Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

NÂNG CAO NĂNG lực LÃNH đạo của ĐẢNG và QUẢN lý của NHÀ nước TRÊN LĨNH vực văn học, NGHỆ THUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.96 KB, 36 trang )

MỤC LỤC
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
VÀ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRÊN LĨNH VỰC VĂN HỌC, NGHỆ
THUẬT.............................................................................................................2
1.1. Tính tất yếu khách quan về sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật.........................................................2
1.2. Quan niệm chung về năng lực lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật.........................................................5
2. NHỮNG YÊU CẦU CỦA ĐỔI MỚI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG VÀ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRÊN LĨNH VỰC VĂN
HỌC, NGHỆ THUẬT.....................................................................................10
2.1. Đánh giá khái quát về tình hình cơng tác lãnh đạo và quản lý văn học
nghệ thuật trước thời kỳ đổi mới.................................................................10
2.2. Thực trạng công tác lãnh đạo và quản lý văn học, nghệ thuật trong
25 năm đổi mới vừa qua................................................................................11
2.2.1. Về phương diện nhận thức lý luận........................................................11
2.2.2. Tình hình lãnh đạo và quản lý văn học nghệ thuật của Đảng và Nhà
nước trong những năm đổi mới vừa qua.........................................................14
3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐÊ NÂNG CAO NĂNG LỰC
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRÊN LĨNH
VỰC VĂN HỌC NGHỆ THUẬT TRONG THỜI GIAN TỚI.......................29
3.1. Những thời cơ và thách thức đặt ra cho công tác lãnh đạo, quản lý
văn học, nghệ thuật.......................................................................................29
3.2. Quan điểm chỉ đạo để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và quản
lý của Nhà nước.............................................................................................30
3.3. Các giải pháp nâng cao năng lực của Đảng và quản lý của Nhà nước
trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật................................................................31
3.3.1. Đối với công tác lãnh đạo của Đảng....................................................31
3.3.2. Đối với công tác quản lý của Nhà nước................................................33
1



NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ QUẢN LÝ
CỦA NHÀ NƯỚC TRÊN LĨNH VỰC VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT
MỞ ĐẦU
Văn học nghệ thuật là một bộ phận tinh tế và nhạy cảm của đời sống
văn hóa tinh thần, liên quan chặt chẽ đến cơng tác tư tưởng văn hóa của Đảng
và sự quản lý của Nhà nước. Ngay từ khi ra đời lãnh đạo cách mạng, Đảng ta
đã rất quan tâm lãnh đạo lĩnh vực văn học, nghệ thuật, tập hợp và xây dựng
đội ngũ văn nghệ sĩ, phát huy vai trị tích cực của họ trong việc sáng tạo cổ
vũ, động viên nhân dân tham gia vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,
thống nhất Tổ quốc. Sau khi giành được chính quyền, Đảng ta tiếp tục lãnh
đạo nhà nước tập trung xây dựng nền văn học, nghệ thuật cách mạng phát
triển không ngừng, trở thành một mặt trận tiên phong trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần cùng tồn dân, toàn quân hoàn
thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, thống nhất đất nước, đi lên xây dựng
đất nước theo con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Từ khi bước vào sự
nghiệp đổi mới đến nay, vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và quản
lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật vẫn ln ln được đặt ra
và có những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, đây là vấn đề khó khăn và phức
tạp, cần phải được tiến hành nghiên cứu và tổng kết thường xuyên, rút ra
những bài học kinh nghiệm cho các giai đoạn xây dựng và phát triển sự
nghiệp văn học, nghệ thuật sau này. Đây vừa là những vấn đề có ý nghĩa lý
luận, vừa là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn cấp bách hiện nay.
1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG VÀ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRÊN LĨNH VỰC VĂN HỌC,
NGHỆ THUẬT
1.1. Tính tất yếu khách quan về sự lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật

2



Theo quan điểm duy vật về lịch sử, chủ nghĩa Mác đã chỉ rất rõ là tư
tưởng thống trị thời đại là tư tưởng của giai cấp thống trị. Trong quá trình diễn
ra cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt, các giai cấp thơng qua các đảng phái
chính trị của mình bao giờ cũng sử dụng văn học, nghệ thuật như một vũ khí
sắc bén để tuyên truyền hệ tư tưởng của giai cấp mình. Trong Tun ngơn
cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: "Lịch sử tư tưởng chứng
minh gì, nếu khơng phải chứng minh sản xuất tinh thần cũng biến đổi theo sản
xuất vật chất. Những tư tưởng của giai cấp thống trị của một thời đại bao giờ
cũng là tư tưởng của giai cấp thống trị"1.
C.Mác và Ph.Ăngghen đều coi văn học, nghệ thuật như một hoạt động
nhằm thức tỉnh giai cấp công nhân và nhân dân lao động về trí tuệ và tình cảm
của mình trong cuộc đấu tranh giải phóng khỏi sự áp bức bóc lột của chủ
nghĩa tư bản và xây dựng chế độ xã hội mới. Hai ơng u cầu đội ngũ trí thức
văn nghệ sĩ của Đảng phải "tiến hành tranh luận, thuyết minh, phát triển và
bảo vệ những lợi ích của Đảng, bác bỏ và đánh lại các luận điệu huênh hoang
của Đảng đối với địch"2.
Ph.Ăngghen đã đề cao "tính khuynh hướng xã hội chủ nghĩa" trong lĩnh
vực sáng tạo nghệ thuật và cho rằng đây là tiêu chuẩn cao nhất về phương
diện thẩm mỹ và phương diện lịch sử để đánh giá các tác phẩm nghệ thuật
đương thời. Đồng thời, hai ông cũng xác định giai cấp công nhân thông qua
chính đảng của mình cần phải tập hợp lực lượng đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ,
tuyên truyền và thu hút họ ngày càng đông đảo vào sự nghiệp đấu tranh cách
mạng của giai cấp vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Để giải phóng văn học, nghệ thuật khỏi thân phận làm thuê, C.Mác đã
chỉ rõ: "Tôn giáo, gia đình, Nhà nước pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ
thuật, v.v.. chỉ là những hình thức đặc thù của sản xuất và phục tùng quy luật
chung của sản xuất. Cho nên xóa bỏ một cách tích cực chế độ tư hữu coi như
1

