Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

tiểu luận cao học môn KINH TE TRUYEN THONG toàn cầu hóa và sự ra đời tất yếu của kinh tế truyền thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.87 KB, 13 trang )

MỞ ĐẦU
Chúng ta đã bước sang thế kỉ XXI. Đây là thời kỳ mà các quan hệ quốc tế
đã phát triển tới mức không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù thuộc hệ
thống kinh tế xã hội nào có thể tồn tại và phát triển mà khơng chịu sự tác động
ấy. Đây cũng là thời kỳ diễn ra quá trình biến đổi từ một nền kinh tế thế giới
bao gồm nhiều nền kinh tế quốc gia sang nền kinh tế toàn cầu, từ sự phát triển
kinh tế theo chiều rộng sang phát triển kinh tế theo chiều sâu. Những thành tựu
khoa học và công nghệ đã cho thấy loài người đang quá độ từ nền sản xuất vật
chất sang nền sản xuất tinh thần –cơ sở vật chất của xã hội tương lai.
Tồn cầu hóa và sự ra đời tất yếu của kinh tế truyền thông
Sự tiến bộ về cơng nghiệp và q trình tồn cầu hóa các thị trường
truyền thông đã tạo nên sự thay đổi văn hóa của các quốc gia, dân tộc. Tồn
cầu hóa về truyền thơng góp phần dân chủ hóa về tri thức và kinh nghiệm,
chia sẻ thơng tin, kích thích sự tìm tòi, học hỏi, trao đổi kỹ năng và kinh
nghiệm trong sản xuất và quản lý xã hội, mở rộng tầm nhìn tồn cầu, tăng
cường nguồn lực tri thức và văn hóa cho cá nhân và cộng đồng ở tất cả các
dân tộc, các quốc gia. Tồn cầu hóa truyền thơng đồng thời kích thích tính
năng động, sáng tạo của các lĩnh vực truyền thông của mỗi quốc gia, thông
qua việc chia sẻ về công nghệ, đầu tư, kinh nghiệm trong tổ chức sản xuất và
dịch vụ truyền thơng, góp phần tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sự tiến bộ văn
hóa - xã hội.
Trong tiến trình tồn cầu hóa, hội nhập kinh tế thế giới, nước ta cũng
chịu ảnh hưởng bởi các xu hướng có tính tồn cầu, đó là xu hướng quốc tế
hóa nền kinh tế thế giới, xu hướng nền kinh tế thế giới có sự thay đổi về chất
với nền tảng là nền văn minh hậu công nghiệp, xu hướng cải tổ và đổi mới
nền kinh tế thế giới. Do sự tác động của các yếu tố như cách mạng khoa học
và công nghệ, sự phân công lao động quốc tế, vai trò và tầm hoạt động mới
của các cơng ty xun quốc gia nên q trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới
ngày nay càng phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng lẫn chiều sâu trên hai cấp độ
1



