Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

tiểu luận cao học môn pháp pháp luật và đạo đức nghề báo nguyên tắc phân biệt quảng cáo và tác phẩm báo chí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.84 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................2
CHƯƠNG I: BẢN CHẤT QUẢNG CÁO VÀ BÁO CHÍ................................3
1. Quảng cáo......................................................................................................3
1.1. Khái niệm quảng cáo..................................................................................3
1.2. Bản chất quảng cáo....................................................................................3
2. Hoạt động Báo chí.........................................................................................4
2.1. Khái niệm báo chí......................................................................................4
1.2. Bản chất của hoạt động báo chí..................................................................5
CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH NGUYÊN TẮC TÁCH BIỆT
QUẢNG CÁO VÀ TÁC PHẨM BÁO CHÍ......................................................7
1. Pháp luật quy định về hoạt động quảng cáo..................................................7
2. Pháp luật quy định về hoạt động báo chí......................................................8
CHƯƠNG III: ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP QUY ĐỊNH NGUYÊN TẮC
TÁCH BIỆT QUẢNG CÁO VÀ TÁC PHẨM BÁO CHÍ..............................10
1. Đạo đức nghề nghiệp quy định nguyên tắc tách biệt quảng cáo và và tác
phẩm báo chí...................................................................................................10
2. Những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt Nam hiện nay. .10
KẾT LUẬN.....................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................16


LỜI MỞ ĐẦU

Báo chí Việt Nam với sứ mệnh cao cả là định hướng dư luận xã hội, là
công cụ đắc lực tuyên truyền chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
đồng thời là cầu nối giữa Đảng với nhân dân; là vũ khí sắc bén đấu tranh và
đập tan những luận điệu phản động, xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ
chế độ, Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam. Báo chí đã góp phần làm cho
chủ trương, chính sách đi vào cuộc sống, biến thành những phong trào hành
động cách mạng sôi nổi của quần chúng. Báo chí tham gia, phát hiện, đấu


tranh với cái xấu, cái ác, những hiện tượng tham ô, lãng phí, tiêu cực; biểu
dương, cổ vũ, động viên những điển hình tiên tiến, cái tốt, cái đẹp trong đời
sống xã hội, đề đạt những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân với Đảng; là
diễn đàn, tập hợp ý kiến của mọi tầng lớp nhân dân. Chính từ thực tiễn cuộc
sống, báo chí kịp thời phản ảnh những khiếm khuyết của những chủ trương,
chính sách đã ban hành… Từ đó đề xuất, kiến nghị để sửa đổi, bổ sung cho
phù hợp với thực tiễn, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân, góp phần
làm cho “ý Đảng, lịng dân” trở thành hiện thực trong đời sống xã hội. Tuy
nhiên, bên cạnh sự phát triển về quy mơ, tính chất, đóng góp to lớn vào sự
phát triển kinh tế xã hội và mang nhiều tiện ích đến cho người đọc, người
xem, người nghe, thì lịng tin vào báo chí cũng có mặt đang bị giảm sút đáng
lo ngại. Trong đó đặc biệt xu hướng thương mại hóa báo chí, mà một trong
những biểu hiện là lợi dụng uy tín của tờ báo, lợi dụng niềm tin của công
chúng để quảng cáo bằng nhiều hình thức nhằm mục đích lợi nhuận mà xem
nhẹ xem nhẹ vai trị của báo chí, thậm chí vi phạm pháp luật. Vì vậy, các cơ
quan báo chí và mỗi nhà báo phải thực hiện nghiêm “nguyên tắc phân biệt
quảng cáo và tác phẩm báo chí”.

