PHẦN THỨ NHẤT
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm
1.1.1. Xã hội càng phát triển, nhu cầu mở rộng hội nhập và giao lưu thế giới
ngày càng nhiều, điều đó địi hỏi con người có những nhìn nhận, đánh giá, phân tích về
các vấn đề xã hội sâu sắc, đầy đủ và tồn diện hơn. Trong bối cảnh tồn cầu bùng nổ
thơng tin như hiện nay, việc đọc sách và nhu cầu tiếp cận với thế giới cần phải có sự
chọn lựa. Trình độ văn hóa của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia được đánh giá bằng năng
lực nắm bắt, tiếp nhận thơng tin, xử lý thơng tin từ các loại văn bản khác nhau. Người
có kiến thức khơng chỉ là người được đào tạo một cách bài bản mà cịn là người biết
nắm bắt thơng tin, biết đọc hiểu và chắt lọc, sử dụng thơng tin một cách hiệu quả
nhất. Ở đâu có nhiều người biết nắm bắt thơng tin, biết xử lý thơng tin, thì ở đó sẽ có
tri thức, sẽ là một quốc gia phát triển.
1.1.2. Trong những năm gần đây đổi mới phương pháp dạy học ln là vấn đề
được quan tâm hàng đầu của ngành giáo dục. Điểm mấu chốt của đ ổi mới phương
pháp dạy học là việc người học đối tượng của hoạt động dạy, chủ thể của hoạt
động học được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo,
để khám phá những điều mình chưa rõ, chứ khơng phải là tiếp thu một cách thụ động
những tri thức đã được giáo viên sắp đặt, từ đó nắm chắc kiến thức, kĩ năng, khơng
rập khn theo những khn mẫu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo.
Khơng chỉ đổi mới phương pháp dạy học mà cịn đổi mới hình thức, phương pháp thi,
kiểm tra và đánh giá kết quả học tập... Điều này đã được thể hiện trong nhiều văn
bản nói về những quan điểm và đường lối chỉ đạo của nhà nước về đổi mới GD.
Trong báo cáo chính trị Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI nêu rõ: Đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện
đại..; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khố XI về đổi mới căn bản, tồn diện giáo
dục và đào tạo viết: tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học... Đổi mới
căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo,
bảo đảm trung thực, khách quan... từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và
cộng đồng giáo dục giáo dục thế giới tin cậy và cơng nhận...; Chiến lược phát triển
giáo dục giai đoạn 2011 2020 ban hành kèm theo Quyết định 711/QĐTTg ngày
13/6/2012 của Thủ tướng chính phủ cũng chỉ rõ: Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy
1
học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác,
chủ động, sáng tạo và năng lực tự học của người học...
1.1.3. Ngữ văn ln ln đóng vai trị là một trong những bộ mơn chính yếu trong
trường THPT. Hơn thế nữa, với đặc thù riêng về sự chính xác tương đối, sự phụ
thuộc vào cảm xúc của người dạy và người học mà vấn đề dạy và học Ngữ văn ln
được quan tâm đặc biệt. Mục tiêu chung của mơn Ngữ văn ở THPT là trên cơ sở đã
đạt được của chương trình Ngữ văn THCS, bồi dưỡng thêm một bước năng lực Ngữ
văn cho học sinh, bao gồm năng lực đọc hiểu các văn bản thơng dụng (văn, thơ,
truyện), năng lực viết một số văn bản thơng dụng... đồng thời cung cấp một hệ thống
tri thức về văn học dân tộc và văn học thế giới (Bộ Giáo dục & Đào tạo, Ban liên lạc
các trường Đại học sư phạm tồn quốc, Kỷ yếu Hội thảo khoa học đổi mới nội dung
và phương pháp dạy học ở các trường Đại học sư phạm, Hà Nội 2004). Học sinh ln
tiếp xúc trước hết với văn bản và chính vì thế mà định hướng phương pháp đọc hiểu
là vơ cùng cần thiết.
1.1.4. Đáp ứng u cầu đổi mới hình thức, phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá
kết quả giáo dục, từ những năm gần đây, trong các kì thi THPT quốc gia, thi học sinh
giỏi các cấp, đề thi mơn Ngữ văn đã thay đổi. Đổi mới cả nội dung thi và cách thức
hỏi nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển năng lực và khả năng vận dụng văn chương vào
thực tế cuộc sống...
1.1.5. Thực tế cho thấy, học sinh Chun Văn khơng chỉ lĩnh hội văn bản trong
chương trình SGK hiện hành mà tự bản thân mỗi học sinh phải biết cách lĩnh hội tri
thức các văn bản ngồi chương trình, có vậy mới đáp ứng được địi hỏi của xã hội và
thích ứng với các kì thi nhất là kì thi học sinh giỏi cấp quốc gia. Nhưng khả năng tự
đọc hiểu văn bản của các em cịn rất hạn chế, nhất là với những văn bản mới chưa
được học. Vì vậy cần có sự hướng dẫn của giáo viên để học sinh có những kĩ năng cơ
bản khi đọc hiểu các văn bản ngồi chương trình với từng thể loại, dạng bài cụ thể.
Bộ SGK lớp 10 Nâng cao có hai bài học Đọc hiểu văn bản văn học và Đọc
hiểu văn bản trung đại nhưng thiết nghĩ như thế vẫn chưa đủ để có thể giúp học
sinh khái qt kiến thức và áp dụng cho mọi loại văn bản.
Xuất phát từ những lý do căn bản trên đây, chúng tơi quyết định chọn vấn đề Rèn
kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm ngồi chương trình cho học sinh Chun Văn làm vấn
đề nghiên cứu.
2
Chúng tơi hi vọng đây là một tài liệu cần thiết, bổ ích dành cho giáo viên Ngữ văn
và học sinh THPT, nhất là học sinh học các lớp chun văn nhằm nâng cao chất lượng
dạy học, nâng cao hiệu quả ơn luyện thi.
1.2. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm
Xuất phát từ thực trạng đã nêu, trên cơ sở kế thừa, phát huy thành tựu nghiên cứu
của những người đi trước, chọn đề tài Rèn kỹ năng đọc, hiểu tác phẩm ngồi
chương trình cho học sinh Chun Văn chúng tơi hướng tới mục đích cơ bản sau:
giúp các em có kĩ năng đọc hiểu để nắm vững những kiến thức liên quan đến những
văn bản mới lạ, định hướng các bước đọc hiểu văn bản và cung cấp một số văn bản
ngồi chương trình để các em luyện tập. Nhờ đó, học sinh sẽ hồn tồn tự tin, chủ động,
sáng tạo trong q trình lĩnh hội.
3
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề
2.1.1 Khái niệm đọc hiểu văn bản
Đọc hiểu văn bản là tiến trình thẩm thấu cảm nhận những nét nghĩa mà văn bản
gợi ra cho người đọc. Qúa trình đó u cầu người đọc phải phát huy tối đa trí tưởng
tượng và trở thành bạn đọc sáng tạo để hiểu và tìm ra chân lí.
Đọc tác phẩm văn chương là một q trình phát hiện và khám phá nội dung ý
nghĩa xã hội, con người, thời đại trong cấu trúc hình tượng thẩm mĩ của tác phẩm đan
xen giữa hoạt động nhận thức, đánh giá và thưởng thức giá trị đích thực tồn tại trong
hình thức nghệ thuật độc đáo của tác phẩm.
Tác giả Nguyễn Thanh Hùng quan niệm: Đọc khơng phải chỉ là tái tạo âm thanh
từ chữ viết mà cịn là q trình thức tỉnh cảm xúc, q trình tri giác và nhuần thấm tín
hiệu để giải mã ngơn ngữ, mã nghệ thuật, mã văn hóa đồng thời với việc huy động
vốn sống, kinh nghiệm cá nhân người đọc để lựa chọn giá trị tư tưởng thẩm mĩ và ý
nghĩa vốn có của tác phẩm. Đọc là chúng ta đón đầu những gì mình đang đọc qua từng
từ, từng câu, từng đoạn rồi quay lại về với những gì đọc qua để kiểm chứng và đi tìm
hợp sức của tác giả để tác phẩm được tái tạo trong tính cụ thể và giàu tưởng tượng.
Độc giả là người đồng sáng tạo với nhà văn, có khác chăng là nhà văn đi từ tư tưởng
4
đến ngơn ngữ, cịn người đọc lại đi từ ngơn ngữ đến tư tưởng, để rồi có những sáng
tạo, phát hiện và cảm nhận mà chính người viết cũng khơng thể ngờ tới.
Quan niệm về đọc hiểu của PISA: Đọc hiểu là sự hiểu biết, sử dụng và phản
hồi lại trước một văn bản viết, nhằm đạt được mục đích, phát triển tri thức và tiềm
năng cũng như việc tham gia hoạt động của một ai đó trong xã hội
Nếu như đọc là sự tiếp xúc văn bản về mặt ngơn từ, câu chữ trực tiếp thì hiểu
được coi là sự tiếp xúc văn bản về mặt bên trong, tức là những nội dung tiềm ẩn.