tồn cầu hố và khu vực hố, đã đưa đến sự chuyển biến nhanh chóng của thể
chế kinh tế thế giới, đưa nền kinh tế trên bước vào thời kỳ cạnh tranh tồn cầu
bên cạnh sự đẩy mạnh tìm kiếm hợp tác trong cạnh tranh. Các ngành kinh tế
mới ra đời, có vai trị kết nối nhiều lĩnh vực kinh tế khác, đóng góp vào tỉ
trọng kinh tế của quốc gia, điển hình là kinh tế truyền thơng.
Trong những thập kỷ vừa qua, do sức ép cạnh tranh của thị trường rộng
lớn được tạo ra bởi sự tập trung tích tụ tư bản cùng với sự phát triển của khoa
học kỹ thuật và công nghệ, đã dẫn tới sự ra đời của nhiều tập đồn truyền
thơng khổng lồ có khả năng chi phối nhiều hoạt động trong lĩnh vực truyền
thông đại chúng trên phạm vi quốc gia, khu vực và tồn cầu. Đó là những
hãng thơng tấn UPI, AP ở Mỹ, BBC, Reuter ở Anh, AFP ở Pháp…
Vậy tại sao truyền thông các nước Anh, Mỹ, Pháp … lại phát triển mạnh
mẽ? Lý do chính là họ coi truyền thơng như một ngành kinh tế mũi nhọn, hay
nói một cách khác các nước này đã xây dựng thành công nền kinh tế truyền
thông. Đối với nhiều quốc gia, truyền thông không chỉ dừng lại ở mức độ
phục vụ nhu cầu thơng tin, giải trí của cơng chúng mà nó cịn được coi là một
ngành kinh tế, thậm chí là ngành kinh tế mũi nhọn... vì đó là một lĩnh vực
kinh tế mới, chỉ có điều sản phẩm của truyền thơng là sản phẩm hàng hóa đặc
biệt khơng giống như các hàng hóa bình thường khác. Sản phẩm của truyền
thơng cũng được coi là hàng hóa mua đi bán lại giữa các tập đoàn và của tập
đoàn với độc giả. Nguồn thu lớn nhất của nhà nước, chủ yếu là thuế. Truyền
thông đã mang lại cho nhà nước nguồn thuế rất lớn.
Trong q trình tồn cầu kẻ mạnh thu được nhiều lợi ích hơn cịn người
yếu dễ bị thua thiệt. Những quốc gia có tiềm lực lớn, có điều kiện thuận lợi
trong cạnh tranh quốc tế sẽ tìm cách khai thác q trình tồn cầu hố và cài
đặt lợi ích của họ. Các quốc gia phát triển chậm hơn không thể bị động theo
sau, cũng khơng thể tham gia q trình tồn cầu hố một cách bị động và vơ
vọng được. Cũng giống như các ngành kinh tế khác, kinh tế truyền thơng
cũng chịu những tác động tích cực và tiêu cực của q trình tồn cầu hóa.

2


Tiềm năng của kinh tế truyền thông Việt Nam
Theo đánh giá của bà Marie Ottosson - trung tâm báo chí Thụy Điển,
trong thập kỷ qua, diện mạo lĩnh vực truyền thơng Việt Nam đã và đang thay
đổi nhanh chóng, bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới, thể hiện ở việc
những tờ báo có sự phát triển tốt đã trở thành những tập đồn truyền thơng, đa
dạng hóa các loại hình báo chí nhờ sự phát triển của công nghệ đa phương
tiện và tăng trưởng kinh tế. Người dân Việt Nam đã có nhiều sự lựa chọn hơn,
từ dịch vụ truyền hình cáp, truyền hình số vệ tinh, số lượng tờ báo điện tử đã
tăng gấp 3 lần trong 5 năm qua, blog và các dịch vụ mạng xã hội trở thành
một kênh thông tin quan trọng trong cuộc sống thường nhật, đặc biệt là đối
với các bạn trẻ. Lĩnh vực truyền thông Việt Nam từng bước tiến lên tiêu chí
của báo chí chuyên nghiệp với ngày càng nhiều hơn những bài phóng sự điều
tra và trở thành một phương tiện của cơng chúng chứ khơng cịn đơn thuần là
cơng cụ tun truyền của chính phủ. Truyền thơng đã khiến các nhà chức
trách, chính quyền phải có trách nhiệm hơn với hành động của mình; qua đó
đóng góp vào sự phát triển của một xã hội minh bạch. Cơng nghệ mới và sự
tiếp cận với các loại hình truyền thơng hiện đại cũng giúp cho truyền thơng có
vai trò lớn hơn trong việc truyền tải ý kiến phản hồi của công chúng và tham
gia vào những cuộc phản biện xã hội.
Bà Ottosson đánh giá rằng, sự phát triển nhanh chóng của lĩnh vực
truyền thơng ở Việt Nam và sự manh nha ra đời của các tập đoàn truyền thông
cho thấy lĩnh vực này đang ngày càng độc lập về tài chính và hoạt động tự
chủ hơn. Trong khi đó, các văn bản quy phạm pháp luật và chính sách của
chính phủ đã theo kịp sự phát triển của lĩnh vực truyền thơng cũng như tính
trách nhiệm của các tổng biên tập, nhà báo được phát triển lên mức độ chuyên
nghiệp; trở thành động lực mạnh mẽ trong việc thúc đẩy dân chủ, tự do ngôn
luận và tôn trọng quyền con người.

