Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Tài liệu Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.91 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Hướng tới Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, còn gọi là Mục tiêu
Thiên niên kỷ là 8 mục tiêu được 189 quốc gia thành viên Liên hợp quốc nhất
trí phấn đấu đạt được vào năm 2015.
Những mục tiêu này ( gọi tắt là MDGs từ tiếng Anh: Millennium
Development Goals ) được ghi trong bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của Liên
hợp quốc tại Hội nghị thượng đỉnh Thiên niên kỷ diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8
tháng 9 năm 2000 tại trụ sở Đại hội đồng Liên hợp quốc ở New York, Mỹ.
Trước đó, năm 1996, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OCED) đã đi
tiên phong trong việc đưa ra các Mục tiêu Phát triển Quốc tế trong bản Báo cáo
Định hướng Thế kỷ 21 là tiền thân của Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ.
Tám mục tiêu và những chỉ tiêu cụ thể sau:
1- Xoá bỏ tình trạng nghèo cùng cực và thiếu đói
Không ai muốn bị đói và không ai thích nghèo cả. Hai vấn đề cơ bản này
chính là cốt lõi của tất cả các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, nhất là mục tiêu
phát triển thiên niên kỷ thứ nhất. Khi người ta không có đủ cái ăn hoặc tiền để
sống, thì mọi thứ khác trong cuộc sống đều bị ảnh hưởng: sức khoẻ, quan hệ và
sự tự do chọn lựa trong đời. Vì vậy, xoá nghèo đói là mục tiêu quan trọng nhất
của tất cả các nước, thậm chí ngay cả các nước phát triển.
Trong khoảng thời gian 1990-2015, giảm một nửa tỷ lệ người có thu nhập
(tính theo sức mua tương đương PPP năm 1993) dưới 1 USD một ngày.
Trong khoảng thời gian 1990-2015, giảm một nửa tỷ lệ người bị thiếu ăn.
Tạo việc làm thích hợp và hữu ích cho tất cả mọi người bao gồm cả phụ
nữ và thanh niên.
Mặc dù tỷ lệ nghèo trên thế giới đã giảm xuống kể từ năm 1990 đến nay,
song 1,2 tỷ người vẫn sống ở mức dưới 1 USD mỗi ngày.
Việt Nam đã đạt được mục tiêu giảm một nửa tỷ lệ nghèo với việc giảm tỷ
lệ người dân sống dưới chuẩn nghèo xuống còn 35% trong năm 2000. Việt Nam
cam kết giảm tỷ lệ nghèo thêm 40% cho đến năm 2010. Mặc dù Việt Nam đã đạt
được những thành tựu rất ấn tượng, song thách thức hiện giờ là làm sao thu hẹp
khoảng cách đang gia tăng và tiếp cận được các nhóm dân cư nghèo nhất ở từng


vùng của Việt Nam.
2- Đạt phổ cập giáo dục tiểu học
Một cách dễ dàng để xác định xem một quốc gia làm tốt đến mức nào là
tìm hiểu xem có bao nhiêu trẻ em nhập học tiểu học - và bao nhiêu em thực sự
học hết lớp năm để hoàn thành bậc tiểu học.
Đảm bảo rằng đến năm 2015, tất cả trẻ em, không phân biệt trai gái, đều
được hoàn tất giáo dục tiểu học
Theo kết quả nghiên cứu, càng học được nhiều bào nhiêu thì bạn càng có
thể có thu nhập cao bấy nhiêu trong tương lai, bạn càng có thể có nhiều sự lựa
chọn trong cuộc sống, bạn càng có thể chăm lo cho bản thân, cho gia đình và
những người mà bạn quan tâm. Mặc dù có những lợi ích hiển nhiên như thế,
song ở nhiều nước đang phát triển, tỷ lệ bỏ học còn cao và cơ hội tiếp cận giáo
dục tiểu học còn hạn chế.
Trên toàn thế giới hiện có 113 triệu trẻ em không đi học, nhưng có thể đạt
được mục tiêu này. Ví dụ, Việt Nam có nhiều khả năng hoàn thành mục tiêu phổ
cập giáo dục tiểu học cho đến năm 2015 vì tỷ lệ trẻ em đi học tiểu học đúng tuổi
trong năm 1999 đã đạt mức rất cao là 95%. Tuy nhiên, những thách thức lớn
hiện nay là nâng cao chất lượng giáo dục, mở rộng giáo dục cơ sở theo mục tiêu
quốc tế về phổ cập giáo dục tiểu học và giảm bớt mức độ chênh lệch về khả
năng và phạm vi tiếp cận với giáo dục tiểu học.
3- Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế, năng lực cho người
phụ nữ
Bạn hãy nghĩ xem lần cuối cùng bạn thấy bố của mình nấu ăn hoặc rửa
bát là lúc nào? Bạn đã bao giờ tự hỏi ai là người kiếm nhiều tiền nhất trong gia
đình mình - mẹ mình hay bố mình - và tại sao lại thế? Và nếu gia đình bạn có
đất đai , thì bạn có biết ai là ngườii đứng tên trong sổ đỏ không? Bạn có nghĩ vị
chủ tịch nước tới đây của Việt Nam sẽ là một phụ nữ không? Trả lời những câu
hỏi này sẽ gợi cho bạn thấy rằng Việt Nam còn phải làm rất nhiều mới có thể đạt
được bình đẳng giưũa phụ nữ và nam giới., và còn phải thay đổi những gì nữa
mới có thể đạt được mục tiêu thiên niên kỷ này. Trên thực tế, dù đã nỗ lực để

