Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

80 câu tự luận Ôn Tập Triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.06 KB, 83 trang )

câu 10: nội dung:
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật cơ bản và quan trọng
nhất - hạt nhân của phép biện chứng duy vật. Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực
của sự vận động, phát triển
Nội dung của quy luật:
Tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau, tức những mặt
đối lập trong sự tồn tại của nó. Các mặt đối lập của sự vật vừa thống nhất vừa đấu tranh
với nhau tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật.
Mặt đối lập là phạm trù chỉ những mặt, những thuộc tính có đặc điểm hoặc có khuynh
hướng biến đổi trái ngược nhau trong một chỉnh thể.
Thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, ràng buộc nhau, quy định nhau
mặt này lấy mặt kia làm tiền cho sự tồn tại của nhau.
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại teo khuynh hướng phủ định lẫn nhau,
bài trừ lẫn nhau
Cứ có hai mặt đối lập là tạo thành một mâu thuẫn biện chứng
+ Trong một mâu thuẫn có sự thống nhất của các mặt không tách rời sự đấu tranh của
chúng, bất cứ một sự thống nhất nào của các mặt đối lập mang tính chất tạm thời tương
đối còn sự đấu tranh là tuyệt đối. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc của sự phát
triển.
+ Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật -
tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển của sự vật.
- Các tính chất của mâu thuẫn
Tính khách quan: mâu thuẫn là nguồn gốc vận động của mọi dạng vật chất. Vật chất tồn
tại khách quan nên mâu thuẫn cung tồn tại khách quan.
Tính phổ biến biểu hiện: Trong bất kể sự vật hiện tượng nào, ở bất cứ địa điểm nào, ở bất
cứ thời gian cũng tồn tại các mặt đối lập
Tính đa dạng phong phú: Thế giới vật chất có vô vàn các dạng khác nhau chúng có một
không gian khác nhau, thời gian khác nhau, mối liên hệ khác nhau cho nên chúng có
những mâu thuẫn khác nhau, không có một dạng mâu thuãn nào chùng khít lên dạng mâu
thuẫn nào. Có mâu thuẫn trong tự nhiên, có mâu thuẫn trong xã hội, có mâu thuẫn trong
tư duy


+ Các hình thức của mâu thuẫn
Căn cư vào quan hệ đối với các sự vật được xem xét người ta phân loại mâu thuẫn như
sau:
Có mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn bên ngoài, mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn không cơ
bản, mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn thứ yếu, mâu thuẫn đối kháng mâu thuẫn không đối
kháng
Mâu thuẫn bên trong là mâu thuân do sự tác đông giữa các mặt, các khuynh hướng trong
cùng một sự vật.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật
khác.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chát của sự vật quy định sự phát triển ở tất
cả các giai đoạn của sự vật.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phưng diện nào đó của sự
vật.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự
vật.
Mâu thuẫn thư yếu là mâu thuẫn ra đời tồn tại trong một gia đoạn phát triển nào đó của
sự vật, nhưng không phải đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối.
- quá trình vận động của mâu thuẫn
+ Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau của
các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả "sự
thống nhất" lẫn "đấu tranh" của các mặt đối lập. Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im,
với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận
động và phát triển.
+ Sự phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và giải
quyết mâu thuẫn. Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt
đối lập quy định sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển.
Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau,
mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống
nhất mới; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế.

Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật và là khách
quan trong bản thân sự vật nên cần phải phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật bằng cách
phân tích sự vật tìm ra những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau và mối liên hệ,
tác động lẫn nhau giữa chúng.
- Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể, biết phân loại mâu thuẫn và tìm cách
giải quyết cụ thể đối với từng mâu thuẫn.
- Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn - phù hợp với từng loại mâu thuẫn,
trình độ phát triển của mâu thuẫn. Không được điều hòa mâu thuẫn. Phải tìm ra phương
thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn khi điều kiện đã chín muồi.
Câu 11: nội dung & ý nghĩa của quy luật chuyển hóa
Quy luật những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong
những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này chỉ rõ tính chất và cách
thức của sự phát triển
Nội dung quy luật từ những thay đổi dần về lượng dấn đến sự thay đổi về chất và ngược
lại. Sự phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội cũng như sự phát
triển nhận thức tư duy con người đều đi từ sự thay đổi dần về lượng được tích luỹ lại khi
vượt quá giới hạn độ tới điểm nút thì thì gây nên sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật cũ
mất đi, sự vật mới ra đời thay thế. Sở dĩ như vậy là vì chất và lượng là hai mặt đối lập
vốn có của sự vật hiện tượng. Lượng thì thường xuyên biến đổi, còn chất tương đối ổn
định. Do đó sự phát triển của lượng tới một lúc nào đó thì mâu thuẫn với chất cũ. Khi
chất cũ kìm hãm thì qua đó nảy sinh yêu cầu tất yếu phải phá vỡ chất cũ, mở ra một độ
mới để mở đường cho lượng phát triển. Sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn
đến những thay đổi vê chất, diễn ra một cách phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Quy luật này còn có chiều ngược lại, tức là không chỉ thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi
về chất mà sau khi chất mới ra đời do sự biến đổi về lượng gây nên thì chất đó lại quy
định sự biến đổi về lượng, ảnh hởng của chất mới đến lượng thể hiện ở quy mô, mức độ,
nhịp điệu phát triển mới.
Nội dung duy luật này được phát biểu như sau Mọi sự vật hiện tượng dều vận động, phát
triển bằng cách thay đổi dần về lượng, lượng thay đổi đến một lúc nào đó vượt quá độ tồn

tại của sự vật tới điểm nút thì diễn ra bước nhảy, tạo sự thay đổi về chất của sự vật. Kết
quả là sự vật cũ, chất cũ mất đi và sự vật mới, chất mới ra đời. Chất mới lại tác động trở
lại lượng mới, lượng mới lại tiếp tục thay đổi dần, đến lúc nào đó, vượt quá độ tồn tại của
sự vật tới điểm nút thì lại diễn ra bước nhảy tạo sự thay đổi về chất, cứ như vậy sự tác
động qua lại giữa hai mặt chất và lượng tạo ra con đường vận động, phát triển không
ngừng của mọi sự vật, hiện tượng
Quy luật lượng-chất được vận dụng trong xã hội thể hiện ở mối quan hệ giữa tiến hoá và
cách mạng. Trong sự phát triển của xã hội, sự thay đổi dần về lượng gọi là tiến hoá, còn
sự thay đổi về chất theo hướng tiến hoá lên gọi là cách mạng, tiến hoá chuẩn bị cho cách
mạng. Trong giai đoạn tiến hoá, chế độ xã hội chưa có sự thay đổi căn bản về chất, còn
cách mạng là kết quả của quá trình tiến hoá, chấm dứt một quá trình này, mở ra một quá
trình tiến hoá mới cao hơn, chế độ xã hội cũ bị xoá bỏ, chế độ xã hội mới ra đời thay thế.
Cách mạng xã hội là phương thức thay thế xã hội này bằng xã hội khác, bạo lực là hình
thức cơ bản của cách mạng.
- Ý nghĩa phương pháp luận
-Trong hoạt động nhận thức thực tiễn, cần phải coi trọng quá trình tích luỹ về lượng, nếu
không coi trọng quá trình này thì sự không có sự biến đổi về chất. -Quy luật này có chiều
ngược lại, chất mới ra đời thì làm biến đổi tốc độ, quy mô lượng mới. Cho nên khi chất
mới ra đời phải biết xác định tốc độ, quy mô phát triển về lượng cho thích hợp, không
được bảo thủ, dừng lại -Cần phải chống quan điểm tả khuynh, hữu khuynh. Tả khuynh là
phủ nhận tích luỹ về lượng muốn có ngay sự thay đổi về chất, còn hữu khuynh là thì
ngược lạikhi lượng biến đổi đã tới vượt quá độ nhưng không dám thực hiện sự thay đổi
căn bản về chất
Câu 12: nội dung và ý nghĩa phương pháp luận phủ định của phủ định
Phủ định: là sự thay thế bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ phủ định tự thân, là mắt khâu của
quá trình dẫn đến ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ
Mọi quá trình vận động và phát triển các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy diễn ra
thông qua những sự thay thế, trong đó có sự thay thế chấm dứt sự phát triển, nhưng cũng
có sự thay thế tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triẻn của sự vật. Những sự thay