Tồn cầu hóa tạo ra thời cơ và thách thức cho các nền kinh tế của các
quốc gia. Kinh tế truyền thông là một ngành kinh tế kỹ thuật, vì vậy nó cũng
3


nhận được những thuận lợi và cả những thách thức mà tiến trình tồn cầu hóa
mang lại. Ở nước ta, tuy rằng truyền thông chưa phải là một ngành kinh tế
phát triển, nhưng như các chuyên gia đánh giá, các tập đồn truyền thơng Việt
Nam đang có hướng đi riêng mang tính tự chủ, độc lập về tài chính, đang có
nhiều hứa hẹn trong tương lai.
Tính hai mặt của tồn cầu hóa với kinh tế truyền thơng Việt Nam
Về thời cơ: Tồn cầu hóa diễn ra cả về chiều rộng và chiều sâu, ranh giới
giữa các quốc gia xóa nhịa, hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực gia tăng. Sự
chuyển biến về cơ cấu kinh tế thế giới tác động tới phân công lao động. Các
quốc gia trong quan hệ song phương, đa phương có cơ hội hợp tác trên nhiều
khía cạnh. Điển hình như sự trao đổi về kinh nghiệm sản xuất, đào tạo nhân
lực lao động, hỗ trợ thiết bị kỹ thuật hiện đại của nước phát triển dành cho
nước đang phát triển. Các trường đại học đào tạo báo chí hàng đầu trong nước
hàng năm ln có dự án liên kết đào tạo với các trường báo chí hàng đầu thế
giới, các khóa học nghiệp vụ ngắn ngày, ví dụ như Trung tâm đào tạo báo chí
FOJO Thụy điển, ĐH Đà Nẵng kết hợp liên kết đào tạo chuyên ngành quản trị
truyền thông với ĐH Stirling của Anh ; thiết bị kỹ thuật truyền hình hiện nay
của chúng ta đạt chuẩn quốc tế cũng nhờ sự hợp tác hỗ trợ từ bạn bè quốc tế.
Truyền hình An Viên AVG là đơn vị truyền hình duy nhất hiện nay đã đạt
chuẩn HD siêu nét do ứng dụng những công nghệ tiên tiến nhất thế giới và
đứng đầu châu Á trong việc sử dụng cơng nghệ truyền hình kỹ thuật số mặt
đất thế hệ 2 (DVB-T2), chuẩn nén Video MPEG4, mạng đơn tần SFN.
Hiện nay, các kênh trên truyền hình Cáp Việt Nam VCTV đều có sự liên
doanh, liên kết với đối tác bên ngoài về nguồn vốn đầu tư và nhân lực để sản
xuất được nhiều chương trình hay, hấp dẫn, thu hút được lượng rating cao trên

sóng truyền hình. Trong q trình hội nhập, thơng tin trở thành yếu tố sống
còn quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Cũng nhờ có thơng tin mà
thương hiệu các kênh truyền hình đã được phủ sóng rộng khắp. Đi kèm với nó
là quảng bá hình ảnh, văn hóa, ảnh hưởng chính trị, vị trí của cơng ty và quốc
4


gia mình trên thế giới. Ví dụ điển hình là văn hóa Mỹ đang có tầm ảnh hưởng
lớn đến văn hóa tồn cầu, chủ yếu qua con đường phim ảnh và báo chí.
Những cái tên đình đám của Mỹ như Jolie - Pit hay Britney Spears đã trở nên
phổ biến ở nhiều quốc gia… Đó là điều tất yếu của hội nhập, của tồn cầu hóa
và phương tiện để thực hiện điều này là truyền thông. Tại Châu Á, Hàn Quốc
là một quốc gia đang xây dựng thành công nền kinh tế truyền thông khi những
bộ phim ăn khách hay các ngôi sao điện ảnh ca nhạc của họ ngày càng trở nên
phổ biến. Họ sử dụng phim ảnh, sách báo để quảng cáo văn hóa của mình đến
các quốc gia khác trong khu vực. Lối sống mang tính « bắt chước thần
tượng » của giới trẻ Việt Nam hiện nay là minh chứng cho thấy văn hóa Hàn
Quốc, Nhật Bản đã ăn sâu vào tư tưởng một bộ phận giới trẻ như thế nào.
Trong khi sự ảnh hưởng từ văn hóa nước bạn đến nước ta q nhiều thì âm
hưởng hai tiếng Việt Nam trên thế giới chưa có tính sâu đậm, cái mà người
dân thế giới biết đến nhiều vẫn chỉ là sự khâm phục một đất nước nghèo đã
chiến thắng đế quốc trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ và « rũ bùn đứng
dậy sáng lịa » vươn lên sau bao đau thương mất mát. Còn những thành tựu
hiện tại, những tiềm năng về văn hóa du lịch, con người,… vẫn chưa được
khai thác đúng mức và quảng bá mạnh mẽ. Hay nói cách khác sức mạnh của
truyền thơng và các chiến dịch mang tính địn bẩy chỉ mang tính nhỏ giọt.
Chúng ta có các Đại sứ thiện chí là Hoa hậu, ngơi sao giải trí,… quảng bá
hình ảnh của Việt Nam ra thế giới nhưng hiệu quả vẫn còn hết sức nhỏ bé,
khiêm tốn. Mặc dù vậy, sự hỗ trợ về kinh tế, sự tư vấn của các chuyên gia
nước ngoài phối hợp với các cấp lãnh đạo hi vọng rằng sẽ từng bước thúc đẩy

