Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

tiểu luận cao học môn kinh tế quốc tế bảo hộ và tự do hóa thương mại của việt nam trong dòng chảy thương mại quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.8 KB, 44 trang )

MC LC
I. Thng mi quc t
I.1 Khỏi nim
I.2 Ni dung
I.3 Chc nng
I.4 c im
II. Bo h thng mi
II.1 Khỏi nim
II.2 Mc tiờu ca chớnh sỏch bo h
II.3 Chớnh sỏch bo h hp lý v s cn thit phi ỏp dng chớnh sỏch bo
h hp lý vi sn xut trong nc
II.3.1 Chớnh sỏch bo h hp lý
II.3.2 S cn thit ca chớnh sỏch bo h hp lý trong quỏ trỡnh hi nhp
II.4 ỏnh giỏ chung chớnh sỏch bo h ca Vit nam trong thi gian va
qua
II.5 Mt s gii phỏp bo h hp lý cho Vit Nam trong quỏ trỡnh hi nhp
II.5.1 Cỏc bin phỏp k thut v kim dch ng thc vt
II.5.2 Cỏc bin phỏp chng bỏn phỏ giỏ
II.5.3 T v
II.5.4 Tr cp
II.5.5 Thu thi v
II.5.6 Cỏc bin phỏp liờn quan n mụi trng
II.5.7 S dng i ng cỏn b cú trỡnh trong vic qun lý thc thi cỏc
chớnh sỏch bo h Vit Nam
III. T do húa thng mi
III.1 Khỏi nim
III.2 Ni dung ca t do húa thng mi
III.3 Thực tiễn tiến hành tự do hoá thơng mại ở Việt Nam trong những năm
gần đây
III.3.1 Tầm quan trọng của tự do hoá thơng mại đối với sự phát triển kinh tế
Việt Nam


III.3.2 Tình hình thực hiện tự do hoá thơng mại ở Việt Nam
III.4 Tự do hoá thơng mại - cơ hội và thách thức đối với Việt Nam
III.4.1 Tự do hoá thơng mại giúp mở rộng thị trờng nâng cao năng lực cạnh
tranh của hàng hoá Việt Nam
III.4.2. Những vấn đề mà Việt Nam cần giải quyết để tiến hành tự do hoá
thơng mại có hiệu quả.
III.5 Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả và đẩy nhanh tiến


tr×nh tù do ho¸ th¬ng m¹i ë ViÖt Nam
III.5.1 C¸c biÖn ph¸p vÜ m«
III.5.2 C¸c biÖn ph¸p vi m« vÒ ho¹t ®éng ë c¸c doanh nghiÖp trong qu¸
tr×nh tù do ho¸ th¬ng m¹i hiÖn nay

I.

THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

I.1. Khái niệm thương mại quốc tế
2


Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia, thông
qua mua bán và trao đổi, lấy tiền tệ làm mối giới, tuân theo quy tắc trao đổi ngang
giá. Thương mại quốc tế có từ hàng ngàn năm nay, nó ra đời sớm nhất và hiện nay
vẫn giữ vị trí trung tâm trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
I.2. Nội dung của thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế bao gồm nhiều nội dung khác nhau. Trên giác độ một quốc
gia đó chính là hoạt động ngoại thương. Nội dung của thương mại quốc tế bao
gồm:

- Xuất và nhập khẩu hàng hóa hữu hình (nguyên vật liệu, máy móc thiết bị,
lương thực thực phẩm, các loại hàng tiêu dùng...)
- Xuất nhập khẩu hàng hóa vô hình (các bí quyết công nghệ, bằng phát minh
sáng chế, phần mềm máy tính, các bảng thiết kế kỹ thuật, các dịch vụ lắp ráp thiết
bị máy móc, dịch vụ du lịch và nhiều loại dịch vụ khác....)
- Gia công thuê cho nước ngoài và thuê nước ngoài gia công. Khi trình độ
phát triển còn thấp, thiếu vốn, thiếu công nghệ, thiếu thị trường thì cần phải chú
trọng các hoạt động gia công thuê cho nước ngoài, nhưng khi trình độ ngày càng
phát triển cao thì nên chuyển qua hình thức thuê nước ngoài gia công cho mình.
Hoạt động gia công mang tính chất công nghiệp nhưng chu kỳ gia công thường rất
ngắn, đầu vào và đầu ra của nó gắn liền với thị trường nước ngoài nên nó được coi
là một bộ phận của hoạt động ngoại thương.
- Tái xuất và chuyển khẩu. Trong hoạt động tái xuất, người ta tiến hành nhập
khẩu tạm thời hàng hóa từ bên ngoài vào, sau đó lại tiến hành xuất khẩu sang nước
thứ ba. Như vậy, ở đây có hành động mua và hành động bán nên mức rủi ro có thể
lớn và lợi nhuận có thể cao. Còn trong hoạt động chuyển khẩu không có hành vi
mua bán mà ở đây chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải, quá cảnh, lưu kho lưu bãi,
bảo quản... Bởi vậy, mức độ rủi ro trong hoạt động chuyển khẩu nói chung là thấp
và lợi nhuận cũng không cao.
- Xuất khẩu tại chỗ. Trong trường hợp này hàng hóa và dịch vụ có thể chưa
vượt ra ngoài biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt
động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho các ngoại giao đoàn,
cho khách du lịch quốc tế.... Hoạt động xuất khẩu tại chổ có thể đạt được hiệu quả
cao do giảm bớt chi phí đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, thời gian thu
hồi vốn nhanh.
I.3. Chức năng của thương mại quốc tế
3


Thương mại quốc tế có hai chức năng cơ bản sau đây:

Một là, làm biến đổi cơ cấu giá trị sử dụng của sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân được sản xuất trong nước thông qua việc xuất khẩu và nhập khẩu nhằm
đạt tới cơ cấu có lợi cho nền kinh tế trong nước. Chức năng này thể hiện việc
thương mại quốc tế làm lợi cho nền kinh tế quốc dân về mặt giá trị sử dụng.
Hai là, thương mại quốc tế góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế
quốc dân, do việc mở rộng trao đổi mà khai thác được triệt để lợi thế của nền kinh
tế trong nước trên cơ sở sự phân công lao động quốc tế, nâng cao năng suất lao
động và hạ giá thành sản phẩm. Các chức năng của thương mại quốc tế có sự liên
quan chặt chẽ với các nhân tố thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nó. Căn cứ
vào các nhân tố này người ta phân biệt thương mại quốc tế thành thương mại bù
đắp và thương mại thay thế. Thương mại bù đắp diễn ra do sự khác nhau về điều
kiện điều kiện tự nhiên và do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thương
mại thay thế diễn ra trên cơ sở sự phân công lao động quốc tế đã đạt tới trình độ
phát triển cao, chuyên môn hoá vào những mặt hàng có ưu thế. Thương mại bù
đắp và thương mại thay thế có liên quan chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau và
thúc đẩy lẫn nhau phát triển.
I.4. Đặc điểm của thương mại quốc tế và thị trường thế giới hiện nay
Thương mại quốc tế trong những năm gần đây có một số đặc điểm như sau:
Một là, thương mại quốc tế trong những năm gần đây có xu hướng tăng với
tốc độ cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của nền sản xuất thế giới, điều đó đưa đến
tỷ trọng của kim ngạch ngoại thương trong tổng sản phẩm quốc dân của mỗi quốc
gia ngày càng lớn, thể hiện mức độ mở cửa gia tăng của nền kinh tế mỗi quốc gia
ra thị trường thế giới.
Hai là, tốc độ tăng trưởng của thương mại vô hình tăng nhanh hơn tốc độ
tăng trưởng của thương mại hữu hình, thể hiện sự biến đổi sâu sắc trong cơ cấu
kinh tế của mỗi quốc gia.
Ba là, cơ cấu mặt hàng trong thương mại quốc tế có những thay đổi sâu sắc
với những hướng chính sau đây:
- Giảm đáng kể tỷ trọng của nhóm hàng lương thực và thực phẩm
- Giảm mạnh tỷ trọng của nhóm hàng nguyên liệu, tăng nhanh tỷ trọng của

dầu mỏ và khí đốt.
- Tăng nhanh tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp chế biến, nhất là máy
móc thiết bị.
4


Bốn là, Sự phát triển của nền thương mại thế giới ngày càng mở rộng phạm
vi và phương thức cạnh tranh với nhiều công cụ khác nhau, không những về mặt
chất lượng, giá cả mà còn về điều kiện giao nhận, bao bì, mẫu mã, thời hạn thanh
toán, các dịch vụ sau bán hàng....
Năm là, Chu kỳ sống của từng loại sản phẩm ngày càng được rút ngắn, việc
đổi mới thiết bị, đổi mới công nghệ, đổi mới mẫu mã hàng hóa diễn ra liên tục, đòi
hỏi phải năng động, nhạy bén khi gia nhập thị trường thế giới. Các sản phẩm có
hàm lượng khoa học khoa học và công nghệ cao có sức cạnh tranh mạnh mẽ trong
khi các sản phẩm nguyên liệu thô ngày càng mất giá, kém sức cạnh tranh.
Sáu là, sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế một mặt thúc đẩy tự do
hóa thương mại, song mặt khác, giữa các liên kết kinh tế quốc tế cũng hình thành
những hàng rào mới, yêu cầu bảo hộ mậu dịch ngày càng tinh vi hơn.

