ĐẠI HỌC QUỐC GIA
ĐẠI HỌC BÁCH KHOA TP HỒ CHÍ MINH
BÀI TẬP LỚN MÔN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
ĐỀ TÀI:
GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HỐ Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
LỚP L16--- NHĨM16 --- HK211
NGÀY NỘP ………16/10/2021………
Giảng viên hướng dẫn: THS. ĐOÀN VĂN RE
Thành phố Hồ Chí Minh – 2021
1
T
R
Ư
Ờ
N
G
Đ
Ạ
I
H
Ọ
C
B
Á
C
H
K
H
O
A
K
H
O
A
K
H
O
A
H
Ọ
C
Ứ
N
G
D
Ụ
N
G
B
Ộ
M
Ô
N
L
Ý
L
U
Ậ
N
C
H
Í
N
H
T
R
Ị
BÁO CÁO KẾT QUẢ LÀM VIỆC NHĨM VÀ BẢNG ĐIỂM
BTL
Mơn: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (MSMH: SP1035)
Nhóm/Lớp: ....L16....... Tên nhóm: ......16.........HK
....211...........Năm học .......2021-2022....................
Đề tài:
GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ Q ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA
ĐÌNH VĂN HỐ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
MỤC LỤC
Trang
I. PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................... 1
II. PHẦN NỘI DUNG............................................................................................... 3
Chương 1. GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI............................................................................................................................ 3
1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình............................................... 3
1.1.1. Khái niệm gia đình.................................................................................... 3
1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội................................................................. 4
1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình................................................................. 6
1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội..............9
1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội................................................................................ 9
1.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội.............................................................................. 9
1.2.3. Cơ sở văn hố............................................................................................ 9
1.2.4. Chế độ hơn nhân tiến bộ........................................................................... 10
Tóm tắt chương 1..............................................................................................13
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HỐ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY..........................................................................................14
2.1. Gia đình văn hố và những vấn đề liên quan đến gia đình văn hố...............14
2.1.1. Khái niệm về gia đình văn hố.................................................................14
2.1.2. Quan điểm của Đảng ta về gia đình văn hoá.............................................15
2.1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến việc xây dựng gia đình văn hóa ở Việt Nam
hiện nay…................................................................................................23
2.2. Thực trạng xây dựng gia đình văn hốở nước ta thời gian qua.....................26
2.2.1. Gương mẫu chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng; pháp luật của
Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua của địa
phương nơi cư trú................................................................................... 26
2.2.2. Gia đình hịa thuận, hạnh phúc, tiến bộ; tương trợ giúp đỡ mọi người trong
cộng đồng................................................................................................. 31
2.2.3. Tổ chức lao động, sản xuất, kinh doanh, công tác, học tập đạt năng suất,
chất lượng và hiệu quả.............................................................................. 37
2.3. Giải pháp xây dựng gia đình văn hốở nước ta thời gian tới..........................42
2.3.1. Giải pháp phát huy những mặt đạt được....................................................42
2.1.3. Gỉải pháp khắc phục những mặt hạn chế...................................................48
Tóm tắt chương 2..............................................................................................52
III. KẾT LUẬN.......................................................................................................... 53
IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................. 54
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là vấn đề của mọi dân tộc và mọi thời đại. Ở mọi nơi, mọi lúc gia đình
đều chứng tỏ sức mạnh của mình. Gia đình ln ln là điểm tựa là cội nguồn, là cái
nơi của sự bình yên và là nền tản đem lại sự hạnh phúc cho con người. Khơng lúc nào
bằng lúc này, gia đình được đặt ra với một ý nghĩa phổ quát ở cả Phương Đơng,
Phương Tây. Nó khơng chỉ mang lại tính cấp thiết của hiện tại mà còn gắn liền với q
khứ góp phần quyết định đối với tương lai. Vì lẽ đó, gia đình trở thành một vấn đề của
tồn cầu, có ý nghĩa quan trọng với sự phát triển chung của toàn nhân loại tiến bộ.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay, có thể nói gia đình là những
tế bào nhỏ để hình thành nên một xã hội, một cộng đồng lớn. Gia đình có vai trị quan
trọng và quyết định trực tiếp đến việc xây dựng và ảnh hưởng không nhỏ đến từng cá
nhân. Gia đình là nơi ni dưỡng và giáo dục mỗi con người sống có ý thức, có đạo
đức và cống hiến cho xã hội. các thành viên trong gia đình cùng nhau học tập, xây
dựng và phát triển để trở thành một gia đình văn hóa trong xã hội hiện nay. Gia đình
văn hóa là gia đình hịa thuận, hạnh phúc, tiến bộ làm tốt nghĩa vụ công dân và thực
hiện kế hoạch hóa gia đình.
Gia đình văn hóa được đề ra để để mỗi thành viên trong gia đình có sự cố gắng,
nỗ lực trong mọi hoạt động, thay đổi trong tư duy và nhận thức để sống tốt hơn và có
ích hơn. Từ đó xã hội mới ổng định và phát triển được. xã hội nào cũng được tạo nên
từ tập hợp nhiều gia đình mà trong đó là các cá nhân. Xây dựng gia định văn hóa với
nếp sống lành mạnh sẽ tạo ra những con người chuẩn mực, tạo ra một xã hội tốt đẹp
hơn. Ngồi ra xây dựng gia đình văn hóa cũng là việc làm giúp phát triển truyền thống
tốt đẹp của gia đình, gìn giữ bản sắc của các làng xóm.
Ở Việt Nam, xây dựng gia đình đã bước đầu đạt được những điểm tiến bộ trong
cơng cuộc xây dựng gia đình văn hóa. Nhiều gia đình đã tiếp cận được những dịch vụ
xã hội cơ bản, chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao. Kinh tế hộ gia đình đã đóng
vai trò quan trọng trong thu nhập quốc dân; nhiều hộ gia đình đã nỗ lực vươn lên làm
giàu chính đáng. Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em và chăm sóc người cao tuổi trong
gia đình được coi trọng và có nhiều tiến bộ. Bình đẳng giới, quyền trẻ em, vai trị của
phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao. Chăm lo, vun đắp, xây dựng,
giữ gìn hạnh phúc gia đình là giá trị cao đẹp mà mỗi người Việt Nam luôn quan tâm
thực hiện và hướng tới. Các giá trị chung thủy, yêu thương, chia sẻ và bình đẳng trong
hơn nhân ln được coi trọng… Những thành tựu của công tác xây dựng gia đình đã
góp phần tích cực vào q trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng, phát triển văn
hóa và con người Việt Nam, thực hiện thành công mục tiêu thiên niên kỷ về chăm sóc
sức khỏe bà mẹ và trẻ sơ sinh. Bên đó cịn tồn tại những khó khăn như ở khơng ít các
địa phương, việc có danh hiệu gia đình văn hóa chỉ là hình thức. Khơng ít gia đình,
6
khu phố, thơn bản đạt danh hiệu văn hóa chỉ trên danh nghĩa, có khuynh hướng nặng
theo chỉ tiêu. Khơng ít nơi tỷ lệ gia đình văn hóa đạt chuẩn rất cao song thực trạng đời
sống văn hóa, xã hội lại xuống cấp và diễn biến khá phức tạp..... Và vẫn cịn tồn tại
thực trạng bạo hành gia đình ở một số các địa phương. Mặt trái của cơ chế thị trường
đã và đang tác động tiêu cực đến đạo đức xã hội, nhiều tệ nạn xã hội "tấn công" vào
các gia đình, ảnh hưởng lớn đến lối sống, đến việc hình thành nhân cách của con
người và các mối quan hệ trong gia đình; quan hệ vợ chồng, anh em, họ hàng, làng
xóm bị phai mờ, giá trị tinh thần bị xem nhẹ; những thay đổi của xã hội đã kéo theo
sự thay đổi của gia đình.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên và đứng trước những yêu cầu cấp thiết của
quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc nghiên cứu “Gia đình trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Thực trạng và giải pháp xây dựng gia đình văn hố ở nước ta
hiện nay” là vô cùng quan trọng.
