Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tiểu luận môn chính sách công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.19 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau 36 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta, nhân dân ta đã đạt
được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH
và bảo vệ tổ quốc XHCN. Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, ra
khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa và tăng trưởng kinh tế. Việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN có bước tiến bộ, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể; hệ thống chính
trị và khối đại đồn kết dân tộc do Đảng lãnh đạo được củng cố và tăng cường; sức
mạnh tổng hợp của đất nước được tăng lên; hợp tác và hội nhập quốc tế được mở
rộng; vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Đạt được
những thành tựu như vậy là nhờ đường lối đổi mới đúng đắng, sáng tạo của Đảng,
các chính sách cơng (CSC) của Nhà nước được ban hành và tổ chức thực hiện có
hiệu quả, phù hợp với thực tại khách quan của đất nước, ý nguyện và mong muốn
của người dân. Trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách, Chính phủ, các bộ,
ngành, Trung ương và chính quyền địa phương đã bám sát chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đề cao trách nhiệm tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn, chủ động, sáng tạo trong tham mưu, đề xuất xây dựng và thực
hiện chính sách, nhất là các chính sách phát triển kinh tế - xã hội quan trọng. Nhờ
đó, kinh tế - xã hội nước ta được xây dựng và phát triển ngày càng bền vững theo
đúng định hướng đổi mới của Đảng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vẫn còn một số
hạn chế trong thực hiện CSC ở nước ta cần được giải quyết thỏa đáng.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Thực trạng cơng tác chính sách công ở Việt
Nam hiện nay. Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả cơng tác
chính sách cơng ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu kết thúc mơn học Chính sách
cơng của mình.
Trong q trình nghiên cứu, do còn nhiều hạn chế về mặt kiến thức cũng
như kiến thức thực tế. Kính mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy(cơ) phụ
trách bổ sung, để tác giả hồn thiện tiểu luận kết thúc mơn học của mình.
2. Đối tượng nghiên cứu
Cơng tác chính sách cơng ở Việt Nam


3. Phương pháp nghiên cứu


Phân tích luận điểm, sưu tầm, thống kê.
4. Mục đích nghiên cứu
Góp phần đánh giá thực trạng chung trong việc thực hiện chính sách cơng
tại Việt Nam và đưa ra phương hướng, đề xuất giải quyết những tồn tại, hạn chế
trong việc thực hiện chính sách cơng ở nước ta hiện nay.


NỘI DUNG
CHƯƠNG I
Những vấn đề lý luận về chính sách cơng
1.1. Khái niệm
Chính sách trong tiếng Anh là Policy. Chính sách là những hướng dẫn,
phương pháp, thủ tục, luật lệ, biểu mẫu cụ thể và những cơng việc hành chính được
thiết lập để hỗ trợ và thúc đẩy công việc hướng tới các mục tiêu đề ra.
Chính sách cơng là chính sách có bản chất thuộc về chính trị. Q trình ra
quyết định chính sách là một q trình chính trị. Nhưng sản phẩm của q trình
hoạch định chính sách thì dễ nhận thấy hơn, ví dụ như các quy định cụ thể, chi tiết
của pháp luật, và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội, đến sinh kế của mỗi
người. Vì thế, bạn có lý do chính đáng để nên quan tâm tìm hiểu về chính sách.
Chính sách cơng được làm ra bởi nhà nước. Điều này có nghĩa nhà nước là
chủ thể có thẩm quyền quyết định ban hành chính sách cơng, với những nguồn lực
cơng để đảm bảo chính sách được làm ra theo cách tốt nhất có thể, và thực thi sao
cho hiệu lực, hiệu quả.
1.2. Một số vấn đề lý luận về năng lực thực hiện chính sách cơng
Chất lượng, hiệu quả thực hiện chính sách cơng phụ thuộc vào năng lực của
đội ngũ CBCC tham gia thực hiện chính sách. Nói cách khác, năng lực thực hiện
chính sách của đội ngũ CBCC tham gia thực hiện chính sách quyết định chất lượng,

hiệu quả của việc thực hiện chính sách. Do đó, muốn nâng cao hiệu quả, chất lượng
thực hiện chính sách cơng cần phải có các giải pháp đồng bộ nâng cao năng lực
thực hiện chính sách của đội ngũ CBCC tham gia thực hiện chính sách.
Năng lực, khả năng làm việc của CBCC được hội tụ bởi ba yếu tố là: kiến
thức, kỹ năng và thái độ của CBCC trong thực thi công vụ. Kiến thức là sự hiểu
biết, là những thông tin hữu ích cơng chức cần hiểu và ghi nhớ để phục vụ tốt cho
công việc. Kỹ năng là khả năng chuyển kiến thức thành hành động để kết quả đạt
được như mong muốn. Thái độ là ý thức, thái độ đối với công việc và trong các mối
quan hệ với con người. Nói một cách ngắn gọn, năng lực là khả năng làm việc tốt
nhờ phẩm chất và trình độ chuyên môn.


1.2.1. Năng lực xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Đó là kiến thức, hiểu biết chun mơn, kỹ năng tác nghiệp và tinh thần, thái
độ, trách nhiệm của CBCC trong xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách. Kế
hoạch thực hiện chính sách là cơ sở, là cơng cụ quan trọng triển khai đưa chính
sách vào thực tiễn cuộc sống. Trong xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách phải
xác định được chính xác, cụ thể các nội dung, nhiệm vụ trong kế hoạch tổ chức
điều hành; trong kế hoạch cung cấp các nguồn vật lực cho việc thực hiện chính
sách; trong kế hoạch kiểm tra đơn đốc thực thi chính sách và việc xác định hợp lý
thời gian thực hiện chính sách. Cùng với bản kế hoạch thực hiện chính sách phải
xây dựng nội quy, quy chế tổ chức điều hành thực hiện chính sách. Năng lực xây
dựng kế hoạch thực hiện chính sách được thể hiện, được đo bằng độ chính xác, tính
khả thi của bản kế hoạch. Năng lực xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách tốt
chính là khả năng xây dựng được bản kế hoạch thực hiện chính sách có độ chính
xác và tính khả thi cao, khơng phải điều chỉnh bổ sung trong q trình thực hiện. Vì
vậy, địi hỏi đội ngũ CBCC tham mưu xây dựng phải hiểu và nắm chắc mục tiêu,
nội dung, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng, quy mơ, tầm quan trọng của chính sách.
Trên cơ sở đó xác định mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, các nguồn nhân lực, vật lực,
thời gian và giải pháp tổ chức thực hiện chính sách.

1.2.2. Năng lực phổ biến, tuyên truyền chính sách
Là kiến thức hiểu biết về chính sách và các kỹ năng, giải pháp phổ biến,
tuyên truyền thực hiện chính sách của CBCC. Năng lực phổ biến, tuyên truyền
chính sách được thể hiện qua khả năng phổ biến, tun truyền thực hiện chính sách
có hiệu quả cao. Do đó, địi hỏi CBCC phải am hiểu chính sách; nắm chính xác,
đầy đủ mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, yêu cầu, phạm vi, đối tượng của chính sách.
Trên cơ sở đó lựa chọn các kỹ năng, giải pháp, hình thức quán triệt phổ biến, tuyên
truyền chính sách phù hợp với từng loại đối tượng như: mở các lớp tập huấn tập
trung để quán triệt nghiên cứu các nội dung, chính sách, bàn các giải pháp và phân
cơng thực hiện (hình thức này phù hợp với các đối tượng tham gia trực tiếp vào quá
trình tổ chức thực hiện và kiểm tra thực hiện chính sách); tổ chức các lớp tuyên
truyền chính sách cho các cơ quan thơng tin đại chúng, cán bộ làm công tác tuyên
truyền; xây dựng văn bản hướng dẫn phổ biến cụ thể việc thực hiện chính sách gửi
cho các cơ quan hữu quan để họ tự nghiên cứu xây dựng kế hoạch thực hiện chính
sách. Ngồi ra, có thể đăng tải, tuyên truyền trên các báo, tạp chí, trang thơng tin
điện tử để các đối tượng được thụ hưởng chính sách và mọi người dân biết để thực
hiện. Trong xây dựng các văn bản hướng dẫn cụ thể thực hiện chính sách cũng như


các văn bản phổ biến, hướng dẫn phải đảm bảo chính xác, cụ thể, dễ hiểu, dễ thực
hiện. Tuyệt đối khơng được bổ sung các quy định mang tính chất thủ tục rườm rà,
khó thực hiện và làm sai lệch chính sách.
1.2.3. Năng lực phân cơng, phối hợp thực hiện chính sách
Năng lực phân cơng, phối hợp thực hiện chính sách là khả năng tổ chức
điều hành thực hiện chính sách một cách chặt chẽ, khoa học và hợp lý. Đó là việc
phân cơng trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân có liên quan trong thực hiện
chính sách; xác định tổ chức, cá nhân chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các cá nhân,
tổ chức tham gia phối hợp trong q trình thực hiện chính sách. Thơng qua việc
phân cơng, phối hợp thực hiện chính sách một cách khoa học, hợp lý sẽ phát huy
được nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách.

