưởng hoàn cảnh xã hội đối với sự thay đổi bản tính con người. Ông cũng cho
rằng, “bản tính con người” là do trời phú cho con người, cho nên cái bản tính ấy là
chung cho cả loài người, là cái phân biệt giữa con người với các sinh vật khác. Bản
tính con người lúc mới sinh ra, khi chưa bị tác động bởi các yếu tố ngoại cảnh thì
“gần nhau”, giống nhau chứ không phải “Bản tính trí năng được phú bẩm của người
ta có khác nhau” [40, tr.11].
Tiếp thu tư tưởng trên đây của Khổng tử, Mạnh tử đã đưa ra học thuyết về
“tính thiện”. Về vấn đề này, trong chương Li lâu sách Mạnh Tử có câu: “Nhân chi
sở dĩ dị vu cầm thú giả, cơ hĩ” [27, tr.1073] (nghĩa là loài người sở dĩ khác cầm thú
chỉ có mảy may mà thôi, mà chỗ giống nhau thì nhiều). Chỗ khác, cũng trong sách



Mạnh tử, ông khẳng định rằng, con người được ăn no mặc ấm, nhàn dỗi mà lại
không được dạy dỗ thì chẳng khác cầm thú là bao.
Như vậy, ông cũng nhận rằng con người có chỗ bất thiện và cũng có chỗ
thiện. Theo ông, chỗ bất thiện đó là phần ti tiểu, đáng khinh; còn chỗ thiện mới là
phần đại cao, đại quý: “Trong con người có phần quý trọng, có phần bỉ tiện, có phần
cao đại, có phần ti tiểu. Đừng săn sóc cái phần ti tiểu mà làm hại cái phần cao đại,
đừng lo cho phần bỉ tiện mà làm hại phần quý trọng. Nuôi dưỡng cái phần ti tiểu thì
thành tiểu nhân; nuôi dưỡng cái phần cao đại thì thành đại nhân (tức người có
đức)… Kẻ nào chỉ coi việc ăn với uống thì bị coi là đê tiện vì kẻ đó chỉ nuôi cái
phần ti tiểu mà làm mất cái phần cao đại” (Thể hữu quý tiện, hữu tiểu đại. Vô dĩ
tiểu đại đại, vô dĩ tiện hại quý. Dưỡng kỳ tiểu giả vi tiểu nhân, dưỡng kỳ đại giả vi

đại nhân…Ẩm thực chi nhân, tắc nhân, tiện chi hĩ, vị kỳ dưỡng tiểu dĩ thất địa dã)
[27, tr.1228].
Mạnh tử cho rằng: “Chỉ cái phần thiện, cái phần quý, đại, cái phần nó phân
biệt ta với cầm thú thì không gọi là tính được; vì nếu sinh ra mà gọi là tính…thì tính
của con chó cũng như tính của con trâu, mà tính của con trâu cũng như tính của con
người ư?” [27, tr.1195].
Tính là cái chung cho cả một loài, mà loài người có nhiều điểm giống nhau:
“Miệng nếm vị ngon thì ai cũng thích như nhau, tai nghe thanh âm du dương thì ai
cũng thích như nhau, mắt trông sắc đẹp thì ai cũng thấy đẹp như nhau, riêng về cái
tâm thì lại không giống nhau sao? Cái tâm giống nhau ở đâu ? Ở chỗ ai cũng trọng
lý và nghĩa. Thánh nhân là người trước ta đã thấy cái chỗ giống nhau của ta, cho
nên lý nghĩa làm cho lòng ta thích, cũng như thịt loài ăn cỏ, ăn lúa làm cho miệng ta
thích vậy” [27, tr.1210-1211]. Hễ đồng loại với nhau thì nêu những điểm giống
nhau, mà mình đồng loại với thánh nhân thì cái tính mình phải là cái tính, của thánh
nhân, nghĩa là chỉ cái phần thiện trong bản tính loài người mà gọi là tính thôi.
Để cho thấy rõ rằng bất kỳ ai cũng có cái mầm thiện sẵn trong lòng, Mạnh tử
đã đưa ra những bằng chứng cụ thể này, mà triết học Trung Hoa gọi là “tứ đoan
thuyết” (thuyết bốn mối): “Người ta ai cũng có lòng thương người…Sở dĩ tôi bảo
người ta ai cũng có lòng thương người, chứng cứ là ở đây: giá thình lình thấy đứa



