Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tài liệu Tiểu luận" Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.89 KB, 12 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài " Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp
Nhà nước"
SV: TrÇn ThÞ HuyÒn Trang
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC 2
1. Khái niệm Cổ phần hoá 2
1.1. Phân biệt cổ phần hoá và tư nhân hoá 2
1.2. Công ty Cổ phần 2
2. Sự cần thiết phải Cổ phần hoá 1 bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước 3
2.1. Cổ phần hoá là xu hướng chung ở nhiều nước 3
2.2. Xuất phát từ thực trạng hoạt động kém hiệu quả ở doanh nghiệp
Nhà nước 4
2.3. Xuất phát từ sự thay đổi nhận thức về vai trò chủ đạo ở kinh tế Nhà
nước 5
2.4. Cổ phần hoá là sự lựa chọn ở các doanh nghiệp Nhà nước 5
a. Chế độ Cổ phần hoá là sản phẩm tất yếu ở xã hội hoá sản xuất kinh
tế thị trường 6
b. Doanh nghiệp Nhà nước áp dụng chế độ Cổ phần hoá sẽ có lợi cho
giải phóng và sản xuất 5
II. THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM 6
1. Tiến trình Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta 6
2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế sau 10 năm Cổ
phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam 7
2.1. Thành Tựu 7
2.2. Hạn chế 8
2.3. Nguyên nhân của hạn chế 9
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CỔ PHẦN HOÁ MỘT
BỘ PHẬN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG THỜI GIAN TỚI 10


1. Phương hướng 10
2. Giải pháp 11
KẾT LUẬN 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO 14
SV: TrÇn ThÞ HuyÒn Trang
LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta trong tiến trình chuyển đổi kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp sang cơ chế thị trường thì sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu đã trở
thành đòi hỏi tất yếu và ngày càng phổ biến trong toàn xã hội. Thực tế cho
thấy rằng bên cạnh hình thức sở hữu Nhà nước, thì các hình thức sở hữu khác
(tư nhân hay hỗn hợp) nếu được tạo điều kiện tồn tại thuận lợi, cũng phát huy
vai trò tích cực trong đời sống kinh tế. Dựa trên cơ sở này các doanh nghiệp
Nhà nước Việt Nam với tư cách là nòng cốt chủ chốt ở nền kinh tế cũng đang
từng bước đổi mới và tìm hướng đi biện pháp kinh doanh phù hợp đã tìm ra
giải pháp thích hợp là Cổ phần hoá, thành tựu ở công cuộc đổi mới nước ta
đạt được những năm gần đây đã chứng tỏ hướng đẩy mạnh " Cổ phần hoá một
bộ phận doanh nghiệp Nhà nước" là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp vơi quy
luật phát triển kinh tế.
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HOÁ DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm cổ phần hoá
1.1. Phân biệt Cổ phần hoá và tư nhân hoá
Khi xem xét vấn đề Cổ phần hoá, trước hết cần phân biệt Cổ phần hoá và tư
nhân hoá, đó là hai khái niệm riêng rẽ.
Tư nhân hoá theo nghĩa rộng (định nghĩa của Liên Hợp Quốc) "là sự biến đổi
tương quan giữa Nhà nước và thị trường trong đời sống kinh tế của một nước
theo hướng ưu tiên thị trường".
Theo nghĩa hẹp tư nhân hoá là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu từ Nhà
nước -> tư nhân đồng thời chuyển các lĩnh vực kinh doanh sản xuất từ Nhà
nước độc quyền sang cho tư nhân đảm nhiệm theo nguyên tắc thị trường