thực hiện bình đẳng nam nữ ở Việt Nam cũng như ở nhiều quốc gia khác trên
toàn thế giới song nhiều rào cản văn hoá, xã hội, kinh tế và chính trị vẫn tồn tại
khiến cho phụ nữ và nam giới chưa thể cùng thụ hưởng những lợi ích và quyền
lợi như nhau trong xã hội.
Xóa bỏ tình trạng chênh lệch về giới tính ở giáo dục tiểu học và trung học
cơ sở tốt nhất là vào năm 2005 và ở mọi cấp không chậm hơn năm 2015.
Hai phần ba số người mù chữ trên thế giới là phụ nữ. Việt Nam đã khẳng
định cam kết thực hiện MDG này bằng cách đặt ra mục tiêu xoá bỏ khoảng cách
về giới trong giáo dục ở cấp tiểu học và trung học cơ sở vào năm 2005 và tình
trạng mù chữ ở phụ nữ dưới độ tuổi 40 cho đến năm 2010. Tuy nhiên, 70% số
học sinh bỏ học ở cấp tiểu học là trẻ em gái, nguyên nhân chính là do các em
phải tham gia các hoạt động kinh tế của gia đình, và vẫn tồn tại chênh lệch giữa
các vùng miền.
4- Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em
Trẻ em là tương lai của Việt Nam. Song nếu không được chăm sóc sức
khoẻ thích hợp và thiếu chế độ dinh dưỡng hợp lý thì sẽ dẫn đến những nguy cơ
cho sự phát triển tương lai của trẻ. Vì lý do này nên giảm tỷ lệ tử vong trẻ em
dưới năm tuổi do bệnh tật hoặc do thiếu dịch vụ y tế là Mục tiêu Phát triển
Thiên niên kỷ thứ tư.
Giảm hai phần ba tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi trong giai đoạn 1990-
2015.
Thông tin có ý nghĩa sống còn đối với trẻ em và gia đình. Không biết cách
chăm sóc trẻ em hoặc phòng bệnh làm cho trẻ em có nguy cơ chết yểu. Điều
quan trọng đối với trẻ nhỏ là được cán bộ y tế có trình độ khám sức khoẻ thường
xuyên, và đối với cha mẹ là đưa con đến cơ sở y tế khi trẻ ốm đau để được khám
chữa bệnh. Một điều nữa cũng quan trọng là trẻ nhỏ cần được tiêm chủng để
phòng ngừa tất cả các bệnh như đã quy định trong chương trình tiêm chủng quốc
gia.
Trên toàn thế giới có 11 triệu trẻ nhỏ tử vong mỗi năm, như vậy đã giảm
so với con số 15 triệu năm 1980. Việt Nam đã thành công trong việc giảm tỷ lệ

tử vong của trẻ em dưới 5 tuổi từ khoảng 58/1000 ca sinh sống trong năm 1990
xuống còn khoảng 48/1000, nhưng để hoàn thành trọn vẹn mục tiêu giảm 2/3 tỷ
lệ này cho đến năm 2015, đòi hỏi phải có sự nỗ lực và hỗ trợ nhiều hơn nữa.
5- Tăng cường sức khoẻ bà mẹ
Khi nói đến vấn đề có con (hay không có con) thì các cặp vợ chồng càng
có nhiều thông tin bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Mục tiêu Phát triển Thiên niên
kỷ này nhằm đảm bảo phụ nữ và nam giới được chăm sóc sức khoẻ và có thông
tin mà họ cần, nhờ vậy họ có thể chăm sóc bản thân tốt hơn và nhận biết khi nào
mình có những vấn đề về sức khoẻ sinh sản cần được giúp đỡ.
Giảm ba phần tư tỷ lệ tử vong ở bà mẹ trong giai đoạn 1990-2015.
Đến năm 2015, phổ cập chăm sóc sức khỏe sinh sản
Trong 10 năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ giúp cho các cặp
vợ chồng phòng tránh thai ngoài kế hoạch. Song mức độ tiếp cận thông tin về
sinh sản và các biện pháp kế hoạch hoá gia đình của nhiều người vẫn còn hạn
chế, nhất là ở khu vực nông thôn và vùng dân tộc thiểu số. Và thanh niên chưa
kết hôn thường cảm thấy không thoải mái khi cần giúp đỡ và tư vấn về các vấn
đề giới tính, tình dục.
Ở các quốc gia đang phát triển, nguy cơ tử vong của bà mẹ khi sinh con là
1/48. Tuy nhiên, hầu như tất cả các quốc gia hiện nay đều có chương trình làm
mẹ an toàn và có triển vọng đạt được tiến bộ trong lĩnh vực này. Việt Nam đã
giảm tỷ lệ tử vong ở sản phụ từ 200/100.000 ca sinh sống trong năm 1990 xuống
còn 100/100.000 và đặt ra mục tiêu tiếp tục giảm xuống còn 70 cho đến năm
2010, trong đó sẽ quan tâm đặc biệt tới những vùng khó khăn.
6- Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh khác
Dù bệnh sốt rét hay lao vẫn là những vấn đề y tế quan trọng ở Việt Nam
song mối đe dọa lớn nhất hiện nay là sự lây lan của HIV/AIDS. Kể từ khi lần
đầu tiên phát hiện ra căn bệnh này, HIV/AIDS đã lây lan rất nhanh trên thế giới.
HIV chủ yếu có ở những người trẻ tuổi, với khoảng 40% ca nhiễm mới nằm
trong độ tuổi 15 - 24 và tới 64% trường hợp nhiễm mới có tuổi từ 15 - 29. Theo
ước tính của bộ y tế thì vào năm 2005 sẽ có khoảng 160.000 người nhiễm HIV ở