nhỏ sắp ngã xuống giếng thì ai cũng có lòng bồn chồn thương xót. Bồn chồn thương
xót không phải là muốn cầu thân với cha mẹ đứa nhỏ, không phải là mong tiếng
khen của làng xóm bạn bè, cũng không phải là sợ người ta chê cười” (Nhân giai hữu
bất nhẫn nhân tri tâm… Sở dĩ vị nhân giai hữu bất nhẫn chi tâm giả, kim nhân sạ
kiến nhụ tử tương nhập ư tỉnh, giai hữu truật dịch trắc ẩn tri tâm; phi sở dĩ nạp giao
ư nhụ tử tri phụ mẫu dã; phi sở dĩ yêu ư hương đảng bằng hữu dã: phi ố kỳ thanh
nhi nhiên dã) [27, tr.861-862].
Mạnh tử rất đề cao vai trò của “tứ thiện đoan”, đây là những đầu mối quan

trọng hình thành “tứ thiện đức” của con người. Ông nói: “Xem như vậy, không có
lòng trắc ẩn thương xót thì không phải là người; không có lòng tu ố (thẹn, ghét) thì
không phải là người; không có lòng từ nhượng (kính, nhường) thì không phải là
người; không có lòng thị phi (biết phải, biết trái) thì không phải là người. Lòng trắc
ẩn là đầu mối của nhân, lòng tu ố là đầu mối của nghĩa, lòng từ nhượng là đầu mối
của lễ, lòng thị phi là đầu mối của trí. Người ta có bốn mối đó như là có tứ thể (tứ
chi) vậy. Có bốn mối ấy mà bảo không sửa mình được là tại mình hại mình”. (Do
thị quan chi, vô trắc ẩn tri tâm, phi nhân dã; vô tu ố tri tâm, phi nhân dã: vô tư
nhượng tri tâm vô nhân dã: vô thị phi tri tâm, phi nhân dã. Trắc ẩn tri tâm, nhân tri
đoan dã; tu ố tri tâm, nghĩa tri đoan dã; từ nhượng tri tâm, lễ tri đoan dã; thị phi tri
tâm, trí tri đoan dã Nhân tri hữu thị tứ đoan dã, do kỳ hữu tứ thể dã. Hữu thị tứ đoan
nhi tự vi bất năng dã, tự tặc dã) [27, tr.861-862].
Bốn cái đức đó: nhân, nghĩa, lễ, trí chính là cái làm cho con người khác cầm
thú. Nó chỉ mới manh nha ở trong lòng con người cho nên con người chỉ khác cầm
thú có “một chút” là vậy. Nó là cái lương tâm, cái khả năng làm được điều thiện.
Biết nuôi dưỡng cái lương tâm thì thành bậc thánh nhân, còn không biết nuôi nó mà
để nó suy tàn đến mất đi thì biến thành cầm thú. Theo Mạnh tử, lương tâm cũng tựa
như mầm non, mà hành động bất nhân tựa như búa rìu. Ngày nào cũng làm điều ác
thì lương tâm phải mất đi, cũng như ngày nào cũng chặt đẽo thì mầm non phải chết.
Lúc đó con người sẽ không khác cầm thú là mấy.
Có thể khẳng định rằng, thuyết tính thiện của Mạnh tử đã xuất hiện trong
cuộc tranh luận với Cáo tử về vấn đề bản tính con người. Do đó, nói đến Mạnh tử



không thể không nói đến Cáo tử. Cáo tử chủ trương rằng: tính người không thiện,
cũng không ác, giống như dòng nước chẳng nhất định chảy về đâu, hãy phía nào
thông thì nó chảy về phía đó. Bác lại điều này, Mạnh tử khẳng định rằng, tính người
là thiện, cũng giống như tính của nước nhất định sẽ chảy xuống chỗ thấp. Ông viết:
“Cái bản tính của người ta vốn thiện, ấy cũng như bản tính của nước là dồn xuống