Trong phân công nhiệm vụ cần đặc biệt chú ý đến khả năng, trình độ năng
lực chun mơn và thế mạnh của từng tổ chức, cá nhân, hạn chế tình trạng trùng
chéo nhiệm vụ và không rõ trách nhiệm. Năng lực phân cơng, phối hợp thực hiện
chính sách cịn được thể hiện qua việc tổ chức điều hành và phối hợp nhịp nhàng,
chặt chẽ hoạt động của các tổ chức, cá nhân trong q trình thực hiện chính sách.
Năng lực phân công, phối hợp trong tổ chức điều hành thực hiện chính sách là năng
lực của người lãnh đạo, người chỉ huy, người quản lý trong triển khai thực hiện kế
hoạch đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống.
1.2.4. Năng lực duy trì chính sách
Năng lực duy trì chính sách là khả năng, kiến thức, kỹ năng của CBCC
trong tham mưu đề xuất các giải pháp, biện pháp bảo đảm cho chính sách được duy
trì, tồn tại và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Khi thực hiện gặp những
khó khăn do mơi trường thực tế biến động, địi hỏi đội ngũ cán bộ thực thi chính
sách phải có năng lực kiến thức sử dụng hệ thống cơng cụ quản lý tác động nhằm
tạo lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách; chủ động tham mưu, đề
xuất với chủ thể ban hành chính sách điều chỉnh chính sách và áp dụng các giải
pháp, biện pháp thực hiện chính sách phù hợp với hồn cảnh mới. Năng lực tham
mưu đề xuất các giải pháp, biện pháp duy trì bảo đảm cho chính sách tồn tại và
phát huy tác dụng là vô cùng quan trọng trong thực hiện chính sách. Thực tế, nhiều
chính sách ban hành đúng nhưng trong q trình thực hiện chính sách khơng có các
giải pháp, biện pháp duy trì và phát triển dẫn đến hiệu quả thực hiện chính sách
thấp, gây lãng phí, không đáp ứng được yêu cầu quản lý, yêu cầu thực hiện chức
năng nhiệm vụ của nhà nước. Để có năng lực, khả năng (kiến thức và kỹ năng) sử


dụng các công cụ quản lý trong tham mưu đề xuất các giải pháp, biện pháp, duy trì
bảo đảm sự tồn tại và phát huy tác dụng bền vững của chính sách địi hỏi đội ngũ
CBCC thực hiện chính sách phải am hiểu sâu sắc chính sách, phải nắm chắc mục
tiêu, nội dung, nhiệm vụ, yêu cầu, đối tượng, công cụ thực hiện chính sách. Đồng
thời phải biết sử dụng các công cụ quản lý khác tác động đến việc thực hiện chính

sách, phải có trình độ năng lực, trách nhiệm tham mưu đề xuất các giải pháp hỗ trợ
duy trì chính sách.
1.2.5. Năng lực điều chỉnh chính sách
Năng lực điều chỉnh chính sách là khả năng (hay kiến thức, kỹ năng, thái
độ) của CBCC trong tham mưu đề xuất điều chỉnh các giải pháp, biện pháp, cơ chế
để chính sách được thực hiện có hiệu quả nhưng khơng làm thay đổi mục tiêu chính
sách. Trong q trình thực hiện chính sách nếu gặp khó khăn do mơi trường thực tế
thay đổi, do chính sách cịn những bất cập, hạn chế chưa phù hợp với thực tiễn cần
phải có những điều chỉnh nhất định để đáp ứng yêu cầu quản lý và phù hợp với tình
hình thực tế. Về nguyên tắc, thẩm quyền điều chỉnh, bổ sung chính sách là của cơ
quan, tổ chức ban hành chính sách. Nhưng trên thực tế việc điều chỉnh các biện
pháp, các cơ chế chính sách diễn ra rất năng động và linh hoạt trong thực hiện
chính sách. Do đó, đội ngũ CBCC thực thi chính sách cần phải có năng lực hay
kiến thức, kỹ năng đề xuất các giải pháp, biện pháp, cơ chế để chính sách thực hiện
có hiệu quả, bảo đảm mục tiêu chính sách đã đề ra. Vì vậy, địi hỏi CBCC phải am
hiểu, nắm chắc các quy định, các cơng cụ thực hiện chính sách; phải có kiến thức,
kỹ năng phân tích các hạn chế, bất cập của chính sách, các yêu cầu thực tiễn đặt ra
trong thực hiện chính sách; phải đề cao trách nhiệm trong tham mưu điều chỉnh
biện pháp, cơ chế chính sách; tơn trọng ngun tắc khi điều chỉnh chính sách. Để
chính sách tiếp tục tồn tại và phát huy tác dụng bền vững chỉ được điều chỉnh các
biện pháp, cơ chế thực hiện mục tiêu hoặc bổ sung, hồn chỉnh mục tiêu chính sách
theo yêu cầu thực tế. Nếu điều chỉnh làm thay đổi mục tiêu, nghĩa là làm thay đổi
chính sách thì coi như chính sách đó bị thất bại. Năng lực điều chỉnh chính sách
cũng như năng lực duy trì chính sách là các năng lực quan trọng không thể thiếu
được đối với CBCC thực thi chính sách.
1.2.6. Năng lực theo dõi, đơn đốc, kiểm tra việc thực hiện chính sách
Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra là một nhiệm vụ, một khâu quan trọng trong
thực hiện chính sách. Năng lực thực hiện chính sách của đội ngũ CBCC được biểu
hiện, phản ánh cụ thể ở khả năng, kiến thức, kỹ năng và trách nhiệm trong việc theo