Việt Nam. (Cho đến nay vẫn chưa có vacxin phòng virut HIV và vẫn chưa có
thuốc chữa trị bệnh AIDS)
Chặn đứng và bắt đầu thu hẹp sự lây lan của HIV/AIDS vào năm 2015.
Đến năm 2010, mọi đối tượng có nhu cầu đều được điều trị HIV/AIDS.
Chặn đứng và bắt đầu giảm tỷ lệ mắc bệnh sốt rét cũng như các bệnh dịch
khác vào năm 2015.
Trở ngại chính đối với việc kiểm soát sự lây lan của HIV/AIDS là thái độ
chủ quan cho là "điều đó không thể xảy ra với mình". HIV ở Việt Nam chủ
yếu lây lan qua quan hệ tình dục không dùng bao cao su và những người nghiện
dùng chung bơm kim tiêm. Hầu hết mọi người đều biết điều này, nhưng lại
không áp dụng cho bản thân mình. Song thực tế ngay cả những người có học
thức nhất, mạnh khoẻ và trông rất phong độ mà các bạn quen biết cũng có thể
nhiễm HIV - vì vậy mọi người cần phải tự bảo vệ bản thân.
Bảo vệ có nghĩa là luôn sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục, không
bao giờ dùng chung kim tiêm khi tiêm chích và liên hệ cán bộ y tế nếu bạn nghĩ
mình có thể nhiễm HIV.
HIV/AIDS đe doạ huỷ hoại những thành quả phát triển đạt được của cả
một thế hệ ở nhiều quốc gia. Kinh nghiệm ở các nước như Bra-xin, Sênêgan và
Thái Lan cho thấy chúng ta có thể ngăn chặn HIV ngay từ đầu. Việt Nam đã đặt
ra mục tiêu giảm tốc độ gia tăng sự lây lan của HIV/AIDS trong năm 2005 và
giảm một nửa tốc độ gia tăng cho đến năm 2010. Thách thức đặt ra là phải hành
động khẩn cấp ngay từ bây giờ theo phương thức tiếp cận đa ngành để chống lại
đại dịch này. Sự quan tâm chỉ đạo liên tục là hết sức cần thiết để ngăn chặn nguy
cơ xảy ra một đại dịch.
7- Đảm bảo bền vững về môi trường
Khi tất cả các nước đều phấn đấu công nghiệp hoá và hiện đại hoá thì sễ
quên đi rằng quá trình đó có thể ảnh hưởng xấu đến nguồn tài nguyên thiên
nhiên của chúng ta. Việc xây dựng nhiều nhà máy có thể thải ra những chất thải
nguy hiểm. Trên đường ngày càng có nhiều ô tô và xe máy và chúng làm ô
nhiễm không khí. Người ta đang di cư ra các thành phố làm cho những nơi này

trở nên quá đông đúc và bẩn. Những người muốn phát quang thêm đất để trồng
trọt và xây thêm nhà máy đang chặt phá những khu rừng mà phải nhiều thế hệ
sau mới thay thế được.
Tích hợp nguyên tắc phát triển bền vững trong các chính sách và chương
trình quốc gia; giảm thiểu tổn thất về môi trường.
Giảm tổn thất về tính đa dạng sinh học, đến năm 2010 giảm đáng kể tỷ lệ
này.
Đến năm 2015, giảm một nửa tỷ lệ người không được tiếp cận thường
xuyên với nước sạch và hợp vệ sinh.
Đến năm 2020, cải thiện đáng kể cuộc sống của ít nhất 100 triệu người
đang sống trong nhà ổ chuột.
Tất cả những sự thay đổi và tăng trưởng này có thể có tác động tiêu cực
đến môi trường tự nhiên xung quanh chúng ta. Vì lý do đó mà Mục tiêu phát
triển Thiên niên kỷ này nhằm thúc đẩy quá trình phát triển thân thiện với môi
trường và khuyến khích các nước chăm lo cho môi trường trước khi quá muộn.
Từ việc đảm bảo cung cấp nước an toàn cho tất cả mọi người cho đến giúp xây
dựng các nhà máy không thải ra nhiều chất thải, tới việc trồng lại rừng, tất cả
mọi ngươờ tham gia vào Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ này đều có trong đầu
một mục đích: giữ đất nước Việt Nam tươi đẹp cho các thế hệ mai sau.
Trên thế giới có hơn một tỷ người vẫn không được tiếp cận với nước sạch,
nhưng trong thập niên 90 đã có gần một tỷ người được tiếp cận với nước sạch và
các điều kiện vệ sinh. Việt Nam đã tăng tỷ lệ người dân được tiếp cận với nước
sạch từ 48% trong năm 1990 lên tới 56% trong năm 2000 và đặt mục tiêu tiếp
tục nâng con số này lên 85% ở khu vực nông thôn vào năm 2010.
8- Xây dựng quan hệ đối tác toàn cầu vì mục tiêu phát triển
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ cuối cùng này là một trong những mục
tiêu tham vọng nhất. Khác với các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ khác, mục
tiêu này không gắn kết trực tiếp với tỷ lệ trẻ em nhập học hay số người sống
trong cảnh nghèo mà Mục tiêu này liên quan đến tình đoàn kết trên toàn cầu để
đạt được bảy mục tiêu trên.