phía dưới thấp vậy. Không có một người nào sinh ra mà tự nhiên bất thiện, cũng
như thế, không có một thứ nước nào chẳng chảy xuống chỗ thấp”. (Nhân tính chi
thiện giã, du thủy chi tựu hạ giã. Nhân vô hữu bất thiện, thủy vô hữu bất hạ) [27,
tr.1193]. Theo ông, tính thiện là cái bản chất cố hữu, vốn có của con người, nhưng
nó không phải là bất biến, không thay đổi. Theo ông, sự tác động của ngoại cảnh có
thể làm cho con người đánh mất tính thiện của mình, và đó chính là mầm mống để
nảy sinh điều bất thiện. Nhưng xu hướng của con người là vươn tới điều thiện, từ bỏ
điều bất thiện, cũng giống như dòng nước bị chặn lại phải dâng lên, nhưng xu
hướng vẫn là chảy xuống chỗ thấp. Trong xã hội có giai cấp, nếu nhà cầm quyền thi
hành một đường lối chính trị bạo ngược, hà khắc, dồn người dân đến cảnh cùng
quẫn thì ở họ có thể nảy sinh tính bất thiện. Để tìm lại tính thiện của mình họ phải
đấu tranh lật đổ sự thống trị ấy. Quan niệm này của Mạnh tử là một lời cảnh báo
cho giai cấp thống trị đương thời.
Như trên đã trình bày, Mạnh tử cho rằng, bản tính của con người là thiện và
con người có tứ thiện tâm: lòng thương xót mọi người; biết hổ thẹn để xoá bỏ
những điều sai trái; kính trọng người trên nhường nhịn kẻ dưới; biết nhận ra điều
phải trái. Tuy nhiên, Mạnh tử nhìn nhận trong mỗi một con người cũng có phần tốt
mà cũng có phần xấu, nhưng ông chỉ gọi cái phần tốt là tính người thôi, vì chỉ cái đó
mới phân biệt được con người với loài vật. Mà cái phần tốt ai cũng có, vì ai cũng có
lòng trắc ẩn, lòng tu ố, lòng từ nhượng, lòng thị phi, những đầu mối của nhân,
nghĩa, lễ, trí. Vậy, giáo dục cần khuếch sung bốn cái mối đó, phần tốt mà phát triển
thì phần xấu sẽ lùi đi và con người sẽ ngày càng xa cầm thú mà gần với bậc thánh
nhân. Thuyết tính thiện của ông là vậy. Cái chủ định của thuyết ấy là coi trọng và
đề cao việc tồn tâm, dưỡng tính thiện của con người.



Đến Tuân tử, trước thực xã hội hết sức rối ren lúc bấy giờ, từ chỗ hoài nghi
ông đã phản đối thuyết tính thiện của Mạnh tử. Tuân tử cho rằng, bản tính con
người vốn là ác. Xuất phát từ nhu cầu phổ biến là thoả mãn những bản năng sinh vật

của con người, ông xây dựng thuyết “Tính ác” của mình. Tuân tử không cho rằng
tính người là do trời phú cho con người, nhưng lại cho rằng, tính là cái mà con
người sinh ra đã có. Tuân tử nói rằng “không học được không thể làm được. Ở
người ta sẵn có, gọi là tính” (bất khả học, bất khả sự. Nhi tại nhân giả, vị chi tính)
[56, tr.365]. Quan niệm về tính người của Tuân tử khác với Mạnh tử. Nếu Mạnh tử
coi tính người là thiên lý, do trời phú cho con người, thì Tuân tử lại nói đến cái tính
khí chất của con người, coi cái hoà khí tự nhiên của họ sinh ra. Đó là nguyên nhân
dẫn tới sự khác nhau, đối lập nhau trong học thuyết tính người của họ.
Từ quan điểm chung về tính đó, Tuân tử còn chỉ ra nguyên nhân của tính ác.
Theo ông, sở dĩ bản tính con người là ác bởi vì con người sinh ra đã có sự hám lợi,
sự đố kỵ, sự thèm muốn của tai mắt, sự yêu âm thanh và sắc đẹp vv… Để thoả mãn
những nhu cầu ấy, theo ông, tất yếu sẽ nẩy sinh sự tranh giành, tàn tặc, dâm loạn, bỏ
mất lễ, nghĩa, từ nhượng, trung tín. Muốn khắc phục tình trạng ấy, Tuân tử cho
rằng: “Phải có sự hoà hợp của pháp sự, đạo của lễ, nghĩa rồi sau mới đẻ ra từ
nhượng hoàn toàn ở văn minh, nghĩa lý mà quay về với sự yên trị” [56, tr.367]. Ông
chỉ ra cái bản năng của con người: “đói thì muốn no, rét thì muốn ấm, mệt thì muốn
nghỉ ngơi” [56, tr.367]. Luận theo tính ấy thì khác với lễ nghĩa, từ đó ông kết luận
“Tính người ta là ác rõ rệt” [56, tr.367].
Khác với Mạnh tử và Tuân tử, Cáo tử khẳng định rằng, tính ban đầu của con
người không thiện cũng không ác, mà chỉ là cái gì đó mộc mạc, ngây thơ giống như
tờ giấy trắng vậy. Ông ví tính người với nước chảy: “Tính người ta như dòng nước
chảy mạnh, khơi cho nó qua phương Đông thì nó chảy qua Đông, khơi nó qua
phương Tây thì nó chảy qua Tây; tính người không phân biệt được thiện với bất
thiện cũng như tính nước không phân biệt được Đông với Tây” (Tính do thoan thuỷ
dã. Quyết chư Đông phương, tắc đông lưu; quyết chư tây phương, tắc tây lưu. Nhân
tính chi vô phân ư thiện, bất thiện dã, do thuỷ chi vô phân ư Đông Tây dã) [27,
tr.1193]. Cáo tử còn quan niệm rằng, tính người như cây mây, điều nhân nghĩa như