2. Đối tượng nghiên cứu
Thứ nhất, gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, thực trạng và giải pháp xây dựng gia đình văn hố ở nước ta hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu thực trạng và giải pháp xây dựng gia đình văn hố ở nước ta
hiện nay.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Thứ nhất, làm rõ lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; gia đình văn hố.
Thứ hai, đánh giá thực trạng xây dựng gia đình văn hoá ở nước tathời gian qua.
Thứ ba, đề xuất giải pháp xây dựng gia đình văn hố ở nước ta thời gian tới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó chủ yếu nhất là
các phương pháp: phương pháp thu thập số liệu; phương pháp phân tích và tổng hợp;
phương pháp lịch sử - logic;…
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài mục lục, phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương:
Chương 1: Gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp xây dựng gia đình văn hố ở nước ta hiện
nay
II. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. GIA ĐÌNH TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
1.1. Khái niệm, vị trí và các chức năng của gia đình
1.1.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một cộng đồng người nhưng mang tính chất rất đặc biệt. Gia đình có
vai trị quan trọng, nó quyết định đến sự tồn tại cũng như phát triển của một xã hội.
Khi đề cập về gia đình C. Mác và Ph. Ăngghen cho rằng:“ Quan hệ thứ ba tham dự
ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản
thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sơi nảy nở - đó là quan
hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình.” 1. Cơ sở hình thành gia đình
bao gồm hai mối quan hệ cơ bản: quan hệ hôn nhân (vợ và chồng) và quan hệ huyết
thống ( cha mẹ và con cái...). “Những mối quan hệ này tồn tại trong sự gắn bó, liên
kết, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi
người, được quy quy định bằng pháp lý hoặc đạo lý.”2
Trong cơ sở hình thành gia đình thì:“ Quan hệ hơn nhân là cơ sở, nền tảng hình
thành nên các mối quan hệ khác trong gia đình, là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của
mỗi gia đình. Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người cùng một dịng máu,
nảy sinh từ quan hệ hơn nhân. Đây là mối quan hệ tự nhiên, là yếu tố mãnh mẹ nhất
gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau.”3. Ngồi hai mối quan hệ cơ bản trong
gia đình là mối quan hệ giữa vợ và chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con cái thì bên cạnh
đó cịn có các mối quan hệ khác như quan hệ giữa ông bà với các cháu, anh chị em với
nhau, cơ, dì, chú, bác với cháu...
Ngồi ra, hiện nay ở Việt Nam cũng như thế giới còn thừa nhận quan hệ cha mẹ
nuôi (người đỡ đầu) với con nuôi (được công nhận bằng thủ tục pháp lý) trong quan hệ
gia đình. Và cho dù gia đình được hình thành từ hình thức nào đi nữa thì gia đình tất
yếu sẽ nảy sinh mối quan hệ ni dưỡng. “ Đó là sự quan tâm, chăm sóc ni dưỡng
giữa các thành viên trong gia đình cả về vật chất và tinh thần. Nó vừa là trách nhiệm,
nghĩa vụ, vừa là một quyền lợi giữa các thành viên trong gia đình. Trong xã hội hiện
đại, hoạt động ni dưỡng, chăm sóc của gia đình được xã hội quan tâm chia sẻ, xong
khơng thể thay thế hồn tồn sự chăm sóc, ni dưỡng của gia đình.”4
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.240.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.240.
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.240.
4
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.241.
Các quan hệ này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và sẽ luôn vận động, biến đổi,
phát triển. Sự phát triển của nó sẽ phụ thuộc vào trình độ phát triển của kinh tế và
chính trị - xã hội.
Tóm lại,“gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành,
duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ
nuôi dưỡng ,cùng với những quy tắc về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong
gia đình”1
1.1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội
1.1.2.1. Gia đình là tế bào của xã hội
Giống như tế bào trong cơ thể sống, gia đình có vai trị quyết định đối với sự tồn
tại, vận động và phát triển của xã hội. Ph. Ăngghen đã chỉ rõ rằng:“Theo quan điểm
duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử, quy đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra
đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất
ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản
xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi
giống. Những trật tự xã hội, trong đó những con người của một thời đại lịch sử nhất
định và của một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất quyết định: một
mặt là do trình độ phát triển của lao động và mặt khác là do trình độ phát triển của
gia đình”2
Gia đình như một tế bào tự nhiên, là một đơn vị cấu thành nên cơ thể - xã hội.
Nói gia đình là tế bào của xã hội bởi vì gia đình sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, tư liệu
sản xuất, tái sản xuất ra con người. Xã hội sẽ không thể tồn tại và phát triển được nếu
không có gia đình để tái tạo ra con người. Một cơ thể khỏe mạnh là một cơ thể có
những tế bào đủ tốt, khỏe mạnh. Tương tự, để có một xã hội phát triển một cách lành
mạnh thì phải quan tâm, chú trọng vấn đề xây dựng gia đình tốt, như chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nói:“ … nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình
càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là con người”3
Tuy nhiên, phụ thuộc vào bản chất của từng chế độ, vào chính sách, đường lối
của gia cấp cầm quyền, và phụ thuộc vào chính bản thân mơ hình, kết cấu, đặc điểm
của mỗi hình thức gia đình trong lịch sử mà mức độ tác động của gia đình đối với xã
hội là khác nhau. “Vì vậy, trong mỗi giai đoạn của lịch sử, tác động của gia đình đối
với xã hội khơng hồn tồn giống nhau. Trong các xã hội dựa trên cơ sở chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ xã hội và quan hệ gia đình đã
hạn chế rất lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội. Chỉ khi con người được
yên ấm, hòa thuận trong gia đình thì mới có thể n tâm lao động, sáng tạo và đóng
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.241.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.241-242.