Hiểu tức là nắm vững và vận dụng được. Hiểu tức là biết kĩ và làm tốt. Hiểu một đối
tượng khơng chỉ dừng ở quan sát, nắm bắt cái bề ngồi.
Bản chất của hoạt động đọc hiểu văn bản là q trình lao động sáng tạo mang
tính thẩm mĩ nhằm phát hiện ra những giá trị của tác phẩm trên cơ sở phân tích đặc
trưng của văn bản.
Năng lực đọc hiểu, một năng lực bao gồm các năng lực cảm nhận, lí giải, thưởng
thức, ghi nhớ và đọc nhanh mà năng lực lí giải là quan trọng nhất. Đọc hiểu là hoạt
động duy nhất để học sinh tiếp xúc trực tiếp với các giá trị văn học, tránh sự áp đặt từ
bên ngồi kể cả từ thầy cơ, ngăn chặn được sự suy giảm năng lực đọc của học sinh
trong điều kiện các phương tiện nghe nhìn ngày càng phổ biến... Điều này rất phù hợp
với quy luật tiếp nhận văn học và quy luật phát triển tư duy cũng như sự hình thành
nhân cách.
2.1.2. Khái niệm năng lực đọc hiểu
Năng lực đọc hiểu văn bản là tổng hợp những khả năng hiểu, cảm thụ và lĩnh
hội cũng như chiếm lĩnh, trở thành người viết thứ hai, bạn đọc sáng tạo, khả năng
phân ích chi tiết và khái qt thành chủ đề cũng như phát triển nghĩa mới của văn bản.
Có thể quan niệm năng lực đọc hiểu văn bản là tồn bộ q trình tiếp xúc trực
tiếp với văn bản; là q trình phản hồi, sử dụng văn bản.
Đọc hiểu khơng chỉ thơng hiểu đúng nội dung thơng tin của văn bản mà cịn phải
hiểu cả vai trị, tác dụng của các yếu tố hình thức của văn bản trong việc biểu đạt nội
dung, nhất là với văn bản văn học.
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân, năng lực đọc hiểu sẽ bao
gồm 4 thành tố/ kĩ năng thành phần là:
Xác định các thơng tin từ văn bản về tác giả, hồn cảnh sáng tác, cốt truyện, ý
tưởng, thơng điệp...
5
Phân tích, kết nối các thơng tin để xác định giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật
của văn bản, từ văn bản.
Phản hồi và đánh giá văn bản: phản hồi, đánh giá thơng tin thể hiện trong văn
bản và qua văn bản từ kinh nghiệm cá nhân.
Vận dụng thơng tin từ văn bản vào thực tiễn; sử dụng các thơng tin trong văn
bản để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong học tập và trong đời sống.
2.1.3. Mục đích, vai trị của đọc hiểu văn bản
Đọc hiểu văn bản là một thuật ngữ mới xuất hiện trong bối cảnh của sự gia
tăng khối lượng tri thức nhân loại theo cấp số nhân. Có hàng trăm nghìn kiểu văn bản
và sách cần đọc. Mỗi người cần tìm ra một phương pháp đọc riêng cho mình để hiểu
sâu về vấn đề quan tâm, biết cách chọn thơng tin phục vụ cho nhu cầu bản thân. Chính
vì điều này mà mơn Ngữ văn trong nhà trường có một vai trị quan trọng trong việc
hình thành thói quen đọc hiểu...Với học sinh chun văn phải tự trang bị cho mình
nhiều tác phẩm ngồi chương trình để có vốn giàu có phục vụ tốt cho q trình lĩnh
hội kiến thức và thi cử. Vì vậy cần phải có một phương pháp đọc hiểu tốt để gặp bất
kì một văn bản mới nào mình cũng biết cách lĩnh hội.
Dạy học đọc hiểu, kiểm tra đọc hiểu là nhằm hình thành năng lực tự đọc hiểu
của học sinh. Khi hình thành năng lực đọc hiểu của học sinh cũng chính là hình thành
năng lực cảm thụ thẩm mỹ, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Năng lực đọc
hiểu của học sinh cịn được hiểu là sự tích hợp những kiến thức và kỹ năng của các
phân mơn cũng như tồn bộ kỹ năng và kinh nghiệm sống của học sinh. Đây là một địi
hỏi bức thiết đối với học sinh chun văn.
Nội dung thơng tin trong các văn bản đọc hết sức phong phú, có liên quan đến
nhiều lĩnh vực của cuộc sống và nhiều môn học khác, do vậy, giúp học sinh có
phương pháp đọc, khả năng tự tìm kiếm thơng tin đa dạng của cuộc sống để đáp ứng
năng lực, sở thích của cá nhân.
2.1.4. Cấu trúc năng lực đọc hiểu văn bản
Đối với văn bản văn học nói chung, năng lực đọc hiểu gồm các u cầu, cấp độ
sau:
Nhận biết văn bản: nhận ra, nhận diện, nhớ lại những kiến thức đã biết, đã
học, đã có sẵn trong văn bản. Nhĩa là nhận biết được nội dung và hình thức bề nổi của
văn bản. u cầu học sinh nhận biết được các chi tiết lộ rõ trên văn bản như: đề tài,
chủ đề, nhan đề, bố cục, thể loại và các hình thức đặc trưng, bối cảnh ra đời, ý chính
6
của mỗi phần, đoạn, văn bản, các chi tiết thuộc nội dung của văn bản, xoay quanh
những câu hỏi như: Văn bản viết về cái gì? Chuyện gì đã xảy ra, với ai, khi nào, ở
đâu?. từ đó nhận biết, giải thích, phân tích, đánh giá đề tài của văn bản...
Thơng hiểu: hiểu và lí giải được đặc điểm, bản chất, ngun nhân của vấn đề;
phải giải thích, phân tích, cắt nghĩa được vai trị, chức năng, ý nghĩa của các yếu tố,
chi tiết và mối quan hệ giữa chúng trong văn bản... Nghĩa là học sinh phải hiểu được
nội dung bề sâu và vai trị của các hình thức trong việc thể hiện nội dung ấy. Với văn
bản văn học, nội dung và hình thức bề nổi nêu trên chỉ là phương tiện để chuyển tải
thơng điệp, ý tưởng bên trong, những nội dung bề sâu mà tác giả khơng thể hiện trực
tiếp, muốn hiểu văn bản, người đọc cần biết phân tích, kết nối thơng tin theo u cầu
và ngun tắc của việc tiếp nhận văn bản văn học. Cụ thể là từ những yếu tố hình
thức nghệ thuật, phân tích, kết nối để thấy rõ nội dung được tác giả gửi gắm trong đó
cũng như ý nghĩa khách quan của văn bản. Đối với văn bản văn học, các yếu tố hình
thức thường được chú ý xem xét như:
+ Nghệ thuật sử dụng ngơn từ, đặc biệt là ngơn ngữ văn học: phân tích, đánh giá
sự phù hợp, nét đặc sắc trong cách dùng từ ngữ, viết câu, vận dụng các biện pháp tu
từ, tổ chức diễn ngơn, các yếu tố thuộc ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết, ngơn ngữ kể
chuyện, ngơn ngữ đối thoại, ngôn ngữ tự nhiên và các phương tiện giao tiếp đa
phương thức.
+ Đặc trưng thể loại: nhận biết, miêu tả, phân tích, so sánh, đánh giá các yếu tố
văn học như bối cảnh, tứ thơ, cốt truyện, nhân vật, xung đột, màn kịch... trong các văn
bản thuộc các thể loại cơ bản như: thơ, truyện, kịch, kí....Phân tích, đánh giá sự phù
hợp của thể loại được lựa chọn đối với mục đíchvà đối tượng tiếp nhận của văn bản.
Vận dụng: Vận dụng tri thức, sự hiểu biết vào giải quyết những giá trị mà bản
thân văn bản đó có hoặc giải quyết những tình huống tương tự (vận dụng thấp). Từ
đó, vận dụng các tri thức, kĩ năng đã có vào việc giải quyết tình huống mới, phức tạp.
Đồng thời phản biện, đánh giá vấn đề theo những mục đích nhất định. Có thể bày tỏ
quan điểm riêng về các bất đồng tranh luận hoặc đưa ra được các cách tiếp cận mới, ý
tưởng mới, sản phẩm mới đọc hiểu theo kiểu đồng sáng tạo hay đặt trong sự đối
sánh...( vận dụng cao).
2.1.5. Khung năng lực đọc hiểu văn bản văn học:
7
Có nhiều tiêu chí để chúng ta đánh giá năng lực của học sinh, trong q trình tổ
chức các hoạt động đọc hiểu văn bản và hướng dẫn học sinh tự đọc hiểu, giáo viên có
thể sử dụng khung năng lực đọc hiểu văn bản nói chung như sau:
Thành tố và Những u cầu cụ thể
mức độ
Nhận biết
Phân tích
Lý giải
Đánh giá
Vận dụng
Sáng tạo
Nhận biết được bố cục của văn bản.