II.

BẢO HỘ THƯƠNG MẠI
5


Chính sách bảo hộ từ xưa tới nay luôn tồn tại như một chính sách thiết yếu
và quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mọi quốc gia bởi tất cả các
quốc gia dù mạnh hay yếu, dù phát triển hay đang phát triển đều muốn xây dựng
và phát triển các ngành sản xuất trong nước đồng đều và bền vững. Bước sang thế
kỉ XXI, khi mà tiến trình toàn cầu hoá và khu vực hoá cũng đã đi được một chặng

đường khá dài với sự ra đời của các tổ chức kinh tế như WTO, EU, AFTA,
NAFTA… tạo ra một sân chơi chung và những quy tắc nhằm phát triển thương
mại quốc tế, thì vấn đề bảo hộ lại được nâng lên một tầm cao mới đó là bảo hộ hợp
lý để làm cơ sở cho hội nhập kinh tế toàn cầu.
Trong xu thế mạnh mẽ của toàn cầu hoá trên thế giới, Việt Nam cũng đang
nỗ lực hết mình: gia nhập ASEAN (1995), ASEM (1996), APEC (1998) và gần
đây nhất là gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO (2006), chứng tỏ chúng ta
đang cố gắng hết mình để có thể hội nhập kinh tế một cách toàn diện và hiệu quả
nhất. Tuy nhiên, cũng có thể thấy rằng với một nền kinh tế mà sức cạnh tranh còn
kém thì nếu hội nhập, chúng ta cần thiết phải áp dụng một cơ chế chính sách bảo
hộ hợp lý để không bị “tổn thương” trước nguy cơ cạnh tranh từ bên ngoài và làn
sóng mạnh mẽ của toàn cầu hoá, để phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế an toàn
và hiệu quả.
Chính vì thế, một trong những khía cạnh được quan tâm nhất của chính sách
bảo hộ hiện nay với tất cả các quốc gia trên thế giới là làm thế nào để chính sách
bảo hộ thực sự mang lại hiệu quả tích cực đối với nền kinh tế đất nước, đặc biệt là
các nước đang phát triển với trình độ phát triển kinh tế chưa cao. Đối với các nước
phát triển, những nước đã có một nền kinh tế hàng hoá phát triển cao thì việc áp
dụng một chính sách bảo hộ hợp lý là hết sức có lợi. Nhưng còn đối với các nước
đang phát triển, mặc dù có quyết tâm rất cao, nhưng để thực hiện và thu được lợi
ích thực sự bảo hộ hợp lý không phải là đơn giản. Và Việt Nam cũng không nằm
ngoài xu thế chung đó.
II.1 Khái niệm
Chính sách bảo hộ nói chung trong thương mại quốc tế (Protectionism) là
việc chính phủ áp dụng các biện pháp rào cản thuế quan và phi thuế quan cùng
những rào cản thương mại khác nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước, đẩy mạnh
việc sản xuất và xuất khẩu ra nước ngoài.
II.2 Mục tiêu của chính sách bảo hộ

6



Chính sách bảo hộ được đặt ra nhằm bảo vệ các nhà sản xuất trong nước
tránh được sự cạnh tranh từ bên ngoài, góp phần phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng
trưởng cho nền kinh tế nội địa. Việc đánh thuế nhập khẩu và việc áp dụng các hàng
rào phi thuế quan như hạn ngạch nhập khẩu đối với một số loại hàng hoá dịch vụ
sẽ làm cho giá bán của những hàng hoá dịch vụ này tăng lên cao hơn so với hàng
hoá được sản xuất trong nước. Do đó, thay vì tiêu dùng những hàng hóa dịch vụ
với giá cao, người tiêu dùng trong nước sẽ quay sang dùng những hàng hoá dịch vụ
cùng loại được sản xuất trong nước với giá rẻ hơn. Khi nhu cầu tiêu dùng hàng hoá
dịch vụ nhập khẩu giảm sút các nhà nhập khẩu sẽ hạn chế số lượng hàng hoá dịch
vụ nhập khẩu và ngược lại, các nhà sản xuất trong nước chủ nhà sẽ có điều kiện
mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của mình.
Chính sách bảo hộ còn góp phần tạo việc làm cho một bộ phận dân chúng
nước chủ nhà. Nhờ các ưu đãi từ chính sách bảo hộ nên một số ngành sản xuất
trong nước sẽ mở rộng quy mô sản xuất và kéo theo đó là nhu cầu về nguồn nhân
lực sẽ tăng lên.
Các hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ hạn chế việc nhập khẩu và tiêu
dùng một số loại hàng hoá dịch vụ không thực sự cần thiết hoặc không phù hợp với
thuần phong mỹ tục của nước chủ nhà. Đồng thời, số lượng hàng hoá nhập khẩu
hạn chế do áp dụng các chính sách bảo hộ sẽ làm giảm việc tiêu dùng ngoại tệ và
góp phần cân đối cán cân thanh toán nước chủ nhà.
Chúng ta không phủ nhận rằng các chính sách bảo hộ đã mang lại lợi ích
không nhỏ cho nền kinh tế nước chủ nhà trong những giai đoạn nhất định. Tuy
nhiên, việc thực hiện các chính sách bảo hộ không phải lúc nào cũng đạt được kết
quả như mong muốn. Vấn đề đặt ra là phải áp dụng một chính sách bảo hộ hợp lý
để bảo hộ sản xuất trong nước một cách hữu hiệu nhất
II.3 Chính sách bảo hộ hợp lý và sự cần thiết phải áp dụng chính sách bảo hộ
hợp lý với sản xuất trong nước.
II.3.1. Thế nào là Chính sách bảo hộ hợp lý?

Như đã đề cập ở trên, bảo hộ là những biện pháp của chính phủ nhằm hỗ trợ
sản xuất trong nước và giảm tính cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài trên thị
trường nội địa. Hầu hết các quốc gia đều áp dụng các chính sách bảo hộ và coi đó
là một bộ phận không thể thiếu trong chính sách phát triển kinh tế đất nước bởi nó
mang lại rất nhiều lợi ích như giúp bảo vệ các ngành sản xuất còn non kém trong
nước, đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm. Tuy nhiên, không phải lúc nào
chính sách bảo hộ cũng đưa lại những kết quả như ý muốn. Chính sách bảo hộ đơn
7


phương gây ra những mất mát về kinh tế – xã hội và ảnh hưởng trực tiếp đến người
tiêu dùng và các ngành nghề khác trong nền kinh tế. Nếu chính phủ thực hiện một
chế độ bảo hộ không hợp lý, bảo hộ tràn lan, tuỳ tiện, bảo hộ quá mức trong thời
gian quá dài thì không những không đạt được mục đích mà còn gây ra các tác động
tiêu cực. Các ngành sản xuất được bảo hộ sẽ không dần lớn mạnh lên mà trái lại,
rất có thể rơi vào trạng thái trì trệ, giảm sức cạnh tranh, sản xuất không hiệu quả,
làm sai lệch lợi thế so sánh cuả đối tác tham gia trên thị trường. Bảo hộ còn dẫn
đến việc phân bổ sai nguồn lực, chi phí cơ hội lớn và làm thiệt hại cho giới tiêu
dùng trong nước. Tương tự như thế, một chính sách bảo hộ thiên về tạo công ăn
việc làm mà không tính toán đến các yếu tố khác sẽ làm cho tình trạng thất nghiệp
của đất nước ngày một gia tăng.
Tuy nhiên, chúng ta có nên loại bỏ hoàn toàn chính sách bảo hộ? Câu trả lời
là không hoàn toàn như vậy. Tất cả các nước trên thế giới, thậm chí những nước
được coi là phát triển nhất như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc…vẫn áp dụng
những chính sách bảo hộ nhất định đối với một số ngành hàng của mình. Mặt khác,
các quy định của WTO vẫn chấp nhận việc các nước thành viên sử dụng các biện
pháp phi thuế quan để hạn chế nhập khẩu trong những trường hợp cần thiết để bảo
đảm an ninh quốc gia, văn hoá truyền thống, môi trường và sức khoẻ con người…
Vậy điều mà các quốc gia cần làm để bảo vệ các ngành sản xuất trong nước một
cách hữu hiệu nhất là gì? Đó chính là xây dựng và thực hiện một chính sách bảo hộ

hợp lý, tức là bảo hộ nhằm tăng tính cạnh tranh, thúc đẩy phát triển chứ không phải
để “nuông chiều” các ngành sản xuất trong nước. Bảo hộ hợp lý không phải chỉ là
tạo ra những rào cản ngăn chặn sự xâm nhập của hàng hoá nước ngoài vào nước
mình, hoặc trợ cấp dưới mọi hình thức cho sản xuất nội địa, mà quan trọng hơn là
những biện pháp bảo hộ đó phải đạt được mục tiêu phân bổ nguồn lực hợp lý, nâng
cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm nội địa trên thị trường trong nước lẫn quốc
tế. Điều này cũng có nghĩa là không nên bảo hộ những ngành sản xuất “ốm yếu”,
không có tiền đồ phát triển và không có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Tuy
nhiên, với các ngành sản xuất “non trẻ”, khi mới bước vào thị trường, nhất là thị
trường thế giới, thường gặp không ít những khó khăn và rất cần sự hỗ trợ của nhà
nước dưới các hình thức khác nhau để nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm
của mình. Kinh nghiệm cho thấy không quốc gia nào trên thế giới tăng trưởng
nhanh nhờ vào bảo hộ. Chính vì thế, bảo hộ phải tạo đà cho tự do hoá thương mại,
là cơ sở để phát triển bền vững trong tự do hoá thương mại.
WTO hướng tới sự tự do hoá toàn cầu trên các lĩnh vực, từng bước xoá bỏ
các rào cản đối với thương mại. Gia nhập WTO, các nước thành viên phải tuân
theo những qui tắc cơ bản của tổ chức này, thực hiện những cam kết để hạn chế tối
đa các rào cản thương mại, tiến tới hội nhập vào “ngôi nhà chung”, không phân
8