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.242.
góp sức mình cho xã hội và ngược lại. Chính vì vậy, quan tâm xây dựng xã hội, quan
hệ gia đình bình đẳng, hạnh phúc là vấn đề hết sức quan trọng trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa.”1
1.1.2.2. Gia đình là tổ ấm, nơi mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa
trong đời sống cá nhân mỗi thành viên
Mỗi cá nhân đều gắn bó chặt chẽ với gia đình kể từ lúc cịn nằm trong bụng mẹ
đến lúc lọt lịng và suốt cả cuộc đời. “Gia đình là môi trường tốt nhất để mỗi cá nhân
được yêu thương, ni dưỡng, chăm sóc, trưởng thành, phát triển. Sự n ổn, hạnh
phúc của mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng trong sự hình thành, phát triển
nhân cách, thể lực, trí lực để trở thành cơng dân tốt cho xã hội. Chỉ trong môi trường
yên ấm của gia đình, cá nhân mới cảm thấy bình yên, hạnh phúc, có động lực để phấn
đấu trở thành con người xã hội tốt”.2
1.1.2.3. Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội
Sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người chịu tác động và ảnh
hưởng rất lớn bởi gia đình. Vì gia đình chính là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá
nhân sinh sống. Những thứ tình cảm thiêng liêng, sâu đậm giữa vợ và chồng, cha mẹ
và con cái, anh chị em với nhau chỉ trong gia đình mới thể hiện được hết. Những tình
cảm đó khơng thể và khó có thể tìm thấy, thay thế trong một cộng đồng nào khác.
Tuy nhiên, trên thực tế con người có nhiều nhu cầu quan hệ xã hội, quan hệ với
những người khác ngoài các thành viên trong gia đình. Mỗi cá nhân khơng thể chỉ
sống trong quan hệ tình cảm gia đình mà bỏ qua những mối quan hệ xã hội khác. Bởi,
mỗi cá nhân khơng chỉ là thành viên của gia đình mà cịn là thành viên của xã hội.
Chính vì vậy, quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng đồng thời là quan hệ
giữa các thành viên của xã hội. “Không có cá nhân bên ngồi gia đình, cũng khơng thể
có cá nhân bên ngồi xã hội. Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu
quan hệ xã hội của mỗi cá nhân. Gia đình cũng chính là môi trường đầu tiên mà mỗi
các nhân học được và thực hiện quan hệ xã hội.”3
Ngược lại, xã hội cũng tác động đến cá nhân thơng qua gia đình. Thơng qua lăng
kính gia đình mà nhiều thơng tin, hiện tượng của xã hội sẽ tác động tích cực hoặc tiêu
cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối sống, nhân cách, v.v..
“Xã hội nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về mỗi cá nhân khi xem xét họ trong các
quan hệ xã hội và quan hệ với gia đình. Có những vấn đề quản lý xã hội phải thông
qua hoạt động của gia đình để tác động đến cá nhân. Nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.242-243
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.243.
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.244.
cá nhân được thực hiện với sự hợp tác của các thành viên trong gia đình. Chính vì
vậy, ở bất cứ xã hội nào, giai cấp cầm quyền muốn quản lý xã hội theo yêu cầu của
mình cũng đều coi trọng việc xây dựng và củng cố gia đình. Vậy nên, đặc điểm gia
đình ở mỗi chế độ xã hội có khác nhau. Trong xã hội phong kiến, để củng cố, duy trì
chế độ bóc lột, với quan hệ gia trưởng, độc đốn, chun quyền đã có những quy định
rất khắc khe đối với phụ nữ, đòi hỏi người phụ nữ phải tuyệt đối trung thành với
người chồng, người cha – những người đàn ơng trong gia đình. Trong q trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, để xây dựng một xã hội thật sự bình đẳng, con người được
giải phóng, giai cấp công nhân chủ trương bảo vệ chế độ hơn nhân một vợ, một
chồng, thực hiện sự bình đẳng trong gia đình, giải phóng phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: “Nếu khơng giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ
một nửa.” Vì vậy, quan hệ gia đình trong chủ nghĩa xã hội có đặc điểm khác về chất
so với các chế độ xã hội trước đó.”1
1.1.3. Chức năng cơ bản của gia đình
1.1.3.1. Chức năng tái sản xuất ra con người
Đây là một chức năng mang tính đặc thù của gia đình mà khơng một cộng đồng
nào có thể thay thế được. Ngồi việc đáp ứng được nhu cầu tâm, sinh lú tự nhiên của
con người, đáp ứng nhu cầu duy trì nịi giống của gia đình, dịng họ chức năng này cịn
đáp ứng nhu cầu về sức lao động và duy trì sự trường tồn của xã hội.
“Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng gia
đình, nhưng khơng chỉ là việc riêng của gia đình mà là vấn đề xã hội. Bởi vì, thực
hiện chức năng này quyết định đến mật độ dân cư và nguồn lao động của một quốc
gia và quốc tế, một yếu tố cấu thành của tồn tại xã hội. Thực hiện chức năng này liên
quan chặt chẽ đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, tùy theo từng
nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội, chức năng này được thực hiện theo xu hướng
hạn chế hay khuyến khích. Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến
chất lượng nguồn lực lao động mà gia đình cung cấp.”2
1.1.3.2.Chức năng ni dưỡng, giáo dục
“Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người gia đình cịn có trách
nhiệm ni dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình và, cộng đồng
và xã hội. Chức năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với
con cái, đồng thời thể hiện trách nhiệm của gia đình đối với xã hội. Thực hiện chức
năng này, gia đình có ý nghĩa quan trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo
đức, lối sống của mỗi người. Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi người đều chịu
sự giáo dục trực tiếp của cha mẹ và người thân trong gia đình. Những hiểu biết đầu
tiên mà gia đình đem lại thường để lại dấu ấn sâu đậm và bền vững trong cuộc đời
mỗi người.
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.244-245.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.245-246.
Vì vậy, gia đình là một mơi trường văn hóa, giáo dục, trong môi trường này, mỗi
thành viên đều là những chủ thể sáng tạo những giá trị văn hóa, chủ thể giáo dục
đồng thời cũng là những người thụ hưởng giá trị văn hóa, và là chủ thể chịu giáo dục
của các thành viên khác trong gia đình.
Chức năng ni dưỡng, giáo dục ảnh hưởng lâu dài và tồn diện đến cuộc đời
của mỗi thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Mỗi thành
viên trong gia đình đều có vị trí, vai trị nhất định, vừa là chủ thể vừa là khách thể
trong việc ni dưỡng, giáo dục của gia đình. Đây là chức năng hết sức quan trọng,
mặc dù trong xã hội có nhiều cộng đồng khác (nhà trường, các đồn thể, chính quyền,
v.v) cũng thực hiện chức năng này, nhưng khơng thể thay thế chức năng giáo dục của
gia đình. Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ, thế
hệ tương lai của xã hội, cung cấp và nâng cao chất lượng nguồn lao động để duy trì
sự trường tồn của xã hội, đồng thời mỗi cá nhân từng bước được xã hội hóa. Vì vậy,
giáo dục của gia đình gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục của gia đình
khơng gắn với giáo dục của xã hội, mỗi cá nhân sẽ khó khăn khi hịa nhập với xã hội,
và ngược lại, giáo dục của xã hội sẽ không đạt được hiệu quả cao khi không kết hợp
với giáo dục của gia đình, khơng lấy giáo dục của gia đình là nền tảng. Do vậy, cần
tránh khuynh hướng coi trọng giáo dục gia đình mà hạ thấp giáo dục của xã hội và
ngược lại. Bởi cả hai khuynh hướng ấy, mỗi cá nhân đều khơng phát triển tồn diện.”1
Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục thì kiến thức cơ bản,
tương đối tồn diện về mọi mặt, văn hóa, học vấn của mỗi người làm cha, làm mẹ là
hết sức quan trọng, đặc biệt phương pháp giáo dục.