cái chén, cái bát. Đem tính người ra làm điều nhân nghĩa thì cũng giống như dùng
cây mây mà làm. Mạnh tử phản bác lại điều đó và lý luận rằng: Theo Cáo tử người
ta muốn làm cái chén, cái bát thì người ta phải đốn phá, chặt khúc, bẻ uốn, đẽo bào
cây mây. Cũng như vậy muốn làm điều nhân nghĩa, người ta phải đốn phá, chặt
khúc cái nhân tính của mình, nghĩa là phải hủy hoại cái nhân tính của mình. Nói
cách khác, để làm điều nhân nghĩa người ta lại phải huỷ hoại cái bản tính thiện của
mình. Đó là điều nghịch lý, phi lý. Chính vì vậy mà Mạnh tử đã nói với Cáo tử
rằng: “Lý thuyết của người chỉ khiến cho mọi người trong thiên hạ đều sợ mà xa
lánh điều nhân, điều nghĩa đó thôi” (Suất thiên hạ chi nhân, nhi hoạ nhân nghĩa giả,
tất tử chi ngôn phù) [27, tr.1191-1192]. Tuy Cáo tử nói rằng tính người không thiện,
không ác, nhưng ông lại quan niệm: “Sinh sống là tính” (Sinh chi vị tính), “ăn uống
và ưa sắc đẹp là tính” (Thực sắc tính giã) [27, tr.1197]. Nghĩa là, Cáo tử đã đồng
nhất tính người với đời sống sinh hoạt tự nhiên, với những sinh hoạt bản năng của
con người. Vì vậy, không thể nói rằng “Cáo tử nhận nhân tính như một tờ giấy
trắng, muốn viết đen ra đen, đỏ ra đỏ” được. Tờ giấy ấy (tức nhân tính) ít nhiều đã
có những nội dung của nó. Mặt khác, cũng không thể nhận định rằng, Cáo tử muốn
nói đến bản chất xã hội của con người, tất cả các câu nói của ông không thấy đề cập
tới lĩnh vực đó. Ngược lại, ông chỉ nói tới nhu cầu bản năng sinh học của con người
như sinh sống, ăn uống, sắc đẹp…mà thôi. Theo chúng tôi, quan niệm về bản tính
con người của Cáo tử được thể hiện ở hai phương diện: Trên phương diện đạo đức,
ông coi tính người là không thiện, không ác, sinh ra đã như vậy rồi. Trên phương
diện sinh học, ông coi tính người bao gồm những nhu cầu bản năng của con người,
được nảy sinh trong đời sống hiện thực của họ. Ở phương diện này, tư tưởng của
Cáo tử đã ít nhiều chứa đựng tính chất duy vật, mộc mạc, sơ khai.
Khi luận giải về tính người, Khổng - Mạnh đều thừa nhận khả năng con
người có thể thay đổi được tính thông qua việc tu dưỡng, giáo dục và sự tác động
của xã hội. Vì vậy, sự giáo hoá, tu dưỡng là yếu tố không thể thiếu được để xây
dựng và hoàn thiện con người, để giữ gìn và phát huy cái tính thiện, đồng thời để
loại trừ cái tính ác và hành động ác của con người.
1.2.1.2. Quan niệm của Khổng - Mạnh về vai trò của con người