Tăng cường hơn nữa hệ thống thương mại và tài chính mở, dựa trên luật
lệ, không phân biệt đối xử và có thể dự báo, trong đó có cam kết hướng tới sự
quản lý tốt, phát triển và giảm thiểu tình trạng đói nghèo trên phạm vi quốc gia
và quốc tế.
Đáp ứng nhu cầu đặc biệt của các nước kém phát triển nhất, trong đó có
việc đảm bảo khả năng tiếp cận đối với các mặt hàng xuất khẩu của họ trên cơ
sở miễn thuế và phi hạn ngạch; tăng cường giảm nợ cho các nước nghèo nợ nần
nhiều; xoá các khoản nợ song phương chính thức; và tăng cường hỗ trợ phát
triển chính thức cho các nước cam kết xoá đói giảm nghèo
Đáp ứng nhu cầu đặc biệt của các nước đang phát triển nằm sâu trong lục
địa và các quốc đảo nhỏ đang phát triển
Giải quyết một cách toàn diện các vấn đề nợ nần của các nước đang phát
triển thông qua các biện pháp quốc gia và quốc tế nhằm đảm bảo quản lý nợ lâu
dài, bền vững.
Thông qua hợp tác với các nước đang phát triển tăng cường và thực hiện
chiến lược tạo việc làm thích hợp và hữu ích cho thanh niên.
Bằng cách hợp tác với các công ty dược phẩm, cung cấp đủ những thuốc
trị bệnh thiết yếu tại các nước đang phát triển.
Thông qua hợp tác với khu vực tư nhân, phát huy các lợi ích của những
công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin.
Nói một cách cụ thể, những nước giàu hơn trên thế giới đã cam kết hỗ trợ
cho các nước nghèo hơn, như Việt Nam, để thực hiện các Mục tiêu Phát triển
Thiên niên kỷ đúng thời gian. Việc này sẽ thực hiện được thông qua việc tăng
cường viện trợ phát triển chính thức (ODA) và tăng cường tiếp cận thị trường
toàn cầu, cũng như chuyển giao công nghệ mới và tri thức.
Xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững rõ ràng có liên quan tới
thương mại, giảm xoá nợ và viện trợ. Cần đưa ra các điều khoản thương mại
bình đẳng cho các quốc gia đang phát triển để tạo cơ hội việc làm và thu nhập.
Về mục tiêu này, Việt Nam đang đối mặt với một số thách thức khá lớn trong
việc đẩy nhanh tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn cầu theo kế

hoạch đề ra. Để đảm bảo công bằng xã hội và tính bền vững của quá trình phát
triển quốc gia đòi hỏi phải có những nỗ lực rất lớn.
NỘI DUNG
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN
I – Tình hình thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ trên thế giới
Báo cáo thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ năm 2007 của Liên hợp
quốc, khi mà tiến trình thực hiện đã được một nửa thời gian, đánh giá rằng
MDGs có thể đạt được ở phần lớn các quốc gia nhưng để hoàn thành các mục
tiêu, cần có thêm những biện pháp cụ thể, cấp bách và ổn định cho đến năm
2015. Một số thách thức chủ yếu là:
Hàng năm vẫn có trên nửa triệu bà mẹ tử vong trong khi mang thai và sinh
nở bởi những biến chứng có thể phòng ngừa và chữa trị được. Tỷ lệ tử vong của
bà mẹ rất cao ở tiểu vùng Sahara.
Nếu tình hình tiếp tục diễn biến theo xu hướng hiện nay thì chỉ tiêu giảm
một nửa tỷ lệ trẻ em có trọng lượng dưới mức bình thường sẽ không đạt được
chủ yếu vì sự tiến triển chậm chạp ở khu vực Nam Á và tiểu vùng Sahara.
Tổng số người chết vì bệnh AIDS năm 2006 đã lên tới 2,9 triệu; các biện
pháp phòng ngừa đã không ngăn chặn được sự phát triển của bệnh dịch này.
Năm 2005, có 15 triệu trẻ em mồ côi cha/mẹ hoặc cả hai vì AIDS.
Một nửa dân số của các nước đang phát triển thiếu các điều kiện vệ sinh
cơ bản. Để đạt Mục tiêu Thiên niên kỷ, trong giai đoạn 2005 đến 2015, 1,6 tỷ
người cần được tiếp cận thường xuyên với những điều kiện vệ sinh đã được cải
thiện.
Trái với những gì mà tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển mạng
lại, sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập ngày càng cao, đặc biệt là Đông
Á, nơi tỷ lệ tiêu dùng của những người nghèo nhất giảm sút mạnh mẽ trong giai
đoạn 1990-2004.
Phần lớn các nèn kinh tế không tạo được cơ hội việc làm cho thanh niên,
tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên cao gấp 3 lần người trưởng thành.
Cảnh báo về khí hậu đã trở nên rõ ràng, khí thải dyoxide carbon, tác nhân