dõi, đơn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách. Khả năng, kiến thức, kỹ năng đó thể
hiện ở trình độ am hiểu sâu sắc mục tiêu của chính sách, đối tượng chính sách và
các quy định, các cơng cụ, các giải pháp thực hiện; nắm chắc, chính xác các quy
định trong kế hoạch, các quy chế, nội quy thực hiện chính sách. Ngồi ra, phải có
kỹ năng thu thập, cập nhập đầy đủ các nguồn thông tin, các cơ sở dữ liệu thơng tin
phản ánh về q trình triển khai và kết quả thực hiện chính sách từ các cơ quan, tổ
chức hữu quan, đặc biệt là từ các đối tượng thụ hưởng chính sách và của người dân.
Trên cơ sở đó, phân tích xử lý thơng tin, đối chiếu so sánh với các quy định trong
chính sách, các quy định trong kế hoạch, quy chế, nội quy thực hiện chính sách để
có cơ sở phát hiện, phịng ngừa và xử lý vi phạm (nếu có); phát hiện sơ hở trong
quản lý, trong tổ chức thực hiện, đề xuất các giải pháp chấn chỉnh việc thực hiện,
điều chỉnh các biện pháp, cơ chế góp phần hồn thiện chính sách và nâng cao hiệu
quả thực hiện chính sách.
1.2.7. Năng lực đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện chính
sách
Đánh giá, tổng kết việc thực hiện chính sách là quá trình xem xét, kết luận
về sự chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện chính sách của chủ thể thực hiện chính
sách (các cơ quan, tổ chức và đội ngũ CBCC có chức năng thực hiện chính sách) và
việc chấp hành, thực hiện của các đối tượng thụ hưởng chính sách. Để đánh giá,
tổng kết, rút kinh nghiệm chính xác cần phải căn cứ vào các tiêu chuẩn, tiêu chí và
các nguyên tắc nhất định. Cơ sở để xây dựng tiêu chí đánh giá cơng tác chỉ đạo,
điều hành thực thi chính sách của các cơ quan nhà nước của CBCC là bản kế hoạch
và quy chế, nội quy ban hành kèm theo; ngồi ra, cịn phải sử dụng các văn bản liên
tịch giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các văn bản quy phạm pháp
luật khác, các báo cáo kết quả thực hiện chính sách của các cơ quan, tổ chức hữu
quan; phải căn cứ vào các nguyên tắc đã được xác định, thống nhất giữa các cơ
quan hữu quan bảo đảm tính tồn diện, công bằng và khách quan. Việc đánh giá,
tổng kết rút kinh nghiệm phải chỉ ra được chính xác ưu điểm, nhược điểm, kinh
nghiệm thực hiện chính sách, các tổ chức cá nhân thực hiện tốt hoặc không tốt.

Cùng với việc tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo điều hành, thực hiện của
các cơ quan nhà nước, của đội CBCC còn phải xem xét, đánh giá kết quả việc thực
hiện của các đối tượng thụ hưởng trực tiếp và gián tiếp từ chính sách. Thước đo,
căn cứ để đánh giá kết quả thực hiện chính sách của các đối tượng này là tinh thần
hưởng ứng với mục tiêu chính sách, ý thức chấp hành những quy định về cơ chế,


biện pháp do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành để thực hiện mục tiêu và
các quy định cụ thể của chính sách.
Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm là cơng việc khó, phức tạp trong q
trình thực hiện chính sách, địi hỏi các cơ quan, tổ chức và CBCC tham gia vào
cơng việc này phải có trình độ, năng lực, kiến thức và kỹ năng nhất định. Khơng có
trình độ, năng lực, kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm khó có thể đánh giá được
chính xác kết quả thực hiện và rút ra được các bài học kinh nghiệm trong thực hiện
chính sách.
1.3. Vai trị của chính sách cơng
Vai trị cơ bản của CSC thể hiện ở chỗ là công cụ hữu hiệu chủ yếu để nhà
nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, duy trì sự tồn tại và phát triển của
nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và phục vụ người dân. Dưới góc độ quản lý,
quản trị quốc gia, nhà nước sử dụng CSC như một công cụ quan trọng tác động vào
các lĩnh vực đời sống xã hội để đạt được mục tiêu định hướng của nhà nước. Ngồi
vai trị cơ bản này, CSC cịn có vai trị cụ thể sau:
Thứ nhất, định hướng mục tiêu cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế
- xã hội,
Do chính sách phản ánh thái độ, cách xử sự của nhà nước đối với một vấn
đề cơng, nên nó thể hiện rõ những xu thế tác động của nhà nước lên các chủ thể
trong xã hội, giúp họ vận động đạt được những giá trị tương lai mà nhà nước mong
muốn. Giá trị đó chính là mục tiêu phát triển phù hợp với những nhu cầu cơ bản
của đời sống xã hội. Nếu các chủ thể kinh tế, xã hội hoạt động theo định hướng tác
động của chính sách thì khơng những dễ dàng đạt được mục tiêu phát triển mà còn

nhận được những ưu đãi từ phía nhà nước hay xã hội. Điểu đó có nghĩa là, cùng với
mục tiêu định hướng, cách thức tác động của CSC cũng có vai trò định hướng cho
các chủ thể hành động.
Thứ hai, tạo động lực cho các đối tượng tham gia hoạt động kinh tế - xã hội
theo mục tiêu chung.
Muốn đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chung, nhà nước
phải ban hành nhiều chính sách, trong đó mỗi chính sách lại có những cách thức tác
động mang tính khuyến khích đối với các chủ thể thuộc mọi thành phần như: miễn
giảm thuế, tạo cơ hội tiếp cận với nguồn vốn có lãi suất ưu đãi, ban hành những thủ
tục hành chính đơn giản và các chế độ ưu đãi đặc biệt khác,.. Sự tác động của CSC


khơng mang tính bắt buộc, mà chỉ khuyến khích các chủ thể hành động theo ý chí
của nhà nước. Chẳng hạn, để tăng cường đầu tư vào nền kinh tế, Nhà nước ta ban
hành chính sách khuyến khích các chủ thể trong nước và nước ngồi tích cực đầu
tư vào các ngành, lĩnh vực hay những vùng cần được ưu tiên phát triển.
Thứ ba, phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục những hạn chế của nền
kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, quy luật cạnh tranh và các quy luật thị trường
khác đã thúc đẩy mỗi chủ thể trong xã hội đầu tư vào sảnxuất kinh doanh, không
ngừng đổi mới công nghệ nâng cao năng suất lao động, chất ượng sản phẩm, hạ giá
thành hàng hóa và dịch vụ cung cấp cho xã hội. Nhờ đó mà cả xã hội và từng người
dân, tổ chức đều được hưởnq lợi như: hàng hóa và dịch vụ tăng về số lượng, đa
dạng, phong phú về chủng loại, thương hiệu, mẫu mã, chất lượng ngày càng tược
nâng cao với giá tiêu dùng ngày càng rẻ. Nhưng, sự vận hành của thị trường cũng
gây ra những tác động tiêu cực mà các nhà kinh tế gọi là mặt không thành công hay
mặt trái của thị trường như: độc quyền trong sản xuất cung ứng khơng đầy đủ hàng
hóa cơng cộng, sự bất công bằng, chênh lệch giàu nghèo và thất nghiệp gia tăng,
bất ổn định kinh tế vĩ mô, cá lớn nuốt cá bé... gây ảnh hưởng không tốt lên tồn xã
hội và mỗi người dân. Trong tình hình đó, nhà nước phải sử dụng hệ thống CSC để

giải quyết những vấn đề bất cập về kinh tế, khắc phục những thất bại của thị trường
thông qua trợ cấp, cung ứng dịch vụ công cho người dân do các doanh nghiệp nhà
nước, các đơn vị sự nghiệp công hay hội, tổ chức phi chính phủ thực hiện.
Thứ tư, tạo lập các cân đối trong phát triển.
Để kinh tế - xã hội phát triển một cách ổn định bền vững, nhà nước phải
dùng chính sách để tạo lập các cân đối vĩ mô cơ bản như cân đối giữa hàng - tiền,
cung - cầu, xuất - nhập khẩu, tiết kiệm - tiêu dùng,.. Đồng thời, nhà nước cịn dùng
chính sách để điều tiết đảm bảo cho sự phát triển cân đối giữa các vùng miền của
đất nước
Thứ năm, kiểm soát và phân bổ các nguồn lực trong xã hội
Nhà nước luôn luôn quan tâm đến quản lý, khai thác và sử dụng các nguồn
lực cho phát triển. Mục tiêu phát triển bền vững bao gồm cả gia tăng về lượng và
cải thiện về chất trong hiện tại và tương lai, vì thế tài nguyên tự nhien và xã hội của
một quốc gia là cái hữu hạn luôn trở thành vấn đề quan tâm chính yếu của nhà
nước. Để sử dụng có hiệu quả tài nguyên theo hướng bền vững, nhà nước thơng
qua các chính sách thực hiện kiểm sốt q trình khai thác, sử dụng tài nguyên và