thế tạo ra điều kiện, tiền đề cho qúa trình phát triển của sự vất thì gọi là phủ định biện
chứng.
- Tính chất của phủ định
Tính khách quan
Nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng, nó là quá trình đấu
tranh, giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên trong bản thân sự vật, tạo kả năng ra đời cái mới
thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của chính bản thân sự vật.
Tính kế thừa
Tính kế thừa của Phủ định được thể hiện mà trong đó cá mới hình thành và phát triển tự
thân thông qua quá trình chọn lọc, loại bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những nội
dung tích cực.
Phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong
bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các
mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định.
Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (cái
phủ định, phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề là cái cũ, cái phủ định là cái
mới xuất hiện sau cái phủ định là cái đối lập với cái bị phủ định. Cái phủ định sau khi khi
phủ định cái bị phủ định, cái phủ định định lại tiếp tục biến đổi và tạo ra chu khỳ phủ
định lần thứ hai) . Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự
vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó dường như lập lại cái ban
đầu nhưng nó được bổ sung nhiều nhân tố mới cao hơn, tích cực hơn.
Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố
tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những lần phủ định
tiếp theo. Do vậy, sự vật mới với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có nội
dung toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng định bạn đầu và kết quả của sự phủ
định lần thứ nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là diểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng
là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục phủ định biện chứng
chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn.

Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật - xu hướng
phát triển. Song phát triển đó không theo hướng thẳng mà theo đường "xoáy ốc".
Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát
triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường
xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự
phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau
từ dưới lên của các vòng trong đường "xoáy ốc".
Ý nghĩa của phương pháp luận
Qúa trình phủ định mang tính đi lên, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải có liềm tin
vào xu hướng của sự phát triển.
Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước.trong sự thay thế đó có sự tác động của
các nhân tố chủ quan của con người, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải phát huy
tính năng động sáng tạo, phát hiện những cái mới thay thế những cái cũ lỗi thời.
Phủ định mang tính kế thừa, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải kế thừa những yếu
tố tích cực. Kế thừa phát triển những tinh hoa văn hoá của dân tộc và tiếp thu tinh hoa
văn hoá nhân loại. Loại bỏ những hủ tục lạc hậu, những tư tưởng lỗi thời mang tính bảo
thủ.
Mỗi quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật đề cập đến những phương diện khác
nhau của quá trình vận động và phát triển của sự vật. Trong thực tế, sự vận động và phát
triển của bất cứ sự vật nào cũng là sự tác động tổng hợp của tất cả những quy luật cơ bản
do phép biện chứng duy vật trừu tượng hóa và khái quát hóa. Do đó, trong hoạt động của
mình, cả hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn để đạt chất lượng và hiệu quả cao,
con người phải vận dụng tổng hợp tất cả những quy luật đó một cách đầy đủ, sâu sắc,
năng động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể.
Câu 13
Thế giới vật chất xung quanh con người tồn tại bằng muôn vàn các sự vật, hiện tượng rất
khác nhau về màu sắc, trạng thái, tính chất, hình dáng, kích thước v.v., nhưng đồng thời
giữa chúng cũng có rất nhiều những đặc điểm, thuộc tính chung giống nhau.
1. Khái niệm
Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình

riêng lẻ nhất định.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những yếu tố,
những quan hệ…tồn tại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng
Trong mỗi sự vật, ngoài cái chung còn tồn tại cái đơn nhất, đó là phạm trù triết học dùng
để chỉ những mặt, những thuộc tính… chỉ tồn tại ở một sự vật, một hiện tượng nào đó mà
không được lặp lại ở bất kỳ sự vật, hiện tượng nào khác.
2. Mối quan hệ biện chứng
Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng,cái chung, cái riêng và cái đơn nhất đều tồn tại
khách quan, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại
của mình; cái chung không tồn tại biệt lập, tách rời cái riêng
Thứ hai, cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung, không cso cái riêng tồn
tạiđộc lập tuyệt đối tách rời cái chung.
Thứ ba, cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái chung; còn cái chung là cái
bộ phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Bởi vì cái riêng là tổng hợp của cái chung
và cái đơn nhất còn cái chung biểu hiện tính phổ biến, tính quy luật của nhiều cái riêng.
Thứ tư, cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hoá cho nhau trong những đk xác định
Sở dĩ như vậy là vì trong hiện thực cái mới bao giờ cũng xuất hiện dưới dạng cái đơn
nhất. Về sau theo quy luật, cái mới hoàn thiện dần và thay thế cái cũ, trở thành cái chung,
cái phổ biến, nhưng về sau nữa, khi không phù hợp với điều kiện mới mà bị mất dần đi
và trở thành cái đơn nhất. Như vậy sự chuyển hóa từ cái đơn nhất thành cái chung là biểu
hiện của quá trình cái mới ra đời thay thế cái cũ. Ngược lại sự chuyển hoá từ cái chung
thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
Ý nghĩa phương pháp luận
-Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của
mình, nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật,
hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của con người bên ngoài
cái riêng.
-Cái chung là cái sâu sắc, cái bản chất chi phối cái riêng nên nhận thức phải nhằm tìm ra
cái chung và trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái chung để cải tạo cái riêng. Trong

hoạt động thực tiễn nếu không hiểu biết những nguyên lý chung (không hiểu biết lý
luận), sẽ không tránh khỏi rơi vào tình trạng hoạt động một cách mò mẫm, mù quáng.
Mặt khác, cái chung lại biểu hiện thông qua cái riêng, nên khi áp dụng cái chung phải tuỳ
theo cái riêng cụ thể để vận dụng cho thích hợp. Thí dụ, -khi áp dụng những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải căn cứ vào tình hình cụ thể của từng thời kỳ lịch sử ở
mỗi nước để vận dụng những nguyên lý đó cho thích hợp, có vậy mới đưa lại kết quả
trong hoạt động thực tiễn.
-Trong quá trình phát triển của sự vật, trong những điều kiện nhất định "cái đơn nhất" có
thể biến thành "cái chung" và ngược lại "cái chung" có thể biến thành "cái đơn nhất", nên
trong hoạt động thực tiễn có thể và cần phải tạo điều kiện thuận lợi để "cái đơn nhất" có
lợi cho con người trở thành "cái chung" và "cái chung" bất lợi trở thành "cái đơn nhất"
Câu 14 *không biết ý nghĩa :D*
Nội dung là tổng hợp tất cả các mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.
- Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ
tương đối bần vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
Mối liên hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.
- Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức. Vì nội dung là những mặt, những yếu tố,
những quá trình tạo nên sự vật, còn hình thức là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền
vững giữa các yếu tố của nội dung. Nên nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với
nhau trong một thể thống nhất. Không có hình thức nào tồn tại thuần túy không chứa
đựng nội dung, ngược lại không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức
xác định. Nội dung nào có hình thức đó.
Nội dung và hình thức không tồn tại tác rời nhau, nhưng không phải vì thế mà lúc nào nội
dung và hình thức cũng phù hợp với nhau. Không phải một nội dung bao giờ cũng chỉ
được thể hiện ra trong một hình thức nhất định và một hình thức luôn chỉ chứa một nội
dung nhất định, mà một nội dung trong quá trình phát triển có nhiều hình thức thể hiện,
ngược lại, một hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung khác nhau
- Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động và phát triển
của sự vật. Vì khuynh hướng chủ đạo của nội dung là biến đổi, còn khuynh hướng chủ
đạo của hình thức là tương đối bền vững, chậm biến đổi hơn so với nội dung. Dưới sự tác

động lẫn nhau của những mặt trong sự vật, hoặc giữa các sự vật với nhau trước hết làm
cho yếu tố của nội dung biến đổi trước; còn những mối liên kết giữa các yếu tố nội dung,
tức hình thức thì chưa biến đổi ngay, vì vậy hình thức sẽ trở lên lạc hậu hơn so với nội
dung và sẽ trở thành nhân tố kìm hãm nội dung phát triển. Do xu hướng chung của sự
phát triển của sự vật, hình thức không thể kìm hãm mãi sự phát triển của nội dung và sẽ
phải thay đổi cho phù hợp với nội dung mới .
- Sự tác động trở lại của hình thức với nội dung. Hình thức do nội dung quyết định,
nhưng hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung. Sự tác động của
hình thức đến nội dung thể hiện ở chỗ: nếu phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ tạo điều
kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát triển; nếu không phù hợp với nội dung thì hình thức
sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của nội dung.
Câu 15 phân tích mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
Nguyên nhân là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật
với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.
Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tác động lẫn nhau của các mặt trong một sự
vật hoặc giữa các sự vật với nhau.
- Khác với nguyên nhân, nguyên cớ cũng là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết
quả, nhưng không sinh ra kết quả, có liên hệ với kết quả nhưng là mối liên hệ bên ngoài
không bản chất.
Điều kiện là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân, nhưng có tác
dụng đối với sự nảy sinh kết quả.
Nguyên nhân sinh ra kết quả, vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả. Còn kết
quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân. Tuy nhiên, không phải mọi quan hệ nối tiếp
nào cũng là mối liên hệ nhân quả. Chỉ những mối liên hệ trước sau về mặt thời gian có
quan hệ sản sinh mới là mối liên hệ nhân quả.
Trong hiện thực, mối liên hệ nhân quả biểu hiện rất phức tạp: một kết quả có thể do
nhiều nguyên nhân và một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả.
- Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết quả nhanh hơn.
- Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình hình thành kết quả
chậm hơn. Thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.

Giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối, có sự chuyển hoá, tác động qua lại tạo
thành chuỗi liên hệ nhân - quả vô cùng vô tận.
— Ý nghĩa phương pháp luận
- Cần tìm nguyên nhân của các hiện tượng trong bản thân thế giới hiện thực, mối quan hệ
nhân quả có tính khách quan.
- Vì mối liên hệ nhân quả là đa dạng, cần phân biệt các loại nguyên nhân để có biên pháp
xử lý đúng đắn.
- Kết quả do nguyên nhân sinh ra nhưng không tồn tại một cách thụ động, vì vậy phải biết
khai thác, vận dụng các kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức và tiếp tục thúc đẩy
sự vật phát triển.
Câu 16: bản chất – hiện tượng
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan của bản chất và
hiện tượng, mà còn cho rằng, giữa bản chất và hiện tượng có quan hệ biện chứng vừa
thống nhất gắn bó chặt chẽ với nhau, vừa mâu thuẫn đối lập nhau.
-Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng trước hết thể hiện ở chỗ bản chất luôn luôn
được bộc lộ ra qua hiện tượng; còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở
mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng; đồng thời
cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản chất. Nhấn mạnh sự thống
nhất này, V.I.Lênin viết: "Bản chất hiện ra. Hiện tượng là có tính bản chất".
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ bản chất và hiện tượng về
căn bản là phù hợp với nhau. Bản chất được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng.
Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác
nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến
mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo.
Tóm lại, bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này mà
người ta có thể tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện tượng bên ngoài.
-Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối
lập. Do vậy không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn mà luôn bao hàm

cả sự mâu thuẫn nhau. Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ: bản chất phản ánh cái chung, cái tất
yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, còn hiện tượng phản ánh cái riêng, cái
cá biệt. Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tùy theo sự
thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản
chất sâu sắc hơn hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện
tượng là cái thường xuyên biến đổi. Nhấn mạnh điều này, V.I.Lênin viết: "Cái không bản
chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất, không bám “chắc”, không “ngồi vững”
bằng “bản chất”2.
Mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ, bản chất là mặt bên trong ẩn
giấu sâu xa của hiện thực khách quan; còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực
khách quan đó. Bản chất không được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở
rất nhiều hiện tượng khác nhau. Hiện tượng không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ
biểu hiện một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất dưới hình thức đã biến đổi,
nhiều khi xuyên tạc bản chất.
Ý nghĩa của phương pháp luận
Bản chất không tồn tại thuần túy mà tồn tại trong sự vật và biểu hiện qua hiện tượng, vì
vậy muốn nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những sự vật, hiện tượng,
quá trình thực tế. Hơn nữa bản chất của sự vật không được biểu hiện đầy đủ trong một
hiện tượng nhất định nào và cũng biến đổi trong quá trình phát triển của sự vật. Do vậy
phải phân tích, tổng hợp sự biến đổi của nhiều hiện tượng, nhất là những hiện tượng điển
hình mới hiểu rõ được bản chất của sự vật. Nhận thức bản chất của sự vật là một quá
trình phức tạp đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc
hơn. V.I.Lênin cũng viết rằng: "Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện
tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể nói như vậy, đến bản chất cấp hai,
v.v., cứ như thế mãi".
Vì bản chất là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động
phát triển của sự vật, còn hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự vận động
phát triển của sự vật. Do vậy nhận thức không chỉ dừng lại ở hiện tượng mà phải tiến đến
nhận thức được bản chất của sự vật. Còn trong hoạt động thực tiễn, phải dựa vào bản chất
của sự vật để xác định phương thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa vào hiện

tượng.
Câu 17 tất nhiên – ngẫu nhiên
-Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người và đều
có vị trí nhất định đối với sự phát triển của sự vật
Trong quá trình phát triển của sự vật không phải chỉ có cái tất nhiên mới đóng vai trò
quan trọng mà cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có vai trò quan trọng.
Nếu cái tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật thì cái ngẫu nhiên có tác
dụng làm cho sự phát triển của sự vật diễn ra nhanh hoặc chậm. Thí dụ; cá tính của lãnh
tụ một phong trào là yếu tố ngẫu nhiên, không quyết định đến xu hướng phát triển của
phong trào, nhưng lại có ảnh hưởng làm cho phong trào phát triển nhanh hoặc chậm, mức
độ sâu sắc của phong trào đạt được như thế nào
- Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại, nhưng chúng không tồn tại biệt lập dưới dạng thuần
túy cũng như không có cái ngẫu nhiên thuần túy
Tất nhiên và ngẫu nhiên tồn tại trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất hữu
cơ này thể hiện ở chỗ: cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua
vô số cái ngẫu nhiên. Còn cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên, đồng
thời là cái bổ sung cho cái tất nhiên, Ph.Ăngghen nhận xét: sự xuất hiện các nhân vật xuất
sắc trong lịch sử là tất nhiên do nhu cầu xã hội phải giải quyết những nhiệm vụ chín muồi
của lịch sử tạo nên. Nhưng nhân vật đó là ai lại không phải là cái tất nhiên, vì cái đó
không phụ thuộc trực tiếp vào tiến trình chung của lịch sử. Nếu gạt bỏ nhân vật này thì
nhân vật khác sẽ xuất hiện, thay thế. Người thay thế này có thể tốt hơn hoặc xấu hơn,
nhưng cuối cùng nhất định nó phải xuất hiện. Như vậy ở đây cái tất yếu như là khuynh
hướng chung của sự phát triển. Khuynh hướng đó không tồn tại thuần túy, biệt lập, mà
được thể hiện dưới hình thức cái ngẫu nhiên. Cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại thuần túy
mà luôn là hình thức thể hiện của cái tất nhiên. Trong cái ngẫu nhiên ẩn giấu cái tất yếu.
- Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa cho nhau
Tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà thay đổi cùng với sự thay đổi
của sự vật và trong những điều kiện nhất định tất nhiên có thể chuyển hóa thành ngẫu
nhiên và ngược lại. Thí dụ: việc trao đổi vật này lấy vật khác trong xã hội công xã
nguyên thủy lúc đầu chỉ là việc ngẫu nhiên. Vì khi đó lực lượng sản xuất thấp kém, mỗi

