Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

KINH TẾ VĨ MÔ QUỐC TẾ đề TÀI CHÍNH SÁCH VĨ MÔ TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG CHÂU á 1997

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (912.92 KB, 20 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

----------

KINH TẾ VĨ MƠ QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI

CHÍNH SÁCH VĨ MÔ TRONG CUỘC KHỦNG HOẢNG
CHÂU Á 1997

GVHD: Phạm Thị Tuyết Trinh
Lớp : INE313_211_D01
Nhóm: 5
TP.HCM, ngày 15 tháng 10 năm 2021


DANH SÁCH NHÓM 5
STT

MSSV

Họ và tên

1

030834180226

Nguyễn Thị Thanh Thảo

2



030835190037

Nguyễn Phương Duyên

3

030835190059

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh

4

030834180102

Nguyễn Đăng Khoa

5

030835190185

Lê Nguyễn Thanh Phương

6

030835190209

Lâm Hà Thanh Thảo

7


030834180278

Nguyễn Thị Tường Vi

Cơng việc
Tìm hiểu chính sách vĩ mơ của các
nước
Tìm hiểu ngun nhân của cuộc khủng
hoảng
Tìm hiểu diễn biến cuộc khủng hoảng;
tổng hợp word
Tìm hiểu khái niệm và dấu hiệu của
cuộc khủng hoảng; làm powerpoint
Tìm hiểu diễn biến của cuộc khủng
hoảng
Tìm hiểu chính sách vĩ mơ của các
nước
Tìm hiểu nguyên nhân của cuộc khủng
hoảng


MỤC LỤC
1. Khủng hoảng tiền tệ là gì ? __________________________________ 1
1.1. Khái niệm của khủng hoảng tiền tệ: _________________________ 1
1.2. Dấu hiệu của khủng hoảng tiền tệ: __________________________ 1
2. Diễn biến khủng hoảng: ____________________________________ 2
2.1. Trước khủng hoảng: _____________________________________ 2
2.2. Khi khủng hoảng nổ ra: ___________________________________ 2
3. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng: _________________________ 4

3.1. Nền tảng kinh tế vĩ mơ yếu kém: ____________________________ 4
3.2. Cán cân thanh tốn mất cân bằng: ___________________________ 6
3.3. Sự quản lý yếu kém của khu vực tài chính ngân hàng: ___________ 8
3.4. Thị trường thương mại toàn cầu sút giảm, những thay đổi bất lợi của
nền kinh tế: ________________________________________________ 10
3.5. Hoạt động tấn công đầu cơ và rút vốn hàng loạt: ______________ 11
4. Phản ứng chính sách vĩ mơ của các nước trong khủng hoảng. ____ 12
4.1. Chính sách tiền tệ: ______________________________________ 12
4.2. Chính sách tài khóa _____________________________________ 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO ______________________________________ 17


1. Khủng hoảng tiền tệ là gì ?
1.1. Khái niệm của khủng hoảng tiền tệ:
Khủng hoảng tiền tệ ( Currency Crisis) là sự sụt giảm mạnh về giá trị đồng tiền
của một quốc gia. Điều này gây ra tác động tiêu cực đến nền kinh tế, bất ổn trong tỷ giá
đối đoái.
1.2. Dấu hiệu của khủng hoảng tiền tệ:
Những dấu hiệu khủng hoảng thường liên quan đến các chỉ số kinh tế quan trọng
như dự trữ ngoại hối, tỷ giá hối đoái thực, tốc độ tăng trưởng GDP, lạm phát… nếu
khơng được nhanh chóng khắc phục, tiền tệ của quốc gia đó sẽ bị mất giá đáng kể.


Tỷ giá hối đoái thực thấp: khi tỷ giá hối đoái thực giảm sẽ phản ánh chi phí
hàng hóa mậu dịch trong nước tăng làm giảm cạnh tranh thương mại so với các
nước khác.



Dự trữ ngoại hối giảm mạnh: dự trữ ngoại hối của một quốc gia thường giảm

mạnh ở giai đoạn tiền khủng hoảng, điều này khiến cho Chính phủ khơng đủ
điều kiện để điều hành và ổn định tỷ giá.



Tăng trưởng kinh tế bắt đầu chậm lại: về lâu dài, sự khác biệt về tăng trưởng
kinh tế sẽ quyết định đến sự tăng giá hoặc giảm giá của đồng nội tệ so với đồng
tiền các quốc gia khác.



Tăng trưởng tín dụng quá nhanh: tăng trưởng tín dụng quá nhanh và quá mức
sẽ khiến dịng tiền khơng thể hấp thụ hết vào sản xuất mà sẽ di chuyển đến các
thị trường có tỷ suất sinh lợi cao ( BĐS, chứng khoán, ...) đối mặt với các nguy
cơ đầu cơ làm xuất hiện bong bóng đầu cơ trên thị trường.