phân bổ hợp lý các nguồn lực trong xã hội, ví dụ như chính sách xây dựng vùng
kinh tế mới, chính sách xây dựng khu cơng nghiệp, khu chế xuất, chính sách đất
đai, chính sách thuế, chính sách bảo vệ tài ngun, mơi trường...
Thứ sáu, tạo mơi trường thích hợp cho các hoạt động kinh tế - xã hội.
Thông qua các chính sách, nhà nước tạo những điều kiện cần thiết để hình
thành mơi trường thuận lợi cho các chủ thể xã hội hoạt động như: chính sách phát
triển thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường khoa học và công nghệ, thị
trường bất động sản, phát triển cơ sở hạ tầng...
Các chính sách là cơng cụ đặc thù và không thể thiếu được mà nhà nước sử
dụng để quản lý kinh tế vĩ mơ, chúng có chức năng chung là tạo ra những kích
thích đủ lớn cần thiết để biến đường lối chiến lược của đảng cầm quyền thành hiện
thực, góp phần thống nhất tư tưởng và hành động của mọi người trong xã hội, đẩy

nhanh và hữu hiệu sự tiến bộ của các hoạt động thuộc mục tiêu bộ phận mà chính
sách hướng tới và thực hiện các mục tiêu chung của phát triển kinh tế quốc dân.
Thứ bảy, thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cấp, các ngành
Việc thực hiện các giai đoạn trong chu trình chính sách khơng chỉ và khơng
thể do một cơ quan nhà nước đảm nhiệm, mà cần có sự tham gia của nhiều cơ quan
thuộc các cấp, các ngành khác nhau hay của nhiều tổ chức, cá mân. Vì vậy, thơng
qua q trình chính sách sẽ thúc đẩy sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tầng lớp nhân dân, góp phần tạo nên sự
nhịp nhàng, đồng bộ trong hoạt động thực thi CSC.
1.4. Ý nghĩa của chính sách cơng
CSC có ý nghĩa chính trị, xã hội, pháp lý, khoa học và thực tiễn ở chỗ nó là
chính sách của nhà nước, phản ánh ý chí, quan điểm, thái độ, cách xử sự của nhà
nước để phục vụ cho mục đích và lợi ích của nhà nước. Tính chínr trị của CSC biểu
hiện rõ nét qua bản chất của nó là cơng cụ quản trị, quản lý của nhà nước, phản ánh
bản chất, tính chất của nhà nước và chế độ chính trị trong đó nhà nước tổn tại. Nếu
chính trị của nhà nước thay đổi, tất yếu dẫn đến sự thay đổi về chính sách. Điều này
khẳng định CSC mang tính chính trị hay ý nghĩa chính trị đậm nét.
Tính pháp lý hay ý nghĩa pháp lý của CSC ở chỗ, chính sách của nhà nước
được ban hành trên cơ sở pháp luật, nhưng pháp luật là của nhà nước nên CSC
đương nhiên có ý nghĩa hay tính pháp lý. CSC dựa trên cơ sở của pháp luật cũng
chính là dựa trên ý chí của nhà nước, chuyển tải ý chí của nhà nước thành chính


sách, công cụ quan trọng để nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Ngược lại, CSC cũng có mối liên hệ và tác động trở lại với pháp luật, là nguồn khơi
dậy sức sống của các quy phạm pháp luật. Các sáng kiến pháp luật đều xuất phát,
bắtnguồn từ thực tiễn triển khai thực hiện CSC. Thực tiễn cho thấy CSC chỉ có thể
được thực hiện hiệu quả khi được thể chế hóa thành những nội dung, quy định cụ
thể, áp dụng cụ thể như áp dụng các quy định của pháp luật. Từ CSC có thể thể chế
hóa thành các quy định của pháp luật và ngược lại, từ các quy định của pháp luật có

thể cụ thể hóa thành các nguyên tắc, yêu cầu trong xây dựng CSC. Ví dụ, từ kết quả
thực hiện chính sách tiền lương, để đảm bảo công bằng và thực hiện thống nhất,
nghiêm túc chính sách này trong hệ thống hành chính nhà nước cần phải được quy
định chặt chẽ trong Luật cán bộ, công chức là “trả lương cho cán bộ, công chức
ngang bằng với nhiệm vụ, công vụ công chức thực hiện”. Cũng trên cơ sở quy định
này của Luật cán bộ, công chức, cơ quan quản lý nhà nước xây dựng chính sách
tiền lương đối với cán bộ, công chức. Quy định này trong Luật cán bộ, công chức
trở thành nguyên tắc, yêu cầu cơ bản của chính sách tiền lương nhà nước đối với
cán bộ, cơng chức. CSC và pháp luật đều là các công cụ quan trọng, hữu hiệu trong
hoạt động quản lý của nhà nước, có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn
nhau.
Tính chất xã hội hay ý nghĩa xã hội của CSC thể hiện ở chức năng xã hội
của CSC. CSC là chính sách của nhà nước ban hành để thực hiện chức năng xã hội
của nhà nước, ngoài phục vụ lợi ích của nhà nước cịn để phục vụ xã hội, phục vụ
quảng đại quần chúng nhân dân, tạo điều kiện và định hướng cho xã hội phát triển.
CSC phản ánh rõ vai trò là chức năng xã hội của nhà nước, phản ánh bản chất, tính
ưu việt của nhà nước. Do đó, CSC ln hàm chứa tính xã hội, ý nghĩa xã hội. CSC
còn ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội, nếu xã hội phản đối, chống lại chính
sách của nhà nước, sẽ dẫn đến khủng hoảng, bất ổn định trong xã hội. Một khi xã
hội bất ổn định thì hệ quả tất yếu, tác động trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của
nhà nước. Vì vậy, khi nhà nước ban hành CSC phải đặc biệt chú ý đến yếu tố xã
hội, tính chất và ý nghĩa xã hội của CSC.
CSC có tính khoa học hay có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Tính
khoa học của CSC thể hiện ở tính khách quan, cơng bằng tiến bộ và sát với thực
tiễn. Nếu CSC mang tính chủ quan duy ý chí của nhà nước sẽ trở thành rào cản kìm
hãm sự phát triển của xã hội. Điều này cũng có nghĩa là việc ban lành CSC của nhà
nước bất thành, sẽ ảnh hưởng đến uy tín và vai trị của nhà nước. Nếu CSC nhà
nước ban hành đảm bảo các yếu tố khách quan, công bằng và tiến bộ, phù hợp với



lịng dân và xã hội, phù hợp với ý chí, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp của
người dân thì sẽ được người dân và xã hội ủng hộ, chính sách đó sẽ được thực hiện
trong cuộc sống một cách nhanh chóng, hiệu quả uy tín và vai trị của nhà nước
được đề cao tính khoa học của chính sách còn thể hiện ở ý nghĩa thực tiễn và tính
thiết thực của chính sách, yêu cầu khi nhà nước ban hành chính sách phải phù hợp
với diều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước, thực tại khách quan của
chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước
1.5. Yêu cầu đối với hoạch định chính sách
- Coi trọng việc tập hợp các thông tin pháp luật liên quan đến việc hoạch
định các chính sách để tránh mâu thuẫn, chồng chéo và để các văn bản quy phạm
pháp luật được xây dựng trên nền tảng hệ thống chính sách tương đối ổn định.
- Quan tâm đến sự hài hồ các lợi ích bằng việc dự liệu các tác động trước
mắt và ảnh hưởng lâu dài của chính sách đối với bản thân đối tượng được thụ
hưởng và với tồn xã hội trên cơ sở tính tốn cụ thể các biện pháp nhằm giảm thiểu
việc gây mâu thuẫn, xung đột xã hội do chính sách chỉ đáp ứng lợi ích cho một bộ
phận xã hội.
- Quan tâm đến việc bảo đảm đồng bộ nhiều giải pháp thực hiện chính sách
để đạt được mục tiêu chính sách. Ví dụ, chính sách khuyến khích cán bộ, cơng chức
tham gia đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao kỹ năng nghề nghiệp do chỉ chú ý
khuyến khích bằng vật chất và tinh thần cho đối tượng được thụ hưởng, mà không
quan tâm đến các yếu tố khác nên trên thực tế cũng khơng đạt được mục tiêu, vì
cán bộ, cơng chức khơng được học theo nhu cầu của bản thân về kỹ năng nghề
nghiệp cần thiết mà buộc phải học theo chương trình sẵn có của các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng. Những chương trình này có nhiều nội dung trùng với những chương
trình khác mà họ đã được đào tạo, bồi dưỡng.
- Tính tốn thời điểm cơng bố chính sách, nhất là những chính sách mang
tính nhạy cảm đến lợi ích của người dân. Trong trường hợp cần thiết nên tiến hành
các hoạt động thăm dò phản ứng và dư luận xã hội trước khi công bố.