công xã chỉ sản xuất đủ cho riêng mình dùng, chưa có sản phẩm dư thừa. Nhưng về sau,
nhờ có sự phân công lao động, kinh nghiệm sản xuất của con người cũng được tích lũy.
Con người đã sản xuất được nhiều sản phẩm hơn, dẫn đến có sản phẩm dư thừa. Khi đó
sự trao đổi sản phẩm trở nên thường xuyên hơn và biến thành một hiện tượng tất nhiên
của xã hội.
Sự chuyển hóa giữa tất nhiên và ngẫu nhiên còn thể hiện ở chỗ, khi xem xét trong mối
quan hệ này, thông qua mặt này thì sự vật, hiện tượng đó là cái ngẫu nhiên, nhưng khi
xem xét trong mối quan hệ khác, thông qua mặt khác thì sự vật, hiện tượng đó lại là cái
tất yếu. Như vậy ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có ý nghĩa tương đối. Do vậy
không nên cứng nhắc khi xem xét sự vật, hiện tượng.
+Ý nghĩa của phương pháp luận
Vì cái tất nhiên gắn với bản chất của sự vật, cái nhất định xảy ra theo quy luật nội tại của
sự vật, còn cái ngẫu nhiên là cái không gắn với bản chất nội tại của sự vật, nó có thể xảy
ra, có thể không. Do vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta phải dựa vào cái tất nhiên,
mà không thể dựa vào cái ngẫu nhiên. Nhưng cũng không được bỏ qua hoàn toàn cái
ngẫu nhiên. Vì cái ngẫu nhiên tuy không chi phối sự phát triển của sự vật, nhưng nó có
ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật, đôi khi còn có thể ảnh hưởng rất sâu sắc. Do vậy,
trong hoạt động thực tiễn, ngoài phương án chính, người ta thấy có phương án hành động
dự phòng để chủ động đáp ứng những sự biến ngẫu nhiên có thể xảy ra.
Vì cái tất nhiên không tồn tại thuần túy mà bộc lộ qua vô vàn cái ngẫu nhiên. Do vậy
muốn nhận thức được cái tất nhiên phải thông qua việc nghiên cứu, phân tích so sánh rất
nhiều cái ngẫu nhiên. Vì không phải cái chung nào cũng là cái tất yếu, nên khi nghiên
cứu cái ngẫu nhiên không chỉ dừng lại ở việc tìm ra cái chung, mà cần phải tiến sâu hơn
nữa mới tìm ra cái chung tất yếu.
Cái ngẫu nhiên trong điều kiện nhất định có thể chuyển hóa thành cái tất nhiên. Do vậy
trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, chúng ta không được xem nhẹ, bỏ
qua cái ngẫu nhiên, mặc dù nó không quyết định xu hướng phát triển của sự vật.
Câu 18 khả năng- hiện thực
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời
nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Điều đó có

nghĩa là trong sự vật hiện đang tồn tại chứa đựng khả năng, sự vận động phát triển của sự
vật chính là quá trình biến khả năng thành hiện thực.
Trong hiện thực mới đó lại nảy sinh khả năng mới, khả năng mới này nếu có những điều
kiện lại biến thành hiện thực mới. Quá trình đó được tiếp tục, làm cho sự vật vận động,
phát triển một cách vô tận trong thế giới vật chất.
Quan hệ giữa khả năng và hiện thực có tính phức tạp. Điều đó thể hiện ở chỗ cùng trong
những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả năng chứ không
phải chỉ một khả năng.
- Ngoài những khả năng vốn sẵn có, trong những điều kiện mới thì sự vật sẽ xuất hiện
thêm những khả năng mới, đồng thời bản thân mỗi khả năng cũng thay đổi theo sự thay
đổi của điều kiện.
- Để khả năng biến thành hiện thực, thường cần không phải chỉ một điều kiện mà là một
tập hợp nhiều điều kiện.
Trong đời sống xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò hết sức to lớn trong
việc biến khả năng thành hiện thực. Nó có thể đẩy nhanh hoặc kìm hãm quá trình biến
khả năng thành hiện thực; có thể điều khiển khả năng phát triển theo chiều hướng nhất
định bằng cách tạo ra những điều kiện tương ứng. Không thấy vai trò của nhân tố chủ
quan của con người sẽ rơi vào sai lầm hữu khuynh chịu bó tay, khuất phục trước hoàn
cảnh. Tuy nhiên cũng không được tuyệt đối vai trò của nhân tố chủ quan mà xem thường
những điều kiện khách quan. Như vậy chúng ta dễ rơi vào sai lầm chủ quan, mạo hiểm,
duy ý chí.
Ý nghĩa mặt phương pháp luận
Vì hiện thực là cái tồn tại thực sự, còn khả năng là cái hiện chưa có, nên trong hoạt động
thực tiễn cần dựa vào hiện thực để định ra chủ trương, phương hướng hành động của
mình; nếu chỉ dựa vào cái còn ở dạng khả năng thì sẽ dễ rơi vào ảo tưởng. Theo
V.I.Lênin, người mácxít chỉ có thể sử dụng để làm căn cứ cho chính sách của mình
những sự thật được chứng minh rõ rệt và không thể chối cãi được.
Khả năng là cái chưa tồn tại thật sự nhưng nó cũng biểu hiện khuynh hướng phát triển
của sự vật trong tương lai. Do đó, tuy không dựa vào khả năng nhưng chúng ta cũng phải
tính đến các khả năng để việc đề ra chủ trương, kế hoạch hành động sát hợp hơn. Khi tính

đến khả năng phải phân biệt được các loại khả năng gần, khả năng xa, khả năng tất nhiên
và ngẫu nhiên Từ đó mới tạo được các điều kiện thích hợp để biến khả năng thành hiện
thực, thúc đẩy sự vật phát triển.
Việc chuyển khả năng thành hiện thực trong giới tự nhiên được thực hiện một cách tự
động, nhưng trong xã hội, điều đó phụ thuộc nhiều vào hoạt động của con người. Vì vậy,
trong xã hội, chúng ta phải chú ý đến việc phát huy nguồn lực con người, tạo ra những
điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi con người để biến
khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển. Trên ý nghĩa đó, Đảng ta chủ trương
lấy việc phát huy nguồn lực con người làm nhân tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững của đất nước. Tuy nhiên cũng cần tránh hai thái cực sai lầm, một là: tuyệt đối hóa
vai trò nhân tố chủ quan; hai là: hạ thấp vai trò nhân tố chủ quan trong việc biến khả năng
thành hiện thực.
Câu 19: thực tiễn
+khái niệm:
Thực tiến la toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử- xã hội của con
người nhằm cải biến thế giới khách quan.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất. Tất cả những hoạt động bên ngoài hoạt động tinh thần
của con người đều là hoạt động thực tiễn.
- Là hoạt động có mục đích. Khác hoạt đông bản năng của động vật.
- Có tính lịch sử - xã hội: Là hoạt động của con người trong xã hội và trong những giai
đoạn lịch sử nhất định.
- hoạt động thực tiễn rất đa dạng, cơ bản có 3 hình thức:
+ Hoạt động sản xuất vật chất
+ Hoạt động chính trị - xã hội.
+ Hoạt động thực nghiệm khoa học (Nhằm tạo ra môi trường giống hoặc gần giống môi
trường sống bên ngoài: hoạt động này ngày càng đóng vai trò quan trọng).
- Trong 3 hoạt động trên, hoạt động sản xuất vật chất có vai trò quan trọng nhất, là cơ sở
cho các hoạt động khác của con người và cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người.
+ Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức

Thực tiễn và nhận thức không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau, trong đó thực
tiễn đóng vai trò là cơ sở, nguồn gốc, động lực, mục đích của nhận thức và là cơ sở của
chân lý.
Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc, động lực của nhận thức
- Con người muốn tồn tại thì phải lao động sx để tạo ra những sản phẩm phục vụ cho con
người, muốn lao động sx con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh. Vậy, hoạt động
thực tiễn tạo ra động lực đầu tiên để con người nhận thức thế giới.
- Trong hoạt động thực tiễn , con người dung cac song cụ, các phương tiện để tác động
vào thế giới, làm thế giới bộc lộ những đặc điểm, thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động;
con người nắm bắt lấy các đặc điểm thuộc tính đó, dần dần hình thành tri thức về thế
giới.
- Trong hoạt động thực tiễn, con ngườidần tự hoàn thiện bản than mình, các giác quan
của con người ngày càng phát triển. do đó, làm tăng khả năng nhận thức của con người
về thế giới.
- Trong bản thân nhận thức có động lực trí tuệ. Nhưng suy cho cùng thì đông lực cơ bản
của nhận thức là thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn con người đã vấp phải nhiều trở
ngại, khó khăn và thất bại. Điều đó buộc con người phải giải đáp những câu hỏi do thực
tiễn đặt ra. - Trong hoạt động thực tiễn, con người chế tạo ra các công cụ, phương tiện có
tác dụng nối dài các giác quan, nhờ vậy làm tăng khả năng nhận thức của con người về
thế giới.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Mục đích của mọi nhận thức không phải vì bản
thân nhận thức, mà vì thực tiễn nhằm cải biến giới tự nhiên, biến đổi xã hội vì nhu cầu
của con người. Mọi lý luận khoa học chỉ có ý nghĩa khi nó được ứng dụng vào thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Làm sao để nhận biết được nhận thức của con người
đúng hay sai? Tiêu chuẩn để đánh giá cuối cùng không nằm trong lý luận, trong nhận
thức mà ở thực tiễn. Khi nhận thức được xác nhận là đúng, nhận thức đó sẽ trở thành
chân lý.
Tuy nhiên cũng có trường hợp không nhất thiết phải qua thực tiễn khiêpr nghiệm mới
biết nhận thức đó là đúng hay sai, mà có thể thông qua quy tắc logic vẫn có thể biết được
nhận thức đó là thế nào. Nhưng xét đến cùng thì những nguyên tắc đó cũng đã được