1


CHƯƠNG I: BẢN CHẤT QUẢNG CÁO VÀ BÁO CHÍ

1. Quảng cáo
1.1. Khái niệm quảng cáo
Quảng cáo là hình thức tuyên truyền được trả tiền để thực hiện việc
giới thiệu thông tin về sản phẩm, dịch vụ, công ty hay ý tưởng, quảng cáo là
hoạt động truyền thông phi trực tiếp giữa người với người mà trong đó người
muốn truyền thơng phải trả tiền cho các phương tiện truyền thông đại chúng
để đưa thông tin đến thuyết phục hay tác động đến người nhận thông tin. Như

vậy, Quảng cáo là những nỗ lực nhằm tác động tới hành vi, thói quen mua
hàng của người tiêu dùng hay khách hàng bằng cách cung cấp những thông
điệp bán hàng theo cách thuyết phục về sản phẩm hay dịch vụ của người bán.

1.2. Bản chất quảng cáo
Quảng cáo là hình thức tuyên truyền, giới thiệu thông tin về sản phẩm,
dịch vụ, công ty hay ý tưởng nhằm tác động tới hành vi, thói quen của người
tiêu dùng hay khách hàng. Mục đích trực tiếp của quảng cáo thương mại là
giới thiệu về hàng hoá, dịch vụ để xúc tiến thương mại, đáp ứng nhu cầu cạnh
tranh và mục tiêu lợi nhuận của thương nhân. Thơng qua các hình thức truyền
đạt thơng tin, thương nhân giới thiệu về một loại hàng hoá, dịch vụ mới, tính
ưu việt về chất lượng, giá cả, khả năng đáp ứng nhu cầu sử dụng. Như vậy,
thương nhân có thể tạo sự nhận biết và kiến thức về hàng hoá, dịch vụ; có thể
thu hút khách hàng đang sử dụng hàng hố, dịch vụ của cơng ty khác thơng
qua việc nhấn mạnh đặc điểm và những đặc điểm và những lợi ích của một
nhãn hiệu cụ thể (quảng cáo cạnh tranh) hoặc thơng qua việc so sánh tính ưu
việt của sản phẩm với các sản phẩm cùng loại (quảng cáo so sánh). Đây thực
sự là những lợi thế mà thương nhân có thể khai thác vì nó có ý nghĩa rất lớn
trong việc định hướng nhu cầu tiêu dùng xã hội, bao gồm cả tiêu dùng cho
nhu cầu cá nhân và tiêu dùng cho sản xuất.

2


Như vậy, quảng cáo có tác động rất lớn đến hành vi và mục đích mua
sắm của người tiêu dùng, nhưng đó là những ảnh hưởng tích cực nếu như sản
phẩm sản phẩm quảng cáo bảo đảm chất lượng, còn nếu khơng, có thể gây
ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến người tiêu dùng. Bởi lẽ quảng cáo có sự tác
động rất lớn đến niềm tin của người tiêu dùng đến một sản phẩm nào đó, vậy
nên nếu một sản phẩm kém chất lượng mà do niềm tin của người tiêu dùng

với quảng cáo thì vẫn mua và sử dụng thì rất có thể gây thiệt hại cho chính
người tiêu dùng tin vào quảng cáo.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì quảng cáo là xu thế tất yếu, do
đó đa số các doanh nghiệp sử dụng các phương tiện quảng cáo như là công cụ
hữu hiệu để tiếp cận thị trường. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện quảng cáo
nảy sinh hiện tượng vi phạm những quy định của pháp luật về hoạt động
quảng cáo.
Như vậy quảng cáo có một vai trị hết sức quan trọng, nó tác động rất
lớn đến hành vi cũng như mục đích mua sắm của người tiêu dùng, gián tiếp
thúc đẩy sự phát triển của sản xuất, xã hội cũng như nền kinh tế nói chung.