CHƯƠNG II
Những vấn đề đặt ra trong hoạch định và
thực thi chính sách cơng ở Việt Nam
2.1. Những vấn đề đặt ra
Khi Việt Nam chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, địi hỏi ban hành các chính sách để tạo ra những
nhân tố, môi trường cho sự chuyển đổi trở thành cấp bách. Vì vậy, trong một thời
gian khá dài, Nhà nước tập trung cao vào việc xây dựng và ban hành các thể chế,
nhằm tạo các hành lang pháp lý cho mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội. Việc ban hành
hàng loạt văn bản pháp luật trong không ít trường hợp dẫn đến tình trạng chồng
chéo, trùng lắp, thậm chí mâu thuẫn nhau giữa các quy định pháp lý, mà cuối cùng
là sự chi phối của chúng đối với các hoạt động kinh tế – xã hội theo các chiều khác
nhau, khiến cho những hoạt động này không đạt được mục tiêu mong muốn. Nói
cách khác, hàng loạt chính sách được ban hành, có hiệu lực thi hành, song việc
chính sách đó có hiệu lực thực tế như thế nào và đáp ứng mục tiêu đặt ra đến đâu
thì dường như khơng được quan tâm. Đơi khi chính sách được ban hành chẳng
những không giải quyết được vấn đề đặt ra, mà còn gây ra những hiệu ứng phụ làm
phức tạp thêm vấn đề. Chẳng hạn, chính sách hạn chế ùn tắc giao thông trong các
thành phố lớn đã được triển khai với nhiều giải pháp khác nhau, song thực tế vẫn
chưa giải quyết được vấn đề ùn tắc, trong khi đó một số giải pháp đưa ra, như chặn
các ngã tư, thu phí chống ùn tắc lại gây ra các hiệu ứng phụ làm rắc rối thêm hiện
trạng. Hơn thế, việc hoạch định chính sách (thơng qua việc soạn thảo và ban hành
hàng loạt văn bản pháp luật) và việc tổ chức triển khai các chính sách đó trên thực
tế đã tiêu tốn tiền của của nhân dân và sức lực của khơng ít người, song nhiều khi
các chính sách này khơng đem lại lợi ích tương xứng với chi phí đã bỏ ra. Do đó,
đã đến lúc cần coi đánh giá chính sách như một khâu khơng thể thiếu trong quy
trình chính sách.
2.1.1. Ưu điểm
Nhìn chung các bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp cũng như các
cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị đã nhận thức được ý nghĩa, tầm quan

trọng của tổ chức thực hiện chính sách và đề cao trách nhiệm trong tổ chức thực
hiện chính sách. Mỗi khi có chính sách mới ban hành đều xây dựng kế hoạch triển
khai thực hiện; đã kịp thời tiến hành phổ biến, tun truyền chính sách cơng; có sự
phân cơng, phối hợp giữa các ngành, các cấp trong thực hiện chính sách. Trong q
trình tổ chức thực hiện chính sách nếu gặp khó khăn đã chủ động đề xuất các cấp
có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung khắc phục những hạn chế, bất cập của chính sách.
Đồng thời, đã chú ý đến công tác theo dõi, kiểm tra, đôn đốc đánh giá, tổng kết, rút
kinh nghiệm trong tổ chức thực hiện chính sách. Do việc tổ chức thực hiện tốt nên


các chính sách của nhà nước đã kịp thời đi vào cuộc sống, phát huy được vai trò
quan trọng của chính sách trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
2.1.2. Những hạn chế, bất cập
- Nhận thức về vị trí, vai trị, đặc điểm, tính chất của chính sách cơng chưa
đầy đủ; nhiều người hiểu chính sách công đơn giản chỉ là những chủ trương, chế độ
nhà nước ban hành một cách chung chung. Nếu chính sách khơng được thực hiện
thì sẽ trở thành vơ nghĩa, chỉ là những khẩu hiệu suông. Việc hoạch định và tổ chức
thực hiện chính sách là chức năng, nhiệm vụ chủ yếu của nhà nước, của các cơ
quan nhà nước. Hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách là hai mặt của một vấn
đề; chúng có mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Hoạch định để có được chính
sách đúng là điều kiện cần, tổ chức thực hiện đúng là điều kiện đủ để đưa chính
sách vào cuộc sống.
- Hiện nay vẫn tồn tại những chính sách ban hành khơng sát với thực tiễn,
gây khó khăn và ảnh hưởng trực tiếp đến khâu tổ chức thực hiện, dẫn đến hiệu lực,
hiệu quả thấp.
- Các bước trong tổ chức thực hiện chính sách khơng đảm bảo, đầy đủ.
- Việc xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách chưa chú ý đến các nguồn
lực (con người, kinh phí, điều kiện vật chất, thời gian) để thực hiện chính sách. Đặc
biệt là khâu phân cơng, phối hợp thực hiện chính sách chưa hợp lý, cịn biểu hiện
của tính cục bộ, không đề cao trách nhiệm, tinh thần phối kết hợp giữa các cơ quan

hữu quan trong tổ chức thực hiện chính sách.
- Cơng tác tun truyền, phổ biến về mục đích, nội dung, u cầu của chính
sách khơng đầy đủ, rõ ràng và kịp thời đến các đối tượng liên quan (nhà chức trách,
những người thực thi và người dân) làm ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện chính
sách.
- Các văn bản hướng dẫn, phổ biến thực hiện chính sách nhiều khi không cụ
thể, rõ ràng và thống nhất, thậm chí mâu thuẫn, khơng phù hợp với các quy định
trong chính sách, dẫn đến việc triển khai thực hiện chính sách khó khăn và khơng
chính xác.
- Nhiều quy định, thủ tục trong q trình tổ chức thực hiện chính sách cịn
phức tạp, rắc rối gây khó khăn, cản trở việc thực hiện chính sách.
- Nhiều CBCC thực thi chính sách có trình độ năng lực yếu; nắm và hiểu
chính sách cịn hạn chế; tinh thần, thái độ thực thi chính sách thiếu khách quan dẫn
đến hạn chế, bất cập trong thực hiện và làm cho chính sách bị méo mó khơng đúng
với mục tiêu, mục đích ban hành chính sách.
- Tình trạng vận dụng chính sách trong q trình thực hiện còn khá phổ
biến, do chưa phân biệt rạch ròi sự khác nhau giữa thực hiện chính sách và vận


dụng chính sách. Do cách vận dụng tùy tiện nên cùng một chính sách mỗi nơi làm
một cách, dẫn đến việc thực hiện chính sách khơng cơng bằng và thống nhất.
- Việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện một số chính sách khơng được
thực hiện thường xun, hoặc thực hiện hình thức, chiếu lệ nên khơng phát hiện kịp
thời những hạn chế, bất cập để kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, rút kinh
nghiệm kịp thời cho việc tổ chức thực hiện chính sách.
- Một số chính sách thực hiện bị kéo dài, không đảm bảo theo chu trình,
thời hạn, gây khó khăn cho việc tìm nguồn lực để giải quyết; đánh giá tổng kết một
số chính sách chưa nghiêm túc, thiếu đầy đủ, chính xác dẫn đến hiệu lực, hiệu quả
của chính sách khơng cao, khơng rút ra được bài học kinh nghiệm trong việc tổ
chức, chỉ đạo thực hiện chính sách.