truyền thơng phát triển hiệu quả, từ đó những yếu tố đi kèm mang tính văn
hóa, chính trị quốc gia sẽ dần dần tỏa sáng.
Hội nhập quốc tế tạo cơ hội cho một thị trường rộng lớn được hình
thành, cơ hội để tiêu thụ sản phẩm được sản xuất ra trong q trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khi hàng rào thuế quan rỡ bỏ, sản phẩm không chỉ
được tiêu thụ trong nội địa mà còn được phân phối ở thị trường nước ngoài
5


thuận lợi hơn. Các tập đồn truyền thơng sẽ có chiến dịch phân phối sản phẩm
truyền thông xuất khẩu nước ngồi. Vì sản phẩm truyền thơng là loại hàng
hóa đặc biệt nên có thể hiểu hàng hóa truyền thơng dưới dạng băng đĩa, sách
báo tạp chí, thu phát sóng các chương trình phát thanh, truyền hình, hoặc các
chương trình biểu diễn mang tính văn hóa được quảng bá, thực hiện ở nước
bạn. Chẳng hạn như các chương trình Cầu Truyền hình nhân sự kiện trọng
đại kỷ niệm quan hệ ngoại giao Việt – Lào, Việt – Nga, Việt – Hàn,… Trong
những năm vừa qua, quá trình xuất khẩu sản phẩm truyền thơng trong nước ra
nước ngồi cũng được tiến hành, tuy nhiên chưa tạo được thương hiệu lớn
trên thị trường truyền thơng quốc tế.
Bên cạnh đó, thị trường truyền thơng Việt Nam được các chuyên gia
nước ngoài đánh giá là thị trường có nhiều tiềm năng phát triển, vì vậy bên
cạnh việc xuất khẩu sản phẩm truyền thông, chúng ta cũng nhập khẩu sản
phẩm truyền thơng nước bạn đó là các sách báo, tạp chí nước ngồi, các ấn
phẩm băng đĩa, thu phát sóng chương trình truyền hình của các kênh truyền
hình nổi tiếng thế giới. Hiện nay, đài truyền hình Việt Nam đang phát sóng 75
kênh nước ngồi. Dễ nhận thấy, rất nhiều các chương trình truyền hình Việt
Nam hiện nay có dấu ấn phong cách hiện đại, ekip chuyên nghiệp, các
chương trình ngày càng hấp dẫn hơn, đặc biệt là các chương trình truyền hình
thực tế có sự cố vấn của chuyên gia nước ngoài. Vd : The Voice theo phiên
bản Mỹ, Viet Nam Idol, Sức sống mới trên vtv1, Các chương trình Phim tài

liệu theo phong cách truyền hình thực tế, Discovery Việt Nam. Kênh truyền
hình YanTv được nhiều khán giả trẻ yêu thích được thực hiện với sự hỗ trợ
của ekip nước ngoài,… Hay đơn giản là rất nhiều tờ báo, tạp chí, website có
thêm phiên bản tiếng Anh phục vụ độc giả quốc tế. Sự giao lưu, học hỏi từ các
bạn nước ngoài giúp truyền thông trong nước tiếp nhận về nhân lực, vật lực,
nguồn vốn đầu tư, công nghệ hiện đại, kỹ năng sản xuất chương trình, kỹ
năng quản lý dự án truyền thơng,… tất cả các yếu tố này được thực hiện ngày
6