biệt đối xử. Song, gia nhập WTO không có nghĩa là các nước phải hoàn toàn xoá
bỏ sự giúp đỡ và bảo hộ đối với các ngành sản xuất trong nước, mà điều quan trọng
là phải biết dựa theo quy tắc của WTO để xây dựng một chính sách bảo hộ hữu
hiệu sao cho vừa thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, vừa không vi phạm
nguyên tắc tự do hoá thương mại mà WTO đã đề ra.
Tóm lại, chính sách bảo hộ hợp lý theo quy định của WTO là chính sách bảo
hộ mang lại lợi ích và hiệu quả kinh tế cho đất nước, đồng thời tuân thủ đầy đủ các
quy định của WTO cũng như các cam kết mà các quốc gia đã ký kết.
Dựa trên các chuẩn mực quốc tế, các quy định của WTO và thực tiễn bảo hộ

của một số quốc gia trên thế giới và của Việt Nam trong những năm mở cửa thì
chính sách bảo hộ hợp lý sản xuất và mậu dịch cần phải quán triệt các quan điểm
sau:

Bảo hộ phải tạo được lợi thế về năng lực cạnh tranh cho hàng hoá nội
địa trên thị trường trong nước cũng như quốc tế.

Các biện pháp bảo hộ phải được thực hiện một cách có chọn lọc, có
điều kiện và có thời hạn.

Việc áp dụng chính sách bảo hộ phải được áp dụng thống nhất cho
mọi thành phần kinh tế.

Các biện pháp bảo hộ phải tuân thủ các quy định của quốc tế, đặc biệt
là của WTO.
Một hệ thống chính sách bảo hộ hợp lý, phù hợp với các hiệp định thương
mại và các nguyên tắc thương mại quốc tế để bảo hộ sản xuất trong nước là vấn đề
hết sức cần thiết, đặc biệt là trong điều kiện nhiều ngành sản xuất của các quốc gia
đang phát triển và kém phát triển với thiết bị, kỹ thuật và công nghệ còn lạc hậu.
Để các chính sách bảo hộ vừa phù hợp với các thông lệ quốc tế, vừa có tính hiệu
quả cao, các nhà hoạch định chính sách có thể xem xét một số vấn đề cụ thể:
Thứ nhất: Lựa chọn các đối tượng bảo hộ.
Đây là một khâu hết sức quan trọng, có ảnh hưởng quyết định tới hiệu quả
của các chính sách bảo hộ sau này. Những ngành sản xuất được bảo hộ phải là
những ngành thực sự có lợi thế so sánh, đem lại hiệu quả kinh tế cao, có tiềm năng
phát triển và có ảnh hưởng lan truyền tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Nếu các đối
tượng được lựa chọn không có lợi thế cạnh tranh so với các ngành tương ứng trong
khu vực hoặc trên thế giới thì sự ưu tiên, ưu đãi và các khoản đầu tư sẽ có thể bị
lãng phí và trở nên phi hiệu quả. Vì vậy, cần xem xét, phân tích kỹ các số liệu
thống kê, tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu kinh tế trong tất cả các lĩnh

vực, ngành nghề để có được sự lựa chọn chính xác nhất.
Thứ hai: Quan điểm bảo hộ phải mang tính nhất quán và được đầu tư một
cách thoả đáng.
9


Sau khi đã lựa chọn được đối tượng bảo hộ thì phải khẳng định và theo đuổi
đến cùng mục tiêu bảo hộ của mình thông qua việc lập kế hoạch ưu tiên cho các
ngành sản xuất được lựa chọn: Các ưu tiên đặc biệt về thuế, các chương trình đầu
tư và vay vốn ngân sách nhà nước, ưu tiên sử dụng ngoại tệ để mua máy móc thiết
bị và công nghệ tiên tiến hoặc cung cấp tín dụng với lãi suất thấp để nhập khẩu
công nghệ tiên tiến… Việc áp dụng đồng bộ những giải pháp này trong thời gian
nhất định sẽ thúc đẩy các đối tượng được bảo hộ phát triển mạnh mẽ, thu hút nhiều
lao động và hạ giá thành sản phẩm. Nói cách khác, tính hiệu quả trong sản xuất
kinh doanh, giải quyết việc làm sẽ được nâng lên. Bên cạnh đó, một lần nữa tầm
quan trọng của việc lựa chọn đối tượng được bảo hộ lại được khẳng định vì những
ngành nghề được bảo hộ nếu có tác dụng lan truyền tới nhiều lĩnh vực trong xã hội
thì hiệu quả của các chính sách bảo hộ lúc này sẽ vô cùng to lớn. Tuy nhiên, nếu
như những giải pháp trên làm tăng tính hiệu quả của việc bảo hộ thì đổi lại, sẽ gây
ra sự mất công bằng đối với các ngành nghề khác trong toàn bộ nền kinh tế. Vấn
đề là phải chấp nhận đánh đổi tính công bằng trong một giai đoạn nhất định để theo
đuổi mục tiêu bảo hộ của mình và khi các ngành sản xuất này đã thực sự phát triển,
đem lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế đất nước bù đắp cho các lĩnh vực còn lại.
Thứ ba: Các doanh nghiệp được bảo hộ cần sự trợ giúp của chính phủ về
nhiều mặt.
Chính phủ phải cung cấp cho doanh nghiệp một cách đầy đủ các thông tin
như giá cả, đặc điểm thị trường, các rào cản phi thuế… và chuyển dần các hình
thức trợ cấp khu chế xuất sang hỗ trợ doanh nghiệp tìm hiểu, nghiên cứu thị
trường, xúc tiến thương mại, Mặt khác, cũng có thể áp dụng các rào cản phi thuế
quan như quy định về bán phá giá và thuế chống bán phá giá, trợ cấp và thuế đối

kháng, các tiêu chuẩn kỹ thuật về lao động và môi trường… Đây chính là những
rào cản mà Mỹ và một số quốc gia khác đã và đang áp dụng thành công để bảo hộ
một số ngành hàng của mình mà ngành nuôi cá tra, cá basa là mội ví dụ.
Tóm lại, bảo hộ với những đặc điểm của nó đều đem lại những lợi ích to lớn
không thể phủ nhận cho nền kinh tế của mỗi quốc gia. Bên cạnh đó, bảo hộ cũng
gây ra những tác động tiêu cực cho nền kinh tế mỗi quốc gia và toàn cầu, quan hệ
thương mại giữa các nước… Nhận thức rõ ràng cả mặt tích cực lẫn tiêu cực của
bảo hộ sẽ giúp mỗi quốc gia đưa ra chính sách bảo hộ hợp lý để có thể tranh thủ
được mặt tích cực và khắc phục mặt tiêu cực sao cho có lợi cho nền kinh tế.
II.3.2. Sự cần thiết của chính sách bảo hộ hợp lý trong quá trình hội nhập
Thứ nhất, là do tác động tiêu cực của tự do hoá thương mại và hội nhập . Về
mặt kinh tế, tự do hoá thương mại làm tăng tính dễ bị tổn thương của các nền kinh
tế đang phát triển. Về mặt xã hội, tự do hoá thương mại làm tăng khoảng cách giàu
10


nghèo trên thế giới. Về mặt chính trị, tự do hoá thương mại đe doạ chủ quyền của
các quốc gia nhỏ.
Thứ hai, là do những tác động tích cực của chính sách bảo hộ mậu dịch hợp
lý. Tự do hoá thương mại và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu thông qua tham gia
vào các thể chế kinh tế toàn cầu và khu vực bắt buộc tất cả các nước phải chấp
nhận “luật chơi” tự do cạnh tranh, nghĩa là phải mở cửa thị trường, dỡ bỏ các hàng
rào thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá và dịch vụ nước ngoài, loại bỏ các
hạn chế đầu tư. Nhưng cạnh tranh luôn là con dao hai lưỡi. Một mặt, nó là động
lực thúc đẩy sản xuất trong nước vươn lên; mặt khác, nó có thể giết chết sản xuất
trong nước nếu không đủ sức mạnh để tồn tại. Hơn nữa, trong bối cảnh mở cửa tự
do, nền kinh tế luôn đứng trước nguy cơ chịu tác động của các cuộc khủng hoảng
kinh tế từ bên ngoài, nguy cơ tụt hậu và phụ thuộc về mặt công nghệ của các nước
đang phát triển, sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo, tình trạng chảy máu chất xám
và những mối đe doạ ô nhiễm môi trường sinh thái…