2

C.Mác, Ph.Ăngghen: Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 4, Hà Nội, 1995, tr.625.
C.Mác, Ph.Ăngghen: Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.287.
3


sự chiếm hữu sinh hoạt của con người là sự xóa bỏ một cách tích cực mọi sự
tha hóa, nghĩa là việc con người từ tơn giáo, gia đình, nhà nước v.v.. quay trở
về tồn tại con người, nghĩa là tồn tại xã hội của mình"1.
Là người kế tục sự nghiệp vì đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin
đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật
một cách cơng khai và dứt khốt trong bài báo nổi tiếng: "Tổ chức Đảng và
sách báo Đảng" được công bố năm 1905, thời kỳ chuẩn bị về tư tưởng và tổ
chức cho cuộc Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Trong bài báo này,
V.I.Lênin đã xác định rõ: Văn học, nghệ thuật phải trở thành một bộ phận
quan trọng trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân do Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Đảng Cộng sản phải có trách nhiệm lãnh đạo cả về cơng
tác - tư tưởng và công tác tổ chức trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Đảng
phải có kế hoạch xây dựng và phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật ở các
thành tố của nó. Đồng thời V.I.Lênin cũng đề cao vai trò, trách nhiệm của đội
ngũ văn nghệ sĩ trong cuộc đấu tranh cách mạng và yêu cầu họ phải công khai
đứng trên lập trường của Đảng để tuyên truyền cổ vũ cho sự nghiệp này, đấu
tranh chống lại tư tưởng tự do vơ chính phủ, tự do chống đảng.
Trong khi khẳng định sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa,
V.I.Lênin đã lưu ý các tổ chức Đảng cũng phải thấy rõ tính đặc thù của các
hoạt động văn học, nghệ thuật so với lĩnh vực khác. Lênin chỉ rõ: "Sự nghiệp
văn học ít thích hợp nhất đối với một sự cào bằng máy móc, đối với sự san
bằng, đối với việc số đông thống trị số ít. Đương nhiên, trong sự nghiệp đó
tuyệt đối phải bảo đảm phạm vi hết sức rộng rãi cho sáng kiến cá nhân, cho

khuynh hướng cá nhân, cho tư tưởng và sức tưởng tượng, cho hình thức và
nội dung"2.
Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời, hoạt động trong hồn
cảnh bí mật đã chú ý tới vai trị đặc biệt quan trọng của văn học, nghệ thuật
1
2

C.Mác: Bản thảo kinh tế - triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1844.
V.I.Lênin: Toàn tập, Sdd, tập 12, tr.123.
4


trong việc tuyên truyền, vận động quần chúng giác ngộ cách mạng. Đảng đã
từng bước thu hút đội ngũ văn nghệ sĩ đứng về phía cách mạng, tham gia
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cổ vũ cho sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc. Đề cương văn hóa năm 1943 của Đảng đã
khẳng định: "Mặt trận văn hóa là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn
hóa), ở đó người cộng sản phải hoạt động. Khơng phải chỉ làm cách mạng
chính trị mà cịn phải làm cách mạng văn hóa nữa. Có lãnh đạo được phong
trào văn hóa, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng
mới hiệu quả" và "Phải hồn thành cách mạng văn hóa mới hồn thành được
cuộc cải tạo xã hội"1.
Sau khi giành được chính quyền, Nhà nước xã hội chủ nghĩa trực tiếp
nắm quyền quản lý tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, trong
đó có lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Nhà nước chính là trụ cột của hệ thống
chính trị, phản ánh tập trung ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Đảng lãnh
đạo văn học, nghệ thuật thông qua lãnh đạo bộ máy nhà nước nhằm xây dựng
và phát triển nền văn học, nghệ thuật theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước thông qua các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp tác động trực tiếp
vào quá trình tổ chức xây dựng và phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật

theo đường lối mà Đảng đề ra. Đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo của
Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền duy nhất và lãnh đạo nhà nước để thực
hiện các nhiệm vụ xây dựng và phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật là vấn
đề luôn luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
1.2. Quan niệm chung về năng lực lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp cơng nhân và
tồn thể dân tộc Việt Nam. Trong thời kỳ hoạt động bí mật, sự lãnh đạo của
Đảng đối với văn học, nghệ thuật tập trung vào công tác xây dựng và giáo
dục, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, phổ biến các quan điểm của Đảng
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng 1930-1945, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.363, 361.
5


trong đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ, tổ chức và động viên họ sáng tạo nhiều tác
phẩm góp phần cổ vũ, động viên nhân dân tích cực tham gia vào cuộc đấu
tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặt khác, Đảng sử dụng văn học
nghệ thuật như một loại vũ khí đặc biệt quan trọng để chống lại mọi mưu toan
thâm độc của kẻ thù trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, đấu tranh chống lại các
trào lưu mỹ học và triết học phản động.
Khi giành được chính quyền cách mạng, Đảng trực tiếp lãnh đạo nhà
nước và xã hội tham gia xây dựng và phát triển nền văn học nghệ thuật cách
mạng, phục vụ yêu cầu của từng giai đoạn lịch sử khác nhau.
Đảng lãnh đạo văn học, nghệ thuật trước hết là lãnh đạo về cơng tác tư
tưởng chính trị. Lĩnh vực văn học nghệ thuật liên quan chặt chẽ với cuộc đấu
tranh tư tưởng của xã hội. Văn học, nghệ thuật tác động mạnh mẽ tới đời sống
tư tưởng, tình cảm, tâm lý, tập quán của xã hội. Nó có khả năng liên kết tâm
trạng xã hội hướng vào một nhiệm vụ nhất định. Đồng thời nó cũng có khả

năng làm phân tán tâm trạng xã hội, gây khủng hoảng niềm tin trong nhân
dân. Vì vậy, hoạt động văn học nghệ thuật khơng thể đứng ngồi chính trị mà
nó phải ở trong chính trị, liên quan chặt chẽ tới định hướng tư tưởng chính trị
của Đảng. Đảng lãnh đạo văn học nghệ thuật thông qua đường lối, quan điểm,
chính sách xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật được thể hiện trong
Cương lĩnh, trong Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng các cấp, trong Nghị
quyết của Ban Chấp hành, của Bộ Chính trị, của Ban Bí thư, thơng qua các
chỉ thị, các thông báo của các Ban chuyên trách của Đảng, thông qua các nghị
quyết của tổ chức đảng cơ sở. Đảng khơng chỉ lãnh đạo về tư tưởng mà cịn
thơng qua công tác tổ chức của Đảng. Đảng phải giới thiệu những cán bộ có
uy tín và am hiểu về lĩnh vực này tham gia vào công tác lãnh đạo, quản lý trực
tiếp các hoạt động văn học, nghệ thuật từ trung ương đến cơ sở. Các tổ chức
Đảng phải có trách nhiệm xây dựng và phát triển lĩnh vực văn học, nghệ thuật
ở các đơn vị mà mình phụ trách. Yêu cầu đối với công tác lãnh đạo văn nghệ
của Đảng là Đảng phải xây dựng các đường lối, chính sách phát triển văn học,
6


nghệ thuật, chỉ đạo các cơ quan nhà nước thể chế hóa đường lối quan điểm
của Đảng thành luật pháp và các chủ trương chính sách cụ thể để tổ chức hoạt
động thực tiễn. Đồng thời Đảng phải vận động, thuyết phục các đồn thể
chính trị - xã hội và nhân dân tham gia thực hiện. Mặt khác, Đảng phải
thường xuyên kiểm tra các tổ chức Đảng trong việc thực hiện nghị quyết của
Đảng, đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận nhằm khơng
ngừng hồn thiện đường lối chủ trương chính sách phát triển văn học nghệ
thuật. Tính thuyết phục là đặc điểm quan trọng trong công tác lãnh đạo văn
nghệ của Đảng. Đối tượng tác động trực tiếp của đường lối chính sách của
Đảng đến trước hết là đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn
hóa. Do đặc điểm của lao động nghệ thuật, đội ngũ văn nghệ sĩ là những
người giàu tình cảm, dễ rung động trước những hiện tượng của tự nhiên và