một chuyên nghiệp hơn, có hiệu quả hơn về lợi nhuận cho chính doanh nghiệp
– tập đồn đó, và có hiệu ứng mạnh trong dư luận xã hội.
Bên cạnh một số yếu tố mang tính thời cơ do tác động của tồn cầu
hóa, các tập đồn truyền thơng Việt Nam phải đứng trước những thách thức
rất lớn đó là : tính cạnh tranh, vấn đề thương hiệu và cơ chế quản lý
Cạnh tranh là một trong những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế truyền
thông. Cạnh tranh khiến các tập đồn, cơng ty truyền thơng chú trọng đầu tư
vào chất lượng, hạ giá thành… làm sao để có thể thu hút được nhiều công
chúng. Cạnh tranh hiệu quả và lành mạnh phải dựa trên yếu tố mang tính
quyết định là tính chuyên nghiệp. Đây là xu hướng cần thiết để thiết lập và
phát triển kinh tế truyền thông ở mỗi quốc gia. Tính chun nghiệp khơng chỉ
có trong các cơng việc có quy mơ lớn, mức độ phức tạp cao mà phải thể hiện
ngay trong từng công việc nhỏ, hàng ngày. Mục đích của sự chuyên nghiệp là
nhằm tạo ra sự hoàn chỉnh, chất lượng, hiệu quả và tin cậy, những điều đó chỉ
có được khi tất cả các chi tiết dù là nhỏ nhất đều phải được thiết lập đồng bộ,
nhất quán, hợp lý. Sự thiếu chuyên nghiệp không chỉ ảnh hưởng đến hoạt
động công nghiệp truyền thông mà cả các quá trình phát triển kinh tế-xã hội
về lâu dài. Các nghiên cứu gần đây cũng đã chỉ ra rằng nhiều nhà quản lý
truyền thông tại Việt Nam luôn phàn nàn rất nhiều về sự thiếu chuyên nghiệp
trong nhiều hoạt động. Họ mong muốn làm nhiều việc nhưng ngay lập tức

phải đối mặt với một rào cản: thiếu nhân lực chuyên nghiệp.
Khi hàng rào thuế quan bị rỡ bỏ đồng nghĩa với việc tất cả các sản phẩm
truyền thông của tất cả các quốc gia sẽ đều được đem ra cân đo trong một bàn
cờ là thị trường quốc tế. Như trên đã nói, tồn cầu hóa sẽ giúp cho kẻ mạnh
phát huy lợi thế của mình cịn kẻ yếu hơn dễ bị thua thiệt. Sản phẩm của
chúng ta sẽ phải cạnh tranh với sản phẩm của nước bạn ngay trong chính thị
trường nội địa. Sản phẩm của Á, Âu, Mỹ xâm nhập vào thị trường Việt Nam
ngày càng mạnh và ảnh hưởng văn hóa ngoại lai rõ nét hơn trong những năm
gần đây, trong khi sản phẩm văn hóa của chúng ta ngày càng mờ nhạt, khơng
7


có sức bật để tạo ra sự định hướng mạnh mẽ trong nhận thức của người dân.
Người Việt Nam thuộc làu sử Trung Quốc chính nhờ những bộ phim cổ trang
của Trung Quốc được tuyên truyền hàng ngày trên sóng đài truyền hình quốc
gia và ngay cả trong chính các băng đĩa bán lậu bên ngồi. Giới trẻ khơng
thích mặc áo dài Việt Nam mà thích mặc trang phục váy áo, phục trang bắt
mắt có phần quái dị bởi ảnh hưởng từ phong cách các ngơi sao giải trí Hàn,
Nhật, Mỹ,… Dù muốn hay không chúng ta cũng phải thừa nhận, sản phẩm
truyền thông của nước bạn hấp dẫn, chất lượng, đẳng cấp, chuyên nghiệp,...
có sức thuyết phục cao trong khi đó các sản phẩm truyền thơng trong nước
cịn nhiều điều phải bàn về chất lượng. Ngay trong chính thị trường nội địa
cịn khơng lấn át được sản phẩm nhập khẩu, vậy thì làm sao đủ sức đề kháng
để chống đỡ rất nhiều những vấn đề khó khăn như luật, mơi trường văn hóa,
nhân lực, kỹ thuật, cách làm việc… khi bước vào thị trường quốc tế !? Khi đã
cạnh tranh, tất cả đều công bằng, mọi sản phẩm đều như nhau, khơng có
chuyện ưu tiên sản phẩm này khác, sân nhà cũng như sân khách, chỉ có một
thứ duy nhất quyết định thành bại là chất lượng sản phẩm, bên cạnh đó là kinh
nghiệm thương trường, nắm bắt thời cơ… Nếu hỏi rằng chất lượng sản phẩm
truyền thông Việt Nam đã đủ sức sánh ngang với sản phẩm truyền thơng quốc