Nhận biết được thể loại, thể tài của văn bản.
Nhận biết được các yếu tố ngơn ngữ của văn bản (ngữ âm, từ loại,
biện pháp tu từ, kiểu câu, đoạn, các phép liên kết...)
Nhận biết được đề tài của văn bản
Nhận biết được thơng tin phản ánh, miêu tả trong văn bản (sự vật,
hiện tượng, con người, sự kiện, diễn biến các sự kiện...)
Xác định được cấu trúc của văn bản
Xác định được những hình tượng nghệ thuật chính trong văn bản
Xác định được những yếu tố nghệ thuật then chốt, quan trọng cần lý
giải trong văn bản
Xác định được phương hướng chia tách văn bản, từ đó đi sâu tìm
kiếm, khám phá ý nghĩa của văn bản
Kết nối các thơng tin trong văn bản (ngơn ngữ, hành động của nhân
vật, lời bình của tác giả...) để giải thích các chi tiết nghệ thuậ trong văn
bản.
Kết nối các thơng tin ngồi văn bản (bối cảnh thời đại, tác giả, hồn
cảnh sáng tác, tri thức về thể loại, kiến thức văn hóa, xã hội, kinh
nghiệm cá nhân...) để cắt nghĩa các chi tiết nghệ thuật trong văn bản
Nhận xét về nội dung và nghệ thuật của văn bản.
Bình luận về thơng điệp nghệ thuật của người viết.
Phản biện những nội dung đặt ra trong văn bản.
Rút ra bài học cho bản thân.
Sử dụng các thơng tin trong văn bản vào giải quyết các tình huống
trong cuộc sống.
Khái qt hóa q trình đọc hiểu thành các qui tắc, cách thức, phương
pháp đọc hiểu.
Đọc hiểu được các văn bản tương tự.
Bổ sung những giá trị mới cho văn bản.
8
Viết tiếp văn bản
Chuyển thể loại hình văn bản (đóng vai, kịch bản, biểu diễn...)
Như vậy, dạy học theo định hướng phát triển năng lực nói chung và năng lực
đọc hiểu mơn Ngữ văn nói riêng cho học sinh THPT là những phương pháp và ngun
tắc dạy học tích cực nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, cũng như khả
năng thích ứng với hồn cảnh và giải quyết tình huống mới cho học sinh. Hướng đi
này cần tiếp tục được bổ sung, hồn thiện và triển khai sâu rộng hơn để góp phần
phát triển lý luận dạy học nói chung và mơn Ngữ văn nói riêng, đồng thời tạo ra tiền
đề lý thuyết cho việc đề xuất các biện pháp đổi mới nâng cao chất lượng dạy học tác
phẩm văn chương trong và ngồi nhà trường.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Thực trạng học những tác phẩm ngồi chương trình của học sinh
chun văn.
Ngữ văn là mơn học khơng thể thiếu trong trường học phổ thơng, vì mục tiêu
quan trọng nhất của nó: bên cạnh việc trau dồi cho các em cách cảm, cách nghĩ về
cuộc sống một cách sâu sắc và nhân văn hơn, là rèn luyện cho học sinh khả năng sử
dụng ngơn ngữ, một phương tiện tư duy và giao tiếp chủ yếu, phổ biến nhất trong xã
hội. Trong bản chất, những mục tiêu này chỉ có thể đạt được kết quả thực sự khi con
người được trải nghiệm trong các tình hưống sư phạm mang tính thực tiễn, khiến các
kiến thức, kĩ năng, cảm xúc khơng phải được trao lại như một món q có sẵn mà trở
thành q trình chủ động nắm bắt, thẩm thấu vào trong nhận thức của các em.
Hành trình sáng tạo của người nghệ sĩ là một hành trình khám phá thế giới và
chính bản thân mình qua sự trải nghiệm cá nhân. Người đọc văn là người đi lại, đi
tiếp, thậm chí đơi khi đi ngược hành trình trải nghiệm của tác giả nhưng dù theo
hướng nào, sự sâu sắc trong vốn sống cũng khiến anh ta có thể chia sẻ, khám phá sâu
hơn vào thế giới nghệ thuật của nhà văn: q trình tiếp nhận văn bản của anh ta chắc
chắn sẽ khơng dừng lại ở câu chữ hay một vài hình ảnh, mà một vùng ký ức với
những xúc cảm sâu xa, phổ vào câu chữ cái thế giới sinh động, ám ảnh, trong đó ngơn
từ nh đi nhường chỗ cho ấn tượng và kỉ niệm. Như thế, văn của tác giả đã sống
trong người đọc bằng một điệu sống khác, đọc văn khơng chỉ để hiểu biết mà cịn để
sẻ chia. Một khía cạnh ngược lại, với những người ít trải nghiệm, sự thâm nhập vào
thế giới hình tượng văn học có thể là cơ hội để họ kinh qua những cảnh đời, những
xúc cảm chưa một lần biết tới, cũng là cách để những trang văn lấp đầy khoảng
9
khuyết thiếu, làm phong phú hơn kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Suy cho cùng, sự trải
nghiệm với người đọc văn mang tính chất hai chiều: sống sâu sắc để đọc được những
ẩn ý của văn chương và đọc những ẩn ý của văn chương để hiểu về những lẽ sâu sắc
của cuộc đời.
Người học văn là một dạng người đọc đặc biệt: người đọc được định hướng,
và trong những phạm vi nhất định, cịn là người đọc được lập trình theo một khung
chương trình cơ bản cấp quốc gia. So với những người đọc khác, người đọc văn ở
cấp độ này ít kinh nghiệm sống hơn, nhưng lại có những cảm xúc tươi mới, cái nhìn
năng động, sáng tạo mà đơi khi những người đi trước khơng cịn giữ được. Giáo viên
dạy văn cần phải chú ý đặc điểm này để có thể định hướng người học ở một chừng
mực vừa đủ: khơng cảm thụ thay các em (vì điều này sẽ khiến các em vơ cảm trước
tác phẩm), nhưng cũng khơng hồn tồn phó mặc để cho các em đánh giá tác phẩm một
cách tuỳ tiện.
Tất nhiên, đối với chúng ta, biết thế nào là “vừa đủ” thật khơng phải dễ. Hệ
quả là, trong những năm gần đây, thực trạng dạy học văn ở nước ta đang ở mức độ
báo động: nhiều học sinh quay lưng lại với mơn Văn. Thiết nghĩ để học sinh u thích
mơn Văn và các tác phẩm văn học, người dạy cần trở lại với vấn đề bản chất của
việc đọc văn: đọc văn là trải nghiệm để có thể tạo một mơi trường tích cực cho
người học thực sự được hồ mình vào tác phẩm. Có thể có những giới hạn về khơng
gian và thời gian giữa tác giả, tác phẩm và người đọc, song nhìn trong bản chất, những
vấn đề sâu xa nhân bản vốn khơng có ranh giới phân chia. Cảm xúc trước hoa hồng
của một nghìn năm trước và một nghìn năm sau cơ bản vẫn là sự rung cảm trước cái
đẹp, quan trọng là người ta có cơ hội để gặp gỡ và ngắm thưởng hoa. Chỉ khi nào học
sinh tự thấy mình u ghét, nói lên những cảm xúc bằng ngơn ngữ của mình chứ
khơng phải bằng lời của người khác, khi ấy việc học Ngữ văn mới thực sự có ý nghĩa.
Chương trình giáo dục phổ thơng hiện nay đã dạy học đọc hiểu và cho học sinh
tiếp cận theo định hướng năng lực. Đặc biệt học sinh chun văn đã quen thuộc với
việc dạy đọc hiểu ở các văn bản. Song thực chất mới chỉ dừng lại ở việc dạy học
sinh đọc hiểu và tiếp cận văn bản một cách đơn thuần, đơn lẻ, học bài nào biết bài đó
mà chưa tập trung chú ý hướng vào rèn kĩ năng đọc hiểu theo đặc trưng thể loại, theo
chủ đề. Việc dạy học đọc hiểu với bộ mơn Ngữ văn chưa thực sự đồng bộ. Chúng tơi
chưa có điều kiện khảo sát nhận thức về đọc hiểu bằng phiếu điều tra ở các trường
THPT Chun trong khu vực và trên cả nước. Chúng tơi chỉ mới điều tra bằng phỏng
10
vấn học sinh trong tỉnh nhà với 03 lớp Chun Văn thuộc ba khối lớp 10, 11, 12 của
Trường THPT Chun và một số học sinh trong Đội tuyển học sinh giỏi cấp tỉnh của
một số trường THPT lân cận, chúng tơi thu được kết quả như sau:
Với câu hỏi 1: Em đã được học mơn Ngữ văn theo cách đọc hiểu từ khi nào?
Cảm nhận của em về cách học đó? Phần lớn các em trả lời được học từ Tiểu học,
một bộ phận nhỏ trả lời được học từ THCS. Hầu hết các em đều khẳng định: học văn
theo phương pháp mới này rất hay và bổ ích, giúp em tiếp thu tác phẩm dễ dàng, khắc
sâu kiến thức, liên hệ được với thực tiễn cuộc sống.