2. Hoạt động Báo chí
2.1. Khái niệm báo chí
Báo chí là mơt bộ phận của truyền thơng đại chúng, nhưng là bộ phận
chiếm vị trí trung tâm, vai trị nền tảng và có khả năng quyết định tính chất,
khuynh ướng, chi phối năng lực và hiệu quả tác động của truyền thơng đại
chúng. Do đó, trong nhiều trường hợp, có thể dùng báo chí để chỉ truyền
thơng đại chúng; và ngược lại, nói đến truyền thơng đại chúng - trước hết phải
nói đến báo chí.
Truyền thơng có thể được hiểu là q trình liên tục trao đổi thơng tin,
tư tưởng, tình cảm,....chia sẻ kỹ năng và kinh nghiêm giữa hai hoặc nhiều
người với nhau, nhằm thay đổi nhận thưc, thái độ và hành vi phù hợp với nhu
cầu phát triển. Tiếp cận từ kênh truyền dẫn, có thể hiểu truyền thông đai
chúng là hệ thống các kênh truyền thông hướng thông điệp tác động vào đông

3


đảo công chúng xã hội, nhằm lôi kéo và tập hợp, giáo dục, thuyết phục và tổ
chức đông đảo nhân dân tham gia giải quyết các nhiêm vụ chính trị - kinh tế văn hóa - xã hơi đã và đang đặt ra.


1.2. Bản chất của hoạt động báo chí
Báo chí là hoạt động thơng tin – giao tiếp xã hội trên quy mô rộng lớn
nhất, là công cụ và phương thức kết nối xã hội hữu hiệu nhất, là công cụ và
phương thức can thiệp xã hội hiệu quả nhất trong mối quan hệ với công chúng
và dư luận xã hội, với nhân dân và với các nhóm lợi ích, với các nước trong
khu vực và trên quốc tế.
Báo chí có chức năng, vai trị ngày càng quan trọng trong đời sống xã
hội. Đó là các chức năng thơng tin, chức năng tư tưởng, chức năng khái sang giải trí, chức năng tổ chức - quản lý, giám sát và phản biện xã hội, chức năng
kinh tế - dịch vụ. Trong đó, thơng tin là chức năng cơ bản, chức năng khởi
nguồn của bảo chí. Báo chí ra đời là để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu thông tin
giao tiếp của con người và xã hội. Xã hội càng phát triển, con người càng văn
minh thì nhu cầu thơng tin giao tiếp càng cao, càng đa dạng phong phú. Q
trình đáp ứng nhu cầu này làm cho báo chí phát triển nhanh chóng. Một số
yêu cầu của chức năng thông tin. Chức năng tư tưởng là chức năng xuyên
suốt, thể hiện tính mục đích của báo chí. Với chức năng này, theo quan điểm của
Đảng ta, báo chí là công cụ, phương tiện quan trọng dùng để truyền bá hệ tư tưởng của
Đảng, giáo dục lý luận Mác – Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và làm cho hệ tư tưởng - lý
luận này trở thành chủ đao, chiếm ưu thế trong đời sống tinh thần, tư tưởng của đâng đảo
nhân dân. Báo chí là một binh chủng xung kích, đi đầu trong cơng tác tư tưởng của
Đảng. Chức năng khai sáng – giải trí được hiểu rằng, báo chí khơng chỉ là
kênh thơng tin - truyền thơng quan trọng cung cấp thơng tin, kiến thức, mà
cịn là diễn đàn trao đổi, chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm phong phú nhằm
nâng cao trình độ dân trí, đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững. Văn hóa là
hiện tượng xã hội đặc biệt. Hệ thống giá trị văn hóa được tồn tai và phát triển
trong quá trình giao lưu và truyền tải từ người này sang người khác, từ cộng