Đứng trước làn sóng mạnh mẽ của tự do hoá thương mại trên thế giới, một
chính sách bảo hộ mậu dịch hợp lý có khả năng bảo vệ thị trường nội địa chống lại
sự cạnh tranh, chèn ép của hàng hoá nước ngoài, từ đó tạo điều kiện cho các ngành
sản xuất trong nước phát triển. Nền kinh tế được bảo hộ sẽ tránh được các cú sốc
từ bên ngoài, có được môi trường tương đối ổn định để dần dần lớn mạnh. Chính
sách bảo hộ hợp lý sẽ cải thiện đáng kể các ngành sản xuất nội địa. Bất cứ một
quốc gia nào trên thế giới đều có những chiến lược phát triển kinh tế nhất định,
trong đó luôn xác định những lĩnh vực ưu tiên đặc biệt. Nhưng để các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đạt được hiệu quả tối ưu và nâng cao khả
năng cạnh tranh trong nước và quốc tế, Nhà nước cần phải có những ưu đãi đặc
biệt.
Bảo hộ là công cụ phổ biến được chính phủ các nước sử dụng để nâng đỡ
các doanh nghiệp gặp khó khăn, đặc biệt là các doanh nghiệp có ảnh hưởng đến
nền kinh tế nước chủ nhà hoặc các doanh nghiệp tập trung nguồn nhân lực và tài
chính lớn, thông qua đó cải thiện ngành sản xuất nội địa. Ví dụ như Trung Quốc
duy trì mức bảo hộ rất cao cho ngành công nghiệp ô tô, Nhật Bản duy trì mức bảo
hộ cao với ngành sản xuất nông nghiệp, Hoa Kỳ dù là một nền kinh tế mạnh nhất
thế giới, khởi xướng cho xu thế tự do hoá thương mại và có tầm ảnh hưởng lớn
trong WTO, nhưng vẫn áp dụng những biện pháp bảo hộ hàng sản xuất trong nước
như phim ảnh, sắt thép, ô tô, may mặc, nông sản…
Bên cạnh đó, đối với các quốc gia phát triển như Mỹ, Nhật Bản và EU, mục
tiêu chính trong chính sách bảo hộ là duy trì việc làm cho những tổ chức hay nhóm
người nhất định, ổn định tương đối thu nhập và giảm bớt sức ép về chính trị của
các tổ chức đoàn thể. Để bảo hộ ngành công nghiệp dệt may vốn là ngành công
11


nghiệp thu hút khá nhiều lao động, EU đã đưa ra những thoả thuận về hạn ngạch
xuất khẩu với các nước khác, đặc biệt là các nước có nguồn nguyên liệu phong phú
và nguồn nhân công rẻ.

Với các nước đang phát triển và những nước có trình độ phát triển thấp, mục
đích bảo hộ ngoài đảm bảo công ăn việc làm, nâng đỡ các nhà sản xuất non kém,
còn là để duy trì cán cân thanh toán có lợi và cải thiện nguồn ngân sách. Trước tình
trạng thâm hụt cán cân thanh toán và hạn hẹp về ngân sách, phụ thuộc vào vay nợ
nước ngoài, thì một chính sách bảo hộ hợp lý sẽ giúp các quốc gia này phát triển
những ngành hàng thay thế nhập khẩu hoặc hướng về xuất khẩu, hạn chế nhập
khẩu những mặt hàng không cần thiết hay xa xỉ từ đó hạn chế chi tiêu ngoại tệ và
thu về nhiều hơn thông qua xuất khẩu.
II.4 Đánh giá chung chính sách bảo hộ của Việt nam trong thời gian vừa qua
* Những thành công:
Chính sách bảo hộ của Việt Nam trong thời gian qua về cơ bản đã thực hiện
được mục tiêu khuyến khích sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu, chú
trọng bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến khích đầu tư thông qua việc quy định
mức thuế suất nhập khẩu áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu từ các thị trường
khác nhau. Ngoài ra còn áp dụng biện pháp bảo hộ có trọng điểm, có thời gian, phù
hợp với tiến trình hội nhập quốc tế. Có thể khái quát những thành công trong việc
áp dụng chính sách bảo hộ của Việt Nam qua những điểm sau:
 Tạo điều kiện cho nhiều ngành sản xuất tuy có sức cạnh tranh kém hơn so
với nước ngoài vẫn tiếp tục duy trì và phát triển. Một số ngành như sản xuất
xe máy, máy vi tính...đã nâng dần khả năng cạnh tranh nhờ nâng cao trình
độ quản lý, đổi mới công nghệ.
 Tạo điều kiện cho sản phẩm sản xuất trong nước tuy có chất lượng kém hơn,
giá cao hơn hàng nhập khẩu tồn tại và phát triển được khiến cho Việt Nam
có thể xây dựng các ngành sản xuất của riêng mình – như ngành mía đường,
ngành xi măng... mà không phụ thuộc hoàn toàn vào nhập khẩu
 Hỗ trợ xây dựng một số ngành công nghiệp quan trọng cho mục tiêu công
nghiệp hoá, hiện đại hoá như ngành thép, ngành sản xuất ô tô, xe máy.
 Góp phần hướng dẫn tiêu dùng trong nước, đảm bảo một số mục tiêu xã hội
như giữ gìn bản sắc văn hoá, duy trì công ăn việc làm.
* Những hạn chế:

Bên cạnh những điều đã đạt được, việc thực hiện chính sách bảo hộ của Việt
Nam trong thời gian gần đây vẫn tồn tại những bất cập lớn như:
12


 Làm giảm sức cạnh tranh của sản xuất trong nước: nhiều ngành công nghiệp
bị hạn chế khả năng tiếp cận với đầu vào nhập khẩu giá rẻ, buộc phải chuyển
sang sử dụng sản phẩm thay thế trong nước đắt hơn, làm tăng chi phí sản
xuất, giảm lợi thế cạnh tranh.
 Khuyến khích sản xuất thay thế nhập khẩu trong khi định hướng chiến lược
phát triển kinh tế của Việt Nam là sản xuất hướng về xuất khẩu. Tác động
hạn chế nhập khẩu của các biện pháp phi thuế đã khiến nhiều chủ đầu tư rút
nguồn lực khỏi lĩnh vực sản xuất phục vụ xuất khẩu để đổ xô vào lĩnh vực
thay thế nhập khẩu, gây tổn thất đáng kể cho ngành xuất khẩu.
 Không tạo ra động lực khuyến khích cạnh tranh trong các ngành được bảo
hộ cao, ngăn cản những nỗ lực chủ động cải tiến, hợp lý hoá sản xuất, tự
nâng cao khả năng cạnh tranh của nhiều ngành sản xuất nội địa
 Các biện pháp bảo hộ của Việt Nam còn rất nhiều điểm chưa phù hợp với
thông lệ của các tổ chức kinh tế quốc tế như WTO, APEC...
II.5. Một số giải pháp bảo hộ hợp lý cho Việt Nam trong quá trình hội nhập
II.5.1. Các biện pháp kỹ thuật và kiểm dịch động thực vật
Theo các Hiệp định của WTO về các hàng rào kĩ thuật đối với thương mại
(Agreement on Technical Barriers to Trade - TBT) về vệ sinh kiểm dịch động thực
vật (Agreement on Sanitary and Phytosannitary Measures - SPS), các nước được
phép sử dụng các quy định, tiêu chuẩn kĩ thuật, các biện pháp vệ sinh kiểm dịch
thích hợp hoặc cần thiết để bảo vệ sức khoẻ, đời sống của con người, động thực
vật, bảo vệ môi trường và quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, các biện pháp đó
không được áp dụng nhằm tạo ra sự phân biệt đối xử tuỳ tiện hay hạn chế vô lý
đối với thương mại quốc tế.
Trên thực tế, Việt Nam nên có chính sách đồng bộ hơn về tiêu chuẩn kỹ

thuật cũng như cần nâng cao hơn nữa khả năng vận dụng linh hoạt các quy định
của Hiệp định TBT nhằm phục vụ tốt các mục tiêu phát triển nói chung và thương
mại nói riêng. Cụ thể, Việt Nam có thể bảo vệ sản xuất trong nước thông qua hạn
chế nhập khẩu nếu biết khéo léo vận dụng tiêu chí “thích hợp” hoặc “cần thiết” của
Hiệp định TBT.
Tương tự việc sử dụng TBT, vận dụng tốt các biện pháp SPS trong thương
mại cũng là một phương thức hợp pháp và hiệu quả để bảo vệ sản xuất nông
nghiệp nói riêng cũng như sức khoẻ con người, động thực vật và môi trường nói
chung. Muốn như vậy, Việt Nam cần xây dựng hợp lý danh mục chi tiết các mặt
hàng phải kiểm tra SPS bắt buộc.
13


Bảo hộ thông qua hàng rào kỹ thuật còn được gọi là bảo hộ “vùng xám” .
Các cơ quan quản lý cần nhanh chóng nghiên cứu và triển khai xây dựng hệ thống
các biện pháp bảo hộ kiểu này kết hợp với các biện pháp có thể biện hộ là phù hợp
với thông lệ và quy định của WTO tiêu chuẩn môi trường, thủ tục nhập khẩu…
Các biện pháp “bảo hộ vùng xám” có hiệu quả không khác các biện pháp bảo hộ
thông thường, nhưng cách thức và biện pháp bảo hộ tinh xảo hơn, tận dụng chính
những lỗ hổng trong hệ thống pháp lý của WTO. Bảo hộ được chuyển từ các biện
pháp hạn chế định lượng sang các biện pháp tinh vi, mang tính kĩ thuật hơn và
đang là xu thế chung của chính sách bảo hộ hợp lý. Các biện pháp vừa được WTO
thừa nhận vừa giúp nước áp dụng đạt được mục tiêu bảo hộ tốt nhất. Kết hợp sử
dụng bảo hộ vùng xám và các biện pháp khác để sử dụng trong trường hợp cần
thiết như:
 Xây dựng, hài hoà và hệ thống hoá các biện pháp kỹ thuật, môi trường, bảo
vệ sức khoẻ người tiêu dùng, hệ thống quản lý chất lượng, quy cách, tiêu
chuẩn kỹ thuật và tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm nhằm mục đích bảo
hộ khi cần thiết cho các ngành thực hiện tự do hoá, tránh gây ra những biến
động lớn đối với các ngành kinh tế.