SV: TrÇn ThÞ HuyÒn Trang
(cung cầu, chiến tranh….). Như vậy mặc nhiên Cổ phần hoá chỉ là một trong
nhiều cách để tư nhân hoá một phần tài sản của Doanh nghiệp Nhà nước. Cổ
phần hoá là một khái niệm hẹp hơn tư nhân hoá.
Vậy về hình thức: Cổ phần hoá là việc Nhà nước bán một phần và toàn bộ giá
trị cổ phần hoá của mình trong các xí nghiệp cho các đối tượng tổ chức và tư
nhân trong và ngoài nước hoặc cho các bộ quản lý, công xưởng của xí nghiệp
bằng đấu giá công khai và thông qua thị trường chứng khoán để thành công ty
TNHH và công ty cổ phần.
Về thực chất: Cổ phần hoá là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu, của
hình thức kinh doanh một chủ với sở hữu Nhà nước trong doanh nghiệp thành
công ty cổ phần, với nhiều chủ sở hữu để tạo mô hình doanh nghiệp phù hợp
với nền kinh tế thị trường, đầu tư, yêu cầu của nền kinh doanh hiện đại.
1.2. Công ty cổ phần
Sau khi Cổ phần hoá, các doanh nghiệp sẽ trở thành các công ty cổ phần đó là
một loại doanh nghiệp trong đó các thành viên chỉ chịu trách nhiệm nợ và các
nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn (tức là số cổ
phần) của mình góp vào doanh nghiệp.
Công ty cổ phần có các đặc điểm
Về mặt pháp lý: Công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp
nhân mà vốn kinh doanh do nhiều người đóng góp dưới hình thức cổ phần.
Các cổ đông trong công ty chỉ có TNHH đối với phần vốn góp của mình. Nhờ
đặc điểm này mà công ty là một hình thức pháp lý đầy đủ, thuận lợi để kinh
doanh
2. Sự cần thiết phải Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước
2.1. Cổ phần hoá là xu hướng chung ở nhiều nước
Trong những năm 1980, quá trình chuyển đổi sở hữu Nhà nước đã trở thành
hiện tượng kinh tế chủ yếu trên toàn thế giới. Chỉ tính từ năm 1984 - 1991,
trên thế giới đã có 250 tỷ USD tài sản Nhà nước đem bán và chỉ tính riêng
1991 đã chiếm 50 tỷ USD. Làn sóng Cổ phần hoá được khởi đầu từ Vương

quốc Anh cuối những năm 1970 với hàng chục xí nghiệp quốc doanh được Cổ
phần hoá đến 1991 Nhà nước thu được 34 tỷ bảng. Sau đó quá trình này đã
lần lượt chuyển ra ở tất cả các nước công nghiệp phát triển với nhiều hình
thức phong phú trong đó Cổ phần hoá được lựa chọn nhiều nhất và trở thành
hiện tượng phổ biến. Sau đó các nước đang phát triển cũng gia nhập vào xu
hướng Cổ phần hoá đang diễn ra phổ biến trên thế giới này và đến nay có trên
80 đang Cổ phần hoá 1 cách tích cực.
Trung Quốc cũng là một quốc gia đi từ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhưng khi
ở sang nền kinh tế thị trường Trung Quốc cũng đã chọn giải pháp Cổ phần
hoá những thành tựu mà Trung Quốc đã và đang đạt được thoát khỏi tình
trạng nghèo nàn lạc hậu, phát triển kinh tế vững mạnh và hiện đại.
Việc Doanh nghiệp Nhà nước nước ta Cổ phần hoá chứng tỏ đang hội nhập
cùng với nền kinh tế thế giới và Cổ phần hoá là một đòi hỏi khách quan khi
SV: TrÇn ThÞ HuyÒn Trang
Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước và
vẫn theo con đường xã hội chủ nghĩa.
2.2. Xuất phát từ thực trạng hoạt động kém hiệu quả của Doanh nghiệp Nhà
nước
Các Doanh nghiệp Nhà nước đựơc hình thành trong cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp kéo dài hàng chục năm, trên cơ sở nguồn vốn cấp phát của ngân
sách Nhà nước và do đó tất cả hoạt động đều chịu sự kiểm soát và chi phối
trực tiếp của Nhà nước. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, thì cả một
khu vực kinh tế Nhà nước đồ sộ, cồng kềnh bộc lộ tất cả những yếu kém về
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chấp vá, không
đồng bộ và xơ cứng trong việc thích ứng với cơ chế mới.
Các Doanh nghiệp Nhà nước từ lâu đã không được đặt trong môi trường cạnh
tranh, do đó chậm đổi mới công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm. Chế
độ bao cấp bù lỗ tràn lan làm cho hạch toán kinh tế trong các doanh nghiệp
Nhà nước chỉ là giả tạo, sản xuất không tính chi phí, như hiện tượng lãi giả, lỗ
thật lại hết sức phổ biến. Có thể kể ra một số dữ liệu: trong số 12.084 có sở