Xuất hiện sự bất cân đối giữa nợ và tài sản: là tình trạng nợ cơng của Chính
phủ ngày càng lớn trong khi nguồn thu để chi trả nợ cơng khơng đủ, đây cũng
chính là biểu hiện rõ ràng nhất của một cuộc khủng hoảng tiền tệ.
Các dấu hiệu này không chỉ xuất hiện trước khi khủng hoảng tiền tệ xảy ra mà

chúng còn kéo dài trong suốt giai đoạn khủng hoảng và có thể vẫn tồn tại ở các giai
đoạn sau.

1


2. Diễn biến khủng hoảng:

2.1. Trước khủng hoảng:
Trước năm 1997, kinh tế ở các nước Đơng Á có thể nói là rất ổn, vẫn tiếp tục
phát triển sau một thời gian dài tăng trưởng ngoạn mục. Ngoại trừ một số vướng mắc
nho nhỏ, như sự gắn chặt đồng nội tệ với đồng USD, chính sách tự do tài khoản vốn,
lỏng lẻo trong kiểm sốt tài chính.
Mùa hè năm 1997, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore và Hàn
Quốc, các con rồng con hổ châu Á, đang là điểm đến lý tưởng của giới đầu tư trên khắp
thế giới. Tăng trưởng kinh tế cao, ổn định (trung bình 8-10%), lãi suất đầu tư hấp dẫn,
thị trường chứng khoán và nhu cầu tiêu dùng cao cấp phát triển vượt bậc. Bấy nhiêu
thôi cũng đủ thu hút dịng tiền đầu tư trên tồn thế giới đổ dồn về đây, đặc biệt là dòng
đầu cơ tài chính ngắn hạn.
Mơ hình kinh tế của các nước Đơng Á lúc này cơ bản là theo mơ hình của chủ
nghĩa vị tiền hiện đại (monetarism). Có nghĩa là Chính sách tài chính tiền tệ vĩ mơ sẽ
quyết định hiệu quả sản xuất. Lạm phát, tỷ giá, thu hút đầu tư là những vấn đề quan tâm
hàng đầu của chính phủ. lý thuyết này đến thời nay vẫn rất thịnh hành ở các nước
phương Tây. Duy chỉ có hai điểm đặc biệt đáng lưu ý. Thứ nhất, sản xuất tập trung vào
xuất khẩu và quan tâm đặc biệt để đáp ứng nhu cầu trên thị trường Mỹ. Thứ hai, gắn
chặt đồng tiền quốc gia vào đồng USD. Làm như vậy rõ ràng có nhiều cái lợi, nhưng
cũng khơng ít cái hại.
2.2. Khi khủng hoảng nổ ra:
Thái Lan:
Ngày 14-15 tháng 6 năm 1997, thị trường tiền tệ ở Thái tràn ngập lệnh bán đồng
Baht. Ngân hàng Nhà nước cố sức giữ giá, trong suốt 2 tuần đã chi ra gần 10 tỷ USD
để mua đồng Baht và giữ tỷ giá hối đối ở mức bình thường 25 baht 1 USD. Nhưng vẫn
không ngăn chặn được sự tấn công đầu cơ quy mô lớn.
Ngày 30 tháng 6, Thủ tướng Thái Lan Chavalit Yongchaiyudh vẫn kiên định “sẽ
không phá giá baht”, thế mà chỉ 2 ngày sau, 2 tháng 7, ông quyết định thả nổi bath, baht
lập tức mất giá gần 50%.
Vào tháng 1 năm 1998, nó đã xuống đến mức 56 baht/1USD. Chỉ số thị trường
chứng khoán Thái Lan tụt từ mức 1.280 cuối năm 1995 xuống còn 372 cuối năm 1997.

2


Đồng thời, mức vốn hóa thị trường vốn giảm từ 141,5 tỷ USD xuống cịn 23,5 tỷ USD.
Finance One, cơng ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản.
Ngày 11 tháng 8, IMF tuyên bố sẽ cung cấp một gói cứu trợ trị giá 16 tỷ dollar
Mỹ cho Thái Lan. Ngày 20 tháng 8, IMF thông qua một gói cứu trợ nữa trị giá 3,9 tỷ
dollar.
Philippines
Sau khi khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, ngày 3 tháng 7 ngân hàng trung
ương Philippines đã cố gắng can thiệp vào thị trường ngoại hối để bảo vệ đồng peso
bằng cách nâng lãi suất ngắn hạn (lãi suất cho vay qua đêm) từ 15% lên 24%. Đồng
peso vẫn mất giá nghiêm trọng, từ 26 peso ăn một dollar xuống còn 38 vào năm 2000
và còn 40 vào cuối khủng hoảng.
Khủng hoảng tài chính nghiêm trọng thêm do khủng hoảng chính trị liên quan
tới các vụ bê bối của tổng thống Joseph Estrada. Do khủng hoảng chính trị, vào năm
2001, Chỉ số Tổng hợp PSE của thị trường chứng khoán Philippines giảm xuống còn
khoảng 1000 điểm từ mức cao khoảng 3000 điểm hồi năm 1997. Nó kéo theo việc đồng
peso thêm mất giá.
Malaysia
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm 1997), đồng
Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala Lumpur lập tức bị sức ép giảm
giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức 3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20
Ringgit/Dollar. Phần lớn sức ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền
này trên thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền duy trì tài
khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn mua vào với dự tính về sử giảm
giá của đồng Ringgit trong tương lai.
Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống khuyến khích dịng vốn
chảy ra nước ngồi. Lượng vốn chảy ra đạt tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý
ba năm 1997