4



đồng này sang cộng đồng khác và từ thế hệ này đến thế hệ khác. Báo chí là
kênh quan trọng cung cấp thông tin, kiến thức, giáo dục, giao lưu, truyền tải,
tiếp biến văn hóa có hiệu quả nhất. Giải trí là nhu cầu ngày càng địi hỏi cao
trong điều kiện kinh tế thị trường. Đó là q trình báo chí tham gia và tạo điều
kiện giúp cơng chúng sử dụng thời gian rỗi hợp lý, đáp ứng nhu cầu cân bằng
trạng thái tâm lý để tái sản xuất sức lao động. Trên các loại hình báo chí và
các dạng thức truyền thơng hiện đại ngày càng có nhiều phương thức giải trí
thú vị và hữu ích, nhất là truyền hình, phát thanh, báo mạng điện tử và mạng
xã hội. Giải trí cũng là cách thức phổ biến, bảo vệ hệ giá trị văn hóa. Chức
năng quản lý, giám sát và phản biện xã hội của báo chí thể hiện ở chỗ, báo chí
duy trì và phát triển mối liên hệ chặt chẽ giữa chủ thể và khách thể quản lý
thơng qua việc duy trì và phát triển dịng thơng tin hai chiều, bảo đảm cho các
quyết định quản lý được thơng suốt và thực thi,...Giám sát có thể được hiểu là
“theo dõi, kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định khơng”. Điều
đó có nghĩa là, giám sát bao gồm hai quá trình, theo dõi và kiểm tra. Giám sát
có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm cho hoạt động được thực hiện
đúng mục đích và đạt hiệu quả tốt nhất trong điều kiện có thể, theo mục tiêu,
chương trình, kế hoạch đã đề ra. Giám sát xã hội của báo chí là q trình báo
chí bằng mọi phương thức huy động sức lực, trí tuệ và cảm xúc của đông đảo
nhân dân với tinh thần trách nhiêm chính trị cao nhất trong việc theo dõi,
kiểm tra quá trình thưc hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước, bảo đảm đạt được mục đích cao nhất trong điều kiện có
thể. Giám sát xã hội của báo chí bao gốm các bình diện khác nhau, như theo
dõi, kiểm tra phát hiện những nơi làm đúng, làm tốt để biểu dương và nhân
rộng; theo dõi và kiểm tra để phát hiện những nơi làm trệch, làm sai để uốn
nắn và đấu tranh, bảo đảm cho đường lối, chính sách chủ trương của Đảng,
pháp luật Nhà nước được thực thi đúng trong thực tế và cuối cùng là chức
năng kinh tế – dịch vụ.

5



CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH NGUYÊN TẮC TÁCH BIỆT
QUẢNG CÁO VÀ TÁC PHẨM BÁO CHÍ

1. Pháp luật quy định về hoạt động quảng cáo
Luật Quảng cáo có hiệu lực thi hành từ ngày 1- 1- 2013 quy định như
sau: Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện nhằm giới thiệu đến cơng
chúng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có mục đích sinh lợi; sản phẩm, dịch vụ
khơng có mục đích sinh lợi; tổ chức, cá nhân kinh doanh sản phẩm, hàng hoá,
dịch vụ được giới thiệu, trừ tin thời sự; chính sách xã hội; thơng tin cá nhân.
Dịch vụ có mục đích sinh lợi là dịch vụ nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ
chức, cá nhân cung ứng dịch vụ; dịch vụ khơng có mục đích sinh lợi là dịch
vụ vì lợi ích của xã hội khơng nhằm tạo ra lợi nhuận cho tổ chức, cá nhân
cung ứng dịch vụ.
Sản phẩm quảng cáo bao gồm nội dung và hình thức quảng cáo được
thể hiện bằng hình ảnh, âm thanh, tiếng nói, chữ viết, biểu tượng, màu sắc,
ánh sáng và các hình thức tương tự.
Diện tích quảng cáo khơng được vượt quá 15% tổng diện tích một ấn
phẩm báo hoặc 20% tổng diện tích một ấn phẩm tạp chí, trừ báo, tạp chí
chun quảng cáo; phải có dấu hiệu phân biệt quảng cáo với các nội dung
khác.
Không được quảng cáo trên bìa một của tạp chí, trang nhất của báo.
Thời lượng quảng cáo trên báo nói, báo hình khơng được vượt q 10%
tổng thời lượng chương trình phát sóng một ngày của một tổ chức phát sóng,
trừ thời lượng quảng cáo trên kênh, chương trình chuyên quảng cáo; phải có
dấu hiệu phân biệt nội dung quảng cáo với các nội dung khác.
Thời lượng quảng cáo trên kênh truyền hình trả tiền khơng vượt q
5% tổng thời lượng chương trình phát sóng một ngày của một tổ chức phát