đời sống xã hội. Thông qua tác động bằng tình cảm, bằng sự thuyết phục,
cơng tác lãnh đạo văn học, nghệ thuật sẽ thu lại được những hiệu quả tốt đẹp.
Năng lực lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn học nghệ thuật được
thể hiện ở các phương diện cơ bản sau:
Thứ nhất, là đánh giá đúng vai trò của văn học nghệ thuật trong tiến
trình của cách mạng và trong đời sống xã hội.
Thứ hai, là đề xuất được đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn,
khoa học để xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật.
Thứ ba, là giới thiệu được những cán bộ ưu tú của Đảng tham gia vào
công tác lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật.
Thứ tư, là lãnh đạo nhà nước triển khai thể chế hóa đường lối chính
sách văn hóa, văn học, nghệ thuật của Đảng thành pháp luật và các quy định
của Nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước trên
lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
Thứ năm, là Đảng phải phát huy được vai trị của các đồn thể chính trị
xã hội như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ
thuật và nhân dân tham gia xây dựng, phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật.
7


Thứ sáu, là Đảng phải thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, đánh giá việc
thực hiện các nghị quyết của Đảng về lĩnh vực văn học, nghệ thuật, tổng kết
thực tiễn, đúc kết các bài học kinh nghiệm, phát triển lý luận, bổ sung và phát
triển đường lối văn hóa, văn nghệ cho phù hợp với tình hình mới.
Quản lý nhà nước về văn học nghệ thuật là đảm bảo cho các hoạt động
văn học nghệ thuật hoạt động tự do, dân chủ trong khuôn khổ của Hiến pháp
và pháp luật. Nhà nước ban hành hệ thống luật pháp và các chính sách phát
triển văn học, nghệ thuật, xây dựng bộ máy quản lý văn học, nghệ thuật ở các
cấp, các lĩnh vực thơng qua Bộ chủ quản và chính quyền địa phương; đầu tư
cơ sở hạ tầng cho hoạt động văn học, nghệ thuật; xây dựng các thiết chế văn

học, nghệ thuật như các trại sáng tác, các trường đào tạo, các viện nghiên cứu,
các đoàn nghệ thuật, các hãng phim, các trung tâm triển lãm nghệ thuật, các
bảo tàng văn học nghệ thuật...
Quản lý nhà nước về văn học nghệ thuật có tính quyền lực nhà nước,
thơng qua các quyết định hành chính, các hoạt động về văn học nghệ thuật sẽ
hoạt động theo các chuẩn mực pháp lý mà Nhà nước đề ra nhằm duy trì sự ổn
định và phát triển của các hoạt động văn học, nghệ thuật.
Nhà nước điều tiết các hoạt động văn học nghệ thuật thơng qua phương
pháp hành chính, phương pháp kinh tế và phương pháp giáo dục. Nếu như
phương pháp hành chính dùng các quyết định hành chính để đưa các hoạt
động văn học, nghệ thuật vào nền nếp, ổn định và phát triển thì phương pháp
kinh tế nhằm mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đội ngũ trí thức
văn nghệ sĩ trên cơ sở nhà nước đưa ra các chính sách kinh tế khuyến khích
văn nghệ sĩ tham gia tích cực vào sáng tác và truyền bá các tác phẩm văn học,
nghệ thuật có ý nghĩa cao đối với sự nghiệp bồi đắp tâm hồn, tư tưởng, tình
cảm tốt đẹp cho nhân dân. Đồng thời với phương pháp hành chính và phương
pháp kinh tế, nhà nước cịn dùng phương pháp giáo dục, thuyết phục thông
qua các hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp như các hội
văn học, nghệ thuật, các liên hoan văn hóa, nghệ thuật, các trại sáng tác, các
8


trường đào tạo về văn học, nghệ thuật... tổ chức các giải thưởng để hướng dẫn
và thuyết phục các chủ thể tham gia vào xây dựng, phát triển sự nghiệp văn
học, nghệ thuật. Nhìn một cách tổng thể, các nhiệm vụ của quản lý nhà nước
trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật là:
1. Xây dựng hệ thống luật pháp và các chính sách nhằm tạo mơi trường
tinh thần lành mạnh cho quá trình sáng tạo, sản xuất, truyền bá, lưu giữ và
tiếp nhận, thưởng thức các giá trị văn học, nghệ thuật.
2. Nhà nước xây dựng và phát triển hệ thống các cơ quan quản lý nhà

nước về văn học, nghệ thuật gắn liền với sự phát triển của từng lĩnh vực, từng
chuyên ngành cụ thể từ trung ương cho đến địa phương nhằm thống nhất quản
lý các hoạt động văn học, nghệ thuật trên phạm vi lãnh thổ quốc gia (Bao
gồm: Bộ chủ quản và cơ quan quản lý văn học, nghệ thuật ở các địa phương).
3. Nhà nước đầu tư vào công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ trí thức
văn nghệ sĩ ở tất cả các loại hình nghệ thuật thơng qua hệ thống các trường
đào tạo từ trung cấp đến đại học về lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
4. Nhà nước hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho Liên hiệp các hội văn
học, nghệ thuật ở Trung ương và các hội sáng tạo ở địa phương hoạt động.
5. Nhà nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho các
hoạt động văn học, nghệ thuật. Đó là các trại sáng tác của các Hội văn học
nghệ thuật, các bảo tàng văn học, nghệ thuật; các rạp hát, rạp chiếu phim, các
nhà xuất bản, báo chí, các trung tâm làm nghệ thuật...
6. Nhà nước đầu tư vào các chương trình, các dự án bảo tồn và phát
huy di sản văn học, nghệ thuật của dân tộc, xây dựng và sáng tạo các cơng
trình văn học, nghệ thuật trọng điểm phục vụ cho các mục đích chính trị trong
các giai đoạn lịch sử nhất định.
7. Nhà nước tạo lập môi trường pháp lý và mở rộng các hoạt động giao
lưu văn hóa quốc tế, đồng thời đấu tranh chống sự xâm nhập của các sản
phẩm văn hóa độc hại, bảo vệ mơi trường văn hóa lành mạnh của xã hội,
chống các tiêu cực xã hội trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật...
9


2. NHỮNG YÊU CẦU CỦA ĐỔI MỚI ĐỐI VỚI CÔNG TÁC LÃNH
ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC TRÊN LĨNH VỰC
VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT
2.1. Đánh giá khái quát về tình hình cơng tác lãnh đạo và quản lý
văn học nghệ thuật trước thời kỳ đổi mới
Từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là từ sau