quốc doanh thì có tới 4.584 đơn vị sản xuất kinh doanh thua lỗ, chiếm trên
30% tổng số các doanh nghiệp Nhà nước. Trong đó quốc doanh trung ương
có 501 cơ sở thua lỗ = 29,6% số cơ sở do trung ương quản lý, quốc doanh địa
phương có 4.083 thua lỗ = 39,9% số đơn vị do địa phương quản lý và với việc
bù giá, bù lương, bù chênh lệch ngoại thương và hàng loạt khoản bao cấp
chuyển Nhà nước khác cho các doanh nghiệp Nhà nước làm cho gánh nặng
tài chính và khoản vay nợ chuyển Nhà nước ngày càng nặng nề trầm trọng,
trong khoảng 85-90 tỷ lệ thiếu hụt ngân sách là > 30%.
Tổ chức bộ máy trong các doanh nghiệp Nhà nước không phù hợp do quan
niệm về sở hữu trong doanh nghiệp không rõ ràng, không có sự phân biệt đầy
đủ quyền sở hữu Nhà nước và quyền kinh doanh.
Việc phân phối về tính chất không dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao
động mà mang nặng tính bình quân không kích thích người quản lý và công
nhân trong các Doanh nghiệp Nhà nước nâng cao hiệuq ủa công tác và năng
suất lao động. Ngoài ra đội ngũ cán bộ với kiến thức và trình độ quản lý
không phù hợp, thiếu năng động.
Như vậy tình trạng …. kém hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước làm cho
nền kinh tế không thể phát triển được, chế độ quan liêu bao cấp kìm hãm sự
phát triển lực lượng sản xuất, đẩy nền kinh tế vào khủng hoảng. Do đó khi ở
sang nền kinh tế thị trường, phát triển Nhà nước kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần thì việc Cổ phần hoá một bộ doanh nghiệp Nhà nước là cần thiết và cấp
thiết.
2.3. Xuất phát từ sự thay đổi nhận thức về vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà
nước
SV: TrÇn ThÞ HuyÒn Trang
Hội nghị Trung ương lần thức VI tháng 3/1989 đã nêu rõ vai trò chủ đạo của
kinh tế Nhà nước không phải có mặt với tỷ trọng lớn ở tất cả mọi ngành mà
chỉ chiếm giữa những vị trí then chốt trong nền kinh tế giải pháp được đặt ra
để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đưa ra
là: tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước trong những