6


sóng, trừ kênh, chương trình chun quảng cáo.
Khơng được phát sóng quảng cáo trong các chương trình thời sự;
chương trình phát thanh, truyền hình trực tiếp về các sự kiện chính trị đặc
biệt, kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc.
Mỗi chương trình phim truyện khơng được ngắt để quảng cáo quá hai
lần, mỗi lần không quá 05 phút. Mỗi chương trình vui chơi giải trí khơng
được ngắt để quảng cáo quá bốn lần, mỗi lần không quá 05 phút.
Khi thể hiện sản phẩm quảng cáo kèm theo nội dung thơng tin chính
bằng hình thức chạy chữ hoặc một chuỗi hình ảnh chuyển động thì sản phẩm
quảng cáo phải được thể hiện sát phía dưới màn hình, khơng q 10% chiều
cao màn hình và khơng được làm ảnh hưởng tới nội dung chính trong chương
trình. Quảng cáo bằng hình thức này khơng tính vào thời lượng quảng cáo của
báo hình

2. Pháp luật quy định về hoạt động báo chí
Luật Báo chí năm 1989 quy định: Báo chí được đăng, phát sóng quảng
cáo và thu tiền quảng cáo. Nội dung quảng cáo phải tách biệt với nội dung
tuyên truyền và không được vi phạm quy quy định tại luật này.
Điều 18, Chương V Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 có
quy định quản lý nhà nước về báo chí trong đó có quảng cáo trên báo chí.
Điều 5, chương I, Luật Quảng cáo số 16/2012/QH13 có quy định về
trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động quảng cáo.
Điều 21, 23, Mục 2, chương III Luật Quảng cáo số 16/2012/QH13 có
quy định về quảng cáo trên báo in và quảng cáo trên báo điện tử và trang
thông tin điện tử….)
Điều 6, Luật Báo chí quy định Báo chí có nhiệm vụ và quyền hạn sau
đây :

Thông tin trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới ;
Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,

7


pháp luật của Nhà nước, thành tựu văn hoá, khoa học, kỹ thuật trong nước và
thế giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí ; góp phần nâng cao kiến
thức, đáp ứng nhu cầu văn hoá lành mạnh của nhân dân, bảo vệ truyền thống
tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng
cường khối đoàn kết toàn dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc ;
Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội ; làm diễn đàn thực hiện quyền
tự do ngôn luận của nhân dân ;
Phát hiện, biểu dương gương tốt, nhân tố mới ; đấu tranh chống các
hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác ;
Mở rộng sự hiểu biết lẵn nhau giữa các nước và các dân tộc, tham gia
vào sự nghiệp của nhân dân thế giới vì hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.

CHƯƠNG III: ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP QUY ĐỊNH NGUYÊN TẮC
8


TÁCH BIỆT QUẢNG CÁO VÀ TÁC PHẨM BÁO CHÍ

1. Đạo đức nghề nghiệp quy định nguyên tắc tách biệt
quảng cáo và và tác phẩm báo chí
Đạo đức nghề nghiệp nhà báo là những quy tắc, chuẩn mực quy định
thái độ và hành ành vi ứng xử của nhà báo trong các mối quan hệ nghề
nghiệp.