Trong câu hỏi 2: Khi đọc hiểu một văn bản trên lớp, em thường chú ý đến những
vấn đề gì xung quanh văn bản? Học sinh đều trả lời: các em thường chú ý tới tác giả,
hồn cảnh ra đời, đề tài, thể loại, giá trị nội dung, nghệ thuật, đóng góp của tác giả.
Ở câu hỏi 3: Từ việc đọc hiểu một văn bản trong chương trình, em có thể đọc
hiểu những văn bản tương tự ngồi SGK khơng? Nhiều học sinh trả lời: các em khó có
thể đọc hiểu được những văn bản tương tự ngồi SGK bởi các em khơng biết đi từ
thao tác nào. Một số ít em có thể tự đọc hiểu được vì dựa vào cấu trúc, thể loại giống
những văn bản đã được học để đọc hiểu vì chỉ cần nắm vững những kiến thức, kĩ
năng cơ bản về thể loại đó là có thể đọc hiểu được. Điều đó cho thấy, nếu người dạy
biết chú ý vào kĩ năng đọc hiểu từng thể loại và năng lực của học sinh sẽ có thể khơi
dậy ở các em khả năng đọc hiểu văn bản ngồi chương trình SGK.
* Về phía học sinh:
Học sinh tiếp thu kiến thức một cách rời rạc, hoặc chỉ có mối liên hệ tuyến tính
một chiều học thụ động.
Trình độ nhận thức sau q trình học tập thường chỉ dừng lại ở trình độ nhận
biết, hiểu và vận dụng giải quyết các bài tập mà chưa vận dụng vào thực tiễn đời
sống. Vì vậy khi gặp văn bản ngồi chương trình thì nhiều em lúng túng, khả năng vận
dụng để đọc hiểu chưa có hoặc có nhưng chưa cao.
Kết thúc một giai đoạn văn học, một khuynh hướng, thời đại…học sinh chỉ có
kiến thức từng phần riêng biệt hoặc có hệ thống kiến thức liên hệ tuyến tính theo trật
tự các bài học mà khơng có một tổng thể kiến thức mới theo chủ đề.
Một số đơn vị kiến thức cịn xa rời thực tiễn mà người học đang sống do sự chậm
cập nhật của nội dung SGK. Nhiều học sinh lười đọc nên kiến thức thường hạn hẹp
trong chương trình, nội dung học. Hơn nữa, nhiều học sinh chưa chủ động, tích cực
trong việc gắn kiến thức bài học với thực tiễn như: giao tiếp, hợp tác…
11
* Về phía giáo viên:
Chương trình Ngữ văn trong SGK chưa sắp xếp các văn bản theo chủ đề, vẫn học
theo đơn vị bài học riêng lẻ. Hơn nữa nhiều văn bản chỉ là đoạn trích khơng phải văn
bản hồn chỉnh vì vậy giáo viên rất khó khăn trong việc hình thành kĩ năng đọc hiểu
cho học sinh với từng dạng văn bản cụ thể.
Một số giáo viên chưa dám đột phá trong việc dạy học, đã có sử dụng phương
pháp hiện đại và phương tiện hỗ trợ dạy học song hiệu quả chưa cao.
Một số giáo viên chưa chú ý đến việc phát triển năng lực đọc hiểu cho học sinh vì
thế vẫn cịn nặng về nội dung kiến thức .
Do áp lực về thời gian, giới hạn chương trình nhiều giáo viên trong các giờ học
thường ưu tiên tập trung khai thác chiều sâu văn bản. Theo đó, trong q trình lên lớp
vấn đề tích hợp ít được quan tâm, chưa tạo cho học sinh thói quen xâu chuỗi; liên hệ
với kiến thức có liên quan nên chưa phát huy hết tính chủ động tích cực sáng tạo trong
giờ dạy văn cho học sinh, chưa tổ chức được những giờ học thật sự sáng tạo, gây
hứng thú đối với học sinh.
Giáo viên chưa được đào tạo chun sâu về đổi mới phương pháp dạy học tích
cực, hiện đại; có tập huấn chun mơn nhưng khơng thường xun, đơi khi cịn qua
loa.
2.2.2. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
2.2.2.1. Định hướng lựa chọn những tác phẩm ngồi chương trình phù hợp với lớp
chun văn
Lựa chọn văn bản là vấn đề đầu tiên và cũng là vấn đề cốt lõi để nâng cao kĩ năng
đọc hiểu cho học sinh chun văn. Đối với các em học sinh chun văn các tác phẩm
trong chương trình đều được giáo viên hướng dẫn khai thác sâu, kĩ nhưng các em vẫn
cịn bị động và lúng túng khi đọc hiểu những tác phẩm khơng có trong chương trình.
Nói cách khác các em có thể viết rất sâu và rất hay về những tác phẩm được học song
lại hồn tồn lúng túng trước những tác phẩm lạ. Thực tế này báo động rằng, học sinh
nói chung, ngay cả học sinh chun văn nói riêng vẫn cịn yếu về kĩ năng đọc hiểu, các
em vẫn chưa thể trở thành những độc giả độc lập. Vì thế việc rèn cho học sinh kĩ
năng đọc hiểu những tác phẩm mở rộng ngồi chương trình là điều cần thiết. Bước
đầu tiên đó là định hướng lựa chọn văn bản để các em đọc. Vậy nên lựa chọn những
văn bản như thế nào để giúp học sinh tự đọc hiểu ngồi giờ? Sau đây chúng tơi đưa ra
một số cách định hướng:
12
a. Lựa chọn các văn bản ngồi chương trình có cùng đề tài với các tác phẩm trong
chương trình được học.
* Bước 1: Giáo viên hướng dẫn học sinh trong lớp liệt kê các tác phẩm theo đề
tài có trong chương trình. Xét theo chương trình hiện hành, các tác phẩm được học
chủ yếu thuộc các đề tài chính như:
Đề tài người phụ nữ: Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, Cung ốn ngâm, Độc
Tiểu Thanh kí, Thơ Hồ Xn Hương
Đề tài người nơng dân: Chí Phèo, Vợ nhặt, Vợ chồng A Phủ…
Đề tài cách mạng: Thơ Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Quang Dũng…
Đề tài chiến tranh: Những đứa con trong gia đình, Rừng xà nu, Hịn đất…
Đề tài đời tư, thế sự: Chiếc thuyền ngồi xa, Hồn Trương Ba, da hàng
thịt…
* Bước 2: Giáo viên giới thiệu một số tác phẩm có cùng đề tài để học sinh tìm
hiểu. Như đề tài người phụ nữ giới thiệu thêm các tác phẩm khác của: Nguyễn Du,
Bạch Cư Dị, của văn học đương đại; Đề tài người nơng dân, giáo viên giới thiệu
thêm các tác phẩm của Ngun Hồng, Ngơ Tất Tố, Nguyễn Cơng Hoan, tác phẩm
Lỗ Tấn…; Đề tài thế sự hậu chiến giáo viên có thể giới thiệu tác phẩm Tiếng lục
lạc của nhà văn Nguyễn Quang Lập…
b. Lựa chọn những tác phẩm khác của những tác giả nổi tiếng trong chương
trình.
* Bước 1: Giáo viên cho học sinh lập danh sách những tác giả lớn, có những tác
phẩm quan trọng được học trong chương trình như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Nguyễn Dữ, Hồ Xn Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Thạch Lam, Nguyễn Tn,
Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xn Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Puskin, Sekhop,
Seechxpia, V. Huy – gơ…
* Bước 2: Giáo viên giới thiệu các tác phẩm khác cùng thuộc các tác giả này để
học sinh đọc mở rộng. Lưu ý nên để các em tự lựa chọn đọc tác giả nào mà các em
thấy cần bổ sung kiến thức nhiều hơn.
c. Lựa chọn những tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng trên thế giới
* Bước 1: Giáo viên cho học sinh tìm hiểu và lập danh sách các nhà văn nổi
tiếng trên thế giới.
13
* Bước 2: Giáo viên giới thiệu các tác phẩm cần đọc của các tác giả nổi tiếng
đó. Cũng như trên, nên để các em tự lựa chọn các tác phẩm của tác giả mà các em
u thích, khơng nên áp đặt gây mất hứng thú cho q trình đọc của học sinh.
d. Lựa chọn những tác phẩm đã đạt giải thưởng lớn trong nước cũng như thế
giới.
* Bước 1: Giáo viên cho học sinh về nhà tìm hiểu và lập danh sách các tác phẩm
lớn gây được tiếng vang trong nước và thế giới.
* Bước 2: Giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh lựa chọn các tác phẩm mình
u thích để đọc và tìm hiểu.