lĩnh vực doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện tốt chủ trương Cổ phần hoá và đa
dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần n/giữ
100% vốn.
2.4. Cổ phần hoá là sự lựa chọn tốt nhất của các Doanh nghiệp
a. Chế độ Cổ phần là sản phẩm tất yếu của xã hội hoá sản xuất và của nền
kinh tế thị trường. Là một hình thức quyền TS, chế độ cổ phần là biểu hiện
hình thức vận hành ở góc độ quan hệ sản xuất của sự xã hội hoá sản xuất, theo
cách nói của Mác nó là "tư bản xã hội", tư bản tự nó vốn dựa trên phương
thức sản xuất xã hội và đòi hỏi phải có sự tập trung xã hội về tư liệu sản xuất
và sức lao động, ở đây trực tiếp mang hình thái tư bản xã hội (tư bản của
những cá nhân trực tiếp liên hiệp lại với nhau), Mac coi đó là "hình thái quá
độ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sang phương thức sản xuất tập
thể" là "sự phủ định", là hình thức phủ định cao nhất" đối với tư bản tư nhân.
b. Doanh nghiệp Nhà nước áp dụng chế độ cổ phần hoá sẽ có lợi cho giải
phóng và thuận lợi sản xuất được thể hiện
Phân định ranh giới rành mạch về quan hệ về quyền TS tức là quyền sở hữu
cuối cùng. Như vậy doanh nghiệp sẽ thực sự là sản xuất kinh doanh.
Thể hiện sự thống nhất về vai trò song trùng vừa là người lao động vừa là
người sở hữu. Khi đó quyền lợi của công nhân sẽ gắn chặt với vận mệnh của
công ty. Vì vậy giúp cho công nhân và công ty trở thành một khối vững chắc,
đoàn kết.
Tách quyền sở hữu ra khỏi quyền kinh tế. Nó cho phép chuyên môn hoá các
chức năng quản lý, sử dụng các nhà quản lý chuyên nghiệp, nâng cao sức
cạnh tranh của Doanh nghiệp đồng thời tạo cơ chế phân bổ rủi ro đặc thù.
Cổ phần hoá giúp cho việc khơi thông nguồn vốn xuyên khu vực kết hợp các
yếu tố sản xuất xuyên khu vực vì vậy mà gắn chặt việc xây dựng và mở rộng
thị trường vốn.
Ngoài ra Cổ phần hoá giúp ích cho việc mở của thị trường và thu hút nguồn
vốn nước ngoài.
Từ kinh nghiệm của nhiều nước và phân tích trên cho thấy Cổ phần hoá

Doanh nghiệp Nhà nước là quá trình phát triển tiến lên phù hợp với quy luật
của thời đại, có lợi cho việc phát triển lực lượng sản xuất xã hội hoá hiện đại
hoá phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Bởi vậy mà Cổ
phần hoá là bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta là cần thiết, tạo tiền
đề cho sự phát triển đất nước thành một trong những quốc gia có nền kinh tế
phát triển hiện đại.
II. THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HOÁ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM
SV: TrÇn ThÞ HuyÒn Trang
1. Tiến trình Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta
Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta trải qua một quy trình bốn
bước, được quy định theo Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 về
chuyển Doanh nghiệp Nhà nước -> Công ty cổ phần.
Bước 1: Chuẩn bị Cổ phần hoá. Danh mục Doanh nghiệp Nhà nước chuẩn bị
đưa ra Cổ phần hoá được chia làm 2 loại: loại có vốn 3 tỷ đồng Việt Nam,
loại có vốn > 3 tỷ Việt Nam đồng.
Các Doanh nghiệp Nhà nước thuộc danh mục này phải đảm bảo các điều kiện
sau đây:
Phải là đơn vị hạch toán phụ thuộc tính được giá thành trên cơ sở định mức
kinh tế - kỹ thuật và có báo cáo hoạt động kinh doanh sản xuất (ít nhất một
năm cuối) phải độc lập tương đối về tài sản, tiền vốn, công nghệ, tiêu thụ sản
phẩm và địa điểm làm việc.
Phải bảo đảm về điều kiện về vốn pháp định theo ngành nghề kinh doanh đối
với doanh nghiệp chính sau khi đã tách một bộ phạn để Cổ phần hoá.
Bước 2: Xây dựng phương án Cổ phần hoá. Trong bước này Bộ Tài chính kết
hợp với Bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật UBND tỉnh hoặc các Hội đồng
Quản trị các tổng công ty hướng dẫn các doanh nghiệp các khâu. Ký hợp
đồng với cơ quan kiểm toán hợp pháp; xử lý những vấn đề tài chính vượt quá
quyền hạn của doanh nghiệp như nợ khó đòi, tài sản tổn thất thuộc mọi
nguyên nhân. Bộ Tài chính sẽ ban hành văn bản quyết định giá trị thực tế của