2. Những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp của nhà báo Việt
Nam hiện nay
Tác phẩm báo chí là bộ phận cấu thành một sản phẩm báo chí, nó có
giá trị tạo lập dư luận xã hội, làm thay đổi nhận thức và hành vi của người
tiếp nhận thơng tin. Tác phẩm báo chí được pháp luật bảo hộ quyền tác giả và
được trả tiền.
Hoạt động báo chí là một hoạt động truyền thơng đại chúng. Sản phẩm,
tác phẩm báo chí được tạo ra là để chuyển tải tới công chúng những thông tin
thời sự về các sự kiện, vấn đề, sự vật, hiện tượng, con người xảy ra hàng
ngày, hàng giờ trong đời sống xã hội. Đích hướng đến của một tác phẩm báo
chí là đem lại giá trị thông tin cho công chúng xã hội, do đó, đảm bảo tính
thơng tin là chức năng quan trọng đầu tiên của một tác phẩm báo chí. Để đạt
được hiệu quả thông tin, một tác phẩm báo chí phải đạt các tiêu chí như: mới,
thời sự, cập nhật; chân thực, khách quan; có ý nghĩa xã hội, mang lại giá trị
giáo dục và nhân văn… Ngoài ra, tác phẩm báo chí cịn phải đảm nhiệm các
chức năng xã hội khác như: định hướng dư luận xã hội; giám sát, quản lý và
phản biện xã hội; giáo dục và giải trí.
Các nhà báo chuyên nghiệp đều phải tuân thủ các bước tiến hành cơ
bản trong quy trình sáng tạo một tác phẩm báo chí là: Nghiên cứu, thâm nhập
thực tiễn, phát hiện đề tài; Thu thập thông tin, dữ liệu; Thể hiện tác phẩm; Tự
biên tập tác phẩm; Tổ chức tác phẩm trên sản phẩm báo chí, phát tán thông

9


tin; Theo dõi, nắm bắt và xử lý thông tin phản hồi.
Khi sáng tạo tác phẩm báo chí, những yêu cầu về năng lực chuyên môn
của nhà báo luôn phải gắn với những chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp.
Điều này được thể hiện trong từng bước tiến hành sáng tạo một tác phẩm báo

chí. Có như vậy, tác phẩm báo chí mới đem lại những giá trị đích thực cho
công chúng xã hội.
Hội Nhà báo Việt Nam đã đưa ra 9 điều quy định đạo đức báo chí Việt
Nam, những quy định này là nhằm điều chỉnh hành vi của nhà báo, ngăn ngừa
những hành vi không đúng đắn, nhưng khơng mang tính chất cưỡng chế mà
chỉ mang tính tự giác trên cơ sở trách nhiệm, lương tâm và lòng tự trọng của
nhà báo. Căn cứ vào những tiêu chuẩn đạo đức này và dựa vào tính chất của
những hành vi, mỗi nhà báo sẽ phải biết tự điều chỉnh hành vi của mình trong
hoạt động tác nghiệp. Quy ước đạo đức báo chí Việt Nam là văn bản pháp quy
đối với nhà báo. Tuy nhiên văn bản đó hầu như chưa phát huy được vai trị
của nó trong hoạt động thực tiễn. Các cơ sở đào tạo nghề báo cũng không
quan tâm mấy đến vấn đề đạo đức, có nơi đưa vào giáo trình giảng dạy, có nơi
chỉ coi như một phần của chương trình ngoại khóa.
Trong xã hội chúng ta ngày nay, nhà báo là người cầm nắm và xử lý
thông tin, sản phẩm thông tin sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống con
người và xã hội. Hơn bao giờ hết vấn đề đạo đức nhà báo được đặt ra một
cách cấp thiết nhất. Nhà báo chỉ cần sơ suất là có thể gây ra hậu quả nghiêm
trọng đối với đời sống, sự nghiệp một cá nhân hoặc một cộng đồng xã hội. Do
đó, ngồi những tiêu chuẩn, nguyên tắc về đạo đức, cái tâm nhà báo sẽ là cội
nguồn của vấn đề đạo đức nghề báo.
Trong cuốn “Cẩm nang viết tin” Peter Eng và Jeff Hodson đã nêu ra
những quy tắc đạo đức nghề nghiệp như: Nhà báo giỏi chỉ phục vụ lợi ích của
cơng chúng. Đừng dùng nghề nghiệp của mình để làm lợi cho cá nhân. Đừng
dùng thông tin và từ nguồn tin của mình để kiếm tiền. Đừng dây dưa vào quan
hệ làm ăn với nguồn tin và đừng để mình bị sử dụng cho lợi ích của những
10