Q trình lựa chọn nguồn đọc như vậy sẽ đảm bảo được tính ứng dụng thiết
thực nhất cho các em học sinh nhất là học sinh chun văn. Những văn bản này sẽ
trở thành cơng cụ trợ giúp đắc lực cho các em trong q trình học và nâng cao chất
lượng bài viết cho học sinh. Thực tế kiến thức của học sinh chun văn lâu nay vẫn
cịn đơn điệu, nghèo nàn thì việc định hướng cho học sinh tìm hiểu văn bản theo
những gợi ý như trên sẽ khắc phục được hạn chế đó. Ngồi ra cũng có thể khuyến
khích cho học sinh đọc tự do theo ý thích nếu các em đã hồn thành cho mình những
nội dung mà giáo viên đã định hướng.
2.2.2.2. Định hướng một số kĩ năng đọc hiểu tác phẩm ngồi chương trình cho
học sinh chun văn.
Muốn đọc hiểu một tác phẩm văn học nói chung đều nên thơng qua một q
trình gồm ba giai đoạn: Trước khi đọc, trong khi đọc và sau khi đọc. Ở mỗi giai đoạn
này cần làm sao để học sinh phát huy được tối đa năng lực của mình để hiểu và tìm ra
được thơng điệp của văn bản, từ đó rút ra được những tri thức mới, làm giàu thêm ý
nghĩa của văn bản, trở thành bạn đọc sáng tạo. Vì thế trong chương định hướng đọc
hiểu văn bản văn học ngồi chương trình cho học sinh chun văn, chúng tơi sẽ đi
hướng dẫn cụ thể các hoạt động mà người đọc cần thực hiện trong từng giai đoạn để
có thể chiếm lĩnh được văn bản một cách sâu nhất.
a. Rèn kĩ năng tr
ước khi đọc hiểu một tác phẩm
* Xác định mục tiêu đọc
Cái đích cuối cùng và cốt lõi để đọc một văn bản là hiểu nó. Kết quả của việc
hiểu đến đâu lại phụ thuộc vào định hướng tiếp cận, vào mục tiêu cụ thể của học
sinh khi đến với tác phẩm. Vậy trước hết, học sinh cần giải quyết được câu hỏi
14
“Mình đọc để làm gì?” sẽ giúp học sinh căn cứ trên mục tiêu mà điều chỉnh q trình
đọc cho phù hợp. Nói cách khác, học sinh xác định lý do, mục đích đọc là bước khởi
đầu quan trọng. Tại sao phải làm như vậy? Điều này sẽ giúp các em có thể tương tác
thành cơng với tác phẩm. Thơng thường, khi các em tìm đến các tác phẩm ngồi
chương trình thì có nhiều mục đích đọc khác nhau. Đọc để giải trí, đọc để tìm kiếm
thơng tin cho một nội dung nghiên cứu, đọc để thưởng thức, đọc để tranh luận, chia sẻ
với bạn bè… Riêng đối với học sinh chun văn thì đọc chủ yếu để mở rộng kiến
thức, để học, để nâng cao chất lượng bài viết. Vì thế việc xác định mục tiêu đọc lại
càng cần thiết. Trước hết sẽ tiết kiệm thời gian, học sinh sẽ xác định chỗ nào cần đọc
kĩ, chỗ nào cần đọc lướt chứ khơng phải cứ đọc tuần tự theo trật tự tuyến tính. Khơng
những vậy xác định mục đích đọc sẽ giúp cho hoạt động cắt nghĩa tác phẩm hiệu quả
hơn. Ví dụ khi các em xác định mục tiêu đọc là để học, để cắt nghĩa được tác phẩm
thì mục tiêu này địi hỏi người đọc ở q trình hai: Đó là q trình đọc, sẽ phải đọc
sâu hơn, phải kết nối được các yếu tố, suy luận từ vấn đề này qua vấn đề khác. Từ
đó q trình đọc sẽ diễn ra chậm hơn, để học sinh cảm nhận được tiếng lịng của tác
giả, lắng nghe được nhạc tính, âm điệu mà tác phẩm đem đến cho đọc giả.
Như vậy điều quan trọng trước tiên là học sinh cần xác định mục tiêu đọc để có
cách đọc sao cho phù hợp nhất với mình và có được sản phẩm đọc đạt u cầu trong
q trình học tập. Khi học sinh ý thức được vai trị của mục tiêu và hồn thành các
mục tiêu trong bài đọc cụ thể dần dần sẽ giúp học sinh hình thành kĩ năng đọc đúng
mục tiêu cho q trình đọc sau này. Tức là bắt đầu vào trang sách là các em biết được
mục tiêu mình cần cái gì, đọc để làm gì. Tất nhiên, trong thực tế đọc, mục tiêu đọc có
thể thay đổi so với dự kiến khi học sinh tương tác với tác phẩm và người đọc hồn
tồn có được kết quả đọc vượt xa với mong muốn ban đầu. Điều này phụ thuộc vào
tiềm năng tạo nghĩa của văn bản và độc giả.
* Huy động tích cực những tri thức, trải nghiệm đọc hiểu
Bất cứ một độc giả nào khơng riêng gì các em học sinh khi muốn hiểu một tác
phẩm văn học cũng rất cần biết huy động một cách tích cực các kiến thức nền, hay là
các trải nghiệm đọc hiểu của mỗi cá nhân đã có từ trước đó. Tri thức nền hay những
trải nghiệm đọc hiểu này tùy thuộc vào từng cá nhân, song chúng tơi có thể quy về
mấy vấn đề chính như: Tìm hiểu về đặc trưng thể loại trước khi đọc, về bối cảnh xã
hội, văn hóa khi sáng tác, những thơng tin về tiểu sử, những câu chuyện về con người,
15
những giai thoại văn chương của tác giả, hoặc là những đánh giá, nhận xét của những
độc giả khác khi đọc tác phẩm ấy. Như vậy khi cầm một quyển sách trên tay, độc giả
có kinh nghiệm sẽ khơng ngấu nghiến đọc ngay. Họ có thể nhìn vào tiêu đề Ngọn
đèn mờ (Nguyễn Thanh Hùng) của văn bản. Họ nhìn vào tên tác giả gắn với tác phẩm
– xa lạ hay thân thuộc, đã quen chưa hay thực sự mới gặp lần đầu. Họ nhìn lướt qua
xem dung lượng dài ngắn thế nào, ít hay nhiều đối thoại. Họ quan tâm xem mục lục
có bao nhiêu phần. Họ lật qua một số trang, nhìn vào các đoạn nhỏ…Những yếu tố
này sẽ giúp họ gợi lại những hiểu biết có liên quan, tạo tâm thế sẵn sàng cho việc
đọc, làm dễ dàng hóa q trình đọc hiểu, khiến độc giả tương tác sâu sắc với văn bản
trong q trình đọc, tạo ra những kết nối, những suy luận sâu sắc, từ đó đạt được mục
đích lớn nhất đặt ra của việc đọc – đó là hiểu được văn bản. Nhưng đáng tiếc là
những độc giả thiếu kinh nghiệm, thiếu kĩ năng như một số học sinh lười đọc lại
thường bỏ qua khâu này.
b. Rèn kĩ năng trong khi đ
ọc hiểu một tác phẩm
Sự trải nghiệm đọc hiểu chỉ thực sự diễn ra khi bạn đọc bắt đầu tương tác với
văn bản. Tất nhiên những tri thức nền vẫn tiếp tục được huy động, song đây là giai
đoạn đọc thể hiện rõ nhất bản chất phức tạp, năng động, phát triển khơng ngừng của
hành động đọc và sự sáng tạo của chủ thể đọc ở mọi phương diện. Các thao tác tư
duy, các khả năng nhận thức, siêu nhận thức, các cung bậc cảm xúc …đan xen, phức
hợp vào nhau để giúp người đọc phản hồi lại văn bản. Tuy vậy, chúng tơi có thể đưa
ra những hành động cơ bản mà học sinh cần được trải nghiệm trong q trình đọc như
sau:
* Giải mã, nhận biết những thơng tin và đặc điểm chính về văn bản.
Giải mã ngơn từ là bước quan trọng đầu tiên giúp người đọc thâm nhập vào thế
giới thơng tin của văn bản. Khả năng đọc trơi chảy từng là tiêu điểm nghiên cứu để
phát triển năng lực đọc hiểu văn bản văn học, đặc biệt là đối tượng học sinh tiểu học.