- Một số chính sách khi tổ chức thực hiện gặp khó khăn hoặc khi thực hiện
xong chính sách khơng đề xuất được các giải pháp, biện pháp cần thiết để duy trì
chính sách dẫn đến thất bại hoặc phải kéo dài thời gian thực hiện, gây lãng phí tiền
của của nhà nước và nhân dân.
2.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, nhận thức về đánh giá chính sách cịn đơn giản. Điều đó được
biểu hiện:
- Đồng nhất chính sách với một văn bản đơn lẻ. Mặc dù chính sách được thể
chế hóa trong văn bản pháp luật, song khơng thể đồng nhất chính sách với một văn
bản đơn lẻ. Thậm chí có những chính sách lớn lại là tập hợp của những chính sách
bộ phận. Chẳng hạn, chính sách xóa đói, giảm nghèo bao gồm chính sách hỗ trợ
người nghèo thơng qua các chương trình mục tiêu quốc gia, chính sách miễn giảm
học phí cho người nghèo, chính sách khám, chữa bệnh miễn phí cho người nghèo…
Do đó, việc đánh giá chính sách thường khá phức tạp, địi hỏi có cách nhìn tổng
thể.
- Coi đánh giá chính sách là việc của cơ quan ban hành chính sách, nên chờ
đợi khi cơ quan này có chủ trương hoặc yêu cầu cụ thể mới tổ chức triển khai đánh
giá.
- Tách biệt giữa đánh giá nội dung chính sách (thể hiện qua văn bản) với
đánh giá việc thực thi chính sách. Đôi khi, chúng ta rơi vào các nhận xét phiến
diện: hoặc cho rằng các chính sách ban hành là đúng đắn, thường chỉ sai phạm
trong khâu thực thi; nhưng có lúc lại che lấp các hạn chế trong thực thi chính sách
bằng cách đổ lỗi cho sự khơng phù hợp của các quy định pháp luật.
Thứ hai, các cơ quan chức năng thường không quan tâm tổ chức đánh giá
chính sách. Trên thực tế, rất ít chính sách được tổ chức đánh giá một cách nghiêm
túc, bài bản. Nhiều cơ quan có thẩm quyền (cơ quan ban hành chính sách hoặc chủ


trì tổ chức thực hiện chính sách) khơng đưa việc đánh giá chính sách vào chương
trình hoạt động của mình. Có thể nêu ra nhiều ngun nhân của tình trạng này: do

khơng có đủ nhân lực, khơng có nguồn lực tài chính để đánh giá, do chính sách
được thực hiện rất “bình lặng” khơng gây ra vấn đề gì, do bản thân các cơ quan này
không muốn “tự phán xét” các chính sách do mình ban hành và thực thi… Đương
nhiên, việc đánh giá chính sách khơng chỉ do các cơ quan nhà nước tiến hành. Các
đánh giá chính sách có thể được phản ánh qua cơng luận, qua ý kiến của nhân dân,
của các tổ chức chính trị – xã hội. Song sự đánh giá từ bên ngoài nhà nước sẽ chỉ
có giá trị thực sự nếu được các cơ quan nhà nước tiếp nhận, tổng hợp và rút kinh
nghiệm. Trong khơng ít trường hợp, sự đánh giá lẻ tẻ, tự phát của nhân dân bị bỏ
qua. Nếu thiếu sự chủ trì của các cơ quan chức năng, thì việc đánh giá cũng ít có
tác động đến các nhà hoạch định và thực thi chính sách.
Thứ ba, việc xem xét lại chính sách đơi khi chỉ được thực hiện khi xuất hiện
“vấn đề”. Trong một số trường hợp, các chính sách vẫn “bình n” trong một thời
gian dài, chỉ đến khi “vấp váp” trong thực tiễn, người ta mới nhận ra được những
“lỗ hổng” của chính sách.
Thứ tư, thiếu các tiêu chí để đánh giá chính sách một cách khoa học. Khi
đánh giá chính sách, người ta thường so sánh các kết quả đạt được với mục tiêu
chính sách ban đầu. Việc đánh giá chính sách sẽ dễ dàng nếu các mục tiêu chính
sách được thể hiện dưới dạng định lượng, chẳng hạn như tốc độ gia tăng dân số, tỷ
lệ trẻ em trong độ tuổi đi học được đến trường… Song, trên thực tế đa số các mục
tiêu chính sách được thể hiện dưới dạng định tính, nhiều khi mục tiêu khơng rõ
ràng, trong trường hợp đó việc đánh giá chính sách theo mục tiêu đề ra có thể
khơng phản ánh hết các giá trị của chính sách. Để đánh giá chính sách, về ngun
tắc, phải có các bộ tiêu chí đánh giá được thiết kế đối với từng loại chính sách. Việc
thiếu các tiêu chí đánh giá khiến cho việc đánh giá khơng tồn diện, đầy đủ, mang
tính phiến diện. Chẳng hạn, đánh giá về chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt
Nam, có thể thấy kết quả rất khả quan với việc giảm tỷ lệ nghèo từ 22% năm 2005
xuống còn 10,7% năm 2010 theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006 – 2010. Song, nếu đi
vào đánh giá tác động của các chính sách cụ thể tới người nghèo thì thấy cịn rất
nhiều hạn chế. Chẳng hạn, Chương trình 135 trong giai đoạn 2006 – 2010 tuy đã
chi hơn 14.000 tỉ đồng, chưa tính đến giá trị cơng sức đóng góp của dân, nhưng đến

năm 2010, mới chỉ có 113 xã, chiếm 6% số xã được hưởng thụ Chương trình, được
“xóa tên” khỏi diện nghèo. Ở một số tỉnh có số xã cịn tỷ lệ nghèo cao, như Lạng
Sơn: 49%, Điện Biên: 50%, Quảng Bình: 49,34%, Quảng Nam: 48,78%, Quảng
Ngãi: 49,94%.
Thứ năm, đánh giá chính sách đơi khi mang tính một chiều, chỉ phản ánh
nhận xét của các cơ quan nhà nước mà không quan tâm đủ mức đến sự phản hồi từ
xã hội, từ những đối tượng mà chính sách hướng vào. Mặc dù đánh giá của các cơ
quan nhà nước về chính sách có thuận lợi do họ nắm rất rõ về chính sách và quá


trình thực hiện chính sách, nhưng cách làm này có thể dẫn đến chỗ các kết quả
đánh giá chịu sự chi phối của chính những người làm ra và vận hành chính sách đó,
việc chỉ ra các sai sót của bản thân họ sẽ gặp phải rào cản tâm lý mạnh mẽ và nhiều
khi bị bóp méo theo ý muốn chủ quan. Vì vậy, khi đánh giá chính sách, ít cơ quan
tổ chức các cuộc khảo sát lấy ý kiến phản hồi từ nhân dân hay các đối tượng hưởng
lợi một cách rộng rãi, công khai. Trong một số trường hợp các cơ quan chức năng
đã tổ chức thu thập ý kiến phản hồi từ các phương tiện truyền thông, hay tổ chức
các buổi đóng góp ý kiến thơng qua các đồn thể chính trị – xã hội. Tuy nhiên,
khơng phải lúc nào các ý kiến này cũng phản ánh đầy đủ và chính xác những vấn
đề mà thực tiễn đang đặt ra liên quan đến chính sách được đánh giá.
Thứ sáu, thiếu kinh phí dành cho việc đánh giá chính sách. Các cơ quan
thường dành nguồn kinh phí có hạn của mình để triển khai các cơng việc mới
(nhằm tạo ra những kết quả mới) hơn là dùng kinh phí đó để xem xét lại những gì
đã làm.