chính gây ra sự biến đổi khí hậu toàn cầu đã tăng từ 23 tỷ m³ năm 1990 lên 29 tỷ
m³ năm 2004. Sự thay đổi khí hậu sẽ có những tác động kinh tế, xã hội nghiêm
trọng, cản trở tiến trình đạt đến Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Bản báo cáo cũng chỉ ra sự mất cân đối trong từng quốc gia, đặc biệt là một số
nhóm dân cư, thường là những người sống ở nông thôn, những bà mẹ và trẻ em
không được giáo dục chính quy, những hộ gia đình nghèo nhất, đang không có
được sự tiến triển cần thiết để đạt tới mục tiêu như bộ phận dân cư còn lại. Tình
trạng này đặc biệt rõ ràng trong lĩnh vực giáo dục và chăm sóc sức khỏe. Để đạt
Mục tiêu Thiên niên kỷ, các quốc gia sẽ phải huy động thêm các nguồn lực và
đầu tư công cộng đem lại lợi ích cho người nghèo.
II - Việt Nam sẽ hoàn thành MDGs đúng thời hạn
Tám mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) là: Xoá bỏ tình trạng
nghèo cùng cực và thiếu đói; Phổ cập giáo dục tiểu học; Tăng cường bình đẳng
giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ; Giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; Tăng cường
sức khoẻ bà mẹ; Phòng chống HIV/AIDS, sốt rét và các bệnh nguy hiểm khác;
Bảo đảm bền vững về môi trường; Thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát
triển.
Hai phần ba chặng đường đã qua, Việt Nam đã và đang đạt được những
thành tựu quan trọng trên con đường đạt đến các Mục tiêu MDGs vào năm 2015.
Đề cương báo cáo MDGs 2010: “Việt Nam trên con đường hoàn thành các mục
tiêu Thiên niên kỷ” do Bộ KH-ĐT thực hiện, khẳng định: Việt Nam tiếp tục đạt
được những kết quả khả quan trong lĩnh vực xoá đói giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo
giảm ở tất cả các vùng trong cả nước; mức sống của các tầng lớp dân cư được
cải thiện rõ rệt trong từng vùng, từng khu vực.
Việt Nam cũng đạt được những thành tựu đáng kể về giáo dục, đào tạo,
xoá mù chữ cũng như nâng cao vai trò và sự đóng góp của phụ nữ trong các cơ
quan lãnh đạo ở các cấp. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em đã giảm rõ rệt, tỷ lệ suy dinh
dưỡng của trẻ dưới 5 tuổi giảm nhiều. Công tác bảo vệ và tăng cường sức khoẻ
bà mẹ được triển khai trên khắp địa bàn cả nước. Tỷ lệ lây nhiễm HIV/AIDS và
các bệnh nguy hiểm khác từng bước được khống chế có hiệu quả.

Việt Nam tiếp tục triển khai thực hiện Chương trình Nghị sự 21, thực hiện
tốt mục tiêu đảm bảo bền vững về môi trường: nâng cao độ che phủ của rừng,
khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; phòng ngừa, ngăn
chặn ô nhiễm, suy thoái và xử lý các sự cố môi trường… Việt Nam cũng đạt
được những thành tựu quan trọng trong lĩnh vực thiết lập mối quan hệ đối tác
toàn cầu vì phát triển, thực hiện chính sách mở cửa và chủ động hội nhập với
khu vực và thế giới.
Tuy khẳng định Việt Nam sẽ hoàn thành các MDGs đúng thời hạn vào
năm 2015, báo cáo cũng chỉ ra 2 thách thức không nhỏ đối với Việt Nam trong
1/3 chặng đường còn lại và về lâu dài.
Thách thức thứ nhất là đảm bảo các MDGs có thể đạt được đối với cả
nhóm bất lợi (nhất là dân tộc thiểu số, dân nghèo nông thôn, nghèo thành thị).
Như đối với mục tiêu Xoá bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói, báo cáo đã chỉ ra
thực tế là tốc độ giảm nghèo ở nhóm dân tộc thiểu số không đáng kể trong
những năm gần đây; mức độ bất bình đẳng giữa nông thôn và thành thị, đặc biệt
là với khu vực thành phố lớn ngày càng gia tăng. Hay đối với mục tiêu Tăng
cường sức khoẻ bà mẹ, báo cáo cũng nhấn mạnh, tỷ lệ chết mẹ khi sinh vẫn còn
cao ở các nhóm người nghèo, dân tộc; Tiếp cận dịch vụ y tế về chăm sóc sức
khoẻ bà mẹ còn hạn chế và có sự khác biệt lớn giữa các vùng, miền, các tầng lớp
dân cư…
Thách thức thứ 2 của Việt Nam là đảm bảo thành quả bền vững trong thực
hiện các MDGs trong điều kiện đối mặt với các thách thức mới gồm cả thách
thức ngắn hạn (như tác động của khủng hoảng kinh tế, biến động giá lương thực,
năng lượng) và dài hạn (như biến đổi khí hậu)./.
III- Việt Nam tiếp tục chặng đường thực hiện các mục tiêu phát triển
Thiên niên kỷ
Với việc tiếp tục triển khai và nâng cao chất lượng thực hiện các Mục tiêu
Phát triển Thiên niên kỷ, một lần nữa, Việt Nam khẳng định sự tôn trọng của
mình về các giá trị và nguyên tắc trong Tuyên bố Thiên niên kỷ của Liên hợp
quốc do 189 nguyên thủ quốc gia cam kết thực hiện tại Hội nghị Thượng đỉnh