Cịn với học sinh THPT và đặc biệt học sinh chun văn, khả năng giải mã về cơ bản
đã hồn thiện, đối với những mã ngơn ngữ khơng quen thuộc, có thể dựa vào văn cảnh
và chủ động tìm kiếm, vận dụng các nguồn thơng tin hỗ trợ, từ đó hiểu ngơn từ của
văn bản, nắm bắt được nghĩa các từ khó (Các từ Hán Việt, các từ mang nghĩa đặc biệt
trong văn cảnh, các điển tích, điển cố…); Xác định cấu trúc tổng thể của văn bản như
16
thể loại, bố cục, đề tài…; Xác định các chi tiết hình ảnh, từ ngữ, đoạn văn quan trọng
tập trung thể hiện chủ đề văn bản. Người đọc cũng khơng được bỏ qua khâu giải
nghĩa những từ khó, chưa biết, nếu trường hợp từ khó đã có đánh dấu để giải thích ở
cuối sách thì đọc được dễ dàng, trường hợp từ khó đó khơng được cắt nghĩa ta cũng
cần có những sách, cơng cụ giải mã như: Từ điển, google, thuật ngữ văn học…Một
độc giả thành thạo họ sẽ khơng bỏ qua khâu quan trọng này. Họ cũng khơng đọc các
thơng tin đó thuần túy là phát lên tín hiệu âm thanh từ câu chữ. Họ biết gắn nội dung
chú thích, giải nghĩa đó vào các từ ngữ, điển tích, điển cố đang hiện lên trang văn bản
để xem thực sự kí hiệu chữ viết và tín hiệu âm thanh đó là gì từ đó người đọc sẽ lý
giải được nghĩa văn bản, tránh trường hợp đọc xong văn bản mới quay ra tìm từ khó
để giải nghĩa lúc ấy văn bản đi một nơi, chú thích, từ khó đi một nẻo sẽ khơng hỗ trợ
cho q trình để đọc và hiểu được văn bản.
Tuy nhiên, ở mỗi thể loại có cách giải mã, nhận biết thơng tin, đặc điểm chính
của văn bản khơng giống nhau. Ví dụ trong q trình đọc thơ trữ tình ta cần chú ý đến
thể thơ, chủ thể trữ tình, cảm xúc, âm hưởng chủ đạo; Đọc truyện cần nhận diện
được tình huống truyện, nhân vật chính, nắm các sự kiện tiêu biểu…Trong khi đó, với
văn bản thơng tin, một trong số những u tố đáng quan tâm khi giải mã về đặc điểm
hình thức trình bày như: cách thức tổ chức văn bản thành từng chương, phần hay
những đoạn nhỏ có liên kết với nhau theo quan hệ nhân – quả, so sánh, liệt kê, phân
loại…với những tiêu đề, tiểu mục mang tính chất khái qt giúp người đọc dễ theo
dõi, cũng giống như văn bản văn học, văn bản thơng tin cũng có nhiều thể loại, tri
thức nền về các thể loại cụ thể có định hướng quan trọng trong suốt q trình đọc
hiểu.
* Tập trung khi đọc
Tập trung khi đọc là cách tốt nhất để người đọc có thể suy nghĩ cặn kẽ, tư duy
tích cực và ghi nhớ nội dung văn bản. Để tập trung được, người đọc cần nỗ lực tạo
cảm hứng cho bản thân trước khi đọc. Đồng thời cần chọn một khơng gian n tĩnh,
thống mát, có ánh sáng, đọc trong tư thế thoải mái nhưng khơng nên nằm vì theo
nghiên cứu nằm đọc sẽ rất hại mắt và ảnh hưởng đến khả năng ghi nhớ nội dung văn
bản trong q trình đọc.
17
Tuy nhiên tập trung cần đi kèm với có kĩ thuật đọc. Kỹ thuật phải được rèn
luyện thường xun để đạt được hiệu quả tốt nhất. trong khi đọc, có một số điểm
bạn cần phải chú ý:
+ Đọc bằng mắt và óc chứ khơng đọc bằng miệng.
+ Tránh đọc nhảy trở lại q nhiều.
+ Chuyển động mắt theo chiều thẳng đứng khi đọc.
+ Đọc với tốc độ biến đổi: Đoạn nào quan trọng thì đọc chậm, đọc kĩ; đoạn nào
khơng quan trọng thì đọc nhanh, đọc lướt.
+ Cố gắng hiểu ý nghĩa của cả đoạn văn, đừng để ý đến từ, đến câu.
+ Tập đọc nhanh, nắm và thâu tóm nhanh cái chủ yếu, cái cơ bản của vấn đề.
Bạn cũng nên luyện tập để tăng dần tốc độ đọc. Tuy nhiên đọc nhanh khơng có
nghĩa là đọc ngấu nghiến, vội vàng mà đọc nhanh là tóm thật nhanh, đủ, đúng nội
dung. Bạn nên phán đốn trước khi đọc, nếu đã có mục đích đọc thì phần nào quan
trọng bạn đọc kỹ, phần nào khơng quan trọng bạn đọc lướt qua, tránh lối đọc tràn lan
tốn thời gian. Để rèn tốc độ đọc, bạn hãy lấy một quyển sách, chọn một trang đọc
thật nhanh sau đó ghi ra những nội dung mà bạn tóm được. Đọc lại lần nữa để xem
mình đã ghi đủ, đúng nội dung chưa. Rèn luyện như thế thường xun chắc chắn bạn
sẽ nâng cao tốc độ đọc của mình, tiếp thu kiến thức nhanh hơn.
* Tích cực tư duy khi đọc
Hình dung, tưởng tượng
Đây được xem là cơng cụ hữu hiệu mà độc giả có kĩ năng sử dụng trong q
trình đọc hiểu một văn bản. Những kí hiệu nằm phẳng dẹt trên trang giấy nhờ có hình
dung và tưởng tượng mà trở nên có hồn, sống động. Các nhà nghiên cứu đọc trên thế
giới đã chỉ ra rằng ngơn ngữ có ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dưng các hình ảnh trí
não. Tiến sĩ Phạm Thị Thu Hương đã cho rằng: Văn bản văn chương là một hệ thống
mở với cấu trúc đa tầng, cấu trúc ngơn từ là một hiện hữu vật chất mà độc giả tiếp
xúc ở chặng đầu tiên. Phía sau hệ thống câu chữ kết dệt nên văn bản ngơn từ ấy là
thế giới hình tượng được khắc họa sống động “thật hơn cả người thật” mà chìa khóa
để mở cánh cửa ấy khơng gì khác, phải bắt đầu từ hình dung, tưởng tượng . Đọc là q
trình nhập thân, được sống cùng bầu khí quyển với nhân vật, chính hình dung tưởng
tượng sẽ làm cho nhân vật đầy đặn hơn, cho chúng dáng dấp, hình hài, bước ra từ tác
18
phẩm và giao tiếp với độc giả. Vậy làm thế nào để hình dung và tưởng tượng trong
q trình đọc hiểu văn bản? Đây là một vấn đề khơng dễ trả lời. Học sinh khi đọc
một văn bản có thể tự tạo ra trong tâm trí mình một bức tranh, một hồn cảnh mà ở đó
nhân vật, sự kiện văn bản đang diễn ra, rồi từ đó người đọc liên tục đặt ra những câu
hỏi để khuyến khích những hình ảnh trong tưởng tượng được tiếp diễn. Có như vậy
q trình đọc hiểu mới hiệu quả, nội dung văn bản được ghi nhớ sâu sắc và có ấn
tượng lâu dài. Ví dụ khi đọc cảnh chị Dậu phải bán con, bán chó để lấy tiền nộp sưu
tơi cứ hình dung ra cảnh tượng đau lịng của hai mẹ con khi chị đưa cái Tý sang nhà
Nghị Quế. Đó là cảnh một người mẹ đang đứt từng khúc ruột, xót xa như chết đi sống
lại khi phải bán đứa con gái ngoan, hiểu chuyện, một bên là đứa trẻ đáng thương vừa
cúi xuống nhặt những hạt cơm chó, vừa ràn rụa nước mắt khi biết mình từ nay khơng
được trở về nhà. Hai hình ảnh ấy cứ khiến tơi ám ảnh khi đọc tác phẩm này. Tương
tự như vậy, khi đọc Vợ nhặt của Kim Lân, rất nhiều độc giả đã tưởng tượng ra cảnh
buổi sáng hơm sau tại nhà Tràng, trong khơng khí cái đói đe dọa tang thương thì những
con người khốn khổ ấy vẫn cứ hướng về niềm tin, hi vọng. Bắt đầu từ hình ảnh
trong óc Tràng hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phần phật trên con đê Sộp. Cái hình ảnh
ấy đã gieo vào tâm hồn của ba con người khốn khó ấy khao khát sống mãnh liệt và
độc giả cũng có niềm tin hi vọng rằng gia đình họ sẽ thay đổi cuộc sống cùng với sự
đổi đời kì diệu của tồn dân tộc.
Kết nối văn bản với thực tế đọc
Kết nối là q trình tương tác giữa độc giả với văn bản. hay đó cịn gọi là mối
quan hệ hướng ngoại, mối quan hệ giữa văn bản với độc giả. Một độc giả tích cực
như học sinh chun văn khi đọc cần biết kết nối văn bản mình đang đọc với những
văn bản khác đã đọc có liên quan hay có cùng chủ đề. Ví dụ khi đọc Độc Tiểu Thanh
Kí ta cảm nhận rất rõ tiếng lịng đồng cảm sâu sắc của đại thi hào Nguyễn Du với
người con gái tài sắc nhưng bạc mệnh Tiểu Thanh thơng qua mảnh giấy tàn, nhà thơ
như thể nghe thấy tiếng khóc nức nở của nàng, hiểu được sự nghịch lý, trớ trêu của
bao kẻ tài tử giai nhân trong xã hội phong kiến, qua đó lên tiếng địi quyền sống quyết
liệt cho cái đẹp, cái tài trong cái xã hội mà tài năng và sắc đẹp bị dập vùi, ghẻ lạnh.