1.1.3.3. Chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng
Gia đình tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra tư liệu sản
xuất và tư liệu tiêu dùng giống như những đơn vị kinh tế khác. Tuy nhiên, khác với
những đơn vị kinh tế khác, cái đặc thù mà những đơn vị kinh tế đó khơng có được, đó
là gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao
động cho xã hội.
“Gia đình không chỉ tham gia trực tiếp vào sản xuất và tái sản xuất ra của cải
vật chất và sức lao động, mà còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Gia đình thực
hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về lao
động sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình. Đó là việc sử dụng hợp lý các
khoản thu nhập của các thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống vật chất
và tinh thần của mỗi thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn rỗi để tạo
ra một môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhằm nâng cao sức khỏe,
đồng thời để duy trì sở thích, sắc thái riêng của mỗi người.
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.246-247.
Cùng với sự phát triển của xã hội, ở các hình thức gia đình khác nhau và ngay
cả ở một hình thức gia đình, nhưng tùy theo từng giai đoạn phát triển của xã hội,
chức năng kinh tế của gia đình có sự khác nhau, về mơ sản xuất, sở hữu tư liệu sản
xuất và cách thức tổ chức sản xuất và phân phối. Vị trí, vai trị của kinh tế gia đình và
mối quan hệ của kinh tế gia đình với các đơn vị kinh tế khác trong xã hội cũng khơng
hồn tồn giống nhau.
Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu cầu
vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình. Hiệu quả hoạt động kinh tế của
gia đình quyết định hiệu quả đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên gia
đình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào q trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải,
sự giàu có của xã hội. Gia đình có thể phát huy một cách có hiệu quả mọi tiềm năng
của mình về vốn, về sức lao động, tay nghề của người lao động, tăng nguồn của cải
vật chất cho gia đình và xã hội. Thực hiện tốt chức năng này khơng những tạo cho gia
đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống, nuôi dạy con cái, mà cịn đóng góp to lớn đối
với sự phát triển của xã hội.”1
1.1.3.4. Chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lí và duy trì tình cảm gia đình.
“Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn
nhu cầu
tình cảm, văn hóa, tinh thần cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ,
chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa
các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm, vừa là trách nhiệm, đạo lý,
lương tâm của mỗi người”2. Do vậy, gia đình khơng chỉ là nơi nương tựa về vật chất
của con người, quan trọng hơn hết, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là
nơi nương tựa về mặt tinh thần. Chính vì vậy cần duy trì tình cảm khăng khít, gắn bó
giữa các thành viên trong đình. Thơng qua đó gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn
định và phát triển của xã hội. Một khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình
cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ.
“Ngoài những chức năng trên, gia đình cịn có chức năng văn hóa, chức năng
chính trị... Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của
dân tộc cũng như tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cội
đồng được thực hiện trong gia đình. Gia đình khơng chỉ là nơi lưu giữ mà cịn là nơi
sáng tạo và thụ hưởng những giá trị văn hóa của xã hội. Với chức năng chính trị, gia
đình là một tổ chức chính trị của xã hội, là nơi tổ chức thực hiện chính sách, pháp
luật của nhà nước và quy chế (hượng ước) của làng, xã và hưởng lợi từ hệ thống
pháp luật, chính sách và quy chế đó. Gia đình là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà
nước với công dân.”3
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.248-249.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.249.
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.249-250.
1.2. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1. Cơ sở kinh tế - xã hội
Cơ sở kinh tế - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tương ứng với trình độ của lực lượng sản
xuất là quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa mà trong đó cốt lõi của quan hệ sản
xuất mới là sự thay đổi chế độ sở hữu của tư liệu sản xuất ( từ tư hữu sang cơng hữu ).
Xóa bỏ sự áp bức, bóc lột và bất bình đẳng trong xã hội và gia đình, tạo cơ sở kinh tế
cho việc xây dựng quan hệ bình đẳng trong gia đình và giải phóng phụ nữ trong xã
hội. “V.I. Lênin đã viết: “Bước thứ hai và là bước chủ yếu là thủ tiêu chế độ tư hữu về
ruộng đất, cơng xưởng và nhà máy. Chính như thế và chỉ có như thế mới mở được con
đường giải phóng hồn tồn và thật sự cho phụ nữ, mới thủ tiêu được “chế độ nơ lệ
gia đình” nhờ có việc thay thế nền kinh tế gia đình cá thể bằng nền kinh tế xã hội hóa
quy mơ lớn”.
Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là xóa bỏ nguồn gốc ngun nhân gây
ra tình trạng thống trị của người đàn ơng trong gia đình, sự bất bình đẳng giữa nam
và nữ, giữa vợ và chồng, sự nô dịch với người phụ nữ.”1 Sự thống trị của đàn ơng
trong gia đình là bởi vì họ thống trị về mặt kinh tế. Chính vì vậy sự thống trị của đàn
ông sẽ tiêu tan khi sự thống trị về kinh tế khơng cịn tồn tại. Bên cạnh đó việc xóa bỏ
chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở để biến lao động tư nhân trong gia đình
thành lao động xã hội trực tiếp. Qua đó người phụ nữ dù lao động xã hội hay gia đình
vẫn có giá trị đóng góp cho sự phát triển của xã hội.“Như Ph. Ăngghen đã nhấn mạnh:
“Tư liệu sản xuất chuyển thành tài sản chung, thì gia đình cá thể sẽ khơng cịn là đơn
vị kinh tế của xã hội nữa. Nền kinh tế tư nhân biến thành một ngành lao động xã hội.