nhóm chính trị hay xã hội nào đó.
Làm thế nào để nhà báo giữ được tính khách quan trong khi đưa tin,

làm thế nào để nhà báo giữ được tư cách, lịng tự trọng, vị trí xã hội của mình
là câu hỏi thường trực khi hoạt động tác nghiệp không chỉ của nhà báo mà cả
lãnh đạo cơ quan báo chí.
3. Mối quan hệ trong mơi trường xã hội, nghề nghiệp của nhà báo liên
quan đến vấn đề quảng cáo
Trong khi làm nhiệm vụ cung cấp thông tin nhằm thỏa mãn đầy đủ
nguyện vọng, nhu cầu và lợi ích của công chúng, nhà báo phải đối mặt với
một loạt các câu hỏi mang tính đạo đức. Đó là: Thơng tin này phải có ích
cơng chúng khơng? Nó đã chính xác chưa? Phản ánh có khách quan, trung
thực khơng? Liệu cơng chúng có thực sự cần đến tác phẩm này?Tác phẩm đã
thực sự đáp ứng được nhu cầu và mong muốn của họ hay chưa? Cơng chúng
có bị mất thời gian cho thơng tin này khơng? Liệu họ có đọc kỹ, xem qua hay
khơng thèm để ý đến những gì trong tác phẩm?…
Việc tính đến mức độ hiệu quả thơng tin cũng là trách nhiệm đạo đức
của nhà báo đối với công chúng. Khi viết bài, nhà báo phải trả lời một loạt các
câu hỏi kiể như: Liệu cơng chúng có hiểu đúng bản chất sự việc và những
điều tác phẩm đề cập hay không? Sau khi tiếp nhận thông tin cơng chúng sẽ
có sự thay đổi như thế nào về nhận thức, thái độ và hành vi?... Do đó, nhà báo
phải xem xét, phân tích đầy đủ các khía cạnh, suy xét nghiêm túc trọn vẹn
mọi mặt để cung cấp thông tin tốt nhất cho công chúng.
Như vậy, nghĩa vụ đạo đức của nhà báo đối với công chúng không chỉ
dừng ở nghĩa vụ cung cấp thơng tin chính xác mà còn còn ở việc phải lường
trước được hậu quả của những thơng tin chính xác và cân nhắc đến hậu quả
của thơng tin đó. Cấp độ thứ hai là sau khi tác phẩm đã công bố, nhà báo phải
sẵn sàng chịu trách nhiệm về tính chính xác của tác phẩm cũng như hậu quả
mà nó đã mang tới cho công chúng.
Hiện nay, nguồn quảng cáo là một nguồn thu chủ yếu của không
11



ít cơ quan báo chí, vì vậy phát huy tối đa khả năng thu hút quảng cáo của tất
cả các thành viên trong tòa soạn. Quảng cáo bằng nhiều cách, trang bìa, trang
ruột, quảng cáo bằng hình ảnh, quảng cáo bằng bài viết. Và hiện nay, do quy
định các cơ quan báo chí chỉ được quảng cáo với thời lượng, diện tích nhất
định nên khơng ít tờ báo chuyển sang quảng cáo qua bài viết và như vậy đã
xảy ra việc khơng ít tờ báo đã thực hiện việc quảng cáo “trá hình” là mất đi
bản chất, ý nghĩa, vai trị của một tác phẩm báo chí. Đây đang là những vấn
đề gây "đau đầu" cho các nhà quản lí hiện nay là những bài báo PR "trá hình"
một bài viết đơn thuần.