Từ tiếng khóc, sự tri âm của Nguyễn Du học sinh có thể kết nối với câu chuyện giữa
Bá Nha với Tử Kỳ. Khi tiếng đàn của Bá Nha vang lên là Tử Kỳ có thể nghe thấu
tiếng lịng của người bạn, khi thì như đăng sơn, lúc lại như lưu thủy. Để rồi, với Bá
Nha chỉ có Tử Kỳ mới trở thành tri âm, đến khi Tử Kỳ mất, Bá Nha đập cây đàn khơng
19
bao giờ đánh đàn nữa bởi khơng bao giờ có ai đó có thể tri âm với tiếng đàn của ơng
như người bạn đã qua đời. Cùng chủ đề đồng cảm, tri âm như thế học sinh hồn tồn
có thể kết nối với tiếng lịng đồng cảm được rung lên của Tố Hữu với bậc tiền bối
Tiên Điền năm xưa:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày.
Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu
Một ví dụ khác, khi học sinh đọc tác phẩm Cơ gà mái xổng chuồng của nhà văn
HWang Sun mi, các em sẽ vơ cùng ấn tượng bởi cơ gà mái tự đặt cho mình cái tên là
Mầm Lá có một ước mơ được đẻ và ấp những quả trứng xinh xinh. Đó là khao khát,
là ước mơ mãnh liệt của cơ gà. Và cuối cùng, cơ đã mạnh dạn tìm cách thốt ra khỏi
mơi trường quen thuộc của mình để phưu lưu, tìm kiếm ước mơ, dẫu chặng đường
tìm kiếm mơ ước thật gian nan và vơ cùng khốc liệt nhưng cơ quyết tâm khơng bao
giờ từ bỏ. Và cuối cùng cơ đã đạt được ước mơ, cơ đã ấp trứng dẫu đó khơng phải cái
trứng do cơ tự sinh ra, nhưng cơ đã ni Đầu Xanh lớn lên bằng tình u thương âu
yếm hơn cả của một người mẹ dành cho con mình. Cuối cùng, dẫu phải chịu đựng
nỗi cơ đơn, dẫu phải đối diện với thực tế khó tránh khỏi cái chết nhưng Mầm Lá
chưa bao giờ thấy hối hận vì chuyến phưu lưu, chưa bao giờ hối tiếc vì mình đã mơ
ước và quyết tâm thực hiện nó. Từ văn bản này học sinh có thể kết nối với tác phẩm
rất nổi tiếng khác là Nhà giả kim của nhà văn Paulo Cocelho. Câu chuyện kể về một
cậu bé chăn cừu, khơng chịu bằng lịng với hiện thực bình n, thậm chí có khả năng
khá giả đó là suốt ngày lùa đàn cừu đi chăn rồi nhâm nhi những ngụm rượu vang đỏ,
làm bạn với những cuốn sách và mơ về trời sao, cơ gái con ơng chủ của qn mà cậu
thường đưa cừu đến để xén lơng bán. Một ngày kia, giấc mơ đi tìm kho báu cứ thơi
thúc cậu và cuối cùng cậu đã bỏ lại tất cả để lên đường thực hiện khao khát đó. Cậu
đã trở thành những kẻ lang thang, thậm chí mất trắng, khơng cịn khả năng về được
q hương nhưng cậu vẫn quyết tâm, chấp nhận làm lại sau thất bại và cuối cùng cậu
đã đạt được ước mơ một cách ngoạn mục. Cả hai câu chuyện đều thơi thúc con người
ta đi tìm kiếm ước mơ và nỗ lực để đạt được nó, cho dù có thất bại, cho dù có gian
khổ đến mấy cũng khơng bao giờ bạn phải hối tiếc.
20
Q trình bạn đọc tự kết nối như vậy trong khi đọc hiểu một văn bản văn học
sẽ giúp bạn đọc tạo ra sự cộng hưởng cảm xúc, nối nhịp cầu giao tiếp linh diệu giữa
bạn đọc học sinh với thầy cơ với tác giả. Đây chính là điều quan trọng nhất để mở
rộng vốn đọc cho các em, cho chất văn cho các bài viết của học sinh – điều mà đang là
vấn đề thử thách, gian nan nhất với học sinh chun văn hiện giờ.
Dự đốn
Muốn trở thành một độc giả năng động, sáng tạo học sinh khơng thể chỉ biết bị
động theo dõi diễn biến trong văn bản mà phải ln ln đưa ra những dự đốn để có
thể tiệm cận dần tới văn bản. Có rất nhiều cách sự đốn, có thể dự đốn từ tiêu đề
của văn bản đến các tình tiết diễn biến trong văn bản hay là dự đốn cách kết thúc của
văn bản. Chẳng hạn khi đọc tiêu đề truyện Cơ gà mái xổng chuồng, một truyện dài
nổi tiếng của nhà văn Hwang Su mi, độc giả có thể đốn định câu chuyện kể về một
cơ gà mái đầy cá tính, thích tự do, phiêu lưu và rất mạnh mẽ nhưng khi đọc dự đốn
ấy có phần khơng chính xác vì cơ gà lại là một cá thể rất tình cảm, giàu tình u
thương và giàu ước khát vọng, rất đáng trân trọng. Hay đọc truyện ngắn Đào tẩu,
một truyện ngắn của tác giả người Anh, độc giả có thể dự đốn rằng đây có lẽ là một
câu chuyện trinh thám. Chắc có một kẻ vi phạm pháp luật, bị săn đuổi ráo riết đang
tìm cách trốn thốt, một câu chuyện như vậy hẳn sẽ có rất nhiều tình tiết bất ngờ, gây
thót tim. Song đến với tác phẩm ta lại hồn tồn bị bất ngờ. Vì tác phẩm lại kể về một
anh chàng tên là Roger đã thực hiện một cuộc đào tẩu rất ngoạn mục trước một người
phụ nữ bằng cách đeo mặt nạ ga lăng, lịch thiệp khiến cho người phụ nữ kia cuối
cùng phải rẽ sang một hướng khác.
Vậy dự đốn có khi trúng, khi ấy bạn sẽ chứng tỏ mình là độc giả có trải
nghiệm , hoặc điều đó cho thấy tác phẩm rất quen thuộc, chưa có gì mới mẻ, độc đáo.
Cịn nếu dự đốn của bạn có độ chênh hoặc hồn tồn đối lập với câu chuyện trong
văn bản thì hẳn sẽ đem lại cho bạn rất nhiều thú vị, bất ngờ. Hơn thế điều đó cịn
giúp bạn ngỏ ra nhiều hướng suy nghĩ trong hành trình đi đến việc hiểu thấu đáo về
tác phẩm.
Muốn dự đốn trong q trình đọc hiểu văn bản thì độc giả nên tự đặt ra cho
mình những câu hỏi như:
21
+ Nhân vật này tốt hay xấu?
+ Nhân vật ấy trong tình huống này sẽ làm gì? Nói gì? Phản ứng ra sao?
+ Kết thúc của câu chuyện sẽ như thế nào?
+ Mình mong muốn truyện kết thúc ra sao?
Những câu hỏi như vậy sẽ đem đến cho bạn đọc những hiệu quả bất ngờ, có
khi dự đốn của độc giả cịn hay hơn cả, sáng tạo hơn cả nhà văn. Nhưng muốn dự
đốn được như vậy, người đọc cần phải kích hoạt tư duy, trí tuệ cảm xúc của mình,
nhập thân vào thế giới nghệ thuật trong tác phẩm.
* Giám sát thúc đẩy q trình đọc hiểu
Trong khi đọc hiểu một tác phẩm bất kì ngồi chương trình, học sinh nói chung
kể cả học sinh chun văn nói riêng cũng hay có xu hướng đọc những lúc rảnh rỗi,
đọc cho xong, chưa nhập cuộc với văn bản thật sự, thậm chí, có học sinh chỉ xem qua
loa, đại khái, có tâm lý ngại, lười…Tuy nhiên nên nhớ rằng đọc hiểu cũng khơng phải
là một cơng việc phó mặc hồn tồn cho sự may rủi, được chăng hay chớ. Do vậy một
trong những yếu tố thúc đẩy q trình đọc hiểu được hiệu quả nhất đối với bạn đọc
nói chung chính là q trình giám sát bản thân khi đọc.