 Tăng cường đào tạo trình độ chuyên môn, kỹ thuật, luật pháp, kinh nghiệm
cho các cán bộ thuộc các cơ quan chức năng liên quan đến việc áp dụng các
biện pháp “vùng xám”.
 Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị cho công tác điều tra, kiểm tra hàng
hoá nhằm thực thi nghiêm túc các quy định về tiêu chuẩn, quy cách hàng
hoá của các cơ quan quản lý chức năng.
 Đổi mới phương thức trợ cấp xuất khẩu hiện nay theo hướng tập trung có
trọng điểm. Vì thế, trợ cấp xuất khẩu hướng vào những ngành kinh tế được
bảo hộ có định hướng xuất khẩu (là mục tiêu của chính sách thương mại)
chứ không chỉ đơn thuần dựa trên kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp
như hiện nay.
 Nâng cao việc phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng với cơ quan
thực hiện đàm phán quốc tế đảm bảo khả năng thực thi cơ chế bảo hộ vùng
xám, tránh gây ra các tranh chấp có ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường mại
quốc tế.
II.5.2. Các biện pháp chống bán phá giá
Từ thực tiễn chống bán phá giá của các nước nêu trên cũng như đối phó với các
vụ kiện chống bán phá giá, chúng ta có thể rút ra bài học tổng quát cho Việt Nam sau
đây:
14


 Luật pháp và thực tiễn chống bán phá giá ở hầu hết các nước này đều tuân thủ
theo những quy định của WTO, chỉ khác nhau những vấn đề mà trong quy định của
WTO chưa quy định, không quy định rõ hoặc cho phép các Chính phủ được quyền
quyết định. Có thể nói rằng những quy định về chống bán phá giá của WTO là cốt lõi,
nền tảng để các quốc gia ban hành, sửa đổi cũng như áp dụng các quy định về chống
bán phá giá của mình. Để tiến hành chống bán phá giá có kết quả, cần thiết phải ban
hành Đạo luật chống bán phá giá. Nội dung của luật chống bán phá giá cần phải phù
hợp với các quy định chung, cơ bản của Luật chống bán phá giá của WTO (GATT

1994). Trong đó có tính đến các quy định riêng biệt phù hợp với đặc thù từng nước.
 Có cơ quan chuyên trách của Nhà nước phụ trách công tác chống bán phá giá.
Cơ quan này sẽ đứng ra tiến hành điều tra bán phá giá, và đưa ra kết luận về hành vi
bán phá giá cũng như quy định mức thuế chống bán phá giá nếu có hành động bán phá
giá xảy ra.
 Hành động chống bán phá giá nhằm mục đích chống lại bán phá giá (qua thuế
chống bán phá giá), chống lại sự trợ cấp tài chính của nước ngoài (qua thuế đối kháng),
hơn thế nữa mà còn là biện pháp trả đũa với những nước áp dụng các mức thuế mang
tính kỳ thị áp đặt đối với hàng hoá của nước mình. Nếu Việt Nam bị nước ngoài áp
thuế chống bán phá giá thì Việt Nam cũng có thể dùng biện pháp này để trả đũa.
 Hiệp hội đóng vai trò quan trọng trong việc chống bán phá giá. Phát huy sức
mạnh của hiệp hội và sự hợp tác của các doanh nghiệp cùng nhau đối phó với vấn đề
bán phá giá là hết sức cần thiết, nhằm ngăn chặn hành vi bán phá giá trên thị trường nội
địa một cách thành công.
Kinh nghiệm đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá ở thị trường nước ngoài
 Cách làm có hiệu quả nhất là chủ động đứng lên kháng kiện, giành quyền lợi
hợp pháp cho mình. Điều cốt yếu là tất cả đều ý thức được tính hệ trọng của vấn đề,
cùng thống nhất có thái độ tích cực tiến hành kháng cáo. Thực tế chứng minh ở một số
nước công nghiệp phát triển có hệ thống pháp luật tương đối hoàn thiện, chúng ta cần
phải vận dụng vũ khí pháp luật, đấu tranh có lý, có tình sẽ bảo vệ được quyền lợi của
các doanh nghiệp xuất khẩu của ta.
 Phát huy vai trò, các hiệp hội ngành hàng xuất nhập khẩu. Tất cả đồng lòng
hiệp lực tham gia kháng kiện. Các doanh nghiệp cần đoàn kết thành một khối thống
nhất, nghiêm túc thực hiện các nghị quyết, biện pháp được hiệp hội thông qua để cùng
hợp lực giành thế chủ động trong kháng kiện.
 Mời luật sư có kinh nghiệm, có năng lực là điều kiện quan trọng bảo đảm
giành thắng lợi trong vụ kiện.
 Các doanh nghiệp liên quan đến vụ kiện cần sớm bắt tay vào hành động mới
có thể chủ động. Hiệp hội sớm tập hợp tài liệu liên quan đến vụ kiện gửi cho các doanh
nghiệp. Trong thời gian trước khi khởi kiện, hiệp hội mời luật sư có kinh nghiệm và các

15


chuyên gia kinh tế đến các doanh nghiệp hướng dẫn cách thức điều tra trước, giúp các
doanh nghiệp làm tốt công tác chuẩn bị theo yêu cầu của bên đi kiện đối với việc sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm ở đơn vị mình, tạo điều kiện tốt cho việc kiểm tra thuận lợi và
lập luận kháng cáo sau này.
Bên cạnh đó, sự ủng hộ chi viện kịp thời của Bộ, Ngành là rất quan trọng.
Có thể dẫn ra ví dụ của Trung Quốc trong vụ kiện nước táo đặc của nước này,
Lãnh đạo Bộ hợp tác Kinh tế Mậu dịch và các Ngành hữu quan đã kịp can thiệp và
chi viện có hiệu quả các doanh nghiệp trong thời điểm quyết định, góp phần to lớn
làm cho vụ kiện tiến triển theo hướng khách quan, công bằng và có lợi cho Trung
Quốc.
Hiện nay ở Việt Nam mới chỉ có một điều khoản rất chung chung trong Luật
thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu có nói về thuế đối kháng và thuế chống bán phá
giá. Để bảo vệ thị trường và sản xuất trong nước trước những hàng nhập khẩu bán
phá giá, chúng ta cần khẩn trương xây dựng và ban hành các văn bản pháp quy về
chống bán phá giá (có thể là Luật hoặc Pháp lệnh) với các mục tiêu sau:
Thứ nhất: Đảm bảo duy trì sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng trên thị
trường.
Thứ hai: Ngăn chặn một công ty hoặc một ngành sản xuất nước ngoài dùng
hành động bán phá giá để chiếm lĩnh thị trường nước ta, nhằm bảo vệ cho các
ngành sản xuất công nghiệp trong nước.
Thứ ba: Là công cụ để chống lại tình trạng Chính phủ hoặc các Hiệp hội
nước ngoài trợ cấp cho hàng hóa xuất khẩu của họ, dẫn đến hành động bán phá giá
gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa của Việt Nam.
Thứ tư: Là công cụ để áp dụng biện pháp trả đũa đối với những quốc gia,
vùng, lãnh thổ nào áp dụng biện pháp bán phá giá mang tổ chức kỳ thị, phân biệt
đối xử đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
Việc ban hành Luật chống bán phá giá của Việt Nam nếu được ban hành

phải phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, đồng thời phải phù
hợp với Hiệp định chống bán phá giá theo khuôn khổ của WTO. Trong quá trình
xây dựng Luật, cần chú ý đến yếu tố nền kinh tế đang phát triển ở nước ta, việc xây
dựng các quy định phải phù hợp với tình hình cụ thể của đất nước.