Ngoài 3 nước trên ra, khủng hoảng ở các nước khác như Indonesia, Hàn Quốc, Hồng
Kông đều diễn ra với những nét tương đồng. Tuy nhiên, hậu quả thì mỗi nơi mỗi khác,
phụ thuộc vào khả năng ứng phó trong điều kiện khủng hoảng của chính phủ và năng
lực cũng như cơ cấu của nền kinh tế.
3


3. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng:
Khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á năm 1997 được coi là một chấn động lớn
của thị trường tài chính thế giới trong quá khứ. Những nguyên nhận sau đây được xem
là những nguyên nhân cơ bản nhất và cũng chính là một số dấu hiệu khiến cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ hình thành và bùng nổ.
3.1. Nền tảng kinh tế vĩ mô yếu kém:
Nguyên nhân sâu xa của cuộc khủng hoảng Đơng Á 1997 là do chính phủ Thái
Lan và một số nước Đông Nam Á đã cố gắng theo đuổi bộ ba bất khả thi:
- Ổn định tỷ giá hổi đoái (cụ thể ở đây là cố định giá trị đồng nội tệ theo đồng
USD).
- Tự do hóa dịng vốn lưu chuyển.
- Chính sách tiền tệ độc lập.
Họ vừa cố định giá trị đồng tiền của mình vào Dollar Mỹ, vừa cho phép tự do
lưu chuyển vốn. Điều này đã tạo động lực kinh tế, tạo đà cho sự tăng trưởng nhanh và
ổn định kinh tế của Thái Lan và một số nước Đơng Nam Á trong vịng hơn 1 thập kỷ
trước khi diễn ra khủng hoảng (biểu hiện ở mức tăng trưởng bình quân các nước từ
7,5% đến 8%). Tuy nhiên, các nguy cơ cũng bắt đầu xuất hiện.
 Đồng nội tệ bị sức ép tăng giá
Kinh tế Đông Nam Á tăng trưởng nhanh trong thập niên 1980 và nửa đầu thập
niên 1990 đã tạo ra sức ép tăng giá nội tệ đồng nội tệ tăng giá.
=> Giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu (do giá hàng hoá Việt Nam kém cạnh tranh
hơn và Ngân hàng đẩy lãi suất cao giảm động lực sản xuất trong nước).
=> Cán cân thương mại thâm hụt.

 Để bảo vệ tỷ giá cố định, các ngân hàng trung ương Đông Nam Á đã thực hiện
chính sách tiền tệ nới lỏng.
=> Cung tiền tăng gây ra sức ép lạm phát.
=> Chính sách vơ hiệu hóa (sterilization policy) trong đó chính phủ tiến hành bán
các công cụ thị trường như trái phiếu CP, hối phiếu, tín phiếu NHTW... đã được áp dụng
để chống lạm phát, vơ tình đẩy mạnh các dịng vốn chảy vào nền kinh tế.
Khi đồng nội tệ bị lên giá, chính phủ các nước có 2 cách duy trì tỷ giá là bán
ngoại tệ cho Doanh nghiệp hoặc vay nợ nước ngoài (bằng vốn FDI, vay trực tiếp, bán
4


trái phiếu). Tuy nhiên tỷ giá hối đoái thực tăng và việc tăng lãi suất để thu hút vốn nước
ngoài làm cho dư nợ ngoại tệ của các doanh nghiệp tính bằng tiền nội tệ sẽ tăng vọt, tạo
áp lực phá giá đồng nội tệ. Khi doanh nghiệp thua lỗ thì các ngân hàng, cơng ty tài chính
khơng địi được nợ, sẽ càng phá sản nhanh hơn. Chính phủ Thái Lan dùng dự trữ ngoại
tệ để bảo vệ tỷ giá nhưng cũng khơng có khả năng duy trì được lâu (do thiếu dự trữ
ngoại tệ để trả cho nhà đầu tư muốn “rút vốn hàng loạt” và ngoại tệ để thanh toán hàng
nhập khẩu khi tỷ giá thực tế tăng). Đồng Baht được thả nổi vào đầu tháng 7 năm 1997
và ngay lập tức mất giá 10%, rồi giá trị tiếp tục giảm xuống sau đó. Khủng hoảng nhanh
chóng lan ra Hàn Quốc, Malaysia và Indonesia.
Hình 1. Tỷ Giá Hiệu Quả Thực (1990-1999)