doanh nghiệp để Cổ phần hoá.
Bước 3: Duyệt và triển khai thực hiện phương án Cổ phần hoá. Trong bước
này, kho bạc Nhà nước sẽ bán tờ phiếu in sẵn để Công ty cổ phần phát hành
cho cổ đông đủ điều kiện nhận cổ phiếu, chậm nhất là 30 ngày kể từ khi kết
thúc thời hạn phát hành.
Bước 4: Công ty cổ phần đăng ký kinh doanh với sở kế hoạch và đầu tư cấp
tỉnh và làm lễ ra mắt.
2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân hạn chế sau 10 năm Cổ phần hoá
Doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
2.1. Thành tựu
Thực hiện Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước từ 1992, đến nay đã 14 năm,
chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể.
Tính đến năm 1992 đến hết năm 2005 đã Cổ phần hoá được 2900 Doanh
nghiệp Nhà nước. Đại đa số Doanh nghiệp Cổ phần hoá 87% đều cho rằng kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính được cải thiện đáng
kể so với trước đổi khi còn là Doanh nghiệp Nhà nước. Các chỉ tiêu như
doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng, thu nhập người lao động…đều tăng với
các số liệu. Tính bình quân doanh thu tăng 13,4%/năm, lợi nhuận trước thuế
tăng trên 9,4%/năm, năng suất lao động tăng 18,3%/năm, đầu tư tài sản cố
định tăng 18,3%/năm, lương bình quân tăng 11,4%/năm, giá trị tuyệt đối
phần vốn Nhà nước tại các công ty cổ phần không những được đảm bảo mà
còn tăng thêm 46,3%.
SV: TrÇn ThÞ HuyÒn Trang
Việc Cổ phần hoá không những đã thu hút nhiều vốn từ xã hội mà còn tạo
điều kiện đổi mới công nghệ, tương đối tổ chức quản lý, nâng cao hiệu quả
hoạt động của các công ty cổ phần. Sau Cổ phần hoá, tổ chức và điều hành ở
công ty cổ phần đã nhận được những tác động tích cực có sự tách biệt rõ chủ
doanh nghiệp với Doanh nghiệp, giữa sở hữu và điều hành hoạt động kinh
doanh giữa điều hành và kiểm tra kiểm soát. Tổ chức của công ty được bố trí
hợp lý và tính giản giản hơn. Người lao động trở thành cổ đông nền quyền lợi