II.5.3. Tự vệ
Mặc dù đã ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước
ngoài vào Việt Nam, nhưng cho đến nay, những biện pháp tự vệ mà Việt Nam áp
dụng vẫn chưa phát huy một cách có hiệu quả, trong khi hàng hoá của nhiều nước
16


vẫn đang phá giá tại thị trường Việt Nam, hoặc đang đe doạ tới ngành công nghiệp
nội địa, thậm chí cả những hàng hoá có ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, nhân
cách… vẫn đang nhập lậu vào Việt Nam.
Biện pháp tự vệ là một công cụ được WTO thừa nhận để hạn chế định lượng
hàng nhập khẩu trong một thời gian nhất định nhằm bảo vệ ngành sản xuất trong
nước bị thiệt hại hay có nguy cơ bị thiệt hại nghiêm trọng. Đây là biện pháp có tầm
quan trọng rất lớn bởi khả năng phát huy tác động nhanh chóng và mạnh mẽ của
nó. Trong thời kỳ hội nhập, việc sử dụng biện pháp này là điều cần thiết nhưng
chúng ta cần nhận rõ một nhược điểm không thể phủ nhận của biện pháp này là nó
không thể duy trì được trong một thời gian dài và dễ gây ra các hành động trả đũa.
II.5.4. Trợ cấp
Một trong các công cụ được WTO cho phép các nước thành viên duy trì là
các hình thức trợ cấp không gây bóp méo thương mại hoặc gây tổn hại tới lợi ích
của các nước thành viên khác. Các hình thức trợ cấp trong Hiệp định SCM chủ yếu
liên quan đến các sản phẩm công nghiệp.
Trợ cấp cho các ngành công nghiệp nội địa có thể dưới hình thức trợ cấp
trực tiếp hoặc trợ cấp gián tiếp. Có thể kể đến các hình thức trợ cấp trực tiếp như
trợ giúp tài chính, cho vay ưu đãi của Chính phủ.. Trợ cấp gián tiếp có thể thực

hiện thông qua hỗ trợ các ngành cung cấp đầu vào hay đảm bảo đầu ra cho sản
phẩm.
Mặc dù các quy định về trợ cấp tại Hiệp định SCM và Hiệp định Nông
nghiệp của WTO khá chi tiết nhưng một số hình thức trợ cấp vẫn còn chưa chịu sự
điều chỉnh cụ thể bởi các quy tắc quốc tế thống nhất. Có thể kể ra ở đây là các hình
thức trợ cấp liên quan tới tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo
hiểm xuất khẩu. Chính vì thế mà nhiều nước vẫn đang tiếp tục áp dụng những hình
thức trợ cấp này nhằm tránh né các cam kết về cắt giảm trợ cấp xuất khẩu.
Một điểm đáng lưu ý là WTO thừa nhận trợ cấp là một công cụ phát triển
hợp pháp và quan trọng của các thành viên đang phát triển. Dưới giác độ pháp lý,
Việt Nam có thể được hưởng những đãi ngộ đặc biệt và khác biệt về trợ cấp dành
cho nước đang phát triển khi trở thành thành viên của WTO.
Do đó, Việt Nam có thể nghiên cứu kinh nghiệm của các nước khác để sử
dụng hiệu quả các biện pháp trợ cấp nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước. Để
đáp ứng yêu cầu của WTO, bên cạnh việc tiếp tục duy trì các hình thức trợ cấp
không ảnh hưởng tới thương mại (như trợ cấp nghiên cứu giống mới trong nông
nghiệp, phương pháp sản xuất mới, xóa đói giảm nghèo, khắc phục thiên tai,...) thì
những hình thức hỗ trợ cho xuất khẩu (như trợ giá, hỗ trợ lãi suất, thưởng thức xuất
17


khẩu, ...) cần phải từng bước loại bỏ, có thể thay vào đó là những hình thức trợ cấp
khác phù hợp với các quy định của WTO. Trong vấn đề này, Việt Nam cần phải
phát huy mạnh mẽ vai trò của các Hiệp hội ngành hàng, nhất là trong lĩnh vực tiêu
thụ sản phẩm. Nhà nước cần cho phép và khuyến khích các Hiệp hội ngành hàng tự
thành lập các quỹ hỗ trợ, Quỹ phòng ngừa rủi ro cho ngành hàng của mình, nhất là
những ngành hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn (như gạo, cà phê, cao su,
chè, thuỷ hải sản....) Những hỗ trợ từ các Quỹ của Hiệp hội cho các thành viên khi
giá cả thị trường biến động thất thường mà nguồn thu của Quỹ là do các thành viên
đóng góp tự nguyện, hoặc từ các khoản tài trợ của các cá nhân, tổ chức trong ngoài

nước theo đúng quy định của Nhà nước hay từ các khoản thu nhập chính đáng của
Hiệp hội tạo ra thì không vi phạm các quy định của WTO.
Ngoài ra, các biện pháp trợ cấp mang tính phổ biến và ít bóp méo thương
mại như hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, nâng cấp máy móc thiết bị đáp ứng tiêu
chuẩn môi trường, hỗ trợ về hạ tầng nông nghiệp vv.. được WTO cho phép áp
dụng mà không bị hành động đối kháng cần được tích cực vận dụng vì có thể có
tác dụng gián tiếp hỗ trợ sản xuất nội địa, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh
tranh.
II.5.5. Thuế thời vụ
Thuế thời vụ là hình thức áp dụng các mức thuế nhập khẩu khác nhau cho
cùng một sản phẩm tuỳ thuộc vào thời gian chịu thuế của sản phẩm. Ví dụ, ở Việt
Nam, vụ mùa cam bắt đầu từ đầu tháng 8 đến cuối tháng 11. Vào chính mùa cam
(tù tháng 8 đến tháng 11), cam thu hoạch trong nước nhiều, Việt Nam áp dụng mức
thuế suất nhập khẩu cho cam là 20%. Ngoài thời gian này, nhu cầu tiêu thụ trong
nước vẫn lớn trong khi sản xuất không đủ đáp ứng nhu cầu, Việt Nam quy định
thuế xuất nhập khẩu với cam là 0%.
Theo Hiệp định nông nghiệp, phải thuế hoá tất cả các NTM cho sản phẩm
nông nghiệp. Do đó, áp dụng thuế thời vụ vừa đáp ứng được yêu cầu của Hiệp định
vừa tăng tính linh hoạt cuả công cụ thuế cho mặt hàng chịu thuế thời vụ.
II.5.6. Các biện pháp liên quan đến môi trường
Vấn đề bảo vệ môi trường đang và sẽ là một chủ đề nổi bật liên quan
đến nhiều lĩnh vực của quan hệ quốc tế, trong đó có thương mại. Mỗi một quốc gia
đều có chính sách riêng liên quan tới bảo vệ môi trường. Thực tế cho thấy việc sử
dụng các biện pháp liên quan đến môi trường như một NTB sẽ là xu hướng mới
trong thương mại quốc tế.
18


Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, Việt Nam nên nghiên cứu để có
thể khai thác tốt NTB này khi cần bảo hộ sản xuất trong nước, đồng thời có thể đưa

ra căn cứ xác đáng bác bỏ những biện pháp viện lý do để bảo vệ môi trường để hạn
chế hàng nhập khẩu của Việt Nam.
Một thực tế không thể phủ nhận được là ngày càng có nhiều biện pháp phi
thuế quan mới ra đời thì tính phức tạp của việc áp dụng và quản lý các biện pháp
phi thuế quan ngày càng trở nên khó khăn hơn. Thực tế đặt ra cho các nhà hoạch
định chính sách Việt Nam là cần có một định hướng đúng đắn cho sự áp dụng và
quản lý đó. Trên đây là một số định hướng cơ bản có tính tham khảo, góp phần vào
việc quản lý nhà nước về thương mại quốc tế ngày càng có hiệu quả hơn.
II.5.7. Sử dụng đội ngũ cán bộ có trình độ trong việc quản lý thực thi các
chính sách bảo hộ ở Việt Nam
Trước hết là đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách bảo hộ, bởi mỗi một
quyết định đề ra sẽ có tác động to lớn tới các ngành sản xuất trong nước và theo
chi phí cơ hội thì các biện pháp bảo hộ này sẽ gây thiệt hại và lãng phí cho xã hội.
Bởi vậy, nếu một chính sách bảo hộ đề ra là sai lầm thì thiệt hại sẽ còn được nhân
lên nhiều lần. Ngoài ra, để thực thi được chính sách bảo hộ hợp lý, phù hợp với
quy định và thông lệ quốc tế đòi hỏi người hoạch định chính sách phải có kinh
nghiệm và sự am hiểu rộng, nếu không sẽ rất khó khăn cho Việt Nam trong giai
đoạn muốn hội nhập vào các tổ chức kinh tế lớn như WTO, khi mà vị thế của
chúng ta về kinh tế và chính trị còn thấp. Các cán bộ cấp cao này phải là người có
kiến thức sâu rộng, có kĩ năng đàm phán, thuyết phục.
Với các cán bộ thực thi như cán bộ Hải quan, các Bộ ngành phụ trách về
phân bổ hạn ngạch, trợ cấp thì phải được tiến hành đào tạo và nâng cao đạo đức,
trách nhiệm và phải có kĩ năng xử lý trước mọi tình huống và đạo đức nghề
nghiệp để phòng tránh tác động xấu của hạn chế nhập khẩu là buôn lậu, gian lận
thương mại ...
Như vậy, theo kinh nghiệm của các nước đi trước, từ thực tiễn áp dụng các
biện pháp bảo hộ của các nước Hoa Kỳ, EU và Trung Quốc, chúng ta có thể rút ra
một số kinh nghiệm cho Việt Nam sau đây:
 Việc áp dụng các biện pháp bảo hộ của các quốc gia này đều tuân thủ
theo những quy định của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO. Tuy nhiên cũng có

thể thấy rằng đây là những quốc gia lớn, về vị thế lẫn tầm ảnh hưởng với thương
mại quốc tế đều khác hẳn Việt Nam. Việt Nam cần phải học tập kinh nghiệm của
những nước đi trước trong quá trình hội nhập nhưng phải áp dụng một cách linh
hoạt, tránh rập khuôn.
19


 Bảo hộ sản xuất trong nước dường như là nhu cầu không thể xóa bỏ với
mọi quốc gia, ngay cả trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay. Tuy nhiên, khi tham
gia vào các Tổ chức kinh tế thế giới và khu vực mà lớn nhất là WTO, các quốc gia
buộc phải tuân thủ những quy định chung và áp dụng một biểu thuế quan thống
nhất. Khi đó, các kinh nghiệm về áp dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan thích
hợp trong giai đoạn mới sẽ giúp cho các quốc gia này vừa đạt được mục tiêu bảo
hộ sản xuất trong nước vừa đạt được một số mục tiêu xã hội khác (an toàn sức
khỏe, bảo vệ môi trường...) lai tránh được sự cạnh tranh không lành mạnh. (Kinh
nghiêm của Mỹ, EU)
 Bảo hộ được chuyển từ các biện pháp hạn chế định lượng sang các biện
pháp tinh vi, mang tính kĩ thuật hơn. Ví dụ như bảo hộ thông qua sử dụng hàng rào
kĩ thuật; quy định về vệ sinh dịch tễ; sử dụng luật chống bán phá giá; quy định về
đóng gói, nhãn mác xuất xứ của hàng hoá... đang là xu hướng thế chung của việc
áp dụng các biện pháp bảo hộ. Các biện pháp này vừa được WTO thừa nhận vừa
giúp nước áp dụng đạt được mục tiêu bảo hộ tốt nhất.