chứng minh từ trong thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối lại vừa có tính tương đối:
Tuyệt đối là ở chỗ: Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn
có khả năngg xác định cái đúng, bác bỏ cái sai.
Là tương đối ở chỗ: Thực tiễn ngay một lúc không thể khẳng định được cái đúng, bác bỏ
cái sai một cách tức thì. Hơn nữa, bản thân thực tiễn không đứng yên một chỗ mà biến
đổi và phát triển liên tục, nên nó không cho phép người ta hiểu biết bất kỳ một cái gì hóa
thành chân lý vĩnh viễn.
Câu 20: anh không biết
Câu 21 quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất:
Định nghĩa: là sự biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình
sản xuất tạo ra của cải vật chất, biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người
- Lực lượng sản xuất là thước đo quan trọng nhất của sự tiến bộ xã hội
Kết cấu của LLSX
- LLSX là sự thống nhất của hai yếu tố là người lao động và tư liệu sản xuất.
+ Người lao động (sức lao động): toàn bộ năng lực và trí tuệ của con người thông qua tư
liệu lao động được kết tinh vào sản phẩm phụ thuộc vào trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng,
kỹ xảo, thói quen, kết hợp với các yếu tố đạo đức, tâ lý, khoa học … biết sử dụng TLSX
để tạo ra của cải vật chất. m
+ Tư liệu sản xuất: là toàn bộ điều kiện vật chất cần thiết để tiến hành sản xuất. Nó bao
gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động
· Đối tượng lao động: không phải là toàn bộ giới tự nhiên mà chỉ là một bộ phận của giới
tự nhiên được con người sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất. Đối tượng lao động gồm
2 dạng: dạng tự nhiên sẵn có và dạng nhân tạo
· Tư liệu lao động: là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt dưới mình với đối
tượng lao động.
Trong các yếu tố này không thể thiếu người lao động, người lao động là nhân tố chủ quan
hàng đầu của LLSX. Hơn thế nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao động
có trí tuệ và lao động trí tuệ.

Khi con người tiến hành lao động SX thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất,
động nhất và cách mạng nhất. Tóm lại, trình độ của công cụ lao động là thước đo trình độ
chinh phục tự nhiên của con người
* Khoa học công nghệ (chỉ ngày nay mới có)
- Vai trò của Khoa học công nghệ theo quan điểm của triết học Mác:
+ Khoa học có vai trò nâng cao trình độ người lao động
+ Khoa học có vai trò nâng cao công cụ lao động
+ Khoa học có vai trò kết hợp người lao động với công cụ lao động, tao nên năng suất lao
động cao và đây là cái đích cuối cùng của Khoa học.
Quan hệ sản xuất:
a. Khái niệm: là sự biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.
- Quan hệ sản xuất về lĩnh vực đời sống vật chất xã hội do đó nó mang tính khách quan
- Mỗi loại QHSX đặc trưng cho một hình thái kinh tế - xã hội
b. Kết cấu quan hệ sản xuất:
- Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất.
- Quan hệ giữa người với người đối với việc tổ chức quản lý.
- Quan hệ giữa người với người đối với việc phân phối sản phẩm lao động.
=> 3 mặt của QHSX có mối quan hệ biện chứng thống nhất với nhau, trong đó quan hệ
sở hữu đối với TLSX là quan trọng nhất. Nó quyết định và chi phối tới tất cả các quan hệ
khác. Mác nói “Trong mối quan hệ này thì quan hệ sản xuất là quan trọng nhất nhưng QH
sở hữu này không phải đơn giản mà có được”
Quy luật về sự phù hợp của QHSX với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
· Tính chất của LLSX: là tính chất của TLSX và của người lao động. Nền SX đó bằng thủ
công cá thể hoặc bằng máy móc tập thể, thể hiện là sự đòi hỏi phân công lao động trong
nên sản xuất.
· Trình độ của LLSX: được biểu hiện ở trình độ công cụ lao động cộng với trình độ tổ
chức lao động xã hội + trình độ ứng dụng khoa học và sản xuất + kinh nghiệm, kỹ năng
lao động của con người + trình độ phân công lao động.
a. QHSX được hình thành và biến đổi dưới ảnh hưởng quyết định của LLSX:
- LLSX và QHSX là hai mặt của phương thức sản xuất nhưng trong đó LLSX là mặt

động thường xuyên biến đổi, còn QHSX mang tính bảo thủ, trì trệ hơn, thể hiện con
người luôn cải tiến công cụ để giảm nhẹ lao động, thời gian lao động, tạo nên năng suất
lao động hiệu quả cao. Vì vậy công cụ lao động là yếu tốt động nhất trong LLSX cho nên
cộng cụ lao động thay đổi dẫn đến QHSX thay đổi theo và thể hiện SX ngày càng mang
tính chất xã hội hóa cao.
- Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX giống như mối quan hệ giữa nội dung và hình thức.
Nội dung là cái quy định hình thức. Nội dung thay đổi thì hình thức cũng thay đổi theo.
- Tính chất và trình độ của LLSX là quyết định nhất đối với sự phát triển của QHSX.
Trong lực lượng SX còn nhiều yếu tố khác nhưng quyết định nhất đối với việc hình thành
và phát triển của quan hệ sản xuất là do tính chất và trình độ của LLSX quyết định quan
hệ chặt chẽ như thế nào giữa người lao động với người lao động chứ không phải do
phương pháp của đối tượng lao động hoặc tư liệu lao động.
- Trong các hình thức kinh tế không phải lúc nào LLSX cũng quyết định được QHSX.
Cho nên dẫn đến mâu thuẫn được biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giai cấp.
b. Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX
- LLSX phát triển được là nhờ nhiều yếu tố quyết định như dân số, hoàn cảnh địa lý, trình
độ phát triển của khoa học, còn QHSX chỉ giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
LLSX.
- QHSX là sự phản ánh LLSX nhưng chính nó lại quy định mục đích của SX, khuynh
hướng phát triển của các nhu cầu về lợi ích vật chất và tinh thần, quyết định hệ thống
quản lý sản xuất và quản lý xã hội. Bởi vậy nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của LLSX thì nó sẽ thúc đẩy, tạo điều kiện cho LLSX phát triển. Còn nếu QHSX
không phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX thì nó sẽ cản trở LLSX.
- Sự tác động của QHSX đối với LLSX: chỉ khi xem xét QHSX trong một tình huống đầy
đủ với ba mặt của nó, đồng thời chịu sự chi phối của yếu tố chung:
+ Các quy luật kinh tế cơ bản
+ phụ thuộc vào trình độ của người lao động
+ tùy thuộc vào sự phát triển của khoa học, công nghệ
- Trong xã hội có đối kháng giai cấp thì khi LLSX phát triển tới mức QHSX cản trở sự
phát triển của nó thì CMXH là bước cuối cùng để thay đổi QHSX hiện có.

Như vậy, ta có thể khẳng định:
- Quy luật về sự phù hợp của QHSX và tính chất, trình độ của LLSX là quy luật chung
cho toàn xã hội loài người, chính sự tác động của quy luật này làm cho xã hội loài người
phát triển từ hình thái kinh tế XH này sang hình thái kinh tế XH khác cao hơn.
- Quy luật này là cơ sở lý để chống lại các quan điểm duy tâm tôn giáo về sự phát triển
của lịch sử.
- Quy luật này là cơ sở lý luận cho việc hoạch định các đường lối của Đảng, phê phán các
chủ trương sai lầm trong việc xây dựng phương thức sản xuất mới.
- Đây là quy luật khách quan, tất yếu đối với 5 hình thái kinh tế, xã hội và lịch sử của
nhân loại
Câu 22 kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng:
- Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình
thái kinh tế - xã hội nhất định.
(“Toàn bộ những quan hệ sản xuất” bao gồm: quan hệ sản xuất thống trị; quan hệ sản
xuất tàn dư của hình thái kinh tế - xã hội trước; quan hệ sản xuất mầm mống của hình
thái kinh tế - xã hội tương lai).
- Đặc trưng của cơ sở hạ tầng :
. Trong một chế độ xã hội nhất định, quan hệ sản xuất thống trị là chủ đạo, chi phối các
loại quan hệ sản xuất khác, tạo nên đặc trưng của cơ sở hạ tầng đó.
. Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì cơ sở hạ tầng cũng có tính đối kháng
* Kiến trúc thượng tầng:
- Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm tư tưởng (Chính trị, pháp quyền, đạo
đức, nghệ thuật, tôn giáo, triết học…) và những thiết chế tương ứng (Nhà nước, đảng
phái, giáo hội, các tổ chức quần chúng…) được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất
định và phản ánh cơ sở hạ tầng đó.
- Đặc trưng của kiến trúc thượng tầng:
. Các yếu tố, các bộ phận của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm riêng, nhưng chúng
liên hệ với nhau, tác động nhau và điều hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Trong đó nhà nước là bộ phận có quyền lực mạnh nhất.