Đánh giá cơ chế: Cơ chế cố định tỷ giá nhằm duy trì quan hệ thương mại với thị
trường chính Mỹ, giữ lạm phát ổn định tuy nhiên đánh giá quá cao giá trị đồng nội tệ,
khi đồng nội tệ lên giá gây áp lực tới khả năng thanh toán do lãi suất cho vay trong nước
cao.
Bảng 1. Tỷ giá hối đối bình qn của một số nước Đông Á năm 1996 và 1997
Nước

Đồng tiền


1996

1997

Thái Lan

Baht/USD

25.61

47.25

Philipin

Peso/USD

26.29

39.05

5


Malaysia

Ringgit/USD

2.52


3.88

Indonesia

Rupiah/USD

2.308

5.00

Hàn Quốc

Won/USD

844.20

695.8

3.2. Cán cân thanh toán mất cân bằng:
Bảng 2. Số liệu nền kinh tế Thái Lan giai đoạn 1991 - 1998
Năm

1991

1992

1993

1994


1995

1996

1997

1998

Tăng trưởng GDP (%)

7.0

7.1

8.2

8.6

8.7

6.7

-0.4

-8.3

Tỷ giá hối đoái

25.2


25.3

25.3

25

25.1

25.6

47.2

41.3

Lạm phát (%)

5.7

4.1

4.6

5.1

5.8

4.8

5.6


8.1

Xuất khẩu (tỷ USD)

28.2

32.1

36.4

44.4

55.4

54.4

56.7

Nhập khẩu (tỷ USD)

-34.2

-36.2 -40.1

-48.2

-63.4

-60.9


-55.1

-5.9

-4.16 -4.3

-3.7

-7.7

-9.5

-1.5

-7.59

-6.3

-6.36

-8.08

-13.5

-14.7

-3.02

11.7


9.47

10.5

14.1

21.9

10.5

-15.8

35.99 39.61 45.84 60.99 65.0

49.0

97.0

43.6

45.7

45.6

37.0

38.7

23.0


Cán cân thương mại
((tỷ USD)
Cán cân tài khoản vãng
lai (tỷ USD)
Cán cân tài khoản vốn
(tỷ USD)
Nợ

nước

ngoài

(tỷ

USD)
Nợ ngắn hạn (tỷ USD)
Dự trữ ngoại tệ (tỷ
USD)

18.4

21.2

25.4

6

30.3



Cũng như các nền kinh tế mới cơng nghiệp hóa Đông Nam Á khác, nền kinh tế
Thái Lan tăng trưởng chủ yếu dựa vào xuất khẩu, đặc biệt là mặt hàng điện tử. Tuy
nhiên, trong suốt giai đoạn 1991-1996, cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị thâm
hụt. Năm 1996, thâm hụt tài khoản vãng lai tới 14,7 tỉ USD. Một nguyên nhân của tình
hình này là do sự sụt giảm nhu cầu trên thị trường hàng điện tử của thế giới, đồng thời
thị trường tiêu thụ hàng dệt, sợi của Thái Lan cũng bị giảm sút mạnh do sự nổi lên của
Trung Quốc. Sự sụt giảm trong xuất khẩu rịng do tỷ giá hối đối tăng, sự thối lui đầu
tư do lãi suất nội địa tăng nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài , việc nhập siêu do tự
sản xuất trong nước đắt đỏ hơn đã khiến xuất khẩu ròng giảm mạnh, gây nên thâm hụt
tài khoản vãng lai. Mặt khác, hiện tượng rút vốn ồ ạt của nhà đầu tư ngoại khi thấy tín
hiệu mất giá đồng nội tệ khiến cán cân vốn không được cải thiện, kèm với việc thiếu
hụt dữ trữ ngoại hối để chi trả nhu cầu nhập khẩu khiến đồng nội tệ càng mất giá.
Bảng 3. Tăng trưởng xuất khẩu ở Đông Á giai đoạn 1994 - 1997 (%)
Nước

1994

1995

1996

1997

Thái Lan

19

20

-1


3

Hàn Quốc

14

23

4

5

Malaysia

20

21

6

1

Indonesia

8

12

9


7

Philipin

17

24

14

21

Hồng Kông

11

13

4

4

Singapore

24

18

5


-1

Đài Loan

9

17

4

4

Trung Quốc

25

19

2

21

Do tỷ giá hối đoái trong nước gần như cố định, lạm phát trong nước cao hơn ở
Mỹ (5% so với 3%), đồng Baht bị đánh giá cao hơn so với đồng USD.
7


=> Xuất khẩu bị kiềm hãm trong khi nhập khẩu đươc khuyến khích.
=> Thâm hụt cán cân thương mại.