20


III. T DO HểA THNG MI
III.1. Khỏi nim
Tự do hoá thơng mại là một thuật ngữ chung chỉ hoạt động loại bỏ các cản
trở còn tồn tại đối với thơng mại hàng hoá và dịch vụ nhằm mục đích cuối cùng là

đạt đợc chế độ thơng mại tự do. Tuy nhiên, khó có thể định nghĩa chính xác thế nào
là thơng mại tự do bởi việc xoá bỏ triệt để tất cả mọi rào cản đối với thơng mại gần
nh là bất khả thi, hay nói đúng hơn đó chỉ là mục đích hớng tới trong tơng lai.
Trớc hết, có thể hiểu theo nghĩa hẹp, tự do hoá thơng mại là chế độ mà trong
đó việc bán hàng trong nớc cũng nh xuất khẩu đợc khuyến khích nh nhau. Cụ thể
chế độ đó đợc hoàn thiện bằng cách giảm bớt thuế quan đối với hàng nhập khẩu và
xoá bỏ trợ cấp đối với hàng xuất khẩu. Nh vậy, về nguyên tắc đây là một chế độ
không có sự can thiệp của nhà nớc. Từ đó, quá trình thực hiện tự do hoá thơng mại
chính là quá trình cải cách nhằm đa chế độ thơng mại của một nớc tiến gần đến
trạng thái trung lập, u tiên nh nhau đối với hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong
nớc. Theo cách hiểu nh trên thì tự do hoá thơng mại là cần thiết đối với bất kỳ nớc
nào khi chế độ thơng mại của nớc đó có sự phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu
và hàng xuất khẩu, giữa ngời sản xuất trong nớc với nớc ngoài, giữa nớc này với nớc khác. Nếu tự do hoá thơng mại đợc tiến hành ở nhiều nớc, kết quả đạt đợc sẽ là
sự phân bổ các nguồn lực có hiệu quả hơn trong phạm vi nội bộ một nớc cũng nh
trên thị trờng quốc tế.
Ngoài ra, theo cách tiếp cận khác, tự do hoá thơng mại có thể hiểu là quá
trình giảm mức bảo hộ nói chung và thu hẹp khoảng cách về mức bảo hộ giữa các
ngành khác nhau. Nh vậy, tự do hoá thơng mại gắn liền với cải cách chính sách thơng mại trong mối quan hệ hoà hợp với cải cách chính sách vĩ mô. Trên thực tế các
nớc thờng tiến hành song song hai chiến lợc. Một mặt, các nớc tiến hành giảm thuế
và các rào cản khác đối với thơng mại, mặt khác, chính phủ vẫn áp dụng nhiều
chính sách nhằm khuyến khích xuất khẩu, bao gồm cả việc trợ cấp và cho u đãi đối
với các ngành có định hớng xuất khẩu. Từ đó, tự do hoá thơng mại có thể đợc hiểu
là những cải cách nhằm xoá bỏ dần dần mọi cản trở đối với thơng mại, bao gồm
thuế quan và phi thuế quan, đợc nghiên cứu trong mối liên hệ với các chính sách
khác của chính phủ.
III.2. Nội dung chính của tự do hoá thơng mại:

21



Minh bạch, công khai về chính sách thơng mại, pháp luật áp dụng trong thơng mại:
Trong điều kiện xu thế toàn cầu hoá có vị trí chiếm lĩnh nh hiện nay, quá
trình toàn cầu hoá phải đợc hiểu là tiến hành từng bớc trong mọi lĩnh vực nh kinh
tế, văn hoá, khoa học, nghệ thuật Trong tất cả các lĩnh vực đó, sự hội nhập về
mặt pháp lý đóng vai trò vô cùng quan trọng và không thể thiếu bởi môi trờng pháp
lý có vai trò quyết định đối với quá trình hội nhập của tất cả các lĩnh vực khác.
Trong thời đại ngày nay, mọi quốc gia đều khẳng định vai trò của pháp luật, mọi
việc đều tuân theo nguyên tắc pháp trị, lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu để quản
lý và phát triển xã hội, làm thớc đo cho tự do, công bằng, bình đẳng trong phạm vi
quan hệ trong nớc và quốc tế. Do đó, nội dung đầu tiên trong tự do hoá thơng mại
cũng chính là hội nhập về mặt pháp lý. Cụ thể, đó là quá trình tăng cờng tính minh
bạch, công khai, và tính quốc tế của hệ thống luật pháp mỗi nớc.
Nh chúng ta đã biết, pháp luật chính là kết quả của quá trình phân tích và
tổng hợp thực tiễn cuộc sống, và phát triển cùng với xu thế của thực tiễn. Các nớc
khác nhau sẽ có đờng lối, hệ thống pháp luật khác nhau, và sự khác biệt này tỷ lệ
thuận với sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế xã hội. Tình hình chung của hệ
thống pháp luật ở các nớc đang phát triển hiện nay còn thiếu nhiều luật lệ liên quan
đến kinh tế đối ngoại hiện đại, và những luật lệ hiện hành còn tồn tại nhiều mặt cha
phù hợp với thông lệ quốc tế và luật chơi chung. Để gia nhập vào xu thế phát
triển chung của thế giới, các nớc này cần bổ sung, điều chỉnh, sửa đổi pháp luật và
các chính sách kinh tế của mình cho phù hợp, nhng đồng thời vẫn phải đảm bảo đợc định hớng phát triển và lợi ích của đất nớc.
Trớc hết các nớc này cần cải cách hệ thống lập pháp, đặc biệt hệ thống chính
sách pháp luật thơng mại. Việc đầu tiên khi tiến hành cải cách đó là phải xây dựng
những khái niệm pháp lý thống nhất. Đây là một công việc không hề đơn giản và
nó là nền tảng thành công của quá trình cải cách. Mục tiêu của quá trình cải cách
này đó là xây dựng đợc một hệ thống pháp lý đồng bộ, khả thi, các chính sách kinh
tế phải đợc cụ thể hoá rõ ràng. Đồng thời, cần tiến hành song song việc xây dựng
và ban hành những văn bản trong các lĩnh vực còn thiếu để hoàn thiện hệ thống
pháp luật, đáp ứng yêu cầu của quá trình tự do hoá thơng mại đang diễn ra trên
phạm vi toàn cầu. Mặt khác, các chính sách thơng mại không nên đợc xem xét một

cách biệt lập mà phải đặt trong khuôn khổ những vấn đề rộng lớn sau đây:
- Các chính sách tài chính, tín dụng hợp lý (vừa kích thích đầu t phát triển, vừa
ổn định kinh tế vi mô).
- Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng và đầu t thơng mại trong các ngành xuất
khẩu.
- Tạo thị trờng có tính cạnh tranh và môi trờng ổn định cho đầu t và kinh doanh.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật ở trong nớc và
ra nớc ngoài. Việc này trớc tiên có tác dụng giúp các doanh nghiệp trong nớc hiểu
22


rõ để từ đó thực hiện đúng quy định của pháp luật trong quá trình kinh doanh.
Đồng thời phải thông báo chính thức, toàn diện về hệ thống pháp luật của nớc mình
cho các doanh nghiệp và cộng đồng nhà đầu t nớc ngoài, tránh tình trạng hiểu sai,
hoặc không đầy đủ dẫn tới những khó khăn trongviệc hội nhập kinh tế nói chung và
tự do hoá thơng mại nói riêng.
Giảm dần thuế quan
Chính sách thuế là một bộ phận của hệ thống chính sách kinh tế của Nhà nớc, nó phản ánh cách thức Nhà nớc sử dụng công cụ thuế tác động vào nền kinh tế tác động tới quá trình sản xuất, lu thông, phân phối, và tiêu dùng trong dân c - để
thực hiện các mục tiêu kinh tế đặt ra cho từng thời kì. Chính sách thuế biểu hiện ở
thuế suất, những u đãi miễn giảm thuế, phạm vi áp dụng, cách thức tiến hành thu
thuế...
Trong quá trình hội nhập, yêu cầu hàng đầu trong mọi tổ chức kinh kế quốc
tế đặt ra đối với các quốc gia thành viên là giảm dần các biện pháp bảo hộ - cả các
biện pháp thuế quan cũng nh các biện pháp phi thuế quan - để hàng hoá các nớc
thành viên có thể cạnh tranh tự do và bình đẳng trên thị trờng nớc đó. Vì vậy, chính
sách thuế - đặc biệt là thuế quan thu hút đợc sự quan tâm đặc biệt khi xem xét đến
vai trò của các chính sách kinh tế vĩ mô trong quá trình hội nhập. Chính sách thuế
có vai trò thúc đẩy hoạt động thơng mại cũng nh tác động đến sự vận động của
luồng vốn quốc tế. Ngoài ra, nó còn ảnh hởng đến khả năng cạnh tranh và xuất
khẩu của các doanh nghiệp trong nớc khi tham gia hội nhập.