Việc nuôi dạy con cái trở thành công việc của xã hội”. Do vậy, phụ nữ có địa vị bình
đẳng với đàn ơng trong xã hội. Xóa bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất cũng là cơ sở
làm cho hôn nhân được thực hiện dựa trên cơ sở tình yêu chứ khơng phải vì lý do kinh
tế, địa vị xã hội hay một sự tính tốn nào khác.”2
1.2.2. Cơ sở chính trị - xã hội
Cơ sở chính trị - xã hội để xây dựng gia đình trong thời kỳ quá độ chính là việc
thiết lập chính quyền nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nhà nước
xã hội chủ nghĩa. Nhân dân lao động được hiện quyền lực của mình khơng phân biệt
nam nữ, đồng thời xóa bỏ những luật lệ cũ kỹ, lạc hậu từ đó giải phóng phụ nữ và bảo
vệ hạnh phúc gia đình. “V.I. Lênin đã khẳng định: “Chính quyền Xơviết là chính
quyền đầu tiên và duy nhất trên thế giới đã hoàn toàn thủ tiêu tất cả những pháp luật
cũ kỹ, tư sản, để tiện, những pháp luật đó đặt người phụ nữ vào tình trạng khơng bình
đẳng với nam giới, đã dành đặc quyền cho nam giới... Chính quyền Xơviết, một chính
quyền của nhân dân lao động, là chính quyền đầu tiên và duy nhất trên thế giới đã
hủy
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.250-251.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.251.
bỏ tất cả những đặc quyền gắn liền với chế độ tư hữu, những đặc quyền của người
đàn ông trong gia đình””1
Với tính cách là nhà nước q độ lên xã hội chủ nghĩa, việc thể hiện sắc nét nhất
là thơng qua hệ thống pháp luật (trong đó có Luật hơn nhân và gia đình) cùng chính
sách xã hội nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích của cơng dân cũng như gia đình, đồng
thời bảo vệ các yếu tố bình đẳng giới, cũng như định hướng và thúc đẩy việc xây dựng
gia đình kiểu mới tiến bộ. “Chừng nào và ở đâu, hệ thống chính sách, pháp luật chưa
hồn thiện thì việc xây dựng gia đình và đảm bảo hạnh phúc gia đình cịn hạn chế.”2
1.2.3. Cơ sở văn hố
Văn hóa là yếu tố quan trọng trong xây dựng gia đình. Cùng với sự biến đổi của
đời sống chính trị và kinh tế trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì đời sống
văn hóa, tinh thần cũng biến đổi dựa trên hệ tư tưởng chính trị của giai cấp công nhân
để từng bước chi phối và giữ vai trị quan trọng trong nền tảng văn hóa và tinh thần
của xã hội. Cùng lúc đó, những yếu tố văn hóa, phong tục tập quán, lối sống lạc hậu
khơng cịn phù hợp với xã hội hiện tại do xã hội cũ để lại từng bước bị loại bỏ.
“ Sự phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo, khoa học và cơng nghệ góp phần
nâng cao trình độ dân trí, kiến thức khoa học và cơng nghệ của xã hội, đồng thời cũng
cung cấp cho các thành viên trong gia đình kiến thức, nhận thức mới, làm nền tảng
cho sự hình thành những giá trị, chuẩn mực mới, điều chỉnh các mối quan hệ gia đình
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.”3
Thiếu đi cơ sở văn hóa, hoặc cơ sở văn hóa khơng đi liền với cơ sở kinh tế,
chính trị, thì việc xây dựng gia đình sẽ lệch lạc, không đạt hiệu quả cao.
1.2.4. Chế độ hôn nhân tiến bộ
1.2.4.1 Khái niệm nguyên tắc hôn nhân tiến bộ
Hôn nhân được hiểu là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Kết hôn là
việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của pháp luật về
điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Khoản 1 điều 36 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm
2013 quy định: “Nam, nữ có quyền kết hơn, ly hơn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự
nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng tơn trọng lẫn nhau.” Đồng
thời điều 8 Luật hơn nhân gia đình 2014 quy định về điều kiện kết hơn trong đó có quy
định: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định”.Vì vậy, hơn nhân tiến bộ là
hơn nhân bao hàm cả hai khía cạnh đảm bảo quyền tự do kết hôn và tự do ly hôn.
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.252.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.253.
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.253.
1.2.4.2 Biểu hiện của nguyên tắc hôn nhân tiến bộ
a) Hơn nhân tự nguyện
Tình u giữa nam và nữ là yếu tố quan cơ bản và quan trọng nhất của hơn nhân
tiến bộ. Cho dù ở trong hồn cảnh nào, xã hội nào, thời đại nào, tình u vẫn ln là
khát vọng mãnh liệt của con người. Một khi hôn nhân khơng cịn xây dựng trên nền
tảng của tình u thì chừng đó, trong hơn nhân, tình u, hạnh phúc gia đình sẽ bị hạn
chế.
“Hơn nhân xuất phát từ tình yêu tất yếu dẫn đến hôn nhân tự nguyện. Đây là
bước phát triển tất yếu của tình yêu nam nữ, như Ph. Ăngghen nhấn mạnh: “... nếu
nghĩa vụ của vợ chồng là phải thương yêu nhau thì nghĩa vụ của những kẻ yêu nhau
há chẳng phải là kết hôn với nhau và không được kết hôn với người khác hay sao?”.
Hơn nhân tự nguyện đảm bảo cho nam, nữ có quyền tự do trong việc lựa chọn người
kết hôn, không chấp nhận sự áp đặt của cha mẹ. Tất nhiên, hôn nhân tự nguyện
không bác bỏ việc cha mẹ quan tâm, hướng dẫn giúp đỡ con cái có nhận thức đúng,
có trách nhiệm trong việc kết hơn.
Hơn nhân tiến bộ cịn bao hàm cả quyền tự do ly hơn khi tình u giữa nam và
nữ khơng cịn nữa. Ph. Ăngghen viết: “Nếu chỉ riêng hôn nhân dựa trên cơ sở tình
u mới hợp đạo đức thì cũng chỉ riêng hơn nhân trong đó tình u được duy trì, mới
là hợp đạo đức mà thơi... và nếu tình u đã hồn tồn phai nhạt hoặc bị một tình u
say đắm mới át đi, thì ly hơn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội”. Tuy
nhiên, hôn nhân tiến bộ khơng khuyến khích việc ly hơn, vì ly hôn để lại hậu quả nhất
định cho xã hội, cho cả vợ, chồng và đặc biệt là con cái. Vì vậy, cần ngăn chặn những
trường hợp nơng nổi khi ly hôn, ngăn chặn hiện tượng lợi dụng quyền ly hơn và
những lý do ích kỷ hoặc vì mục đích vụ lợi.”1
b) Hôn nhân một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng
Khơng giống như những yếu tố vật chất, tình u là thứ khơng thể chia sẻ được.
Vì vậy, hơn nhân một vợ một chồng chính là kết quả tất yếu xuất phát từ tình u. Nó
cịn là điều kiện tối thiểu để đảm bảo hạnh phúc gia đình. Đồng thời nó cịn phù hợp
với quy luật tự nhiên, tâm lý, tình cảm và đạo đức của con người.