Cách mạng tháng Tám thành công, văn hóa, văn học nghệ thuật nước ta đã trở
thành một bộ phận khăng khít của cách mạng, tham gia tích cực vào cơng
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng cuộc sống mới cho nhân dân.
Các văn nghệ sĩ và các nhà hoạt động văn hóa đã trở thành những chiến sĩ của
Đảng trên mặt trận văn hóa, văn nghệ, sáng tạo được nhiều tác phẩm văn học,
nghệ thuật có giá trị, góp phần to lớn trong việc cổ vũ, động viên nhân dân ta
trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược. Văn học, nghệ thuật nước ta
"xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn học, nghệ thuật
chống đế quốc trong thời đại ngày nay".
Sau Đại thắng mùa xuân 1975, cách mạng nước ta bước vào thời kỳ
mới là xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn từ năm
1975-1985 là giai đoạn bản lề chuyển từ chiến tranh sang hòa bình, nhân dân
ta tập trung khắc phục hậu quả của chiến tranh, xây dựng và phát triển kinh tế
- xã hội, đồng thời phải tiếp tục cuộc chiến đấu gian khổ để bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta đã nhanh chóng xóa bỏ các tổ chức và thể chế phản động của chế độ
cũ trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, đấu tranh chống âm mưu và hành động
phá hoại của địch, chống những quan điểm, khuynh hướng, tàn dư của văn
hóa, văn nghệ phản động, đồi trụy, xây dựng và phát triển rộng khắp nền văn
hóa, văn nghệ cách mạng theo đường lối, quan điểm của Đảng.
Các hoạt động văn hóa, văn nghệ đã được triển khai đồng bộ và cân đối
hơn (cả nghệ thuật chuyên nghiệp và nghiệp dư, cả ở Trung ương và địa
phương), từng bước mở rộng, đa dạng hóa các hoạt động văn nghệ, đáp ứng
một phần nhu cầu ngày càng cao và phong phú của các tầng lớp nhân dân. Đã
10


xuất hiện một số tác phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng tốt, đề cập đến
một cách chân thật và mạnh dạn những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống hiện
nay, thu hút được sự chú ý. Tuy nhiên, đứng trước sự khủng hoảng và kinh tế
- xã hội kéo dài, đời sống nhân dân cịn khó khăn, tình hình văn học, nghệ

thuật giai đoạn này cũng gặp nhiều khó khăn. Chất lượng và hiệu quả các hoạt
động văn nghệ còn thấp, tiềm năng sáng tạo chưa được phát huy đầy đủ, bệnh
hình thức, sơ lược, cơng thức cịn nặng nề... Nhu cầu đổi mới của đất nước đặt
ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, trong đó có văn
học, nghệ thuật. Đường lối đổi mới của Đảng được bắt đầu từ Đại hội VI đã
mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển đất nước trong đó cũng tạo điều kiện để
văn học, nghệ thuật có bước phát triển trong thời kỳ mới.
2.2. Thực trạng công tác lãnh đạo và quản lý văn học, nghệ thuật
trong 25 năm đổi mới vừa qua
2.2.1. Về phương diện nhận thức lý luận
Trong thời kỳ 25 năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà nước ta ln ln
đề cao vai trị của văn học, nghệ thuật.
Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khóa VI đã nhấn mạnh: "Văn học nghệ
thuật là một bộ phận đặc biệt nhạy cảm của văn hóa, thể hiện khát vọng của
con người về chân, thiện, mỹ, có tác dụng bồi dưỡng tình cảm, tâm hồn, nhân
cách, bản lĩnh của các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong xã
hội, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa".
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội đã xác định: "Phát huy vai trị văn học, nghệ thuật trong việc ni dưỡng,
nâng cao tâm hồn Việt Nam. Khẳng định và biểu dương những giá trị chân
chính, bồi dưỡng cái chân, cái thiện, cái mỹ theo quan điểm tiến bộ, phê phán
những cái lỗi thời, thấp kém"1.

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.14.
11



Từ việc đề cao vai trò của văn học, nghệ thuật, Đảng ta đã có nhiều đổi
mới tư duy về văn học, nghệ thuật. Sự đổi mới tư duy về văn học, nghệ thuật
được thể hiện ở các nội dung sau:
1. Đảng ta đã chủ trương bảo tồn và phát huy, phát triển các giá trị văn
học, nghệ thuật cổ truyền của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân
loại. Nhiều giá trị văn học, nghệ thuật trước đây bị đồng nhất với sản phẩm
văn hóa do phong kiến và thực dân để lại, nay đã được xem xét đánh giá lại
trên tinh thần tôn trọng di sản văn hóa, văn học, nghệ thuật của dân tộc. Nhiều
loại hình nghệ thuật cổ truyền, nghệ thuật dân gian, nghệ thuật cung đình...
được bảo lưu và quảng bá rộng rãi trong nước và quốc tế. Nhiều loại hình
nghệ thuật như nhã nhạc cung đình Huế, nghệ thuật cồng chiêng Tây Nguyên,
hát quan họ, hát tuồng, chèo, cải lương, hát ả đào, hát xẩm v.v.. được phục
dựng và suy tôn trong đời sống văn hóa quốc gia và quốc tế. Nhã nhạc cung
đình Huế, khơng gian văn hóa cồng chiêng Tây Ngun, khơng gian văn hóa
quan họ Bắc Ninh đã được UNESCO phong tặng danh hiệu di sản văn hóa phi
vật thể của thế giới. Nhiều giá trị văn hóa, văn học nghệ thuật của nhân loại
trước đây được xếp vào hiện tượng "phức tạp", nặng về thiên kiến giai cấp,
đến nay đã được đánh giá lại trên quan điểm bao dung và nhân văn, cởi mở,
tiếp thu những thành tựu đa dạng và phong phú của văn học, nghệ thuật nhân
loại, nhất là những trào lưu văn học nghệ thuật đương đại để làm giàu cho quá
trình sáng tạo văn học, nghệ thuật dân tộc, đặc biệt là trong văn chương, mỹ
thuật, kiến trúc, điện ảnh v.v..
2. Đảng ta đổi mới quan niệm về giá trị văn học nghệ thuật, cởi mở,
bao dung trong đánh giá lại các hiện tượng văn học, nghệ thuật trong lịch sử,
nhất là trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc. Nhiều hiện tượng, sự kiện
văn học, nghệ thuật được thẩm định lại trên tinh thần nhân văn và dân chủ,
đánh giá khách quan và công bằng trên cơ sở phát huy truyền thống đoàn kết
dân tộc. Nhiều hiện tượng văn học, nghệ thuật từng bị định kiến, hoặc đánh
giá chưa đúng trong quá khứ như Thơ Mới, Tự lực văn đoàn, được đánh giá
12