. Trong xã hội có giai cấp kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp và giai cấp nào
thống trị cơ sở hạ tầng, thống trị kinh tế thì đồng thời thống trị kiến trúc thượng tầng. Do
vậy, trong xã hội có đối kháng giai cấp thì kiến trúc thượng tầng cũng có tính đối kháng.
* Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:
+ Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng:
- Cơ sở hạ tầng như thế nào thì kiến trúc thượng tầng dựng trên nó phải như thế ấy
để đảm bảo sự tương ứng.
(Nghĩa là, QHSX nào thống trị thì tạo ra một kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng;
giai cấp nào thống trị về kinh tế thì tư tưởng của nó cũng thống trị. Chẳng hạn nếu QHSX
là phong kiến thì toàn bộ KTTT từ hệ tư tưởng chính trị, pháp quyền, đạo đức, các thiết
chế khác đều của giai cấp phong kiến).
- Khi cơ sở hạ tầng biến đổi thì nó đòi hỏi kiến trúc thượng tầng cũng biến đổi theo để
đảm bảo sự tương ứng.
(Nghĩa là, những biến đổi trong cơ sở hạ tầng sớm muộn gì cũng dẫn tới sự biến đổi trong
kiến trúc thượng tầng. Như khi cơ sở hạ tầng của CNTB trong thời kỳ tự do cạnh tranh
chuyển sang CNTB độc quyền thì kiến trúc thượng tầng của CNTB cũng biến đổi, nhà
nước dân chủ tư sản chuyển thành nhà nước độc quyền; các quan điểm chính trị, triết học,
đạo đức, nghệ thuật… có xu hướng phản tiến bộ).
- Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi, cơ sở hạ tầng mới ra đời thì “sớm muộn” kiến trúc thượng
tầng cũ cũng mất đi và kiến trúc thượng tầng mới cũng ra đời theo để đảm bảo sự tương
ứng.
(Sở dĩ có sự “sớm muộn” trong sự mất đi hay sự ra đời của KTTT vì KTTT với
tính cách là lĩnh vực ý thức luôn luôn có tính độc lập tương đối. Chẳng hạn, khi một cơ
sở hạ tầng nào đó mất đi, nhưng các bộ phận của kiến trúc thượng tầng mất theo không
đồng đều, có bộ phận tồn tạo dai dẳng, thậm chí có những bộ phận được giai cấp thống trị
mới sử dụng).
+ Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng:
- Kiến trúc thượng tầng có chức năng bất kỳ tình huống nào cũng ra sức bảo vệ cơ
sở hạ tầng đã sinh ra nó, kể cả cơ sở hạ tầng tiến bộ hoặc cả khi cơ sở hạ tầng phản tiến
bộ.

- Nếu kiến trúc thượng tầng tiên tiến thì nó tác động cùng chiều với sự vận động của
những quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển. Ngược lại, nếu
KTTT bảo thủ, lạc hậu, nó sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng. (Sự kìm hãm đó
chỉ nhất thời, sớm muộn tất yếu sẽ được thay bằng một KTTT mới phù hợp với CSHT).
Mỗi bộ phận của kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng theo
những hình thức và hiệu lực khác nhau, trong đó nhà nước là bộ phận có vai trò quan
trọng nhất, có hiệu lực mạnh mẽ nhất.
(Chính vì vậy mà các giai cấp đều có ý tưởng là xây dựng nhà nước mạnh, là công
cụ bạo lực để tập trung quyền lực kinh tế và chính trị nhằm thống trị giai cấp khác và
toàn xã hội).
Câu 23: sự thay thế hình thái kinh tế- xã hội từ thấp tới cao trong lịch sử là 1 quá trình tự
nhiên do sản xuất quyết định:
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối tiếp
nhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã hội,
C.Mác đã đi đến kết luận: "Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên"2.
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các mặt không ngừng tác
động qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển khách quan của xã hội.
Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội
khác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà các hình thái kinh tế - xã
hội vận động phát triển từ thấp đến cao.
Nguồn gốc sâu xa của sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổi
quan hệ sản xuất. Đến lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng
tầng thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hình
thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan
chứ không phải theo ý muốn chủ quan. V.I.Lênin viết: "Chỉ có đem quy những quan
hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ
của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan

niệm sự phát triển của những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"1.
Sự tác động của các quy luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội
phát triển thay thế nhau từ thấp đến cao - đó là con đường phát triển chung của nhân
loại. Song, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật
chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống
văn hóa, về điều kiện quốc tế, v.v Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức
phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của
mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao;
nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ không
phải theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những diễn ra
bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện
nhất định, một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Câu 24: phân tích HTKT-XH và ý nghĩa
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi
là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch
sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một
trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng
được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo
thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong
từng giai đoạn lịch sử nhất định
Cấu trúc:
Cấu trúc cơ bản của hình thái kinh tế xã hội bao gồm:
• Lực lượng sản xuất: là nền tảng vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã
hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có lực lượng sản xuất khác nhau. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau
của các hình thái kinh tế - xã hội.
• Quan hệ sản xuất: Tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và quyết định tất cả mọi
quan hệ xã hội khác.

[3]
Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc
trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã
hội.
• Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng,
nhưng nó lại là công cụ để bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
• Các yếu tố khác: Ngoài ra, hình thái kinh tế-xã hội các hình thái kinh tế - xã hội
còn có quan hệ về gia đình, dân tộc và các quan hệ xã hội khác. Nó còn bao gồm các
lĩnh vực chính trị, lĩnh vực tư tưởng và lĩnh vực xã hội. Mỗi lĩnh vực của hình thái
kinh tế-xã hội vừa tồn tại độc lập với nhau, vừa tác động qua lại, thống nhất với nhau
gắn bó với quan hệ sản xuất và cùng biến đổi với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
Phản bác quan điểm duy tâm về lịch sử
Trước khi C.Mác đưa ra học thuyết về hình thái kinh tế xã hội thì về cơ bản chủ nghĩa
duy tâm giữ vai trò thống trị trong khoa học xã hội. Thể hiện ở chỗ có những quan điểm
cho rằng lịch sử phát triển không có quy luật mà chỉ theo chiều hướng ngẫu nhiên, không
đoán định, hoặc lịch sử phát triển phụ thuộc vào ý muốn, ý thích chủ quan của con người,
con người muốn phát triển như thế nào thì lịch sử sẽ phát triển như vậy, đặc biệt là ý chí
của những lãnh tụ, những bậc anh hùng, hoặc quan điểm cho rằng lịch sử là đời sống con
người ở một thời đại.
Lịch sử không chỉ là cuộc đời và những chuyến thám hiểm của các nhà quý tộc, các vị
vua, các vị linh mục… mà nó cho thấy những giai đoạn nối tiếp nhau của những phương
thức sản xuất khác nhau, nhờ những phương thức sản xuất đó con người đạt được sức
mạnh để chiến thắng thiên nhiên.
Đề ra phương pháp nghiên cứu mới
Sau đó, sự ra đời học thuyết hình thái kinh tế - xã hội đã đưa lại cho khoa học xã hội một
phương pháp nghiên cứu thực sự khoa học. Thể hiện ở chỗ:
Học thuyết này đề xuất khi nghiên cứu lịch sử-xã hội phải bắt đầu nghiên cứu từ quá
trình sản xuất, những cơ sở hạ tầng kinh tế của từng xã hội trong từng thời kỳ lịch sử vì
học thuyết này chỉ ra rằng: sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức
sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội. Cho nên, không thể xuất phát từ ý thức,