Khả năng tự giám sát đọc hiểu của độc giả là người đọc biết tự đặt ra và trả lời
các câu hỏi: Tơi có thật sự hiểu điều tơi đang đọc khơng? Điều tơi hiểu về văn bản
này thực sự đúng đắn hay cịn gì băn khoăn, suy nghĩ thêm? …Q trình tự đặt những
câu hỏi đó sẽ giúp bạn đọc tập trung và thúc đẩy việc đọc hiểu đã đúng hướng hay
cần điều chỉnh thay đổi. Việc tự giám sát này khơng chỉ quan tâm tới những điều đã
được hiểu đúng, hiểu sâu về văn bản mà cịn cần chú ý tới cả những điều ngộ nhận,
sai lầm, hời hợt của bản thân về tác phẩm. Đạt đến mức độ này, người đọc mới thực
sự trở thành bạn đọc độc lập, khơng bị phụ thuộc vào văn bản của tác giả hay những
định kiến, những cách hiểu của người đi trước. Từ đó học sinh mới thốt khỏi những
dẫn dắt của người đi trước để tự mình tìm hiểu một văn bản độc lập. Điều này tránh
được việc đi sao chép, dùng văn mẫu của học sinh hiện nay. Bởi các em hồn tồn có
thể tự mình đọc hiểu được bất kì một văn bản nào ngồi chương trình mà khơng cần
giáo viên hướng dẫn. Đó chẳng phải cái đích cao nhất của việc dạy đọc hiểu hiện nay
sao? Nhưng muốn làm được điều này, học sinh cần sử dụng các chiến thuật đọc hiểu.
22
* Sử dụng các chiến thuật trong q trình đọc
Vai trị của các chiến thuật đối với đọc hiểu văn bản văn học đã được các nhà
nghiên cứu chứng minh rõ ràng. Bởi vậy ở đây chúng tơi khơng đi sâu vào giải thích
khái niệm chiến thuật hay giải thích cách thực hiện từng chiến thuật trong q trình
đọc. Chúng tơi chỉ đưa ra định hướng trong q trình đọc giáo viên nên hướng dẫn học
sinh sử dụng các chiến thuật đọc hiểu cho hiệu quả nhất. Hệ thống các chiến thuật
rất phong phú, tùy theo mỗi độc giả, tùy bối cảnh và văn bản mà chọn chiến thuật cho
phù hợp nhất. Hệ thống chiến thuật là một ngân hàng mở rất phong phú, do vậy giáo
viên thường xun bổ sung cho học sinh lớp chun của mình những chiến thuật đọc
hiểu để giúp các em học sinh có khả năng áp dụng rộng rãi tùy theo văn bản cho phù
hợp. Theo tác giả Phạm Thị Thu Hương trong cuốn Đọc hiểu và chiến thuật đọc
hiểu văn bản trong nhà trường phổ thơng đã đề ra những chiến thuật đọc hiểu văn
bản cần thiết có thể trang bị cho người đọc, như là một cơng cụ hữu hiệu trong việc
đọc và hiểu văn bản, đó là:
1. Đánh dấu và ghi chú bên lề
2. Tổng quan về văn bản
3. Cơng tác ghi chú
4. Cuộc giao tiếp văn học
5. Câu hỏi kết nối, tổng hợp
6. Mối quan hệ hỏi – đáp
7. Mối quan hệ nhận thức và siêu nhận thức
8. Đọc suy luận
9. Nhân vật mong muốn, nhưng…
10. Cuốn phim trí óc
Những chiến thuật trên có thể coi là những cơng cụ, “mẹo” cơ bản để người dạy,
người học có thể vận dụng trong việc khai thác một văn bản văn học.
Có thể thấy, con đường đi vào văn bản văn học có rất nhiều ngả, nhiều cách tiếp
cận khác nhau. Nói như Luis Borges người khải thị những cách đọc khác với sách
đã nói: Một nền văn học khác với nền văn học khác khơng phải ở văn bản mà ở cách
thức mà nó được đọc. Những phương pháp, những cách đọc khác nhau sẽ đem lại
những cách hiểu khác nhau cho văn bản.
c. Rèn kĩ năng sau khi đ
ọc hiểu một tác phẩm
23
Các hoạt động sau khi đọc của học sinh THPT là vơ cùng quan trọng bởi qua đó
chứng tỏ người đọc đã hiểu văn bản đọc ở mức độ như thế nào? Nếu hiểu sâu sắc,
thấu đáo sẽ đem đến những phản hồi có giá trị, cũng như những đánh giá và vận dụng
xác đáng. Sau khi đọc khơng chỉ là q trình “nghiệm thu” kết quả đọc mà cịn là lúc
cả q trình đọc và chiến thuật đọc được nhìn lại. Bạn đọc học sinh chun văn khơng
chỉ cần hiểu văn bản đang đọc mà cịn cần chú ý mục tiêu lâu dài của việc đọc là trở
thành những độc giả có khả năng độc lập. Sau đây là một số định hướng của chúng tơi
cho học sinh phát huy được năng lực đọc hiểu văn bản văn học sau khi đọc xong văn
bản đó:
* Sử dụng hồ sơ đọc hiểu
Giới thiệu về hồ sơ đọc – hiểu
Hồ sơ đọc chính là một loại hồ sơ học tập, là bộ sưu tập có mục đích và có tổ
chức những hoạt động đọc của học sinh. Hồ sơ đọc phản ánh q trình đọc của học
sinh từ đó làm hiện diện bức chân dung và sự trưởng thành của độc giả. Sơ đồ đọc
hiển thị một cách chân thực và cụ thể những thơng tin về q trình đọc do vậy sẽ là
căn cứ xác thực để giáo viên đánh giá về năng lực đọc hiểu của học sinh ở những thời
điểm khác nhau trong suốt q trình học tập, từ đó có những phản hồi, điều chỉnh
thích hợp cho học sinh.
Hồ Sơ đọc thể hiện tích hợp q trình đọc và q trình viết của học sinh, vì thế
đây cịn là cách thức quan trọng để học sinh phát triển cả hai năng lực này.
Hồ sơ đọc cịn là một cách phản hồi của học sinh về văn bản, một cách giám sát
q trình đọc và sự hiểu của bản thân như thế nào về văn bản một cách hiệu quả. Từ
đó có thể điều chỉnh hướng người đọc là học sinh chun văn trở thành những bạn
đọc độc lập và sáng tạo nhất.
Hồ sơ đọc được thể hiện dưới nhiều hình thức sáng tạo song cần phản ánh
được những thơng tin cơ bản như: Tên văn bản đã đọc, hành trình đọc văn bản, sự
tương tác của người đọc với các chủ thể đọc khác, những sự thay đổi, trưởng thành
của người đọc sau khi tương tác với văn bản và các chủ thể đọc khác.
* Các bước lập hồ sơ đọc – hiểu
24
Giáo viên hướng dẫn học sinh hiểu được vai trị của hồ sơ đọc hiểu
Học sinh cần hiểu được khái niệm, đặc biệt hiểu được giá trị sử dụng của cơng
cụ này. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề học sinh mới có ý thức ghi chép,
chia sẻ một cách nghiêm túc về q trình đọc và kết quả đọc một cách trung thực và
thường xun, tích cực, nhờ đó mà học sinh có khả năng thiết lập và sử dụng hồ sơ
một cách hiệu quả nhất.
Giáo viên thống nhất cấu trúc, các nội dung và hình thức trình bày trong
hồ sơ đọc hiểu.
Cấu trúc, nội dung và hình thức trình bày của sơ đồ đọc hiểu đối với các tác
phẩm ngồi chương trình, lần đầu tiên các em được tương tác với văn bản cũng có
những điểm khác biệt so với những tác phẩm quen thuộc trong chương trình. Vậy sau
đây là mẫu cấu trúc chúng tơi gợi ý. Cấu trúc này hồn tồn có thể thay đổi theo từng
giáo viên hay đối tượng độc giả khác nhau. Sau đây là khung hướng dẫn chung:
HÀNH TRÌNH ĐỌC HIỂU VĂN BẢN
1. Hồn cảnh gặp gỡ của tơi và văn bản
Tơi biết đến văn bản như thế nào? Vì sao văn bản lọt vào “mắt xanh” của tơi?
Tơi lấy văn bản từ nguồn nào?
Ấn tượng của tơi về văn bản là gì?
2. Sự tương tác của tơi và văn bản
Tơi mong muốn và dự đốn gì trước khi đọc văn bản?
Những trải nghiệm đọc hiểu cho tơi những kinh nghiệm gì khi tìm hiểu văn
bản?
Những hình ảnh ấn tượng, đáng nhớ nhất lưu giữ trong tâm trí tơi khi đọc văn
bản là hình ảnh nào? Vì sao?
Tơi đã huy động những chiến thuật nào khi đọc văn bản?
Kết quả đọc của tơi (Ghi lại ngắn gọn những ý chính: Nội dung văn bản là gì?
Cấu trúc của văn bản ra sao? Những chi tiết/ hình tượng nào đóng vai trị quan trọng
trong văn bản? Ý nghĩa, mục đích của văn bản là gì? Những điều cịn băn khoăn, chưa
thỏa mãn hay chưa hiểu về văn bản? Dự định giải quyết những băn khoăn đó bằng
cách nào? Tìm sự hỗ trợ từ các tài liệu khác hay trao đổi với các bạn trên lớp?
3. Văn bản và sự chiêm nghiệm của tơi
25