lại công bằng, thỏa đáng hơn. Nhiều văn nghệ sĩ bị lãng quên thời kỳ Nhân
văn - Giai phẩm đã được khôi phục và đánh giá lại, nhiều người đã được trao
giải thưởng nhà nước về văn học, nghệ thuật. Nhiều sáng tác văn học vùng đô
thị miền Nam trước năm 1975 đã được giới thiệu rộng rãi trên các báo và tạp
chí. Nhiều nghệ sĩ rời đất nước trước và sau 1975 đã trở về phục vụ đất
nước... Tất cả những thay đổi quan niệm về định hướng giá trị, đề cao tư
tưởng nhân văn và khoan dung của Đảng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật đã
góp phần làm cho nền văn học, nghệ thuật nước nhà có thêm khơng khí mới,
sơi nổi, phong phú và đa dạng hơn.
3. Đảng đã khuyến khích đội ngũ văn nghệ sĩ tự do tìm tịi sáng tạo, thử
nghiệm những nội dung và hình thức mới trong sáng tạo văn học, nghệ thuật.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Đảng đã xác định: "Khuyến khích
tìm tịi, thử nghiệm mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác vì mục đích
đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho cơng chúng. Bài trừ các
khuynh hướng sáng tác suy đồi, phi nhân tính" 1. Trên tinh thần đổi mới này,
văn nghệ sĩ khơng cịn bị chi phối bởi phương pháp sáng tác hiện thực xã hội
chủ nghĩa duy nhất như trước đây mà tự do tìm kiếm các phương pháp sáng
tạo với nhiều cách biểu đạt nghệ thuật khác nhau, tạo ra đời sống văn hóa
thẩm mỹ đa dạng trong xã hội.
4. Đảng đã chú ý nêu cao vai trị của cơng tác lý luận, phê bình trên lĩnh
vực văn học, nghệ thuật. Trong Nghị quyết Trung ương năm khóa VIII, Đảng
ta đã nêu rõ: "Phát huy vai trò thẩm định tác phẩm, hướng dẫn dư luận xã hội
của phê bình văn học, nghệ thuật. Đảm bảo tự do sáng tạo đi đôi với việc nêu
cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của nhà văn nghệ sĩ, các nhà
văn hóa. Nâng cao chất lượng, phát huy tác dụng của nghiên cứu, lý luận"2.
Cơng tác lý luận, phê bình trên lĩnh vực văn học nghệ thuật trong thời kỳ đẩy
1
2


Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.61.
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.62.
13


mạnh hội nhập quốc tế có một vị trí đặc biệt quan trọng để định hướng thị
hiếu thẩm mỹ - nghệ thuật của xã hội, tạo nên bầu khơng khí tranh luận dân
chủ để làm rõ giá trị chân chính của các tác phẩm văn học, nghệ thuật, phê
phán các khuynh hướng và các xu thế sai lầm hoặc những thị hiếu thấp kém
trong đời sống văn học, nghệ thuật, khẳng định những giá trị tích cực, tốt đẹp
cần hướng tới.
5. Đảng đã đề ra chủ trương đổi mới cơ chế quản lý đối với hoạt động
văn học, nghệ thuật trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế. Bên cạnh việc đẩy mạnh đầu tư từ ngân sách của Nhà nước cho hoạt
động văn học, nghệ thuật, Đảng và Nhà nước nhấn mạnh đến chủ trương xã
hội hóa các hoạt động văn học, nghệ thuật, tạo môi trường tinh thần và môi
trường pháp lý cho các hoạt động văn học, nghệ thuật tư nhân ra đời. Nhờ có
chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật mà nhiều
loại hình văn học, nghệ thuật được bảo tồn và phát huy, nhiều hãng phim và
đồn nghệ thuật tư nhân, các cơng ty phát hành sách ra đời đã đáp ứng nhu
cầu văn hóa, văn học, nghệ thuật đa dạng và ngày càng cao của xã hội.
2.2.2. Tình hình lãnh đạo và quản lý văn học nghệ thuật của Đảng và
Nhà nước trong những năm đổi mới vừa qua
- Trước hết, để đảm bảo định hướng tư tưởng chính trị đối với phát
triển sự nghiệp văn học nghệ thuật, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư các khóa VI, VII, VIII, IX và X đã thường xuyên quan tâm theo
dõi, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, đề ra những quan điểm, chủ trương

chính sách cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của cách mạng, chú
trọng nâng cao trình độ và năng lực lãnh đạo, quản lý lĩnh vực này. Ngay
trong Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khóa VI "Về đổi mới và nâng cao trình
độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng
tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới", Đảng ta
đã xác định rất rõ: "Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn hóa
văn nghệ là yếu tố có ý nghĩa quyết định để khai thác mọi tiềm năng sáng tạo,
14


phát triển sự nghiệp văn hóa, văn nghệ một cách thuận lợi". Để nâng cao trình
độ và năng lực lãnh đạo văn học, nghệ thuật ở thời kỳ đầu tiên của sự nghiệp
đổi mới, khắc phục tình trạng cơng tác lãnh đạo và quản lý văn hóa, văn nghệ
có biểu hiện đơn giản, thô thiển, thiếu dân chủ, chưa coi trọng cơ chế, chính
sách quản lý văn hóa, văn nghệ, Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khóa VI đã
nhấn mạnh tới một số nhiệm vụ và giải pháp cụ thể sau:
- Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, khẩn trương nâng
cao nhận thức lý luận về văn hóa, văn nghệ, hồn thiện và cụ thể hóa đường
lối xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
- Xây dựng một cơ chế lãnh đạo và quản lý phù hợp. Lập các hội đồng
nghệ thuật quốc gia, hội đồng nghệ thuật địa phương, hội đồng nghệ thuật
chuyên ngành... Các hội đồng nghệ thuật do cấp ủy Đảng và cấp chính quyền
thành lập bao gồm những người có uy tín và am hiểu nhất về một ngành nghệ
thuật hoặc một số ngành nghệ thuật gần nhau. Các hội đồng có nhiệm vụ và
quyền hạn đầy đủ để quyết định những vấn đề nghệ thuật thuộc phạm vi xem
xét của mình và chịu trách nhiệm về các quyết định đó. Khắc phục và ngăn
ngừa những hiện tượng cấp ủy và chính quyền can thiệp thơ bạo vào các vấn
đề văn học, nghệ thuật và từng cá nhân tùy tiện quyết định số phận của một
tác phẩm hoặc một tiết mục, trừ trường hợp những vấn đề nghệ thuật trở
thành vấn đề chính trị có phương hại đến quyền lợi của Tổ quốc, của nhân

dân.
- Cải tiến phương thức lãnh đạo, quản lý văn hóa văn học nghệ thuật
phải quán triệt quan điểm của Đảng đối với trí thức xã hội chủ nghĩa và phù
hợp với tính đặc thù của văn hóa, văn nghệ. Trân trọng nhân cách, tài năng và
sự độc đáo của văn nghệ sĩ; chu đáo, tế nhị, chân tình trong quan hệ, đối xử,
có cách làm việc thích hợp với từng cá tính sáng tạo. Các nhà hoạt động văn
học và nghệ thuật có tài năng, được nhân dân q trọng và có uy tín quốc tế
là vốn quý của đất nước, của nhân dân, là lực lượng chủ yếu để xây dựng một
nền văn hóa, văn nghệ xứng đáng của dân tộc.
15


- Nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, tăng cường công tác đào
tạo và bồi dưỡng cán bộ văn hóa, văn nghệ, chú ý cán bộ lãnh đạo và quản lý,
văn nghệ sĩ, cán bộ chuyên trách quan hệ quốc tế về văn hóa.
- Các trường Đảng xây dựng chương trình đào tạo về văn hóa, văn học,
nghệ thuật. Các trường đại học và cao đẳng, các trường quản lý cần có
chương trình về văn hóa, văn học nghệ thuật phù hợp.
- Các ngành văn hóa, văn nghệ, giáo dục, đồn thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh và các ngành liên quan cần đẩy mạnh vấn đề giáo dục thẩm mỹ,
giáo dục văn hóa, văn nghệ cho thanh, thiếu niên, nhi đồng và học sinh.
- Củng cố các tổ chức Đảng trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, xây dựng
và kiện tồn các cơ quan chun mơn làm tham mưu giúp cấp ủy lãnh đạo
văn hóa, văn nghệ từ trung ương đến địa phương.
- Nâng cao vai trò quản lý của Bộ Văn hóa đối với lĩnh vực văn hóa,
văn nghệ.
- Kiện tồn tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội Nhà văn
Việt Nam, Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Hội Nghệ
sĩ điện ảnh Việt Nam, Hội Nghệ sĩ tạo hình Việt Nam, Hội Kiến trúc sư Việt
Nam, Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam và các hội văn nghệ ở địa phương.