Do vậy, trong tình hình này, chính phủ Thái Lan buộc phải thả nổi đồng tiền.
Tình trạng tương tự với Phillipin, Indonesia và Malaysia.
Vào giữa thập niên 1990, Hàn Quốc có nền tảng kinh tế vĩ mô tương đối tốt ngoại
trừ việc đồng Won Hàn Quốc không ngừng lên giá với Dollar Mỹ trong thời kỳ từ sau
năm 1987. Điều này làm cho tài khoản vãng lai của Hàn Quốc suy yếu vì giá hàng xuất
khẩu của Hàn Quốc trên thị trường hàng hóa quốc tế tăng. Thâm hụt tài khoản vãng lai
được bù đắp lại bằng việc các ngân hàng của nước này đi vay nước ngoài mà phần lớn
là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro.
3.3. Sự quản lý yếu kém của khu vực tài chính ngân hàng:
Có thể thấy rằng, hệ thống tài chính ngân hàng hoạt động chưa có hiệu quả, quá
phụ thuộc vào sự giúp đỡ của chính phủ. Mặt khác cịn mạo hiểm nhận vốn nước ngồi,
trong đó một khối lượng lớn là các khoản vay nóng đưa vào đầu tư dài hạn, thêm nữa,
sai lầm trong chính sách vĩ mơ về duy trì tỷ giá cứng, buộc chặt đồng Đơla Mỹ và lãi
suất trần, sàn khơng bắt kịp tiến trình tồn cầu hóa,…
Vay vốn bất chấp hiệu quả đầu tư thì nguy cơ dẫn đến phá sản là rất lớn. Khi
quốc gia bị thâm hụt tài khoản thương mại kéo dài, Chính phủ phải nâng lãi suất nội địa
lên để thu hút đầu tư nước ngồi. Tuy nhiên, chính lãi suất quá cao này lại hạn chế các
doanh nghiệp nội địa mượn tiền để đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ. Kết quả là
hiệu quả sản suất vẫn khơng cao, khả năng cạnh tranh của hàng hóa vẫn kém. Các doanh
nghiệp thua lỗ, phá sản hàng loạt khiến cho số nợ khó địi của ngân hàng tăng lên, hậu
quả là ngân hàng mất dần khả năng thanh toán và cuối cùng là đi đến phá sản.
Những xúc tiến đầu tư của chính phủ và những bảo hộ ngầm của chính phủ cho
các thể chế tài chính cũng góp phần làm các công ty ở châu Á bất chấp mạo hiểm để đi
vay ngân hàng trong khi các ngân hàng bất chấp mạo hiểm để đi vay nước ngoài mà
phần lớn là vay nợ ngắn hạn và nợ không tự bảo hiểm rủi ro (Hệ quả của hiện tượng
thông tin bất cân xứng dẫn đến rủi ro đạo đức).
Bảng 4. Tình trạng của hệ thống ngân hàng, tài chính một số nước Đơng Á trong
năm tài chính 1/4/1997 - 31/3/1998

8



Số ngân
Tổng số hàng bị
Nước

ngân

đình chỉ

hàng

hoạt
động

Thái Lan

108

Malaysia

60

Indonesi
a
Hàn
Quốc

Số


ngân

hàng

bị

quốc

hữu

hóa/ Chính
phủ

giám

sát

Số

Số
ngân
hàng bị
sát
nhập

hàng
bán

16


56

16

bị
cho

cơng

ty

nước

4

56

Tổng

số

ngân hàng
“có vấn đề”

ngồi

56

228


ngân

64 (59%)

41

41 (68%)

11

83 (36%)

18 (32%)

Bảng 5. Tình trạng thua lỗ và phá sản của các doanh nghiệp một số nước Đông Á
giai đoạn 1996 – 1998
Nước

Thời gian

Thái Lan

1 - 5/1998

Malaysia

Indonesia

Hàn Quốc


Số doanh nghiệp phá sản
3961 doanh nghiệp ngừng hoạt động trong đó có
582 doanh nghiệp phá sản

1996

489 doanh nghiệp phá sản

1997

6583 doanh nghiệp phá sản

1998

80% doanh nghiệp ngưng hoạt động

1997

14000 doanh nghiệp phá sản

1998

53000 doanh nghiệp phá sản

9


3.4. Thị trường thương mại toàn cầu sút giảm, những thay đổi bất lợi của nền
kinh tế:
Từ năm 1995 trở lại đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế các nước công nghiệp phát

triển giảm sút dẫn đến lượng cầu cũng suy giảm. Đặc biệt, những nước này là bạn hàng
chủ yếu, là đối tác kích thích q trình tăng trưởng nóng hướng về xuất khẩu của các
nước Đơng Nam Á. Những sản phẩm xuất khẩu chủ lực của khu vực (điện tử, sợi, dệt)
đang đứng trước nguy cơ bão hòa của thị trường thế giới, giá vi mạch giảm hơn 80%.
Các mặt hàng điện tử dân dụng của Nhật, các nước Đông Nam Á giảm lượng bán hơn
40% trên thị trường thế giới.
Bảng 6: Nhập khẩu của các nước phát triển từ các nước đang phát triển ( tỷ USD
và %)

Tổng xuất khẩu
Nhập khẩu từ các nước đang
phát triển
Tỷ trọng trong tổng xuất
khẩu