“Hơn nhân một vợ một chồng đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử xã hội lồi
người, khi có sự thắng lợi của chế độ tư hữu đối với chế độ công hữu nguyên thủy. Tuy
nhiên, trong các xã hội trước, hôn nhân một vợ một chống thực chất chỉ đối với người
phụ nữ. “Chế độ một vợ một chồng sinh ra từ sự tập trung nhiều của cải vào tay một
người, - vào tay người đàn ông - và từ nguyện vọng chuyển của cải ấy lại cho con cái
của người đàn ông ấy, chứ không phải của người nào khác. Vì thế, cần phải có chế độ
một vợ một chồng về phía người vợ, chứ khơng phải về phía người chồng”?. Trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện chế độ hôn nhân một vợ chồng là thực
hiện sự giải phóng đối với phụ nữ, thực hiện sự bình đẳng, tơn trọng lẫn nhau giữa vợ
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.254-255.
và chồng. Trong đó, vợ và chồng đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau về mọi vấn
đề của cuộc sống gia đình. Vợ và chồng được tự do lựa chọn những vấn đề riêng,
chính đáng như nghề nghiệp, công tác xã hội, học tập và một số nhu cầu khác, vv..;
đồng thời cũng có sự thống nhất trong việc giải quyết những vấn đề chung của gia
đình như ăn, ở, nuôi dạy con cái... nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc.
Quan hệ vợ chồng bình đẳng là cơ sở cho sự bình đẳng ong quan hệ giữa cha
mẹ với con cái và quan hệ giữa anh chị em với nhau. Nếu như cha mẹ có nghĩa vụ yêu
thương con cái, ngược lại, con cái cũng có nghĩa vụ biết ơn, kính trọng, nghe lời dạy
bảo của cha mẹ. Tuy nhiên, quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em sẽ có
những mâu thuẫn khơng thể tránh khỏi do sự chênh lệch tuổi tác, nhu cầu, sở thích
riêng của mỗi người. Do vậy, giải quyết mâu thuẫn trong gia đình là vấn đề cần được
mọi người quan tâm, chia sẻ.”1
c) Hôn nhân được đảm bảo về pháp lý
“Quan hệ hơn nhân, gia đình thực chất khơng phải là vấn đề riêng tư của mỗi
gia đình mà là quan hệ xã hội. Tình yêu giữa nam và nữ là vấn đề riêng của mỗi
người, xã hội không can thiệp, nhưng khi hai người đã thỏa thuận để đi đến kết hôn,
tức là đã đưa quan hệ riêng bước vào quan hệ xã hội, thì phải có sự thừa nhận của xã
hội, điều đó được biểu hiện bằng thủ tục pháp lý trong hôn nhân. Thực hiện thủ tục
pháp lý trong hôn nhận là thể hiện sự tôn trọng trong tình yêu, trách nhiệm giữa nam
và nữ, trách nhiệm của cá nhân với gia đình và xã hội và ngược lại. Đây cũng là biện
pháp ngăn chặn những cá nhân lợi dụng quyền tự do kết hôn, tự do ly hơn để thỏa
mãn những nhu cầu khơng chính đáng, để bảo vệ hạnh phúc của cá nhân và gia đình.
Thực hiện thủ tục pháp lý trong hơn nhân không ngăn cản quyền tự do kết hôn và tự
do ly hơn chính đáng, mà ngược lại, là cơ sở để thực hiện những quyền đó một cách
đầy đủ nhất.”2
Tóm tắt chương I:
Như vậy, qua chương I ta có thể hiểu được khái niệm, chức năng của gia đình
cũng như vị trí của gia đình trong xã hội. “Gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội
đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan
hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng ,cùng với những quy tắc về quyền và nghĩa vụ
của các thành viên trong gia đình”3. Và, cũng chính vì gia đình là một hình thức cộng
1
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.255-256.
2
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.256-257.
3
Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2021). Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học. Hà Nội: NXB Chính trị quốc
gia Sự thật, tr.241.
đồng đặc biệt mà nó giữ vị trí rất quan trọng trong xã hội: gia đình vừa là tế bào của
xã hội, vừa là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của mỗi
cá nhân và gia đình cũng đóng vai trị là cầu nối giữa cá nhân với xã hội. Gia đình
thực hiện những chức năng mà không một cộng đồng xã hội nào khác có thể thực hiện
được như: chức năng tái sản xuất ra con người; chức năng nuôi dưỡng, giáo dục;
chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng; chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy
trì tình cảm gia đình. Bên cạnh đó, qua chương 1 ta cũng nắm được cơ sở xây dựng
gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là các cơ sở về: kinh tế - xã hội,
chính trị - xã hội, văn hóa và chế độ hơn nhân tiến bộ. Trong đó chế độ hơn nhân tiến
bộ là: hôn nhân tự nguyện, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng và quan trọng là
được đảm bảo về pháp lý. Cuối cùng, rút ra được tầm quan trọng của việc xây dựng
gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội để có những biện pháp phù hợp thúc
đẩy cũng như cải thiện, khắc phục những vấn đề về xây dựng gia đình văn hóa ở nước
ta hiện nay.
19
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HỐ
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Gia đình văn hố và những vấn đề liên quan đến gia đình văn hố
2.1.1 Khái niệm gia đình văn hố
Một xã hội muốn vững mạnh, một dân tộc muốn trường tồn trước hết phải bắt
đầu từ gia đình. Trong quyển “Đại học” của Khổng Tử có viết “Tề gia, trị quốc, bình
thiên hạ”, xây dựng gia đình lành mạnh, ấm no, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc và bền
vững mới có thể nghĩ đến việc xây dựng một quốc gia hùng cường và bền vững. Có
thể nói rằng gia đình và các mối quan hệ trong gia đình đóngvai trị đặc biệt quan
trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia
đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội
mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì vậy muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội, phải chú ý hạt nhân cho tốt” 1. Luận điểm của Người vừa khẳng định vai trò to lớn
của gia đình đối với xã hội, vừa khẳng định mối quan hệ khơng thể tách rời giữa gia
đình và xã hội, đồng thời còn khẳng định sự cần thiết phải xây dựng gia đình mới để
có xã hội mới - một xã hội “xã hội chủ nghĩa” thực sự.
Xã hội sẽ thơng qua gia đình đã thể hiện vai trò và trách nhiệm đối với cá nhân,
yêu cầu cá nhân thực hiện nghĩa vụ đối với xã hội. Mỗi cá nhân, để thực hiện nghĩa vụ
của mình đối với xã hội, cũng phải thơng qua gia đình và nhờ vào gia đình. Khơng có
sự tác động hoặc hỗ trợ tích cực của gia đình, mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội rất
dễ bị tách rời. Với quan điểm đó, trong q trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã đề ra chủ trương quan trọng về xây dựng gia đình mới - gia đình
văn hố, thể hiện sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác vào hoàn cảnh lịch
sử cụ thể của Việt Nam. Từ khi ra đời đến nay, khái niệm gia đình mới đã có nhiều tên
gọi khác nhau như: gia đình có nếp sống văn hóa, gia đình văn hóa mới, gia đình văn
hóa xã hội chủ nghĩa, gia đình văn hóa, gia đình mới và hiện nay chúng ta thống nhất
dùng cụm từ “gia đình văn hóa”.
Gia đình văn hóa là một thuật ngữ dùng để chỉ một danh hiệu mà Chính phủ
Việt Nam trao tặng cho các gia đình thưc hiện tốt các chỉ tiêu đã đặt ra, với mục đích
tạo ra một số tiêu chuẩn về văn hóa và khuyến khích, động viên các gia đình thực
hiện, đạt các tiêu chuẩn này. Bản thể của gia đình văn hóa vẫn là gia đình, nó chỉ tới
tính chất hay phẩm chất của gia đình.