CHƯƠNG III
Một số kiến nghị mang tính giải pháp
nâng cao thực thi chính sách cơng ở Việt Nam hiện nay
3.1. Một số kiến nghị

Để khắc phục những hạn chế, bất cập, nâng cao chất lượng, hiệu quả xây
dựng và thực thi chính sách cơng ở nước ta hiện nay, cần quan tâm một số vấn đề
sau:
Một là, tiếp tục xây dựng và hồn thiện thể chế hoạch định chính sách công
Tại Đại hội XII, Đảng ta chủ trương: “Tiếp tục đổi mới tư duy, hồn thiện
các cơ chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc nhằm khơi
dậy mọi tiềm năng và nguồn lực của đất nước, tạo động lực mới cho sự phát triển
nhanh và bền vững”(3).
Một trong những nhược điểm lớn nhất của quy trình lập pháp và hoạch định
chính sách cơng ở nước ta thời gian qua là đồng nhất quy trình hoạch định và xây
dựng chính sách cơng với quy trình làm luật; lồng ghép việc xây dựng chính sách
và xây dựng luật. Điều đó dẫn đến tình trạng có khi luật được ban hành nhưng chưa
thể đi vào cuộc sống hoặc không phù hợp với cuộc sống do việc nghiên cứu, hoạch
định chính sách cịn yếu, khơng tương thích với luật. Để khắc phục những hạn chế,
bất cập trên, ngày 22-6-2015, Quốc hội đã ban hành Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật chung cho các cơ quan nhà nước thay thế hai Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2004 và 2008. Luật năm 2015 đã chú trọng hơn
đến quy trình phân tích, hoạch định chính sách bằng việc bổ sung những quy định
cụ thể về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đề xuất chính sách và đề cao sự
tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân. Điểm nhấn quan trọng là Luật mới
dành Điều 35 để quy định về trách nhiệm, nội dung đánh giá tác động của chính
sách trong đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh. Vấn đề quan trọng hiện nay là triển
khai các văn bản pháp luật nói trên vào q trình hoạch định và tổ chức thực thi
chính sách cơng của chính phủ, các bộ, ngành và địa phương, kịp thời loại bỏ
những cách làm và những văn bản không phù hợp, trái với quy định của luật.
Hai là, đổi mới quy trình hoạch định chính sách cơng theo hướng dân chủ,
cơng khai, minh bạch; thể chế hóa sự tham gia của các chủ thể trong xây dựng
chính sách; thiết lập quy trình xây dựng chính sách cơng với sự tham gia của tất cả
các bên có liên quan: chính phủ, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội,
người dân, các nhà khoa học, chuyên gia...

Nói cách khác, việc xây dựng chính sách cơng từ chỗ chỉ là chức năng đặc
quyền của các cơ quan nhà nước trở thành mối quan tâm và trách nhiệm của tồn
xã hội. Việt Nam cần có một đội ngũ những người hoạch định chính sách chuyên
nghiệp, với sự tham gia của nhiều thành phần xã hội khác nhau. Cụ thể là:


- Tăng cường sự tham gia của người dân vào q trình hoạch định chính
sách,coi đây là một u cầu bắt buộc trong q trình hoạch định chính sách, tạo
điều kiện để mọi người dân nắm được thông tin và đóng góp vào các dự thảo chính
sách liên quan trực tiếp đến mình, tránh để tình trạng “chính sách trên trời được ban
hành cho dân dưới đất” vì khơng đủ điều kiện để thực hiện.
- Tăng cường đối thoại chính sách giữa Chính phủ và các nhóm lợi ích, đặc
biệt là các doanh nghiệp. Tiếp tục tổ chức và thực hiện diễn đàn đối thoại giữa
doanh nghiệp với Thủ tướng để giám đốc các doanh nghiệp có thể trao đổi trực tiếp
với Thủ tướng về những vấn đề của doanh nghiệp. Thơng qua đối thoại, Chính phủ
hiểu các doanh nghiệp muốn gì và các doanh nghiệp biết Chính phủ định làm gì.
- Thành lập nhóm các chun gia giỏi, hình thành những “Think tanks”
giúp việc cho Thủ tướng Chính phủ trong việc nghiên cứu và thiết kế chính sách,
được lựa chọn từ các cơng chức cao cấp, có năng lực, trình độ từ các bộ, ngành,
kể cả các chuyên gia là người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài. Nhóm
chuyên gia, những “Think tanks” này thường xuyên có sự tương tác hai chiều với
Thủ tướng và các bộ, ngành thực thi chính sách. Ngày 28-7-2017, Thủ tướng Chính
phủ đã ký Quyết định 1120/QĐ-TTg thành lập Tổ Tư vấn kinh tế của Thủ tướng để
tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ các vấn đề phát triển kinh tế gồm 15 thành viên là
những chuyên gia kinh tế hàng đầu trong và ngoài nước.
- Thiết lập cơ chế cạnh tranh trong ý tưởng chính sách và các báo cáo
chính sách trên cơ sở phát huy vai trò của các trường đại học, các cơ quan nghiên
cứu độc lậpvà các tổ chức nghiên cứu chính sách của quốc gia.
Ở Việt Nam hiện nay còn thiếu vắng các tổ chức nghiên cứu và phản biện
chính sách độc lập mà hoạt động của các tổ chức này sẽ giúp cho Chính phủ nhìn

nhận chính sách từ nhiều góc độ, bảo đảm khách quan hơn. Vì vậy, cần sớm tổ
chức lại hệ thống các cơ quan nghiên cứu chính sách, tiếp tục đổi mới và hồn thiện
thể chế để tạo mơi trường cho sự phát triển các loại hình tổ chức nghiên cứu chính
sách, trong đó có các cơ quan nghiên cứu độc lập, các tổ chức nghiên cứu chính
sách hoạt động khơng dựa vào ngân sách nhà nước.
Các trường đại học, viện nghiên cứu cần được tổ chức lại theo hướng loại
bỏ những cấu trúc tương tự như các cơ quan hành chính, phụ thuộc vào cơ chế xin
cho, bao cấp. Việc đào tạo và nghiên cứu phải gắn với thực tiễn, góp phần phát
hiện, đề xuất những ý tưởng chính sách, đáp ứng những yêu cầu của cuộc sống đặt
ra. Ngoài ra, Nhà nước cần tạo điều kiện vật chất, môi trường và không gian nghiên
cứu học thuật tốt ở các trường đại học, viện nghiên cứu về chính sách, góp phần
sớm hình thành hệ thống lý luận nghiên cứu chính sách cơ bản, đồng bộ ở Việt
Nam. Khuyến khích các nghiên cứu chính sách dựa trên bằng chứng nhằm nâng
cao tính thuyết phục cho hoạch định chính sách. Trên cơ sở tiếp cận đa ngành, liên
ngành, cần khuyến khích sự tham gia nghiên cứu phân tích chính sách từ các phân


ngành của khoa học xã hội như kinh tế học, tâm lý học, xã hội học để cung cấp
những bằng chứng số liệu định lượng về kinh tế, xã hội được phân tích một cách
khoa học.
- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, các bộ, ngành, các cơ quan
hữu quan trong hoạch định chính sách, tránh chồng chéo, mâu thuẫn nhau.
Hiện nay, có tình trạng mỗi bộ, ngành đều có những đề xuất chính sách
nhưng lại khơng xác định được lĩnh vực ưu tiên, thiếu kế hoạch hành động cụ thể.
Do đó, để xây dựng chính sách một cách toàn diện nhất, cần xây dựng các quy định
phối hợp và phân công trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ, ngành, đồng thời xác định
trách nhiệm giữa các cơ quan một cách cụ thể hơn. Cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa
Chính phủ, các bộ liên quan, hiệp hội doanh nghiệp, các nhà khoa học, các chuyên
gia nước ngồi trong q trình hoạch định, điều chỉnh chính sách.
Ba là,các nhà tổ chức thực thi chính sách, các lực lượng tham gia và các

đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách cần nhận thức đầy đủ, đúng đắn, hiểu rõ
mục tiêu, ý nghĩa, nội dung của chính sách và các giải pháp thực hiện, từ đó tạo ra
sự đồng thuận trong xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp tổ chức thực hiện có hiệu
quả chính sách.
Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách đến các tầng lớp nhân dân;
thực hiện cơng khai chính sách để mọi người biết, bàn, thực hiện và kiểm tra chính
sách. Tùy từng đối tượng mà tổ chức các hình thức tuyên truyền, phổ biến phù hợp
như: mở các lớp tập huấn, tuyên truyền, bàn các giải pháp và phân cơng thực hiện
chính sách; gửi các tài liệu hướng dẫn chính sách cho các tổ chức, doanh nghiệp
liên quan.
Sau khi chính sách ban hành, cần phải cụ thể hóa bằng các chương trình
hành động, các kế hoạch thực hiện; ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện
chính sách, các biểu mẫu báo cáo (nếu có); xây dựng các đề án, dự án.
Chuẩn bị nguồn lực cho việc thực hiện chính sách: huy động các nguồn lực
(nhân lực, vật lực, kinh phí...) từ Trung ương, các địa phương, các tổ chức quốc tế.
Có thể khai thác các nguồn lực trong nhân dân nhằm giảm bớt chi phí từ ngân sách
nhà nước, khai thác sự tài trợ của các tổ chức quốc tế và các chính phủ. Nguồn kinh
phí cần sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giám sát, kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng kinh phí và đánh giá hiệu quả.
Tổ chức thực hiện một cách khoa học, hợp lý, phân công trách nhiệm cụ
thể cho các tổ chức, cá nhân liên quan; xác định người chịu trách nhiệm chính và
những người tham gia phối hợp trong q trình tổ chức thực hiện chính sách. Trong
phân công nhiệm vụ, cần chú ý đến khả năng, tính chất chun mơn và thế mạnh
của từng người; hạn chế tình trạng chồng chéo nhiệm vụ và khơng rõ trách nhiệm.


Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về tiến độ, hiệu quả thực
hiện chính sách cơng. Mục đích của hoạt động này là phát hiện, phịng ngừa và xử
lý vi phạm (nếu có); phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, trong chính sách và pháp
luật để kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền có biện pháp khắc phục. Đồng thời,

thơng qua đó để phát huy nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức liên quan.
Bốn là, đề cao vai trị của hoạt động phân tích, đánh giá chính sách công
như là một điều kiện tiên quyết để từng bước cải thiện chất lượng của quy trình
hoạch định và thực thi chính sách.
Việt Nam cần đưa việc đánh giá chính sách thành một nội dung bắt buộc
đối với một số chính sách quan trọng của Nhà nước. Đặc biệt, cần tăng cường thực
hiện một cách thực chất quy trình đánh giá dự báo tác động của các văn bản luật và
chính sách, đánh giá tác động xã hội, mơi trường, sinh kế đối với các quyết định
đầu tư công cũng như giám sát thực thi chính sách cơng.
Xây dựng các tiêu chí đánh giá chính sách cơng một cách đầy đủ và đúng
đắn, dựa trên các tiêu chí như: tính phù hợp, tính hiệu lực của chính sách, tính hiệu
quả, tính cơng bằng của chính sách, tác động của chính sách, mức độ giải quyết vấn
đề của chính sách.
Quan tâm đến dư luận xã hội, ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để thấy
được các bất cập trong hoạch định và q trình thực thi chính sách; có cơ chế ràng
buộc các cơ quan nhà nước trong việc phản hồi ý kiến, tiếp nhận các kết quả nghiên
cứu, phân tích, đánh giá chính sách cơng.
Tổ chức các nhóm đánh giá độc lập, gồm các thành viên hoạt động với tư
cách chuyên gia đánh giá, có thể từ các cơ quan nhà nước hoặc ngoài nhà nước,
làm việc một cách độc lập, khách quan theo mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của nhóm.
Dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho việc đánh giá chính sách; tăng cường đào tạo
chuyên gia đánh giá chính sách cơng; coi trọng hoạt động tổng kết thực tiễn về
hoạch định, thực thi chính sách cơng
3.2. Một số biện pháp
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả của các hoạt động hoạch định chính sách
cơng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo, cần đặt trọng tâm
vào các vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức để trên cơ sở đó mở rộng sự tham dự

một cách có hiệu quả của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và nhất là của cá
nhân người lãnh đạo, quản lý vào q trình hoạch định và thực thi chính sách công.


Việt Nam nên bắt đầu một quy trình hoạch định chính sách mới, với sự
tham gia cả tất cả các bên liên quan, bao gồm: Chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu
dùng, người nước ngoài, các nhà tài trợ, các nhà khoa học, chuyên gia.
Đôi khi, các doanh nghiệp hoặc các nhà khoa học có thể vạch ra một chiến
lược trình Chính phủ. Lấy các nhu cầu thực sự của dân, của Doanh nghiệp để làm
cơ sở hoạch định chính sách. Chính sách khơng đơn thuần chỉ là một văn bản hành
chính của Nhà nước.
Nói cách khác, làm cho chính sách công từ chỗ chỉ là chức năng đặc quyền
của các cơ quan nhà nước thành mối quan tâm chung và trách nhiệm của tồn xã
hội.
Thứ hai, đổi mới quy trình hoạch định chính sách cơng theo hướng dân chủ,
huy động sự tham gia đắc lực của toàn xã hội, nhất là của đội ngũ chuyên gia vào
xây dựng chính sách. Tích cực lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến từ các đối tượng chịu
tác động trực tiếp của chính sách.
Cần lấy ý kiến của người dân để có những chính sách sát với thực tế, tránh
việc “chính sách trên trời được ban hành cho dân dưới đất” vì khơng đủ điều kiện
để thực hiện. Từng bước tạo lập một quy trình làm chính sách gọn, tiện lợi nhưng
khoa học, có hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện cơ chế thẩm định và phê duyệt chính
sách, nhất là với những chính sách lớn, quan trọng, có tác động trực tiếp và lâu dài
tới lợi ích chung của tồn xã hội.
Thứ ba, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, Ngành trong hoạch định
chính sách, tránh mâu thuẫn nhau.
Thứ tư, xây dựng đội ngũ làm cơng tác hoạch định chính sách có chất lượng
cao, có tầm nhìn bao qt về các vấn đề (Yếu tố con người là cốt lõi để có chính
sách tốt, hợp lịng dân và hiệu quả thực thi cao).

Thứ năm, học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong công tác hoạch định chính
sách, phù hợp với thực tiễn ở nước ta


KẾT LUẬN
Thực hiện chính sách là một khâu cấu thành chu trình chính sách, là tồn bộ
q trình chuyển hóa ý chí của chủ thể chính sách thành hiện thực với các đối
tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu nhất định. Tổ chức thực thi chính sách là trung
tâm kết nối các khâu (các bước) trong chu trình chính sách thành một hệ thống.
Hoạch định được chính sách đúng, có chất lượng là rất quan trọng, nhưng thực hiện
đúng chính sách cịn quan trọng hơn. Có chính sách đúng nếu không được thực
hiện sẽ trở thành khẩu hiệu suông, không những khơng có ý nghĩa, mà cịn ảnh
hưởng đến uy tín của chủ thể hoạch định và ban hành chính sách (uy tín của nhà
nước). Nếu chính sách khơng được thực hiện đúng sẽ dẫn đến sự thiếu tin tưởng và
sự phản ứng của nhân dân đối với nhà nước. Điều này hồn tồn bất lợi về mặt
chính trị và xã hội, gây những khó khăn, bất ổn cho nhà nước trong công tác quản
lý. Qua thực hiện mới biết được chính sách có đúng, phù hợp và đi vào cuộc sống
hay khơng. Q trình thực hiện với những hoạt động thực tiễn sẽ góp phần điều
chỉnh, bổ sung và hồn thiện chính sách cho phù hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu
cầu của cuộc sống. Đồng thời, việc phân tích, đánh giá một chính sách (mức độ tốt,
xấu) chỉ có cơ sở đầy đủ, sức thuyết phục sau khi được thực hiện. Thực tiễn là chân
lý, kết quả thực hiện chính sách là thước đo, là cơ sở đánh giá một cách chính xác,
khách quan chất lượng và hiệu quả của chính sách. Việc đưa chính sách vào thực
tiễn cuộc sống là một quá trình phức tạp đầy biến động, chịu sự tác động của nhiều
yếu tố giúp các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách có kinh nghiệm để
đề ra được các giải pháp hữu hiệu trong thực hiện chính sách.




×