1992

1993

1994

1995

1996

2716

2527,4 2883,9 3391,6 3513

1997

1807,7

691,17 702,42 812,39 966,36 1036,5 535,13

25,4%

27,8%

28,1%

28,5%

29,5

29,6%

66,23

58,5

63,6

72,69

80,07

41

(9,6)


(8,30

(7,8)

(7,5)

97,7)

(7,7)

Trong đó
Châu Phi

Châu Á

Châu Âu
Trung Đông

Tây Bán Cầu

333,91 352,4

413,53 494,11 523,11 267,11

(48,3)

(50,2)

(50,9)


74,29

80,65

109,54 134,43 135,94 67,17

(10,7)

(11,5)

(12,7)

(13,9)

(13,1)

84,11

87,15

85,02

90,07

102,63 54,9

(13,6)

(12,4)


(10,6)

(9,6)

(9,9)

(51,1)

(50,9)

(51,6)

(12,9)

(10,2)

122,62 133,72 145,70 172,06 189,54 102,95
(17,7)

(17,6)

(17,9)

(17,8)

(18,3)

(19,2)

 Chú thích: số trong ngoặc là % trong xuất khẩu của cá nước phát triển từ các

nước đang phát triển.
10


Nguồn: Direction of Trade Statistics, Dec. 1997
Mặt khác tính hấp dẫn của thị trường Đông Nam Á trước các đối tác Mỹ và Tây
Âu đã giảm sút trước những thị trường năng động và hấp dẫn hơn như Trung Quốc,
SNG-Đông Âu và Mỹ La-tinh. Nhật Bản cũng đang lúng túng về những đồng vốn cho
vay quá lớn trước những biến động xấu của thị trường tài chính khu vực. Theo báo cáo
của ngân hàng D.M. Green Fell thì hơn một nửa số 70 tỷ USD Thái Lan nợ ngân hàng
là của Nhật Bản và chủ yếu là do vay nóng. Do vậy, khi lãi suất tăng thì khơng chỉ chi
phí vay nợ tăng mà đồng vốn vào Thái Lan cũng sẽ giảm đi hoặc đổi chiều và dẫn đến
khủng hoảng về thanh khoản của Thái Lan đồng thời gây áp lực với đồng Peso Philippin
và Rupiah Indonesia.
3.5. Hoạt động tấn công đầu cơ và rút vốn hàng loạt:
Nguyên nhân trực tiếp của của khủng hoảng tài chính năm 1997 là những cuộc
tấn công đầu cơ và việc rút vốn đồng loạt khỏi các nước châu Á. Khi phát hiện những
dấu hiệu suy thoái của hệ thống ngân hàng – tài chính khu vực, nhiều nhà đầu cơ nước
ngồi đã tăng cường hoạt động đầu cơ tiền tệ. Theo nguồn thông tin nước ngồi thì rất
nhiều nhà đầu cơ trong tổng số 2300 quỹ tín dụng tư nhân ở Mỹ, với tài sản trên 100 tỷ
USD đã nhảy vào thị trường khu vực trong 2 tháng 7-8/1997. Ngoài các quỹ do Soros
kiểm sốt cịn có các quỹ tín dụng lớn như Tiger, Orbis, Pumar, Panther và Jaguar. Họ
mua đồng Baht sau đó Peso, Ringgit, Rupiah kể cả SGD ước tính 10-15 tỷ USD để đầu
cơ, cả dự trữ ngoại hối nhà nước canh kiệt làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo dài.
Những nguyên nhân sâu xa nói trên rồi cũng bộc lộ. Thị trường bất động sản của
Thái Lan đã vỡ. Một số thể chế tài chính bị phá sản. Người ta khơng cịn tin rằng chính
phủ đủ khả năng giữ tỷ giá hối đoái cố định. Khi phát hiện thấy những điểm yếu chết
người trong nền kinh tế của các nước châu Á, một số thể chế đầu cơ vĩ mô đã tiến hành
tấn công tiền tệ châu Á. Các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn ra.
Một nguyên nhân trực tiếp nữa của khủng hoảng là năng lục xử lý khủng hoảng

yếu kém. Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi mới bị tấn công tiền tệ, đáng lẽ các nước châu
Á phải lập tức thả nổi đồng tiền của mình chứ khơng nên cố sức bảo vệ tỷ giá để đến
nổi cạn kiệt cả dự trữ ngoại hối nhà nước mà lại càng làm cho tấn công đầu cơ thêm kéo
dài.