tư tưởng, từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã
hội mà phải xuất phát từ phương thức sản xuất.
Cơ sở để phân kỳ lịch sử
Học thuyết cơ sở để phân chia thời đại lịch sử hay phân kỳ lịch sử vì nó chỉ ra: xã hội
không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ
thể sống sinh động, các mặt thống nhất chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong đó, quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu
chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Muốn nhận thức đúng đời sống xã hội,
phải phân tích các mặt của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. Đặc biệt
phải phân tích về quan hệ sản xuất thì mới có thể hiểu một cách đúng đắn về đời sống xã
hội. Chính quan hệ sản xuất cũng là tiêu chuẩn khách quan để phân kỳ lịch sử một cách
đúng đắn, khoa học.
Có ý nghĩa cách mạng
Học thuyết hình thái kinh tế xã hội khẵng định, lịch sử-xã hội của con người là quá trình
lịch sử có quy luật cũng giống như những quy luật tự nhiên toàn bộ vấn đề là ở chỗ nhận
ra được quy luật đó hay không. Nó chỉ ra: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội
là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không
phải theo ý muốn chủ quan. Cho nên, muốn nhận thức đúng đời sống xã hội phải đi sâu
nghiên cứu các quy luật vận động phát triển của xã hội.
Câu 25 phân tích những luận điểm
Giai cấp chỉ tồn tại nhất định trong điều kiện nhất định của sản xuất Trong xã hội có
nhiều nhóm xã hội khác nhau. Sự khác nhau ấy được phân biệt bởi những đặc trưng khác
nhau như giới tính, nghề nghiệp, chủng tộc, dân tộc Những khác biệt ấy tự nó không
tạo ra sự đối lập về mặt xã hội. Chỉ có những giai cấp xuất phát từ sự khác biệt căn bản
về lợi ích mới tạo ra những xung đột xã hội mang tính chất đối kháng. Mác chỉ ra rằng:
“Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với các giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của
sản xuất”. Sự phân chia một xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên nhân kinh tế.
Trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao động
rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi sống người nguyên thuỷ. Để tồn tại họ phải sống
nương tựa vào nhau theo bầy đàn, lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, giai cấp chưa xuất hiện.

Sản xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Công cụ
sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế công cụ bằng đá, năng suất lao động nhờ đó tăng
lên đáng kể phân công lao động nhờ đó từng bước được hình thành, của cải dư thừa xuất
hiện, những người có chức quyền trong các thị tộc, bộ lạc đã chiếm đoạt của cải dư thừa
làm của riêng; chế độ tư hữu ra đời, bất bình đẳng về kinh tế nảy sinh trong nội bộ công
xã, đó chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.
Do có của cải dư thừa, tù binh bắt được trong các cuộc chiến tranh không bị giết
như trước. Họ được sử dụng làm nô lệ cho những người giàu và có địa vị trong xã hội,
chế độ có giai cấp hình thành kể từ đó. Như vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên
nhân quyết định trực tiếp sự ra đời giai cấp. Sự tồn tại các giai cấp đối kháng gắn với chế
độ chiếm hữu nô nệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản
phát triển cao lại tạo tiền đề cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu, cái cơ sở kinh tế của sự đối
kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát triển xã hội. Đó là lôgic khách
quan trong tiến trình phát triển của lịch sử.
B, đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản
Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế
phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức
sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội. Sản xuất
phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Dựa vào tiến
trình phát triển của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng đỉnh cao của
đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là đòn bẩy thay đổi các
hình thái kinh tế xã hội vì vậy “đấu tranh giai cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã
hội có giai cấp”.
Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu đồng thời cải
tạo cả bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới,
giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài người dạt được trong tiến trình
phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải cách về dân chủ
và tiến bộ xã hội không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa các giai cấp tiến bộ chống
các thế lực thù địch, phản động.
Đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong

lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với so với các cuộc đấu
tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì, mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở hữu tư
nhân bằng sở hữu xã hội.
Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp
vô sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị. Sau
khi giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu và hình
thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. V.I.Lênin viết “Trong điều kiện chuyên chính vô
sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không thể giống như trước
được”.
Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng mọi nguồn lực,
vận dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững
thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức quản lý
sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn, trên cơ
sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, công bằng, dân chủ,
văn minh. Đó vừa là mục tiêu, đồng thời vừa là nhân tố bảo đảm thắng lợi cho cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư bản.
C, bản thân chuyên chính vô sản chỉ là bước quá độ:
Theo Lenin, Chuyên chính vô sản là "hòn đá thử vàng" để nhận ra người mác-xít "đích
thực" và người mác -xít giả danh chỉ những người đã hiểu rằng chuyên chính của một
giai cấp là tất yếu không những cho mọi xã hội có giai cấp nói chung, không những giai
cấp vô sản sau khi đã lật đổ giai cấp tư sản mà còn suốt cho cả thời kỳ lịch sử từ chế độ
tư bản chủ nghĩa đến "xã hội không có giai cấp", đến chế độ cộng sản chủ nghĩa, chỉ
những người đó mới thấm nhuần được thực chất của học thuyết Mác về Nhà nước".
"Thái độ của cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản đối với Nhà nước không
những chỉ có ý nghĩa chính trị - thực tiễn, mà còn có tính chất nóng hổi nhất nữa, vì đây
là vấn đề làm cho quần chúng thấy rõ những việc họ sẽ phải làm trong một tương lai gần
đây, để tự giải phóng khỏi ách tư bản".
Chuyên chính vô sản không phải là hình thái Nhà nước tuyệt đích mà nhân loại phải đạt
tới, mà là hình thức quá độ để Nhà nước tiêu vong theo như quan điểm của Ph. Ăng-
ghen. Điều này đã thể hiện của Công xã Paris lần đầu tiên giai cấp vô sản trên thế giới

đứng lên tiến hành cuộc cách mạng lật đổ giai cấp tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản,
thành lập Công xã.
Câu 26, tính tất yếu của đấu tranh giai cấp
Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan: từ chính sự phát triển thường xuyên liên
tục của lực lượng sản xuất. Khi lực lượng sản xuất đạt tới trình độ xã hội hoá ngày càng
cao, mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn
đó ngày càng phát triển. Để lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển để sản xuất xã hội phát
triển cần phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay vào đó là quan hệ sản xuất tiến bộ hơn.
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về phương diện xã hội
là mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị. Đó là mâu thuẫn giữa một bên là
giai cấp tiến bộ cách mạng, đại diện cho phương thức sản xuất mới với một bên là giai
cấp thống trị, bóc lột đại biểu cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất, phương thức
sản xuất lỗi thời, lạc hậu. Đó chính là mâu thuẫn giữa hai giai cấp cơ bản đối lập trong
một phương thức, không thể điều hoà được vì lợi ích kinh tế cơ bản đối lập nhau (Hai
mặt đối lập trong một sự vật tất yếu dẫn đến đấu tranh với nhau). Dưới góc độ chính trị -
xã hội: giai cấp thống trị luôn tìm mọi cách củng cố địa vị thống trị của mình, giai cấp bị
trị luôn tìm mọi cách giải phóng mình. Đấu tranh giai cấp là tất yếu.
Đấu tranh giai cấp là nói đến đấu tranh của tập đoàn này chống lại tập đoàn khác. Những
cuộc đấu tranh lẻ tẻ của cá nhân thuộc giai cấp này chống cá nhân một giai cấp khác
không được gọi là đấu tranh giai cấp
tại sao nói: đấu tranh giai cấp là động lực phát triển
Động lực xét đến cùng thúc đẩy sự phát triển của XH là mâu thuẫn
giữa LLSX tiến bộ và QHSX lỗi thời. Tuy nhiên trong XH có giai cấp
mâu thuẫn này lại được biểu hiện về mặt XH bằng mâu thuẫn giữa giai cấp bị trị - người
đại biểu cho LLSX với giai cấp thống trị - người đại biểu cho QHSX (giai cấp sở hữu
TLSX, chi phối việc phân phối sản phẩm), mâu thuẫn này tất yếu làm bùng nổ cac
cuộc đấu tranh giai cấp dẫn đến đỉnh cao của nó sẽ là một cuộc cách mạng XH
nhằm xóa bỏ hình thái kinh tế XH cũ, thiết lập nên một hình thái kinh tế XH mới. Như
vậy trong thời kỳ cách mạng, thì đấu tranh giai cấp chính là động lực
thúc đẩy quá trình phát triển thay thế nhau của các hình thái KT-XH từ