tế chưa thì xin khẳng định rằng đây là điều rất khó khăn, có lẽ phải chờ thêm
một thời gian nữa bởi thị trường báo chí Việt Nam hiện nay phát triển chưa
đồng đều, chưa chuyên nghiệp, chưa đạt được yếu tố chất lượng đồng đều để
phục vụ khán giả trong nước. Muốn xuất khẩu phải cần thời gian để hồn
thiện. Chúng ta khơng thể xuất khẩu các sản phẩm báo chí cung cấp thơng tin
khơng chính xác, giật gân, câu khách, thiếu giá trị nhân văn cho độc giả nước
ngồi. Bởi nếu thế, vơ hình chung, độc giả quốc tế sẽ có cái nhìn sai lệch,
thiếu khách quan về nước ta. Đó cũng là cơ sở cho những kẻ có tư tưởng bài
xích chế độ, tận dụng cơ hội để lung lạc tinh thần, tung tin nhằm kích động
đồng bào trong và nước ngoài đánh mất niềm tin vào thể chế chính trị cũng
như nền văn hóa lâu bền của dân tộc.
8


Mơ hình tập đồn truyền thơng nước ngồi giúp cho các đơn vị báo chí
trong nước có cái nhìn tồn diện hơn về phương thức xây dựng tập đồn
truyền thơng trong bối cảnh tồn cầu hóa. Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son khẳng
định Việt Nam chưa có tập đồn truyền thơng tư nhân. Trong bối cảnh hội
nhập quốc tế, những yếu tố mang tính truyền thống từ bao lâu nay xét về khía
cạnh cơ chế, quản lý, luật pháp khơng cịn thích hợp, để dung hịa và phát
triển là bài tốn rất khó. Sau gần 7 năm thực hiện thí điểm mơ hình tập đồn
kinh tế, đến cuối năm 2011 vừa qua, Chính phủ đã tổ chức một hội nghị sơ kết
mơ hình tập đồn kinh tế Nhà nước nhằm chỉ ra việc làm được, chưa làm
được, mặt mạnh, mặt yếu của tập đoàn kinh tế. Hầu hết tập đoàn kinh tế Nhà
nước đều chiếm lĩnh vị trí thống lĩnh ở những ngành, lĩnh vực then chốt của
nền kinh tế. Thế nhưng, dư nợ vay ngân hàng của khối doanh nghiệp nhà
nước này cũng không hề nhỏ, tương đương 16,9% tổng dư nợ cả nước. Đáng
lưu ý là việc thành lập tập đồn kinh tế thí điểm trong thời gian qua đã vượt
quá trình độ, năng lực quản trị của bộ máy quản lý của một số tập đoàn, làm
hạn chế kết quả hoạt động của nhiều tập đoàn kinh tế Nhà nước nói chung và

quản lý, giám sát đối với các tập đồn kinh tế nói riêng. Bài học kinh nghiệm
xây dựng tập đoàn kinh tế nhà nước ở các lĩnh vực then chốt cho thấy việc
xây dựng và phát triển tập đoàn kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa là q
trình vừa làm, vừa học tập, vừa rút kinh nghiệm. Bởi vậy, xây dựng tập đoàn
kinh tế truyền thông cũng đặt ra nhiều thách thức không nhỏ cho cơ quan báo
chí. Các nhà lãnh đạo phải xây dựng được mơ hình, mục tiêu, phương hướng
cụ thể. Các tập đồn truyền thơng phải tạo ra được bản sắc riêng, tức là sản
phẩm của họ không thể nhầm lẫn với sản phẩm của tập đồn truyền thơng
khác. Ấy chính là thương hiệu. Bài toán thương hiệu với các cơ quan báo chí
hiện nay được xây dựng theo nhiều tiêu chí khác nhau. Để sản phẩm đến được
với người tiêu dùng, doanh nghiệp cịn phải có khả năng tổ chức thị trường,
làm tốt các dịch vụ sau bán hàng, xây dựng thương hiệu. Bằng cách đó, doanh
nghiệp đưa sản phẩm đến người tiêu dùng và mở rộng kinh doanh. Và như
9