ở họ đối với công ty vừa là người chủ vừa là người lao động. Theo số liệu thì
> 90% Doanh nghiệp được hỏi đều khẳng định tính tự chủ trong điều hành
quản lý, tinh thần trách nhiệm của cán bộ quản lý, ý thức làm việc của người
lao động.
2.2. Hạn chế
Bên cạnh nhữn thành tựu đạt được thì việc Cổ phần hoá cũng có những hạn
chế.
Tốc độ tiến hành Cổ phần hoá hoá còn chậm. Tốc độ và quy mô tiến hành Cổ
phần hoá không đồng đều giữa các ngành và các địa phương. Các mục tiêu
Cổ phần hoá chưa đạt được như mong muốn. Năm 2003 chỉ đạt 63% kế hoạch
Cổ phần hoá, 6 tháng đầu năm 2004 đạt 20% mục tiêu đề ra.
Mục tiêu là huy động vốn của toàn xã hội để phát triển Doanh nghiệp nhưng
vẫn chưa thu hút được đông đảo các nhà đầu tư. Trong số các Doanh nghiệp
đã Cổ phần hoá có khoảng 40%, số Doanh nghiệp không có cổ đông là người
ngoài Doanh nghiệp. Tính bình quân chỉ có 8% cổ đông ngoài Doanh nghiệp.
Cán bộ công nhân viên chức ở doanh nghiệp chiếm 54%, Nhà nước chiếm
38%.
Thực chất vẫn là Cổ phần hoá khép kín, chưa thu hút được các nhà đầu tư
chiến lược. Cổ phần hoá còn mang tính chất chia phần hoá, chưa thay đổi
được cơ bản phương thức quản trị, điều hành doanh nghiệp.
Số lượng doanh nghiệp có vốn Nhà nước dưới 10% được Cổ phần hoá năm
2003 tới 84% phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước Cổ phần hoá đều có quy
mô nhỏ.
Tình hình Doanh nghiệp sau Cổ phần hoá còn gặp vướng mắc về tư cách pháp
nhân trong vấn đề vay vốn, cơ chế quản lý đối với Doanh nghiệp vẫn không
thực sự được cải thiện, 2 cơ chế phân phối lợi ích vẫn còn phụ thuộc vào
quyết định của công ty cổ phần, vai trò của Nhà nước và các đoàn thể bị
buông lỏng. Việc định giá Doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều
Doanh nghiệp sau khi Cổ phần hoá chưa niêm yết cổ phiếu trên các trung tâm
giao dịch chứng khoán.

2.3. Nguyên nhân và hạn chế
Nguyên nhân của những hạn chế đã được nêu ra ở trên nước ta tiến hành Cổ
phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế đang trong thời
kỳ quá độ từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, trong quá trình chuyển đổi từ kinh
tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy, các cơ quan quản lý còn ít nhiều lúng túng trong quá trình điều
SV: TrÇn ThÞ HuyÒn Trang
hành vĩ mô nền kinh tế. Trình độ xã hội hoá còn thật chín muồi. Các loại thị
trường còn chưa phát triển đồng bộ.
Trình độ dân trí và yếu tố xã hội cũng là nhân tố khách quan làm cản trở tiến
trình Cổ phần hoá.
Sự thận trọng và hoài nghi của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Vì họ
chưa thực sự yên tâm với các cơ chế chính sách, chưa tin tưởng vào khả năng
phát triển của các Doanh nghiệp Nhà nước khi Cổ phần hoá.
Công tác tuyên truyền phổ biến cơ chế chính sách về Cổ phần hoá Doanh
nghiệp Nhà nước làm chưa tốt dẫn đến trình độ nhận thức của Doanh nghiệp
Nhà nước, cơ quan chủ quản, cá nhân người lao động chưa sâu.
Các nhà quản lý và lãnh đạo các Doanh nghiệp tạo ra lực cản cho quá trình
Cổ phần hoá. Thói quen dựa dẫn vào cơ chế bao cấp của Nhà nước đã ăn sâu
vào tiềm thức của nhiều người. Không ít cán bộ sợ ảnh hưởng đến quyền lợi
của mình, đã khiến họ ngại có sự thay đổi, xáo trộn và thay đổi trong công
việc.
Chế độ chính sách đối với Doanh nghiệp và người lao động và Doanh nghiệp
trong các Doanh nghiệp Cổ phần hoá chậm được ban hành và chưa đủ sức
hấp dẫn, chưa thoả đáng. Cơ chế chính sách chưa phù hợp. Các văn bản pháp
lý vừa thiếu vừa chồng chéo.
Như vậy qua 14 năm Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước, mặc dù đã đạt
những thành tựu hết sức khả quan nhưng bên cạnh đó vẫn còn nhiều hạn chế,
vướng mắc cản trở việc Cổ phần hoá, cản trở tiến trình phát triển kinh tế của
đất nước. Qua việc đưa ra những nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế ở