thấp đến cao. Trong thời bình (QHSX thống nhất, phù hợp với LLSX):
đấu tranh giai cấp cũng là một động lực quan trọng kích thích sự phát triển của
các lĩnh vực trong đời sống XH, cụ thể:
- Nó kích thích sự phát triển của LLSX, bởi vì nó đòi hỏi giới chủ phải quan tâm đến cải
tiến công cụ lao động để nâng cao năng suất lao động XH (cuộc đấu tranh giai cấp của
người lao động đầu tiên đòi hỏi về mặt kinh tế => nâng cao năng suất để thỏa mãn đòi hỏi
của cuộc đấu tranh giai cấp, thỏa mãn nhu cầu lợi ích kinh tế của mình).
- Đấu tranh giai cấp kích thích sự phát triển của lĩnh vực văn hóa tinh thần, tạo ra nhiều
giá trị tinh thần khác nhau như: văn học, nghệ thuật để phản ánh lại các cuộc đấu tranh
đó;
- Đấu tranh giai cấp góp phần làm hoàn thiện lĩnh vực chính trị XH đem lại
nhiều giá trị XH quan trọng, như: tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân quyền (không
phải là sự ban phát của giới chủ, mà là sản phẩm của cuộc đấu tranh giai cấp lâu dài);
- Thông qua đấu tranh giai cấp mà bản thân các giai cấp không ngừng lớn mạnh làm hình
thành nên các tổ chức lãnh đạo giai cấp (công đoàn, nghiệp đoàn, chính đảng được hình
thành, tôi luyện, trưởng thành ).
Câu 27 tính tất yếu của cách mạng xã hội:
Là cuộc cách mạng do giai cấp công nhân tiến hành (tổ chức và lãnh đạo) nhằm xoá bỏ
xã hội áp bức bất công, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa, tiến tới xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Đây là một cuộc cách mạng triệt để, toàn diện, sâu sắc nhất trong
lịch sử.
Cũng như các cuộc cách mạng xã hội đã từng diễn ra trong lịch sử, cách mạng xã hội chủ
nghĩa là kết quả tất yếu của sự phát triển các mâu thuẫn và là con đường giải quyết mâu
thuẫn trong lòng xã hội tư bản.
- Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã đạt tới trình độ xã hội hoá cao với quan hệ sản
xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
- Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị áp bức với giai cấp tư sản.
- Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa xuất hiện thêm những mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa các
dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc. Mâu thuẫn giữa đế quốc với đế
quốc.

Những mâu thuẫn này phát triển đến mức gay gắt đòi hỏi phải được giải quyết. Cách
mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra là tất yếu nhằm giải quyết những mâu thuẫn đó.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể diễn ra một cách tự phát mà là kết quả của quá
trình đấu tranh lâu dài, gian khổ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chủ động,
tạo ra tình thế chớp lấy thời cơ cho cách mạng nổ ra và giành thắng lợi.
Hiện nay, nhờ có cách mạng khoa học, công nghệ, chủ nghĩa tư bản ứng dụng những
thành tựu mới của khoa học công nghệ trong sản xuất đã tạo ra bước nhảy vọt trong phát
triển kinh tế. Điều đó đã góp phần giúp chủ nghĩa tư bản có điều kiện điều chỉnh những
vấn đề xã hội, giúp chủ nghĩa tư bản tồn tại trong giới hạn của nó. Nhưng cũng chính sự
phát triển ở mức độ cao đó, chủ nghĩa tư bản cũng đồng thời tạo ra những tiền đề vật chất
quan trọng, ngày càng chín muồi cho cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nó bộc lộ những mâu
thuẫn vốn có của nó, nội tại của nó ngày càng sâu sắc hơn (lực lượng sản xuất ngày càng
phát triển làm cho giai cấp công nhân tăng cả về số lượng, chất lượng - yếu tố quyết định
đến sự tồn tại hay không tồn tại của chủ nghĩa tư bản; tệ nạn phân biệt chủng tộc, phân
biệt giàu nghèo ). Đây chính là những yếu tố khách quan phủ nhận chủ nghĩa tư bản
thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Câu 28
Phân tich nguồn gốc cơ bản của nhà nước
Nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế lập ra nhằm bảo vệ chế độ
kinh tế hiện có và đàn áp các giai cấp khác.
Nhà nước là cơ quan quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, là một tổ chức quan trọng
nhất trong các tổ chức chính trị của giai cấp cầm quyền dùng để thống trị xã hội.
Nhà nước là một phạm trù lịch sử, không đồng nghĩa với xã hội.
Nguồn gốc ra đời của Nhà nước.
Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin thì nhà nước là một phạm trù lịch sử, nghĩa là
nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển của lịch sử.
Nhà nước sẽ mất đi khi những điều kiện tồn tại của nó không còn nữa. Trong lịch sử đã
có một thời kỳ rất dài chưa có nhà nước và sau này nhà nước cũng sẽ mất đi khi điều kiện
tồn tại của nó không còn.
Lịch sử phát triển của xã hội cho thấy rằng xã hội nguyên thủy, dựa trên chế độ công hữu

về tư liệu sản xuất, mọi người sống bình đẳng, chưa có giai cấp nên chưa có nhà nước.
Đến xã hội chiếm hữu nô lệ, với sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xã hội
phân chia thành giai cấp đối kháng - chủ nô và nô lệ - thì mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô
thống trị bóc lột và giai cấp nô lệ bị thống trị, bị bóc lột ngày càng sâu sắc. Cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp nô lệ chống lại giai cấp chủ nô do vậy đã diễn ra ngày càng
quyết liệt không thể điều hòa được. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình, đàn áp sự phản
kháng của giai cấp nô lệ và buộc họ phải tuân theo trật tự do giai cấp mình đặt ra, giai cấp
chủ nô đã lập ra một bộ máy bạo lực, trấn áp, bộ máy đó là nhà nước.
Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Đó là nhà nước xuất hiện
trong cuộc đấu tranh không thể điều hòa được giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ.
Tiếp đó là nhà nước phong kiến và nhà nước tư bản chủ nghĩa mà sự xuất hiện của nó
cũng dựa trên mâu thuẫn đối kháng nói trên.
Như thế là bất kỳ ở đâu và lúc nào khi mà mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được
thì ở đó nhà nước sẽ xuất hiện. Cũng như thế, nơi nào có nhà nước xuất hiện và tồn tại thì
chừng đó ở đó có mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Đó là nguồn gốc ra đời
của Nhà nước.
Như vậy sự ra đời của nhà nước là một tất yếu khách quan của xã hội có giai cấp đối
kháng. Sau này, khi xã hội không còn phân chia giai cấp, không còn mâu thuẫn giai cấp
đối kháng thì nhà nước cũng sẽ tự tiêu vong.
Hiện tại, nhà nước của giai cấp công nhân, gọi là nhà nước chuyên chính vô sản là một
hình thức nhà nước quá độ, nhà nước không còn nguyên nghĩa của nó, là nhà nước “nửa
nhà nước” để tiến tới xã hội không còn phân chia giai cấp, không còn nhà nước. Nhưng
sự tồn tại của nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lại là một tất yếu vì nó
là công cụ sắc bén trong tay giai cấp công nhân dùng để cải tạo triệt để xã hội cũ và xây
dựng thành công xã hội mới.
. Bản chất của nhà nước.
Nhà nước không phải là hiện tượng bẩm sinh, có sẵn, cũng không phải là được sinh ra từ
bên ngoài xã hội rồi áp đặt vào xã hội; cũng không phải là cái do ý muốn chủ quan của
một cá nhân hay một giai cấp nào đó quyết định, mà sự ra đời và tồn tại của nhà nước là
một tất yếu khách quan do nhu cầu phải kiềm chế sự đối lập giữa các giai cấp, làm cho

cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích kinh tế đối kháng nhau không đi đến chỗ tiêu
diệt nhau và giữ cho sự xung đột giai cấp nằm trong vòng trật tự của nó, đó là trật tự duy
trì chế độ kinh tế mà trong đó giai cấp thống trị vẫn tiếp tục thống trị và bóc lột giai cấp
Câu 29:

×