vậy, cạnh tranh không chỉ ở cấp độ sản phẩm mà là ở cấp độ doanh nghiệp.
Và xa hơn nữa, sức cạnh tranh ở cấp độ lớn hơn là ở mức quốc gia vì cịn phụ
thuộc vào các cơ chế chính sách vĩ mơ, các dịch vụ cơng mà nhà nước cung
ứng, chi phí giao dịch xã hội của doanh nghiệp..
Ngày 06/03/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
15/2012/QĐ-TTg về thực hiện thí điểm cơ chế tài chính đặc thù đối với
Thông tấn xã Việt Nam giai đoạn 2012 - 2014. Có nghĩa là, Thơng tấn xã Việt
Nam được quyền tự chủ về tài chính, phát triển thành một tập đồn truyền
thơng quốc gia mạnh với các loại hình thơng tin đa dạng, phong phú. Tập
đồn truyền thơng Thơng tấn xã Việt Nam được hình thành cách đây khơng
lâu nhưng khi nhìn vào thực tế mà tập đồn này xây dựng có thể thấy rằng
những bước đi đó là đúng và có cơ sở thực tế để khẳng định thương hiệu tập
đồn truyền thơng. Thơng tấn xã phát triển mạnh với hàng chục ấn phẩm khác
nhau từ báo in, báo mạng, truyền hình, các tạp chí phong phú cho từng đối

tượng, thiết kế bắt mắt, hiện đại không kém gì tạp chí nước ngồi, nội dung
phong phú, hấp dẫn, bài viết sắc sảo có phong cách… đó là chưa kể đến các
sự kiện xã hội được tổ chức mang thương hiệu Thơng tấn xã, các chương trình
truyền hình như kênh Fanspan của vtv có sự tham gia đầu tư của Thơng tấn
xã… Được tự chủ về tài chính, đồng nghĩa với cơ cấu tổ chức tập đoàn phải
được xây dựng với mục đích vừa phát huy thương hiệu chất lượng sản phẩm
đã có từ xưa, đồng thời phải thu được lợi nhuận thích đáng. Các sản phẩm báo
chí của Thông tấn xã đã tạo được thương hiệu, chuyên nghiệp, có bản sắc
riêng, hơn hẳn rất nhiều ấn phẩm ở các cơ quan báo chí lớn. Tuy nhiên để trở
thành tập đồn vững mạnh cũng cần phải có lộ trình dài, phải có sự phát triển
đồng bộ trên nhiều khía cạnh như nhân lực, vật lực, nguồn tài chính,... bên
cạnh chất lượng sản phẩm.
Gần đây, nhân sự kiện Tổng công ty Truyền thông Đa phương tiện VTC
được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận để trở thành tập đồn Truyền thơng
với đề án « Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin
10


và truyền thông ». Rất nhiều câu hỏi được đặt ra trong đó có vấn đề quan
trọng là : Liệu điều kiện ở Việt Nam đã thuận lợi cho việc hình thành các tập
đồn truyền thơng chưa ?
Chun gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng : ngành kinh tế này có thực
sự phát triển được hay khơng cũng phụ thuộc rất nhiều vào chính sách của
nhà nước. Việc hình thành các tập đồn kinh tế truyền thơng ở Việt Nam là
một điều tất yếu. Chúng ta có rất nhiều thuận lợi để thúc đẩy phát triển mạnh
nền kinh tế này. Trong mấy năm gần đây, truyền thông ở Việt Nam phát triển
với tốc độ nhanh. Tuy nhiên, công chúng chưa hài lòng về các sản phẩm dành
cho họ. Với trình độ tri thức ngày một nâng cao, cơng chúng khơng cịn phải
chấp nhận tất cả những thơng tin mà truyền thơng đưa ra nữa, cơng chúng có
quyền lựa chọn. Chính những nhu cầu này của thị trường đã tạo ra một khả