Có thể nói, Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị khóa VI đã tạo một động
lực mới cho quá trình phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ những năm
đầu của sự nghiệp đổi mới. Nghị quyết đã thể hiện những quan điểm đổi mới
có tính ngun tắc của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, có tác dụng thúc
đẩy hoạt động sáng tạo nghệ thuật. Tuy vậy, Nghị quyết này chưa đánh giá
thật đúng tính phức tạp của cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hóa,
chưa lường trước và đề ra được những biện pháp nhằm hạn chế mặt tiêu cực
của cơ chế thị trường đối với văn hóa, văn nghệ. Việc truyền đạt và tổ chức
thực hiện nghị quyết lại có nhiều sai sót. Trước những lệch lạc xuất hiện trong
văn hóa, văn nghệ, một số cấp ủy và cơ quan nhà nước không phân rõ đúng
sai, thường né tránh, rụt rè trong xử lý; cũng có nơi sử dụng những biện pháp
16


hành chính khơng thích hợp. Một số văn nghệ sĩ đảng viên dao động, giảm sút
lịng tin, khơng giữ vững lập trường của Đảng. Trong sáng tác và lý luận phê
bình nảy sinh một số khuynh hướng sai lầm: phủ nhận thành tựu cách mạng
và văn hóa văn nghệ cách mạng, tách văn nghệ khỏi sự lãnh đạo của Đảng,
xúc phạm anh hùng, vĩ nhân của dân tộc, khuynh hướng "thương mại hóa",
truyền bá lối sống thực dụng, sa đọa, bạo lực phát triển. Các thế lực thù địch
sử dụng những tác phẩm xấu để chống phá sự nghiệp đổi mới. Đứng trước
tình hình này, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư (khóa VII) năm
1993 đã chỉ ra nguyên nhân của những tiêu cực này có phần chịu sự tác động
của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta và những diễn biến quốc tế
phức tạp xảy ra, nhất là sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu. Nhưng nguyên nhân chủ yếu để cho tình hình tiêu cực xảy ra
nghiêm trọng và kéo dài là do lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước từ
Trung ương đến các cấp đã buông lỏng, hữu khuynh, bố trí sai một số cán bộ
chủ chốt, thiếu những luật lệ, thể chế của Nhà nước, thiếu đầu tư thích đáng
cho lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, thiếu tổ chức động viên nhân dân biểu

dương, cổ vũ những nhân tố tích cực, phê phán lên án những biểu hiện tiêu
cực, độc hại trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa VII
(14-1-1993) "Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt đã
xác định nhiệm vụ trọng tâm của văn hóa, văn nghệ là góp phần xây dựng con
người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân cách
tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng ngang tầm sự nghiệp đổi mới vì dân giàu, nước
mạnh xã hội văn minh. Nghị quyết này đã xác định 5 quan điểm chỉ đạo đã
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là:
1. Vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là cốt lõi tư tưởng trong văn
hóa, văn nghệ nước ta. Sự nghiệp văn hóa văn nghệ là bộ phận khăng khít của
sự nghiệp đổi mới. Thấm nhuần và thực hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí

17


Minh "văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em văn nghệ sĩ là
chiến sĩ trên mặt trận ấy".
2. Bảo đảm dân chủ, tự do cho mọi sự sáng tạo và hoạt động văn hóa,
vun đắp các tài năng, đồng thời đề cao trách nhiệm của văn nghệ sĩ trước
công chúng và thời đại.
3. Phát triển văn hóa dân tộc đi liền với mở rộng giao lưu văn hóa với
nước ngồi, tiếp thụ những tinh hoa của nhân loại làm giàu đẹp thêm nền văn
hóa Việt Nam. Ngăn chặn và đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn
hóa độc hại, bảo vệ nền văn hóa dân tộc.
4. Nâng cao tính chiến đấu của các hoạt động văn hóa, văn học nghệ
thuật, khẳng định mạnh mẽ và sâu sắc những nhân tố mới, những giá trị cao
đẹp của dân tộc, khắc phục những gì cản trở quá trình đi lên của đất nước. Phê
phán cái sai, lên án cái ác, cái xấu là để hướng con người tới cái đúng, cái tốt,
cái đẹp. Đấu tranh không khoan nhượng chống các luận điệu độc hại của các

thế lực thù địch.
5. Văn hóa, văn nghệ là sự nghiệp của tồn xã hội. Phát triển các hoạt
động văn hóa, văn nghệ của Nhà nước, tập thể và cá nhân theo đường lối của
Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Khắc phục tình trạng "hành chính hóa" các
tổ chức văn hóa, nghệ thuật và xu hướng "thương mại hóa" trong lĩnh vực
này.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khóa VII) xác định một số
biện pháp cần tập trung thực hiện để vừa nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo
của Đảng và quản lý của Nhà nước, vừa góp phần tạo động lực cho văn hóa,
văn học nghệ thuật phát triển. Những biện pháp đó là:
- Mở một đợt sinh hoạt chính trị - tư tưởng để quán triệt nghị quyết này
trong cán bộ, đảng viên và trong giới văn hóa, văn nghệ và cán bộ tuyên huấn,
khoa giáo.
- Kiện toàn các cơ quan, đoàn thể làm cơng tác văn hóa, văn nghệ về
mặt tổ chức và cán bộ (thành lập đảng đoàn ở các hội văn nghệ và ban cán sự
18


đảng ở các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, văn nghệ). Chỉnh đốn, tăng
cường các viện nghiên cứu, các khoa và các trường thuộc bộ môn văn học,
nghệ thuật, các báo, tạp chí văn nghệ và các văn nghệ trên báo chí, đài phát
thanh, vơ tuyến truyền hình. Nâng cao chất lượng sách giáo khoa về văn học
và đội ngũ giảng viên trong các trường văn hóa, nghệ thuật và các trường phổ
thơng, đại học. Có chế độ cấp học bổng cho học sinh nghệ thuật; có chế độ ưu
đãi tài năng sáng tạo. Sắp xếp lại tổ chức và hoạt động ngành điện ảnh. Chỉnh
đốn công tác xuất bản, in và phát hành. Phổ biến rộng rãi những tác phẩm có
giá trị về tư tưởng và nghệ thuật. Cấm sản xuất, xuất bản và phổ biến những
tác phẩm, phim ảnh, băng đĩa hình độc hại, phản động và đồi trụy, bố trí đúng
cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt tham gia lãnh đạo, quản lý văn hóa, văn học
nghệ thuật).