KẾT LUẬN
Rõ ràng việc phải tuân thủ nguyên tắc tách biệt giữa quảng cáo và tác
phẩm báo chí để thực hiện đúng vai trò của một tác phẩm báo chí là một
12


nguyên tắc với tất cả nhà báo và các cơ quan báo chí. Để thọc hiện tốt nguyên
tắc này, các cơ quan báo chí, những người làm báo cần phải nâng cao nhận
thức tư tưởng, bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ý thức trách
nhiệm về sản phẩm báo chí của mình. Chất lượng báo chí ln luôn phải là
mục tiêu hàng đầu của người làm báo, thể hiện rõ trong mỗi bài báo, mỗi ấn
phẩm và chương trình phát thanh, truyền hình, để cuối cùng đạt tới là: Đúng,
Hay, Đẹp và hiệu quả xã hội ngày càng cao. Các cơ quan chỉ đạo, quản lý báo
chí, cơ quan chủ quản báo chí phải quan tâm, tăng cường chỉ đạo, quản lý,
định hướng hoạt động của các cơ quan báo chí, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
những người làm báocó đủ năng lực, trình độ và phẩm chất đạo đức; động
viên, khen thưởng kịp thời; nhắc nhở, uốn nắn những lệch lạc, xử lý nghiêm
khắc các sai phạm. Tuy nhiên, hoạt động báo chí thời gian qua cũng còn bộc
lộ một số vấn đề, như: hiện tượng "Thương mại hóa" hoạt động báo chí; thiếu
nhạy cảm và trách nhiệm chính trị, trách nhiệm xã hội; thơng tin thiếu tầm

nhìn bao qt và chiều sâu tư tưởng; ít tuyên truyền giới thiệu những yếu tố
tích cực, những cách làm hay, kết quả tốt, những tập thể và cá nhân điển hình
tiên tiến trên các lĩnh vực… đã làm hạn chế sự phát triển và sức góp phần của
báo chí trong q trình đổi mới. Ngun nhân của tình hình trên là do một số
người làm báo vẫn cịn yếu kém về nhận thức tư tưởng, bản lĩnh chính trị,
chưa nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước; không sâu sát, gần gũi cuộc sống của các tầng lớp nhân dân; bị lợi
ích kinh tế đơn thuần chi phối; cách lựa chọn, sàng lọc, đưa thông tin đơn
giản, không chuẩn xác…
Để tiếp tục phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của báo chí đối với sự
nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng mong muốn của Đảng,
của nhân dân, thiết nghĩ, các cơ quan báo chí, những người làm báo cần phải
nâng cao nhận thức tư tưởng, bản lĩnh chính trị, trình độ chun mơn nghiệp
vụ, ý thức trách nhiệm về sản phẩm báo chí của mình, đặc biệt nâng cao tính
chiến đấu trong các tác phẩm báo chí của mình. Chất lượng báo chí ln ln
13


phải là mục tiêu hàng đầu của người làm báo, thể hiện rõ trong mỗi bài báo,
mỗi ấn phẩm và chương trình phát thanh, truyền hình, để cuối cùng đạt tới là:
Đúng, Hay, Đẹp và Hiệu quả xã hội ngày càng cao. Các cơ quan chỉ đạo, quản
lý báo chí, cơ quan chủ quản báo chí phải quan tâm, tăng cường chỉ đạo, quản
lý, định hướng hoạt động của các cơ quan báo chí, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
những người làm báo; động viên, khen thưởng kịp thời; nhắc nhở, uốn nắn
những lệch lạc, xử lý nghiêm khắc các sai phạm./.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS Nguyễn Thị Trường Giang, Đạo đức nghề nghiệp của nhà
báo, Nhà Xuất bản Chính trị - Hành chính, năm 2001
2. PGS.TS Nguyễn Văn Dững, Cơ sở lí luận báo chí; Nxb Lao Động; H.
2012.
3. PGS.TS Nguyễn Văn Dững, Tạp chí Lý luận Người Làm Báo tháng
11năm 2013.

15



×