năng, một động lực lớn cho các tập đồn truyền thơng ở Việt Nam hình thành
và phát triển. Bên cạnh đó, nguồn tài chính ở Việt Nam cho truyền thông cũng
khá rộng mở. Bà Phạm Chi Lan cho rằng có rất nhiều các nhà đầu tư trong và
ngồi nước sẵn sàng đầu tư vốn cho những tập đoàn truyền thơng có triển
vọng. Kinh tế truyền thơng đang trong giai đoạn đi lên và đầu tư cho truyền
thông sẽ là một lĩnh vực có tiềm năng.
Tuy nhiên, cịn tồn tại nhiều khó khăn mà lớn nhất vẫn là chính sách nhà
nước đối với truyền thông. Cơ chế truyền thông ở Việt Nam vẫn cịn sự kiểm
sốt tương đối chặt chẽ. Điều đó một phần ảnh hưởng đến chất lượng các sản
phẩm truyền thơng. Mở 10 tờ báo thì thấy 10 cái tin giống hệt nhau, chắc chắn
công chúng sẽ khơng thể đón nhận một cách hào hứng được. Ngồi ra nhiều
loại hình báo chí mới ra đời chưa có sự phát triển ổn định, vững chắc. Nội bộ
các cơ quan, tịa soạn báo chí đang có xu hướng phát triển kinh doanh đa dạng
trên cơ sở tự hạch toán nhưng vẫn cịn manh mún, chưa có cơ chế rõ ràng.
Theo bà Phạm Chi Lan, nhà nước cần tạo hành lang pháp lý đủ rộng, minh
bạch để cho nhiều các cơng ty truyền thơng có điều kiện phát triển. Bản thân
các công ty cũng phải thực hiện theo đúng pháp luật, không ngừng đầu tư,
11


ứng dụng khoa học kĩ thuật vào việc xuất bản phát hành. Một khó khăn nữa là
khái niệm "Tập đồn kinh tế truyền thơng" vẫn cịn q mới mẻ. Các chính
sách, hồ sơ thủ tục thành lập tập đồn, các mơ hình, quy chế quản lý, phát
triển… vẫn cịn là bài tốn khó, cần người khai phá…
Nếu những khó khăn này được gỡ bỏ thì ngành kinh tế này sẽ đưa nước
ta phát triển nhanh trở thành nền kinh tế cơng nghiệp theo hướng hiện đại.
Thêm nữa, điều này cịn chứng minh ngành truyền thông không chỉ là ngành
tuyên truyền, phải bao cấp mà là một ngành kinh doanh tự tăng trưởng bằng
chính lợi nhuận của mình. Chỉ khi coi truyền thơng là một ngành kinh tế thì
truyền thơng mới phát huy hết vai trị của mình, trong khi đó bản thân nhà

nước, doanh nghiệp và cơng chúng đều có lợi.
Như vậy là: Hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội, vừa có thách thức.
Thách thức là sức ép trực tiếp, cịn cơ hội tự nó khơng chuyển thành lực lượng
vật chất trên thị trường mà phải thông qua hoạt động của chủ thể. Cơ hội và
thách thức cũng luôn vận động, biến đổi. Tận dụng được cơ hội sẽ đẩy lùi được
thách thức và tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ hội
thì thách thức sẽ lấn át làm triệt tiêu cơ hội. Chính vì vậy mà vai trị « chủ thể »
của cơ quan báo chí, của nhà nước là rất quyết định. Cơ quan báo chí là người
« xung trận », là lực lượng trực tiếp đương đầu trong cạnh tranh. Nhưng, Nhà
nước phải là người mở đường. Với nền kinh tế đã được tồn cầu hóa, sự tùy
thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng sâu, sự phối hợp giữa các nhà nước
có vai trị ngày càng lớn, chức năng của nhà nước trong quan hệ kinh tế đối
ngoại ngày càng được tăng cường. Vì vậy mối quan hệ giữa Nhà nước và cơ
quan báo chí và thị trường cần được phối hợp linh hoạt.%

12


13



×