trên, một số giải pháp xin được nêu ra ở dưới đây để đẩy nhanh mạnh và sâu
hơn nữa việc Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước để góp phần đưa đất nền
nước ta phát triển hơn, hội nhập nhanh hơn vào nền kinh tế của thế giới, nhất
là trong bối cảnh hiện nay khi nước ta đang chuẩn bị gia nhập WTO.
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CỔ PHẦN
HOÁ MỘT BỘ PHẬN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TRONG THỜI
GIAN TỚI
1. Phương hướng
Trong thời gian tiếp theo, việc đẩy nhanh Cổ phần hoá một bộ phận Doanh
nghiệp Nhà nước vẫn tuân theo mục tiêu của việc chuyển Doanh nghiệp Nhà
nước -> Công ty cổ phần (đựơc quy định trong Nghị định số 64/2002/NĐ-CP
của Chính phủ) đó là .
Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của Doanh nghiệp, ra
loại hình Doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao
động tạo ra động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho Doanh
nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản ở doanh nghiệp và Nhà nước.
Huy động vốn của của toàn xã hội bao gồm: cá nhân, tổ chức kinh tế tổ chức
xã hội trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh
nghiệp.
SV: TrÇn ThÞ HuyÒn Trang
Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông, tăng
cường sự giám sát của nhà đầu tư với Doanh nghiệp, bảo đảm hài hoà lợi ích
ở Nhà nước, Doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động.
Phương hướng năm 2006, Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển Doanh nghiệp
Trung ương có kế hoạch: sắp xếp 900 Doanh nghiệp trong đó khoảng 600
Doanh nghiệp sẽ thực hiện Cổ phần hoá theo hướng thu hẹp tối đa diện Nhà
nước độc quyền, xoá bỏ độc quyền Doanh nghiệp. Và đến cuối năm 2006 cả
nước có 1800 Doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn, 900 Doanh nghiệp Nhà
nước đã chi phối, có khoảng 500 Doanh nghiệp cổ phần mới thành lập có vốn
đầu tư của Nhà nước 8 tập đoàn và 93 tổng công ty Nhà nước.

Trong thời gian tới phương hướng của Cổ phần hoá (ý kiến của Phó Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng) đó là tiếp tục mở rộng diễn Cổ phần hoá Doanh
nghiệp kể cả tổng công ty Nhà nước. Nhà nước chỉ giữ cổ phần chi phối trong
các Tổng công ty, công ty cổ phần hoạt động trong những ngành, những lĩnh
vực bảo đảm diễn tiết vĩ mô và những cân đối lớn trong nền kinh tế, chỉ giữ
100% vốn ở các doanh nghiệp hoạt động bảo đảm an ninh, quốc phòng, sản
xuất, cung ứng dịch vụ công ích thiết yếu mà chưa được cổ phần hoá.
2. Giải pháp
Để thực hiện được các phương hướng đề ra đẩy mạnh Cổ phần hoá một bộ
phận Doanh nghiệp một số biện pháp đưa ra là:
Nâng cao hơn nữa nhận thức của cán bộ Đảng viên về sự cần thiết Cổ phần
hoá Doanh nghiệp Nhà nước và vai trò quyết định của chủ sở hữu. Cổ phần
hoá với những kết quả thực tiễn được khẳng định là đúng đắn là giải pháp cơ
bản để tái cơ cấu và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp Nhà nước, đẩy nhanh
tăng trưởng kinh tế, góp phần tích cực vào cải cách hành chính và đấu tranh
chống tham nhũng.
Kiên quyết bằng các phương thức thị trường thực hiện xác định giá Doanh
nghiệp và bán cổ phần, khắc phục cho được việc bán cổ phần khép kín trong
nội bộ doanh nghiệp và thất thoát tài sản Nhà nước. Thực hiện lành mạnh hoá
tài chính ở các công ty Nhà nước trước khi chuyển sang công ty cổ phần, phát
triển thị trường chứng khoán.
Tăng cường chỉ đạo Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước. Tập trung chỉ đạo,
kiên quyết thực hiện Cổ phần hoá các Doanh nghiệp thuộc diện Cổ phần hoá.
Gắn trách nhiệm hành chính của người lãnh đạo các Bộ, Ngành địa phương,
lãnh đạo Doanh nghiệp với kết quả sắp xếp và Cổ phần hoá ở đơn vị mình
theo lộ trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Cơ chế, chính sách đối với Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước được sửa
đổi bổ sung một bước cơ bản nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm
ở Doanh nghiệp và bình đẳng với các Doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế
khác trong cơ chế thị trường, tạo khung pháp lý đồng bộ cho việc sắp xếp