của Liên hợp quốc vào tháng 9-2000.
Báo cáo “Việt Nam tiếp tục chặng đường thực hiện các mục tiêu phát
triển Thiên niên kỷ năm 2008” được xuất bản bằng hai thứ tiếng: tiếng Việt và
tiếng Anh, gồm 4 phần:
- Tổng quan về việc Việt Nam tiếp tục thực hiện tuyên bố Thiên niên kỷ;
tổng quát về thành tựu thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ.
- Chi tiết về các thành tựu của Việt Nam thực hiện 8 mục tiêu phát triển.
- Tình hình các mục tiêu hỗ trợ của Việt Nam nhằm đẩy mạnh việc thực
hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ.
- Những thách thức trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển.
Đây là lần thứ 2 Việt Nam đảm nhận việc chủ biên Báo cáo phát triển (lần
đầu tiên vào năm 2005) và đã nhận được sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành
địa phương, sự giúp đỡ của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại
Hà Nội. Trong Báo cáo đã sử dụng 45 chỉ tiêu để phân tích, đánh giá mức độ
thực hiện 8 Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ.

Ba năm qua (2005-2007), Việt Nam tiếp tục đạt được những kết quả đáng
khích lệ trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Nhiều chỉ
tiêu, chỉ số trong mục tiêu Thiên niên kỷ, Việt Nam có khả năng vượt trước cả
về thời gian và mục tiêu đề ra. Nổi bật trong số này là các mục tiêu: Xóa bỏ tình
trạng nghèo cùng cực và thiếu đói, phổ cập giáo dục tiểu học, bình đẳng giới,
phòng chống dịch bệnh, cung cấp các dịch vụ cho nhóm người nghèo, tăng
cường sức khoẻ bà mẹ và trẻ em, an sinh xã hội, thiết lập đối tác toàn cầu vì phát
triển. Đa số các chỉ tiêu, theo tính toán trong Báo cáo đều có khả năng đạt và
vượt trong giai đoạn 2006-2010 như: tỷ lệ nghèo giảm từ 58% năm 1990 xuống
còn 10-11%; tăng số lao động được giải quyết việc làm; giảm lao động chưa có
việc làm ở thành thị; diện tích đất tự nhiên được bảo tồn để duy trì đa dạng sinh
học
Thứ trưởng Cao Viết Sinh cho biết, do mỗi địa phương có đặc thù riêng,
có hoàn cảnh kinh tế - xã hội, vị trí địa lý khác nhau nên mức độ thực hiện các

muc tiêu không giống nhau nên không chỉ dừng lại ở tầm quốc gia, các mục tiêu
thực hiện còn được đánh giá ở cả cấp tỉnh để qua đó có sự so sánh, các địa
phương nỗ lực phấn đấu để hoàn thành mục tiêu đặt ra. Việt Nam là một trong
những nước đầu tiên thực hiện việc "địa phương hóa" các mục tiêu Phát triển
Thiên niên kỷ.
Tuy nhiên, là một nước đang phát triển có thu nhập thấp; nguồn lực để
thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ còn bị hạn chế, mặt bằng dân trí
chưa cao, chênh lệch mức sống giữa các tầng lớp dân cư còn lớn, cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu đã làm suy giảm kinh tế ở Việt Nam, tình trạng biến đổi
khí hậu toàn cầu, mà Việt Nam được dự báo là quốc gia chịu ảnh hưởng lớn đã
ảnh hưởng không nhỏ tới việc triển khai thực hiện các mục tiêu. Một số chỉ tiêu,
dự báo, vào năm 2015 có khả năng không đạt hoặc phải phấn đấu là: hệ số
GINI; tỷ lệ nhiễm HIV ở phụ nữ mang thai; tỷ lệ rác thải sinh hoạt khu vực
thành thị được thu gom, xử lý; tỷ lệ hộ gia đình sống trong nhà tạm.
Nhận thức được những khó khăn, thách thức đó, Chính phủ Việt Nam,
một mặt, sẽ huy động tối đa các nguồn lực trong nước, đổi mới chỉ đạo điều
hành, tạo sự đồng thuận của các tầng lớp dân cư; mặt khác, sẽ mở rộng các mối
quan hệ quốc tế, thu hút sự hỗ trợ cả về nguồn lực và kinh nghiệm từ các nước
phát triển, từ cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế, các tổ chức của Liên hợp quốc,
các tổ chức phi chính phủ để góp phần gia tăng khả năng hoàn thành các Mục
tiêu Phát triển Thiên niên kỷ ở Việt Nam.
Thông qua báo cáo, Việt Nam muốn khẳng định và chia sẻ với cộng đồng
thế giới những kinh nghiệm thành công của mình trong việc phát triển đất nước
và thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Việt Nam mong muốn có sự
hợp tác và hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, nhất là các nước phát triển để nâng cao
chất lượng thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ hướng đến năm
2015.
Việt Nam cho rằng, việc đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ
trong thời gian tới vẫn là mục tiêu quan trọng, phù hợp với nguyện vọng của tất
cả các quốc gia; các mục tiêu, chỉ tiêu cần được quốc gia hóa cho phù hợp với