11


Ngoại trưởng 9 nước ASEAN (khi đó chưa có Campuchia) lúc đó tin rằng, việc
liên kết các hệ thống tiền tệ chặt chẽ là một nỗ lực thận trọng nhằm củng cố vững chắc
các nền kinh tế ASEAN. Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra tại Subang
Jaya, Malaysia đã thông qua một Tuyên bố chung vào ngày 25 tháng 7 năm 1997 nêu
rõ mối quan ngại sâu sắc và kêu gọi các nước ASEAN cần hợp tác chặt chẽ hơn nhằm
bảo vệ và tăng cường lợi ích của ASEAN trong giai đoạn này. Ngẫu nhiên là trong
cùng ngày này, các Ngân hàng Trung ương của hầu hết các nước chịu tác động của
khủng hoảng đã gặp nhau tại Thượng Hải trong Hội nghị cấp cao Đông Á Thái Bình
dương EMEAP, và thất bại trong việc đưa ra một biện pháp dàn xếp cho vay mới. Trước
đó một năm, Bộ trưởng Tài chính của các nước này cũng đã tham dự Hội nghị Bộ trưởng
Tài chính APEC lần thứ 3 tại Kyoto, Nhật Bản vào ngày 17 tháng 3 năm 1996, và theo
như Tuyên bố chung, các bên đã khơng thể nhân đơi được Quỹ tài chính phục vụ cho
Hiệp định chung về cho vay và Cơ chế Tài chính trong tình trạng khẩn cấp. Vì vậy,
cuộc khủng hoảng có thể xem như một thất bại trong việc xây dựng năng lực phù hợp
kịp thời, thất bại trong việc ngăn chặn sự lôi kéo tiền tệ.
Một số nhà kinh tế lại chỉ trích chính sách tài chính thắt chặt của IMF được áp
dụng ở các nước xảy ra khủng hoảng càng làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng.
4. Phản ứng chính sách vĩ mơ của các nước trong khủng hoảng.
4.1. Chính sách tiền tệ:
Phần lớn vai trị của chính sách tiền tệ thắt chặt ở châu Á đã được tạo ra. Các
biện pháp lãi suất thực đưa ra một bức tranh hơi phức tạp, phần lớn là do những điều
này chắc chắn phụ thuộc vào các thước đo lạm phát dự kiến khơng tốt, và do tình hình

thay đổi đáng kể giữa các tháng và quốc gia này sang quốc gia khác.
Đầu tiên, có rất ít hoặc khơng có nỗ lực tăng lãi suất trước khi có nhiều đợt thả
nổi khác nhau. Do đó, Thái Lan vào đầu năm 1997 và Hàn Quốc cho đến tháng 12 đã
không tăng đáng kể lãi suất trên cơ sở duy trì. (Hình 4 cho thấy lãi suất hàng ngày và
tỷ giá hối đoái từ năm 1997.) Tỷ giá thực của Indonesia chỉ tăng lên phần nào trong
tháng 8, do sự bảo vệ ngắn gọn nhưng mạnh mẽ đối với tỷ giá hối đối, sau đó là tỷ giá
hối đối của Indonesia mất hiệu lực khi lạm phát gia tăng.

12


Lãi suất thực tế trung bình được đo bằng lạm phát thực tế trước đây là rất thấp
đối với hầu hết các quốc gia trong hầu hết các khoảng thời gian. Tỷ giá hối đoái thực
của Hàn Quốc dưới 10% trong cả năm 1997, trong khi tỷ giá hối đoái thực của Thái Lan
dao động 10% trong tháng 8 và tháng 9. Philippines thể hiện phần nào một ngoại lệ,
với tỷ lệ trên 30% vào tháng 7 và một lần nữa khoảng 15% vào tháng 10.

13


Và từ những số liệu này có thể thấy lãi suất danh nghĩa của Thái Lan có xu hướng
quay trở lại khá nhanh về mức trước khủng hoảng của năm 1997 sau đỉnh vào tháng
bảy và tháng chín.
Lãi suất cuối cùng đã tăng đáng kể vào đầu năm 1998 ở Hàn Quốc và Thái Lan,
khi đồng tiền cuối cùng ổn định. Bằng mọi biện pháp đưa ra, Malaysia nói chung có lãi
suất thấp hơn các nước khác. Cuối cùng, lãi suất sau đó đã giảm đáng kể với sự ổn định
của tiền tệ. Do đó, vào tháng 6 năm 1998, tỷ giá thực tế và thậm chí hầu hết các tỷ giá
danh nghĩa đều thấp hơn mức trước khi xảy ra khủng hoảng (Indonesia là ngoại lệ).

14



Năm 1998, đối với hầu hết các quốc gia, tại thời điểm đó, tiền tệ trên thực tế đã
ổn định. Cũng có rất ít dấu hiệu cho thấy chính sách tiền tệ có sự thu hẹp đáng kể trong
tổng tiền tệ và tín dụng.
Tuy nhiên, có các chính sách hỗ trợ phù hợp thì chính sách tiền tệ sẽ khơng có
tác động "tiêu cực". Thật vậy, kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy rằng các chính sách
tiền tệ vững chắc, được hỗ trợ bởi các cải cách cơ cấu phù hợp và các cải cách khác, có
thể ổn định tỷ giá hối đoái và cho phép lãi suất thực giảm khá nhanh khi niềm tin quay
trở lại. Ở Hàn Quốc và Thái Lan, dường như là việc thực hiện chính sách tiền tệ đủ thắt
chặt cùng với một số biện pháp hỗ trợ được thực hiện liên tục vào đầu năm 1998 đã
mang lại sự ổn định tỷ giá hối đối và lãi suất giảm nhanh sau đó. Chính sách tiền tệ
hướng tới ổn định tỷ giá hối đoái ở Philippines cũng đã dẫn đến việc tăng tỷ giá mạnh
nhưng khá ngắn hạn. Việc thực hiện chính sách tiền tệ tương đối lỏng lẻo ở Indonesia
vào cuối năm 1997 và đầu năm 1998 đã dẫn đến sự sụt giá tương đối lớn và lãi suất thực
và danh nghĩa tiếp tục cao, do niềm tin vào sự ổn định danh nghĩa chậm trở lại.