Gia đình văn hóa được coi là một kiểu gia đình mới, khác với gia đình truyền
thống hoặc gia đình kiểu cũ trong thời kì phong kiến và thực dân. Bởi trong gia đình,
ngồi các yếu tố truyền thống đã được chọn lọc và phát huy cịn có những yếu tố mới
1
Hồ Chí Minh (1980): Tồn tập, tập 12, Nxb. Sự thật, Hà Nội
của thời đại đáp ứng yêu cầu của sự phát triển xã hội. Trong thời kỳ cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống của
gia đình đồng thời vận dụng tư tưởng tiến bộ của thế giới là điều rất cần được coi
trọng; trong đó phụ nữ giữ vai trò chủ đạo. Ảnh hưởng của người phụ nữ tác động đến
hầu hết các lĩnh vực trong cuộc sống gia đình. Bác Hồ thể hiện sự đánh giá cao về
người phụ nữ Việt Nam của Người, trong đó có sự ghi nhận sâu sắc những đóng góp
trong cuộc sống gia đình, đó là sự tần tảo đảm đang, là sự trung hậu, là một nửa của
thế giới xứng với tám chữ vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Tuy
nhiên do tàn dư của tư tưởng phong kiến, người phụ nữ trong gia đình ngay cả ở thời
điểm hiện nay cũng đôi khi bị coi thường. Không ít cảnh bất bình đẳng khi người phụ
nữ vừa phải gánh vác công việc xã hội, vừa phải toan lo việc gia đình. Đã thế nhiều
người cịn phải chịu cảnh bị bạo hành do có những người chồng vũ phu, cư xử thiếu
văn hóa cũng là vấn đề nhức nhối và cần khắc phục. C. Mác nói rằng: "Ai biết lịch sử
thì biết rằng, muốn sửa sang xã hội khơng có phụ nữ giúp vào thì chắc khơng làm nổi.
Xem tư tưởng và việc làm của đàn bà con gái thì biết xã hội tiến bộ như thế nào?"1
Như vậy, ta có thể nói rằng gia đình văn hóa là sự kế thừa văn hóa gia đình
truyền thống được nâng cao lên thành giá trị gia đình văn hóa hiện đại - gia đình xã
hội chủ nghĩa – gia đình phát triển về mặt vật chất và tinh thần thể hiện qua nề nếp kỉ
cương, thuận hòa, êm ấm, yêu thường và có trách nhiệm đối với nhau giữa các thành
viên trong gia đình. Sự tồn tại và phát triển của nó là kết quả của sự nhận thức quy luật
khách quan về điều kiện phát triển cộng đồng và xã hội trong sự nghiệp cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.1.2 Những quan điểm của Đảng ta về gia đình văn hố
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về gia đình, với tư cách là một tế
bào xã hội, gia đình khơng chỉ bó hẹp ở phạm vi của những mối quan hệ ruột thịt, rộng
hơn đó cịn là tình cảm dân tộc, đồng loại. Để kế thừa, vận dụng và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh về gia đình và xây dựng gia đình văn hố, Đảng ta cũng có nhiều chủ
trương, chính sách nhằm đề cao vai trị của gia đình và nâng cao chất lượng xây dựng
gia đình văn hố.
2.1.2.1 Chủ trương của Đảng và nhà nước về gia đình văn hố
Tinh thần quan tâm đến gia đình và xây dựng gia đình văn hố của Đảng và Nhà
nước ta mang tính chất nhất quán và rất rõ ràng. Khảo lược qua các quan điểm của
Đảng về xây dựng gia đình văn hóa thơng qua các kỳ đại hội, chúng ta thấy được rằng
Đảng ta ngày càng bổ sung và hoàn thiện hơn về nội dung và tiêu chí của việc xây
dựng gia đình văn hóa sao cho phù hợp trong từng thời kỳ.
Tại Đại hội Đảng lần VI, Đảng ta đã đưa khái niệm “Gia đình văn hóa” với
những nội dung cơ bản: “Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng cần đề ra
phương hướng, chính sách và có biện pháp tổ chức thực hiện về xây dựng gia đình
1
Phạm Thị Nhung _ 15/3/2012, Tư tưởng và tình cảm của Bác Hồ với phụ nữ, tạp chí Xây dựng Đảng
văn hóa mới, bảo đảm hạnh phúc, nâng cao trình độ tự giác xây dựng những quan hệ
tình cảm, đạo đức trong từng gia đình, bảo đảm sinh đẻ có kế hoạch và nuôi dạy con
ngoan, tổ chức tốt cuộc sống vật chất, văn hóa của gia đình” 1. Chủ trương “xây dựng
gia đình mới” lại được nhấn mạnh tại Đại hội VII của Đảng. Trong văn kiện Đại hội
VII của Đảng khẳng định: “Xây dựng gia đình văn hố có ý nghĩa rất quan trọng
trong tình hình hiện nay, góp phần phát triển lực lượng sản xuất, ổn định và cải thiện
đời sống, thực hiện kế hoạch hóa dân số, giữ gìn và phát huy những truyền thống đạo
đức, văn hoá tốt đẹp của dân tộc. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối với với
mọi lớp người. Kết hợp và phát huy vai trò của xã hội, các đoàn thể, nhà trường, tập
thể lao động và tập thể dân cư trong việc chăm lo bồi dưỡng tình đồng chí, đồng đội,
hình thành nhân cách cao đẹp và nếp sống có văn hố” 2.Ở Đại hội VIII, Đảng ta chú
trọng tới việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Giữa nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và gia đình văn hóa có mối quan hệ
biện chứng của cái chung và cái riêng. Ở Đại hội này, Đảng ta có bước nhận thức mới
về gia đình văn hóa đó là đưa ra các tiêu chí “no ấm, bình đẳng tiến bộ và hạnh phúc”.
Đó chính là: “Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc; Làm cho
gia đình thực sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là tổ ấm của mỗi người. Phát huy
trách nhiệm của gia đình trong việc lưu truyền những giá trị văn hoá dân tộc từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Thực hiện tốt luật hơn nhân và gia đình”. 3
Trong văn kiện Hội nghị lần thứ V, Ban chấp hành Trung ương khoá VIII về xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đảng ta đã
nêu rõ: “Giữ gìn và phát huy những đạo lý tốt của gia đình Việt Nam. Nêu cao vai trị
gương mẫu của các bậc cha mẹ. Coi trọng xây dựng gia đình văn hố. Xây dựng mối
quan hệ khăng khít giữa gia đình, nhà trường và xã hội” 4.