Quan niệm về bản tính con người trong tư tưởng Khổng - Mạnh, là cơ sở của
quan niệm về vai trò của con người - nội dung chủ yếu, cơ bản nhất trong quan
điểm của Nho giáo Khổng - Mạnh về con người. Khi đề cập đến vấn đề vai trò của
con người, Khổng - Mạnh cũng đặt con người trong mối quan hệ với thế giới (trời
đất, vạn vật) và với xã hội (con người với con người, con người với xã hội).
Cũng như nhiều học thuyết khác, triết học Nho giáo Khổng - Mạnh đã nhìn
nhận thế giới, vạn vật như một chỉnh thể thống nhất, trong đó vũ trụ, trời đất, vạn
vật, con người luôn tồn tại trong mối liên hệ, quan hệ tương hỗ với nhau. Tuy nhiên,
từ trong sách Luận ngữ, sách Mạnh tử và trong nhiều công trình nghiên cứu về Nho
giáo đã cho thấy, trong những mối quan hệ đó, Nho giáo Khổng - Mạnh chủ yếu đề
cập đến hai mối quan hệ cơ bản: mối quan hệ giữa con người với trời đất và mối
quan hệ giữa con người với con người và với xã hội.
Thứ nhất, về vai trò của con người trong mối quan hệ với trời đất, vạn vật.
Khi luận bàn về vai trò của con người đối với trời, đất, vạn vật, Khổng tử,
Mạnh tử (cũng như nhiều nhà Nho sau này) cho rằng, con người có thể sánh ngang
với trời đất, và cùng với trời đất hoá sinh ra vạn vật. Tuy nhiên, để đạt được điều
đó, con người phải suy nghĩ và hành động đúng với “mệnh trời”, “đạo trời”, phải
thờ trời, kính trời, phải có đạo đức nhân, nghĩa lễ trí, tín mà trời phú cho con người.
Có nghĩa là trong tư tưởng Khổng tử và Mạnh tử, vai trò của con người đối với vạn
vật chỉ có thể thực hiện và được thừa nhận là chủ yếu phải dựa vào trời, phục tùng
quyền uy tối cao của trời. Mặc dù coi vũ trụ và vạn vật đều có nguồn gốc từ trời và
cùng trời đất là một thể, nhưng Khổng tử và Mạnh tử ít đề cập tới mối quan hệ giữa
người với tự nhiên mà chỉ coi con người là bộ phận cao nhất và đứng lên trên vạn
vật.
Nho giáo Khổng - Mạnh cho rằng, trời là nguồn gốc, có vị trí đặc biệt quan
trọng đối với con người. Điều đó thì trong Kinh Thi, Kinh Lễ đã thể hiện rất rõ bằng
những mệnh đề như: “Vạn vật gốc ở trời” (Kinh Lễ), “Trời sinh ra người…thì người

phải lấy Trời làm gốc” (Kinh Thi). Điều quan trọng hơn, theo các ông, đó còn là cơ



sở xuất phát để định rõ vị trí, vai trò của trời đối với con người, vai trò cũng như
thái độ, nghĩa vụ của con người đối với trời.
Khi bàn về trời và vai trò của trời đối với con người, xã hội, Khổng tử và
Mạnh tử đã cho rằng, trời có đức, có đạo, có mệnh. Chính vì vậy mà trời là chúa tể
sinh ra tất cả, thống trị tất cả, quyết định tất cả trong càn khôn, vũ trụ, con người.
Đạo trời (thiên đạo) là thiên đức sinh ra, nuôi dưỡng vạn vật, con người. Đức của
trời (thiên đức) thể hiện ở sự bao dung tất cả mọi đức nhỏ, đức lớn của các muôn
vật, muôn loài, muôn người. Như vậy, cái đức của trời như sách Trung dung viết:
“Đức nhỏ thì sông suối chảy tuôn; đức lớn thì đôn hậu hoá dục muôn vật. Đó là
duyên cớ khiến Trời Đất là lớn vậy” [62, tr.166].
Đạo của trời là sự thể hiện cái đức của trời trong sự sinh ra và biến hoá của
muôn vật, muôn loài. Sách Trung dung đã chỉ rõ: Lớn thay, Đạo của thánh nhân !
Mênh mông vô bờ, phát dục muôn vật. Cao vút tận trời cao. Đầy đủ mà dồi dào
thay, cương yếu lớn của Lễ (Lễ - nghi) có ba trăm điều. Quy tắc chi tiết của Lễ có
ba nghìn điều, đang chờ đợi bậc hiền nhân chân chính để được thi hành [62, tr.158].
Cái “đạo” ấy của trời còn bao gồm sự biến hoá qua lại ở trong khắp vũ trụ,
trời đất. Con người nếu dựa vào nguyên lý “thiên địa vạn vật nhất thể” thì có thể
biết được cái “đạo” ấy tồn tại, biến hoá ở khắp mọi nơi, ở trong muôn vật, muôn
loài.
Mệnh của trời là quyền uy, là thể hiện vai trò của trời đối với vạn vật, muôn
loài trong sự sinh thành, biến đổi, mất đi của mỗi loài. Theo đó, cái tính, cái đức của
con người, việc con người trở thành thiện nhân, cả sự sang – hèn, sinh - tử, giàu –
nghèo,… của con người, của mỗi người đều là mệnh trời, do mệnh trời và vì vậy
con người không thể cưỡng lại được. Khổng - Mạnh còn cho rằng, vì trời là đấng
“trí tôn”, là chúa tể tối thượng, nên quyền uy của trời, mệnh trời là tuyệt đối. Vì vậy
mà đối với loài người, đối với mỗi người: “tri thiên mệnh” (biết mệnh trời) là một