15


4.2. Chính sách tài khóa

Bảng 6 cho thấy các cân đối tài khóa từ năm 1996 đến năm 1998 với cả chương
trình ban đầu và kết quả thực tế. Phản ứng ban đầu của chính sách tài khóa đối với cuộc
khủng hoảng là ban hành một số biện pháp thắt chặt tài khóa. Ở Thái Lan, điều này
được biện minh một phần bởi sự cần thiết phải giảm khoản thâm hụt tài khoản vãng lai
cực lớn, một phần do mở rộng tài khóa năm 1996 và 1997. Ở các nước khác, các khoản
thắt chặt theo kế hoạch ban đầu nhỏ hơn nhiều, do sự mất cân bằng kinh tế vĩ mơ ban
đầu nhỏ hơn. Việc điều chỉnh tài khóa này được thúc đẩy một phần bởi nhu cầu tài trợ
cho các khoản chi tiêu lớn liên quan đến việc tái cấp vốn cho hệ thống tài chính. Tại

thời điểm đó, sự cần thiết phải duy trì vốn đầu tư nước ngồi và tín dụng trong nước
cho các doanh nghiệp khu vực tư nhân đã kiềm hãm sự gia tăng khoản vay của chính
phủ cho các mục đích khác.
Một lập luận khác ủng hộ thắt chặt tài khóa liên quan đến tác động tiềm tàng của
chính sách tài khóa đối với sự kỳ vọng về chính sách trong tương lai. Tất cả các quốc
gia bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng (ngoại trừ một phần của Philippines) đều nổi
tiếng về quản lý tài khóa mạnh mẽ. Tuy nhiên, khi mức độ nghiêm trọng của các vấn
đề được bộc lộ, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, và khi các nhà hoạch định chính
sách phải đối mặt với những áp lực kinh tế chưa từng có và đơi khi là cả áp lực chính
trị, những nghi ngờ về tính bền vững của chính sách này đã xuất hiện. Trong khi cổ

16


phiếu nợ ban đầu ở mức thấp, thì bây giờ chúng lại đang tăng lên nhanh chóng. Theo
một ước tính của Ngân hàng Thế giới, chi phí tài khóa của việc tái cơ cấu hệ thống ngân
hàng được ước tính là rất lớn ở hầu hết các quốc gia, dao động từ 17% GDP ở Indonesia
đến 32% ở Hàn Quốc (mặc dù chỉ 3% ở Philippines). Sự gia tăng lớn về khoản vay của
chính phủ cho thấy sự thận trọng trong các hình thức mở rộng tài khóa khác.
Khi chiều sâu của cuộc suy thoái ngày càng rõ ràng hơn, các lập luận ủng hộ tài
khóa mở rộng càng trở nên mạnh mẽ. Mối quan tâm dần đổ dồn lên tác động "hất ra",
đó là sự tăng chi tiêu của chính phủ làm tăng lãi suất, dẫn tới giảm đầu tư khu vực tư
nhân và làm giảm hiệu lực kích thích tổng cầu.
Khơng có câu trả lời chung rõ ràng về chính sách tài khóa phù hợp trong bối cảnh
này, và trên thực tế, các chính sách đã thay đổi đáng kể giữa các quốc gia và đặc biệt là
thay đổi theo thời gian. Như Bảng 6 cho thấy, suy thoái kinh tế biểu hiện bằng sự gia
tăng thâm hụt tài khóa (chỉ riêng Malaysia có thặng dư lớn hơn trong năm 1997 so với
năm 1996). Khi những thay đổi này được phân tách thành: thay đổi môi trường kinh tế
(chẳng hạn như tăng trưởng GDP và tỷ giá hối đối) và thay đổi do các biện pháp chính
sách, có vẻ như sự gia tăng thâm hụt ở Hàn Quốc và Thái Lan năm 1998 là kết quả của

cả hai yếu tố, trong khi sự gia tăng đáng kể hơn nhiều ở Indonesia phản ánh tác động
mạnh mẽ của suy thoái và sự sụp đổ tỷ giá hối đoái chỉ được kháng cự lại một cách
khiêm tốn bằng các biện pháp chính sách.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. IMF (1999). The Asia crisis, causes, policy response, and outcomes.
2. Tín Nguyễn (2020). Khủng hoảng tiền tệ là gì ?. Kiến thức Forex. Truy cập tại:
/>
17



×