Với sự cố gắng lớn vào năm 2000, Nhà nước ta đã xây dựng Luật Hơn nhân và
Gia đình mới. Luật Hơn nhân và Gia đình mới được ban hành, có thể nói nó là văn bản
pháp luật phù hợp với điều kiện mới của gia đình trong nền kinh tế nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng từ điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, luật đã
lưu ý đến yếu tố bền vững của gia đình và do vậy, tiêu chí của gia đình văn hố Việt
Nam là: “khơng chỉ ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc mà còn bền vững”5.
Bước vào thế kỷ XXI, Đại hội Đảng lần IX được tiến hành, Đại hội lần này cho
thấy sự tiến bộ của Đảng khi lần nữa khẳng định gia đình khơng chỉ là tế bào của xã
hội mà còn là tổ ấm của mỗi người, xây dựng gia đình văn hố gắn với xây dựng xã
1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội
2
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội
3
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội
4
Văn kiện Hội nghị lần thứ V, Ban chấp hành Trung ương khoá VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam
(1998), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
5
Luật Hơn nhân và Gia đình (2000), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
22
hội văn hoá. Trong văn kiện Đại hội, Đảng ta đã chỉ rõ: “Nêu cao trách nhiệm của gia
đình trong việc xây dựng và bồi dưỡng các thành viên của mình có lối sống văn hố,
làm cho gia đình thực sự là tổ ấm của mỗi người và là tế bào lành mạnh của xã hội ”1.
Đẩy mạnh phong trào: “Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hố; Ngăn chặn
việc phục hồi các hủ tục, khắc phục tình trạng mê tín đang có xu hướng lan rộng”1.
Pháp lệnh dân số (năm 2003), Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 47-NQ TW (2005) về tiếp
tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Theo đó, Ban Bí
thư nêu ra mục tiêu xây dựng gia đình trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với
tiêu chí: ít con (từ 1 đến 2 con), no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc trong Chỉ thị 49CT/TW (năm 2005)
Một lần nữa, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng và Nhà nước đánh
giá cao vai trị của gia đình trong đời sống xã hội, coi gia đình là tế bào của xã hội, là
nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam, Đảng ta
chủ trương: “Xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm
của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành
ni dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền
thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” 2.
Đến Đại hội XI, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng gia đình, thật sự là tế bào lành mạnh
của xã hội, là môi trường quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân
cách”3.
Nên trong Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng với mục tiêu
khơng ngừng đề cao vai trị của gia đình đối với sự phát triển của xã hội, của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đã tiếp tục nhấn mạnh việc xây dựng, phát triển gia
đình Việt Nam trong điều kiện mới với những nội dung cơ bản sau: Một là, xây dựng
gia đình Việt Nam theo mơ hình: “no ấm, tiến bộ, hạnh phúc”. So với các kì Đại hội
Đảng khóa trước, mơ hình gia đình mà chúng ta cần xây dựng trong thời kỳ mới được
Đảng ta diễn đạt khái quát ngắn gọn, súc tích hơn. Phù hợp mong muốn, khát khao của
tất cả mọi người Việt Nam và với xu hướng phát triển tiến bộ của nhân loại. Hai là,
xây dựng gia đình “thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội”, gia đình là cơ sở, điều
kiện, nội dung, động lực và mục tiêu của phát triển bền vững. Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng chỉ rõ rằng, “nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình
càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì
muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt”4. Xây dựng để gia
đình thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội là điểm mới cần lưu ý ở đây. Có như vậy
gia đình mới thật sự là cơ sở, điều kiện, nội dung, động lực, mục tiêu của phát triển
1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội
2
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Chính trị quốc gia,
Hà Nội
3
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội
4
Hồ Chí Minh (1980): Toàn tập, tập 12, Nxb. Sự thật, Hà Nội
bền vững và của tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ba là, gia đình là “mơi trường
quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách con người”1, là nơi
chăm sóc, giáo dục và bảo vệ quyền trẻ em. Đây là việc khẳng định chức năng giáo
dục của gia đình, một chức năng cơ bản, quan trọng và khơng thể thay thế trong việc
hình thành, nuôi dưỡng và phát triển nhân cách cá nhân. Gia đình có nhiệm vụ tạo nên
nền tảng nhân cách cá nhân để góp phần cùng với nhà trường và xã hội xây dựng
những thế hệ con người Việt Nam mới “giàu lịng u nước, có ý thức làm chủ, trách
nhiệm cơng dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có
tinh thần quốc tế chân chính”1. Bốn là, thực hiện bình đẳng giới, sự tiến bộ của phụ
nữ. Nam và nữ phải được gia đình, xã hội đối xử như nhau về mặt cơ hội, điều kiện để
phát huy khả năng trong phát triển cũng như thụ hưởng thành quả từ sự phát triển đó.
Gia đình phải đem lại no ấm, tiến bộ, hạnh phúc cho mỗi thành viên của mình, trong
đó cần chú ý đến phụ nữ vì phụ nữ đã và đang chịu nhiều thiệt thịi về các phương
diện. Thực hiện bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ là một tiến trình quan trọng để
tiến lên xã hội hiện đại mới -xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin cũng có nói: “Đảng cách
mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách
mệnh mới gọi là thành công” 2. Mặt khác, đây cũng là một trong những “Mục tiêu
thiên niên kỷ” mà Việt Nam đã cam kết thực hiện với tư cách một thành viên tích cực,
có trách nhiệm của Liên Hợp Quốc. Năm là, gia đình có vai trị “giữ gìn, phát triển
những giá trị truyền thống của văn hóa, con người Việt Nam”1. Văn hóa dân tộc, bản
sắc dân tộc là nguồn sức mạnh to lớn của quốc gia, dân tộc, là mục tiêu và động lực
của phát triển. Bản sắc văn hóa dân tộc chỉ được lưu giữ, trao truyền và phát triển một
cách hiệu quả thông qua môi trường gia đình. Gia đình thơng qua chức năng này
truyền đến mỗi cá nhân, nhất là thế hệ trẻ thấm đượm tinh thần dân tộc, lòng tự hào
dân tộc và tự nhận thức được vai trị, trách nhiệm của mình đối với gia đình, quê
hương, đất nước.
Cuối cùng là gần đây nhất trong, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục
khẳng định, tiếp tục chỉ rõ phương hướng cần hoàn thành và phát huy trong thời gian
tới: “tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ thống giá trị quốc gia,
hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực đạo dức con người với giữ gìn,
phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kì mới. Quan tâm chăm lo cơng tác
giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng”3.
Tóm lại, những nội dung quan điểm về xây dựng phát triển gia đình trong Văn
kiện các kì Đại hội của Đảng là toàn diện và sâu sắc, vừa mang tầm định hướng chiến
lược lâu dài, vừa là phương hướng, giải pháp có tính cụ thể, trước mắt; vừa đáp ứng
yêu cầu mới của tiến trình phát triển đất nước vừa thể hiện việc thực thi có trách
nhiệm
1
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội
2
Phạm Thị Nhung _ 15/3/2012, Tư tưởng và tình cảm của Bác Hồ với phụ nữ, tạp chí Xây dựng Đảng
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, năm 2021, Nxb Chính trị quốc gia Sự
thật, Hà Nội
3