- Đầu tư có trọng điểm và tài trợ cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ
phục vụ đại chúng hoặc những tác phẩm, cơng trình có giá trị cao nhưng
khơng có hoặc ít có khả năng đem lại doanh thu. Tiếp tục bổ sung và hoàn
chỉnh chế độ lương thù lao, mua bán tác phẩm, thuế, chính sách khuyến khích
sáng tác... bảo đảm cho văn nghệ sĩ chuyên nghiệp có thể sống bằng nghề
nghiệp của mình.
Thực hiện tốt quyết định của Nhà nước tặng giải thưởng quốc gia hàng
năm về văn hóa, văn nghệ.
- Nhà nước kịp thời thể chế hóa chủ trương, biện pháp nêu trong Nghị
quyết Trung ương, có chương trình nghiên cứu và ban hành sớm các văn bản
pháp quy thuộc lĩnh vực hoạt động văn hóa, văn nghệ, xây dựng một số luật
cần thiết như Luật Xuất bản, Luật Bảo vệ di tích văn hóa dân tộc...
- Đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ và phát triển văn hóa, văn
nghệ dân tộc. Bằng mọi cách, đưa những giá trị văn hóa, văn nghệ dân tộc và
thế giới đến với nhân dân...

19


Tiếp tục mở rộng các loại hình thơng tin đại chúng, hiện đại hóa các
phương tiện nghe, nhìn, tăng cường việc phát hành sách báo để chuyển tải tốt
và nhanh các giá trị văn hóa, văn nghệ đến với nhân dân.
- Có chính sách tồn diện bảo vệ và phát triển văn hóa, văn nghệ các
dân tộc thiểu số.
- Mở rộng giao lưu văn hóa, văn nghệ với nước ngồi dưới nhiều hình
thức... khuyến khích trao đổi văn hóa, văn nghệ với nước ngồi. Có quy định
nghiêm ngặt bảo vệ những giá trị văn hóa, văn nghệ của dân tộc, chống thâm
nhập vào nước ta những tác phẩm xấu, độc hại.
- Xây dựng có trọng điểm cơ sở vật chất và kỹ thuật cho hoạt động văn
hóa, văn nghệ, thơng tin đại chúng, đổi mới công nghiệp, nâng cao chất lượng

sản phẩm, từng bước đuổi kịp trình độ kỹ thuật tiên tiến trên thế giới.
Chính nhờ có sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết và kịp thời, tập trung xây
dựng cơ chế và chính sách, tháo gỡ khó khăn của Đảng và Nhà nước mà văn
học, nghệ thuật nước nhà đã tiếp tục ổn định, phát triển và có những thành tựu
đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Tổng kết 5 năm thực
hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ tư khóa VII, Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ năm khóa VIII đã khẳng định: Trên lĩnh vực văn học,
nghệ thuật, các hoạt động sáng tạo có bước phát triển mới, nhiều bộ mơn nghệ
thuật truyền thống được giữ gìn. Có thêm nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài
cách mạng và kháng chiến, về công cuộc đổi mới. Nhiều bộ sưu tập cơng phu
từ kho tàng văn hóa dân gian và văn hóa bác học Việt Nam trong nhiều thế kỷ
được xuất bản, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá
trị tư tưởng, học thuật về thẩm mỹ của dân tộc. Hoạt động lý luận, phê bình đã
đạt được những kết quả tích cực, khẳng định mạnh mẽ văn nghệ cách mạng
và kháng chiến, đẩy lùi một bước những quan điểm sai trái.
Số đông vào nghệ sĩ được rèn luyện và thử thách trong thực tiễn cách
mạng, có vốn sống, giàu lịng u nước, trước những biến động của thời cuộc
và những khó khăn của đời sống và giữ gìn được phẩm chất, kiên định quan
20


điểm sáng tác phục vụ nhân dân, làm sứ mệnh người nghệ sĩ - chiến sĩ. Nhiều
văn nghệ sĩ trung cao tuổi, vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tạo. Lớp trẻ có nhiều
cố gắng tìm tịi cái mới.
Văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số có bước tiến đáng kể, đội ngũ
những nhà văn hóa, người dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng, chất
lượng, đã có những đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực văn học,
nghệ thuật.
Tuy nhiên, văn học, nghệ thuật cũng đã bộc lộ nhiều yếu kém, khuyết
điểm mà Nghị quyết này đã chỉ ra là: Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng

với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc và thành quả của
đổi mới. Trong sáng tác và lý luận, phê bình, có lúc đã nảy sinh khuynh
hướng phủ nhận thành tựu văn học cách mạng và kháng chiến, đối lập văn
nghệ với chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một vài tác phẩm viết về
kháng chiến đã không phân biệt chiến tranh chính nghĩa với chiến tranh phi
nghĩa. Xu hướng "thương mại hóa", chiều theo những thị hiếu thấp kém, làm
cho chức năng giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của văn học, nghệ thuật bị suy
giảm.
Một số quan điểm sai trái vẫn còn xuất hiện. Các loại văn hóa phẩm
vẫn cịn xâm nhập vào xã hội và gia đình. Nhiều cơ sở in, quảng cáo, quán ăn,
khách sạn, sàn nhảy mở tràn lan, chạy theo đồng tiền, hoạt động tùy tiện.
Tiềm lực đội ngũ sáng tác, nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học, nghệ
thuật cịn yếu.
Nhà nước chậm ban hành những chính sách để phát huy những năng
lực hiện có. Một số ngành nghệ thuật như điện ảnh, sân khấu, đặc biệt là sân
khấu truyền thống gặp khó khăn.
Việc giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho thanh niên,
thiếu niên, nhi đồng, học sinh chưa được coi trọng.
Lãnh đạo quản lý trong xuất bản văn học, nghệ thuật còn nhiều sơ hở.
Thiếu sự đầu tư trọng điểm và lâu dài cho sự ra đời những tác phẩm lớn, cho
21


việc giữ gìn và phát triển những ngành nghệ thuật truyền thống. Nghị quyết
Trung ương năm (khóa VIII) đã xác định phương hướng và 5 quan điểm chỉ
đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc và nêu 10 nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, trong đó có
nhiệm vụ rất quan trọng là xây dựng và phát triển sự nghiệp văn học, nghệ
thuật. Nghị quyết xác định: "Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm nghệ thuật có
giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có

tác dụng sâu sắc xây dựng con người"1.
Trong Nghị quyết này, Đảng ta khuyến khích mọi tìm tịi, thử nghiệm
các phương pháp, phong cách sáng tạo hướng văn nghệ vào phản ánh hiện
thực sinh động, chân thật và sâu sắc sự nghiệp của nhân dân trong cách mạng
và kháng chiến, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như tái hiện lịch sử
kiên cường bất khuất của dân tộc. Đặc biệt khuyến khích các tác phẩm về
công cuộc đổi mới, cổ vũ cái đúng, cái tốt, cái đẹp trong quan hệ giữa con
người với con người, con người với xã hội, với thiên nhiên, phê phán những
thói hư, tật xấu, lên án cái ác, cái thấp hèn. Sáng tạo nhiều tác phẩm văn học,
nghệ thuật cho thiếu niên, nhi đồng với hình thức, nội dung thích hợp; nghiêm
cấm xuất bản loại sách kích thích bạo lực ở trẻ em.
Đối với công tác nghiên cứu lý luận và phê bình văn học nghệ thuật,
Đảng ta nhấn mạnh tới việc phát huy vai trò thẩm định tác phẩm, hướng dẫn
dư luận xã hội, nâng cao chất lượng, phát huy tác dụng của nghiên cứu, lý
luận. Tiếp tục đấu tranh chống các khuynh hướng trái với đường lối văn nghệ
của Đảng.
Đối với văn nghệ sĩ, Nghị quyết đã xác định đảm bảo tự do đi đôi với
nêu cao trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã hội của văn nghệ sĩ, các nhà
văn hóa. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện làm việc thuận lợi
cho văn nghệ sĩ. Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo lớp văn nghệ sĩ trẻ. Làm tốt
công tác bảo vệ bản quyền tác giả.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.61.
22