nhất là Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước.
Phải hình thành các Doanh nghiệp lớn, các tập đoàn kinh tế lớn, đa… nòng
cốt là sở hữu Nhà nước. Thực hiện đúng nguyên tắc thị trường trong việc Cổ
SV: TrÇn ThÞ HuyÒn Trang
phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước không nên nhập những Doanh nghiệp Nhà
nước đang thua lỗ, trong tình trạng phá sản vào Doanh nghiệp mạnh, tạo gánh
nặng cho các Doanh nghiệp này, không nên áp dụng các hình thức Công ty
TNHH một thành viên là Nhà nước đối với những Doanh nghiệp thuộc diện
Cổ phần hoá, không nên Cổ phần hoá những Doanh nghiệp đang thua lỗ mà
chưa có phương án kinh doanh mới.
Việc tiến hành nhanh chóng Cổ phần hoá các NHTM Nhà nước đang là một
mắt xích quan trọng đẩy nhanh tốc độ Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước.
Việc NHTM mạnh dạn chủ động tài trợ vốn cho các doanh nghiệp đã hoàn tất
Cổ phần hoá, kiên quyết không tài trợ vốn cho những Doanh nghiệp không có
sự tích cực chủ động trong quá trình Cổ phần hoá là cú "huých" mạnh vừa gây
áp lực vừa tạo động lực thúc đẩy tiến trính Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà
nước nhanh hơn và mạnh hơn.

KẾT LUẬN
Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp Nhà nước dã và đang diễn ra ở nước
ta như là một sự tất yếu khách quan. Cổ phần hoá mặc dù không phải là hình
thức duy nhất nhưng đó là lựa chọn tốt nhất trong quá trình nước ta chuyển
đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Và thực tế cũng
đã chứng minh cho sự lựa chọn đó bằng những thành tựu của Việt Nam cũng
như của các Doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá đã đạt được, trong thời
gian qua: nền kinh tế đã thoát khỏi tình trạng lạc hậu, tăng trưởng với tốc độ
đáng kinh ngạc và mặc dù vẫn còn nhiều hạn chế song nó đã góp phần quan
trọng vào quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam giàu mạnh hơn, hiện đại
hơn, bắt kịp với bạn bè trong khu vực và trên thế giới. Qua những phân tích
và giải pháp trong bài, hy vọng rằng một phần nào đó giúp được việc đẩy

mạnh Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước sẽ đựơc thực hiện
quyết tâm hơn với cách thức và bước đi thích hợp hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hệ thống văn bản hướng dẫn thực hiện Cổ phần hoá Doanh nghiệp và đổi
mới toàn diện Doanh nghiệp.
NXB Tài chính (Hà Nội 10/2003)
2. Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực
tiễn.
NXB KHXH (Hà Nội 1996)
3. Giáo trình Kinh tế chính trị
NXB Chính trị quốc gia (2004)
SV: TrÇn ThÞ HuyÒn Trang
4. Luật Doanh nghiệp 1999
5. Trang web
www acbs.com.vn
www vis.com.vn
www nscerd.org.vn
www uneconomy.com.vn
6. Các báo, tạp chí: Thị trường tài chính tiền tệ, Tài chính, phát triển kinh tế,
chứng khoán Việt Nam.
SV: TrÇn ThÞ HuyÒn Trang

×