điều rất quan trọng, liên quan đến vận mệnh của con người. Khổng tử đã từng chỉ
rõ, một trong những tiêu chuẩn cơ bản của người quân tử là phải biết “mệnh trời”.
Ông nói: “Bất tri Mạng vô dĩ vi quân tử dã” (không biết Mệnh Trời thì không thể



làm người quân tử được) [8, tr.36]. Tất nhiên, theo ông, biết mệnh trời rồi thì phải
sợ mệnh trời và việc “sợ mệnh trời” hay không là một trong những tiêu chuẩn cơ
bản để phân biệt quân tử (người có đạo đức, kẻ thống trị) với tiểu nhân (không có
đạo đức, người bị trị). Như ông nói: “Người quân tử có ba điều kính sợ, sợ Mệnh
Trời, sợ bậc đại nhân, sợ lời dạy của Thánh nhân. Kẻ tiểu nhân không biết mệnh trời
nên không sợ, khinh nhờn bậc đại nhân; coi thường lời dạy của Thánh nhân” [62,
tr.512].
Trong quan niệm của Khổng tử và Mạnh tử (cũng như nhiều nhà Nho sau
này) khi con người đã hiểu mệnh trời rồi thì điều cơ bản là con người không được
làm trái mệnh trời, mà phải hành động suy nghĩ theo đúng đạo trời, mệnh trời. Bởi
nếu không như vậy, sẽ mắc tội với trời và sẽ bị trời trừng phạt.
Trời có đức, có đạo, có mệnh như vậy, con người cứ như thế mà bằng lòng
để thi hành cái đạo của mình sao cho phù hợp với cái đạo, cái mệnh của trời, không
được oán trách cái chưa được hoặc đã mất, không được mong gì thêm ngoài những
cái đã và đang có. Sách Trung dung đã chỉ rõ điều này: “Người quân tử căn cứ vào
địa vị hiện tại của mình mà hành động, không ham cái ở ngoài bổn phận của mình.
Ở vào địa vị giàu sang, thì làm theo cách giàu sang; ở vào địa vị nghèo hèn, thì làm
theo cách nghèo hèn; ở vào địa vị di địch thì làm theo cách của di địch; ở vào cảnh
hoạn nạn, thì làm theo cách của người trong hoạn nạn. Quân tử dù ở vào trong cảnh
nào cũng tự tìm thấy niềm vui của mình” [62, tr.118].
Như vậy, trong quan niệm của Nho giáo Khổng - Mạnh, trời có vị trí đặc biệt
quan trọng, trời không những sinh trưởng ra muôn vật, mà còn sinh ra con người.
Mệnh trời có vai trò quyết định đến sự sinh tồn của con người, ảnh hưởng trực tiếp
đến vận mệnh của con người. Vai trò của con người trước trời là phải hiểu mệnh

trời, để từ đó thực hiện theo mệnh trời một cách vô điều kiện, nếu không trời sẽ
trừng phạt nghiêm khắc. Với việc nhìn nhận về vai trò của con người như vậy, Nho
giáo Khổng - Mạnh chỉ nhìn nhận con người như một lực lượng, một thực thể thụ
động trước trời đất, tự nhiên và cũng tất yếu là, khi xem xét mối quan hệ giữa con
người với trời đất, Nho giáo Khổng - Mạnh đã đứng trên lập trường duy tâm .

×