Liên hiệp văn học, nghệ thuật Việt Nam (bao gồm các hội sáng tạo văn
học, nghệ thuật ở Trung ương) và các hội văn nghệ ở các tỉnh, thành phố là

những tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp do Đảng lãnh đạo có bộ máy
chuyên trách gọn nhẹ, có sự tài trợ của Nhà nước về kinh phí.
Để thực hiện các quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ phát triển văn học,
nghệ thuật, nhà nước đã triển khai xây dựng, ban hành luật pháp và các chính
sách văn hóa, văn học, nghệ thuật cụ thể như Luật Di sản văn hóa, Luật
Quảng cáo, Pháp lệnh Thư viện, Quy chế về giải thưởng, tặng thưởng trong
lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Để phù hợp với thời kỳ phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đã tập trung xây dựng ban
hành các chính sách quan trọng sau đây:
- Chính sách kinh tế trong hoạt động văn học, nghệ thuật, khai thác các
tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho hoạt động văn học nghệ thuật, đồng
thời đảm bảo về yêu cầu chính trị, tư tưởng cho hoạt động văn hóa, văn nghệ,
giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
- Mở rộng các hoạt động kinh doanh dịch vụ, tạo nguồn thu hỗ trợ cho
hoạt động sự nghiệp của các đơn vị nghệ thuật.
- Cải tiến chế độ tài trợ, đặt hàng đối với điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật,
thuế, trợ giá một số báo chí, văn hóa phẩm đưa ra nước ngồi tun truyền đối
ngoại và sách đưa lên miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
- Cho phép các thành phần kinh tế, kể cả tư nhân trong nước và nước
ngoài thực hiện một số hình thức liên doanh, liên kết với một số cơ sở hoạt
động văn hóa, văn nghệ trong nước theo quy định của pháp luật nhằm xây
dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ và tham gia tổ chức một số hoạt động
văn hóa, văn nghệ có nội dung lành mạnh, bổ ích.
- Chính sách văn hóa trong kinh tế đảm bảo cho các giá trị văn hóa thể
hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, đồng thời thúc đẩy các hoạt động kinh tế
tạo điều kiện nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển văn hóa, chú ý tính thẩm mỹ,

23



bản sắc dân tộc, tính hiện đại trong xây dựng các khu dân cư, khu nơng
nghiệp, các cơng trình kiến trúc, xây dựng.
- Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa nhằm động viên sức người,
sức của của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để xây dựng và phát
triển văn hóa, văn nghệ. Đồng thời nâng cao vai trò và trách nhiệm của Nhà
nước trong việc đầu tư và làm tốt chức năng quản lý, hướng dẫn nghiệp vụ
đối với các hoạt động xã hội về văn hóa, văn nghệ.
- Chính sách bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc hướng cả vào văn
hóa vật thể và phi vật thể. Tiến hành kiểm kê, sưu tầm, chỉnh lý vốn văn hóa,
văn nghệ truyền thống của người Việt và các dân tộc thiểu số.
- Chính sách khuyến khích sáng tạo văn học, nghệ thuật. Chú trọng
đầu tư, hỗ trợ cho những tác giả có uy tín cao, những tài năng trẻ, đầu tư
cho lực lượng chuyên nghiệp và cho phong trào quần chúng. Có chính sách
chăm sóc đặc biệt đối với văn nghệ sĩ cao tuổi tiêu biểu, các mầm non nghệ
thuật xuất sắc.
Sửa đổi chế độ nhuận bút phù hợp với tình hình mới, thành lập Quỹ văn
hóa quốc gia và Quỹ sáng tác của các hội văn học, nghệ thuật, tạo thêm nguồn
tài chính hỗ trợ cho xây dựng tác phẩm.
- Có chính sách khuyến khích các văn nghệ sĩ gắn bó với cơ sở, với
thực tiễn đổi mới của đất nước.
- Tiếp tục thực hiện Pháp lệnh về giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng
Nhà nước và Pháp lệnh cơng nhận danh hiệu nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú.
- Mở rộng, khuyến khích giao lưu văn hóa, văn nghệ với nước ngoài,
tăng cường trao đổi đoàn nghệ thuật, điện ảnh, các cuộc triển lãm nghệ thuật,
khuyến khích xuất khẩu sách, báo, tác phẩm văn học, nghệ thuật, làm tốt cơng
tác đối ngoại trên lĩnh vực văn hóa và văn nghệ.
Đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (19982003), Kết luận của Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa IX) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về "xây
24



dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc"
trong những năm tới đã khẳng định: Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) ra
đời đáp ứng đúng yêu cầu phát triển của đất nước và nguyện vọng của nhân
dân, đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được xã hội nhiệt tình hưởng ứng và
thực hiện, gắn kết chặt chẽ văn hóa với các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp
phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị và tạo nên những thành
tựu về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại của đất nước...
Đã xuất hiện một số tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị về đề tài
cách mạng, kháng chiến và công cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, Kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ mười (khóa IX)
cũng chỉ rõ những yếu kém, khuyết điểm của văn học, nghệ thuật là thiếu
những tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật,
có ảnh hưởng tích cực và sâu sắc trong đời sống. Có biểu hiện lúng túng, hữu
khuynh trong cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng tư tưởng, trong lý luận
-phê bình và sáng tạo, trước những tác động ngày càng phức tạp của quá trình
hội nhập và giao lưu văn hóa. Xu hướng "thương mại hóa", chạy theo thị hiếu
thấp kém trong một bộ phận báo chí, xuất bản, hoạt động văn hóa nghệ thuật
chưa được ngăn chặn có hiệu quả, đã làm giảm sút, hạ thấp các chức năng
nhận thức, giáo dục, thẩm mỹ của văn hóa, văn học, nghệ thuật.
Kết luận của Hội nghị Trung ương lần thứ mười (khóa IX) chỉ rõ
nguyên nhân của những yếu kém khuyết điểm trên, trong đó nhấn mạnh đến
một số nguyên nhân chủ quan trong công tác lãnh đạo, quản lý như sau:
- Nhận thức trong Đảng từ Trung ương đến cấp ủy các cấp về vai trò
đặc biệt quan trọng của văn hóa (trong đó có văn học, nghệ thuật) chưa thật
đầy đủ. Các quan điểm chỉ đạo, phương hướng phát triển và các nhiệm vụ của
văn hóa chưa được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, việc tổ chức thực hiện
còn thiếu tập trung, chưa đồng bộ, không kiên quyết.
- Trong tổ chức thực hiện, năng lực và tầm lãnh đạo của các cấp ủy,
chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đồn thể cịn nhiều hạn chế.

25


×