Theo quy định của WTO, tổ chức thơng mại quốc tế với quy mô toàn cầu,
các quốc gia chỉ đợc phép bảo hộ nền sản xuất và thị trờng trong nớc thông qua
hình thức thuế quan và chấm dứt các biện pháp bảo hộ khác. Đây chính là biểu hiện
rõ nét nhất về tự do hoá thơng mại. Các nớc muốn tham gia vào WTO, dù có muốn
hay không đều phải từng bớc tuân thủ theo nguyên tắc này. Nội dung chính của
quy định này thể hiện ở hai khía cạnh: quy tắc chung về giảm thuế và sự ràng buộc
về thuế quan.
Quy tắc chung về giảm thuế: nội dung của quy tắc này là việc thu thuế xuất
nhập khẩu phải đợc tiến hành dựa trên cơ sở MFN và các nớc thành viên không đợc
phân biệt đối xử giữa hàng trong nớc và hàng nhập khẩu thông qua các loại thuế và
phí nội địa. Theo MFN, một nớc phải áp dụng mức thuế suất nh nhau cho cùng một
mặt hàng đối với tất cả các nớc thành viên của WTO.
Sự ràng buộc về thuế quan: Sau khi những cam kết về giảm thuế và các miễn
giảm khác đợc đa ra, các nớc này không đợc đánh thuế vợt quá mức thuế suất đã
quy định đối với sản phẩm đợc liệt kê trong biểu thuế. Có thể thực hiện ràng buộc ở
mức thấp hơn, bằng hoặc cao hơn mức thuế đang áp dụng. Các nớc phát triển thờng
áp dụng mức bằng với mức thuế hiện hành để thể hiện rõ ý chí muốn cắt giảm thuế,
còn các nớc đang phát triển thì ngợc lại. Nh vậy sau này các nớc đang phát triển
vẫn có thể tăng thuế trong phạm vi ràng buộc, nhằm tạo ra sự an toàn về mặt pháp
23


lý khi xuất khẩu vào thị trờng các nớc này hơn là tăng cờng mở rộng thị trờng.
Giảm dần hàng rào phi thuế quan:
Đó là quá trình giảm bớt và từng bớc đi tới xoá bỏ hàng rào phi quan thuế, đặc biệt
là hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu. Quy định về quá trình này ở một số tổ chức thơng mại
quốc tế nh sau: AFTA quy định bỏ ngay hạn ngạch với các mặt hàng trong CEPT, các
hàng rào phi thuế khác sẽ bỏ dần trong 5 năm. APEC đặt mục tiêu xoá bỏ dần các hàng rào
phi thuế và kết thúc chậm nhất vào năm 2020 đối với các nớc đang phát triển. WTO quy
định cụ thể việc xoá bỏ các hàng rào phi thuế, xoá bỏ dần những quy định về giấy phép

nhập khẩu và hạn ngạch, chuyển các biện pháp phi thuế sang thuế quan và giảm dần các
các mức thuế theo lộ trình trong từng lĩnh vực.
Trớc hết là về giấy phép nhập khẩu. Mặc dù không còn đợc sử dụng nhiều
nh trớc đây, nhng trong một số lĩnh vực, việc cấp giấy phép nhập khẩu cũng còn
nhiều khó khăn, bất cập, gây ra nhiều trở ngại cho các doanh nghiệp. Các thoả
thuận về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu yêu cầu giấy phép nhập khẩu phải đơn
giản, minh bạch. Đồng thời, các chính phủ phải công bố các thông tin đầy đủ cho
các nhà kinh doanh biết quy trình và điều kiện tiến hành xin cấp giấy phép. Và các
nớc cũng nên thông báo cho các tổ chức quốc tế về thơng mại khi thay đổi hoặc
ban hành những quy định mới về thủ tục cấp giấy phép nhập khẩu của nớc mình.
Còn đối với hạn ngạch, đầu tiên sẽ là quá trình thuế quan hoá, nghĩa là đ a vào áp
dụng một mức thuế hạn chế nào đó thay thế cho hạn ngạch rồi sau đó tiến tới cắt bỏ
hàng rào thuế quan đó.
III.3. Thực tiễn tiến hành tự do hoá thơng mại ở Việt Nam trong những năm
gần đây
III.3.1 Tầm quan trọng của tự do hoá thơng mại đối với sự phát triển kinh tế
Việt Nam
*) Trong lĩnh vực ngoại thơng:
Để đánh giá mức độ cũng nh những nhân tố dẫn đến thành công của một nớc
sau hơn một thập kỷ đổi mới, các nhà nghiên cứu luôn đánh giá cao vai trò của
các quan hệ kinh tế đối ngoại. Việt Nam cũng không là trờng hợp ngoại lệ. Chúng
ta luôn chú trọng mở rộng quan hệ ngoại thơng với các nớc trên thế giới và hiện
nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại thơng với hơn 120 quốc gia và lãnh thổ. Song
song với quá trình này là những cải cách về chính sách, cụ thể là việc áp dụng các
biện pháp khuyến khích xuất khẩu. Kết quả là tốc độ tăng trởng kim ngạch xuất
khẩu giai đoạn 1986 2000 đạt khoảng 20%/năm làm cho tổng kim ngạch ngoại
thơng gia tăng đáng kể trớc đây chỉ bằng 20% GDP, nay đã tăng lên bằng 80%
GDP. Hiện nay, hoạt động ngoại thơng có vai trò có ý nghĩa then chốt trong một số
24



ngành nh dầu khí, dệt và may mặc. Ngoài ra, một số ngành trớc đây hầu nh cha có
quan hệ gì với bên ngoài, nay cũng đã có nhiều sản phẩm xuất khẩu. Chẳng hạn nh
trong lĩnh vực nông nghiệp: hiện nay Việt Nam xuất khẩu khoảng 3 4 triệu tấn
gạo, xếp sau Thái Lan, vợt cả Mỹ. Và trên thực tế khả năng xuất khẩu của ngành
nông nghiệp còn rất lớn, mà hiện tại còn cha khai thác hết. Thời gian tới trong tơng
lai, với chơng trình nông nghiệp và phát triển nông thôn đã đề ra, Việt Nam có khả
năng xuất khẩu các sản phẩm nông sản chế biến, các loại hoa quả tơi. Nh vậy, có
thể nói rằng tham gia tích cực vào trao đổi quốc tế là điều kiện không thể thiếu để
mọi ngành, mọi lĩnh vực kinh tế của Việt Nam hoạt động có hiệu quả và phát triển.
*) Trong lĩnh vực đầu t quốc tế:
Từ năm 1987 khi Việt Nam ban hành luật đầu t nớc ngoài cùng với chế độ
chính sách thông thoáng hơn, tình hình đầu t nớc ngoài vào Việt Nam đã có nhiều
cải thiện rõ rệt. Cho đến nay, nớc ta đã nhận đợc vốn đầu t nớc ngoài từ hơn 50 nớc
trên thế giới, kể cả dới dạng nguồn vốn FDI và ODA. Nguồn vốn này góp phần làm
gia tăng nguồn dự trữ ngoại tệ, đồng thời là động lực quan trọng cho phát triển kinh
tế.
Nguồn vốn FDI đầu t vào Việt Nam
198819911996 1997 1998 1999 Tổng số
1990
1995
(3 năm) (5 năm)
Số dự án đầu t
211
1401
366
330
260
274
2842

Vốn đầu t
đăng ký (triệu
1783
20413
8836 4500 4059 1477
41068
USD)
Nguồn: Kinh tế thế giới 1998 - 1999, đặc điểm và triển vọng.
Kinh tế thế giới 1999 - 2000, đặc điểm và triển vọng.
Khu vực kinh tế có vốn đầu t nớc ngoài đang trở thành bộ phận quan trọng
thúc đẩy nền kinh tế nớc ta phát triển. Doanh thu xuất khẩu của bộ phận kinh tế có
vốn FDI ngày càng tăng cao: thời kỳ 1988 1991 là 52 triệu USD, năm 1996 là
786 triệu USD, và năm 2001, con số này vào khoảng 1,5 tỷ USD. Đồng thời, nguồn
vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài mà chúng ta nhận đợc còn giúp phát triển các hoạt
động kinh tế đối ngoại khác, du lịch, hàng không Bên cạnh đó, tỷ lệ đóng góp
của khu vực có vốn FDI vào GDP và nguồn thu ngân sách ngày một tăng. Nhờ
nguồn vốn này, chúng ta có thêm 25 vạn chỗ làm, góp phần làm giảm tình trạng
thất nghiệp ở Việt Nam. Và một tác động không thể thiếu, đó là nó mang vào nền
kinh tế chúng ta những phong cách kinh doanh mới trên thế giới, những kinh
nghiệm quản lý và cả cách nhìn nhận mới.
*) Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ
25


×