thực tế của mỗi quốc gia; các nước phát triển cần tăng cường hỗ trợ các nước
đang phát triển và chậm phát triển trên cơ sở tăng cường hơn nữa nguồn ODA;
cần tiếp tục tăng cường một hệ thống thương mại và tài chính thông thoáng,
công khai minh bạch trên nguyên tắc không phân biệt, vì mục tiêu phát triển của
các quốc gia, góp phần tăng cường cường ổn định và an ninh trên thế giới./.
IV- N âng cao vị thế , năng lực cho phụ nữ nước ta
1-Mục tiêu của sự phát triển
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Nói phụ nữ là nói nửa phần xã
hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người.
Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa. Giải
phóng phụ nữ, nâng cao năng lực và thừa nhận vị thế, vai trò của người phụ nữ,
trong xã hội là một mục tiêu quan trọng, một cuộc đấu tranh vô cùng cam go,
quyết liệt và dai dẳng diễn ra trong mỗi con người, trong từng gia đình và toàn
xã hội. Ngay từ khi mới giành được chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã nhận
thức sâu sắc vai trò và vị thế của phụ nữ trong sự phát triển chung của quốc gia,
dân tộc. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp lý nhằm cụ thể hoá quyền
bình đẳng nam nữ; tạo điều kiện cho phụ nữ ngày càng có nhiều cơ hội và điều
kiện tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… Bình đẳng
giới trở thành mục tiêu của sự phát triển đồng thời cũng trở thành vấn đề trung
tâm của phát triển, và là một trong những mục tiêu tăng trưởng của Quốc gia,
xoá đói giảm nghèo và quản lý Nhà nước có hiệu quả.
Nghị quyết 04 ngày 12-7-1993 của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung
ương Đảng về Đổi mới tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình
mới, đã nhấn mạnh : "Giải phóng phụ nữ là mục tiêu và nội dung quan trọng của
công cuộc đổi mới", đồng thời Nghị quyết còn đề xuất nhiệm vụ mang tính
chiến lược là xây dựng đội ngũ cán bộ nữ và tạo điều kiện để để phụ nữ phấn
đấu, trưởng thành; tăng cường tỷ lệ cán bộ nữ trong các cấp lãnh đạo của Đảng,
Nhà nước, các lĩnh vực quản lý kinh tế-văn hoá-xã hội…, chống phân biệt đối
xử khắt khe trong đánh giá, sử dụng đề bạt cán bộ nữ. Tạo điều kiện cho phụ nữ
tiến bộ chính là thực hiện quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Đây là một vấn đề

thuộc về quyền con người và chính là điều kiện để có được công bằng trong xã
hội.
Thực hiện tinh thần đó, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước của Liên Hợp
Quốc về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ.Tại Hội nghị phụ nữ
thế giới lần thứ IV tại Bắc Kinh Trung Quốc năm 1995, Chính phủ Việt Nam đã
có chương trình hành động cụ thể thực hiện mục tiêu "hành động vì bình đẳng,
phát triển hoà bình" của Hội nghị. Cương lĩnh hành động vì sự tiến bộ của phụ
nữ Việt Nam, đã được cụ thể hoá ở mục tiêu tổng quát: "cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần, thực hiện được chức năng của mình và được tham gia đầy đủ,
bình đẳng vào tất cả các lĩnh vực hoạt động, đặc biệt là các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hoá và xã hội trong công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh".
Tháng 9-2000, có 189 vị Nguyên thủ Quốc gia tham dự Hội nghị thượng đỉnh
Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc tại NewYork đã ký bản Tuyên bố Thiên niên
kỷ, trong đó khẳng định cam kết của các quốc gia và cộng đồng Quốc tế về việc
đạt các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ vào năm 2015. Về cơ bản, các Mục tiêu
thiên niên kỷ phản ánh những cam kết mà Việt Nam và các nước khác đã nhất
trí đưa ra tại nhiều Hội nghị thượng đỉnh thế giới và Hội nghị toàn cầu của Liên
Hợp Quốc trong suốt thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Chủ tịch Trần Đức Lương đã
thay mặt Chính phủ Việt Nam ký vào Tuyên bố Thiên niên kỷ. Mục tiêu phát
triển thiên niên kỷ đặc biệt chú trọng vào 8 mục tiêu cơ bản, trong đó, Tăng
cường bình đẳng nam nữ và nâng cao vị thế cho phụ nữ được đặc biệt coi trọng
và cụ thể hóa bằng các chỉ tiêu:" Đảm bảo cho trẻ em, trai cũng như gái, ở khắp
mọi nơi hoàn thành đầy đủ chương trình giáo dục tiểu học vào năm 2015";
"Phấn đấu xoá bỏ chênh lệch giữa nam và nữ ở bậc tiểu học và trung học vào
năm 2005 và ở tất cả các cấp học chậm nhất vào năm 2015 trong việc phát triển
giới quan tâm đặc biệt đến vấn đề tăng cường bình đẳng. Lấy trọng tâm phổ
cập giáo dục làm nền tảng quan trọng để tiến tới hoàn thiện mục tiêu về giới.
Trên cơ sở các mục tiêu chung của thế giới, Việt Nam đã cụ thể hoá mục
tiêu về bình đẳng giới và nâng cao năng lực của phụ nữ trên những chỉ tiêu sau:

Xoá bỏ chênh lệch giới ở bậc tiểu học và trung học tốt nhất vào năm 2005 và ở
tất cả các cấp học không muộn hơn năm 2015. Đảm bảo bình đẳng giới và nâng
cao vị thế, năng lực cho phụ nữ : "Tăng số đại biểu phụ nữ trong các cơ quan
dân cử các cấp. Tăng thêm 3-5% số phụ nữ tham gia trong các cơ quan và các
ngành ( kể cả các bộ, cơ quan trung ương và các doanh nghiệp) ở tất cả các cấp
trong 10 năm tới. Thực hiện quy định ghi tên của cả chồng và vợ trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2005. Giảm mức độ dễ bị tổn thương
của phụ nữ trước các hành vi bạo lực trong gia đình. Tăng cường sức khoẻ bà
mẹ: Giảm tỷ lệ tử vong ở các bà mẹ xuống còn 80/100 000 vào năm 2005 và còn
70/10 000 vào năm 2010 trong đó đặc biệt chú ý tới các vùng khó khăn. Chiến
lược Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ 2001-2010 và kế hoạch Hành động
2001-2005 đi kèm đã đặt mục tiêu bình đẳng giới và nâng cao vị thế năng lực
cho phụ nữ trong các lĩnh vực lao động, việc làm, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ,
tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội.
Đồng thời nó còn đưa ra các hướng dẫn cho việc thực hiện khuôn khổ thể chế
tạo điều kiện đạt được cho sự bình đẳng giới. Phấn đấu tăng số đại biểu nữ lên
tới 30% trong Quốc hội, 28% cho nhiệm kỳ tiếp theo của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh và 50% trong cơ quan Nhà nước vào năm 2010. Ngoài ra, mục tiêu lâu dài
nhằm đảm bảo giấy chứng nhận sử dụng đất có ghi cả tên người chồng và người
vợ (theo quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình 2000), và giảm tình trạng dễ bị
tổn thương của phụ nữ trước tình trạng bạo hành trong gia đình cũng đã được
đưa vào thành các mục tiêu phát triển trong Chiến lược toàn diện về tăng trưởng
xoá đói, giảm nghèo mới.
2-Một số kết quả cụ thể trong tiến trình thực hiện.
Giới và giáo dục: Trên thực tế bình đẳng giới trong giáo dục ở nước đã
đạt được nhiều kết quả khả quan song vẫn có khoảng cách về giới ở bậc trung
học, nhất là trong số trẻ em dân tộc thiểu số và trong nhóm dân nghèo nhất. Tỷ
lệ nữ giới từ 10 tuổi trở lên trong cả nước biết đọc, biết viết đạt 88%. Sau khi cả
nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, tỷ lệ nữ ở cấp trung và ở bậc đại
học đã tăng dần. Tỷ lệ phụ nữ biết chữ so với nam giới ở cùng độ tuổi (15-24

tuổi) vẫn giữ mức ổn định, trong khi các tỷ lệ biết chữ chung đã tăng lên, đây là
những chỉ số quan trọng góp phần duy trì sự cân bằng về giới ở nước ta.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học nhiều phụ nữ nước ta đã đạt được
nhiều thành tích to lớn trở thành đại diện xứng đáng cho phụ nữ Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới của đất nước. Đã có 19 chị đạt danh hiệu nữ Anh hùng lao động,
250 chị đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua, 5/10 gương mặt nữ được bình chọn là
vận động viên xuất sắc … Sau 15 năm giải thưởng Kô-va-lép-xcai-a đã có 17 cá
nhân và 23 tập thể nữ được nhận giải thưởng này. Năm 2003 Giải thưởng phụ
nữ Việt Nam lần thứ nhất (20-10-2003) đã được trao cho 2 tập thể và 3 cá nhân
phụ nữ xuất sắc.
Trên trường quốc tế, phụ nữ Việt Nam đã tham gia nhiều hoạt động mang
tính hợp tác cao, tham gia nhiều tổ chức Quốc tế và đạt được nhiều thành quả
trong các phong trào chung vì một thế giới hoà bình và phát triển được bạn bè
quốc tế đánh giá cao và khẳng định phụ nữ Việt Nam đã và đang được nhà nước
Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi, môi trường pháp lý cao và có những bước tiến
bộ đáng ghi nhận.
Phụ nữ tham gia trong các cơ quan có thẩm quyền quyết định và cơ quan
đại diện chính trị: Việt Nam có tỷ lệ đại biểu nữ tương đối cao trong các cơ
quan lập pháp quốc gia. Hiện nay có 27,31% số đại biểu Quốc hội (2002-2006)
là phụ nữ ( đây là tỷ lệ cao thứ 2 trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, (sau
Niu-Di-lân) và đứng thứ 9/135 nước trên thế giới về tỷ lệ đại biểu nữ trong Quốc
hội… Chị em đã được trực tiếp tham gia xây dựng những văn bản pháp luật,
chính sách của Nhà nước, liên quan đến phụ nữ và trẻ em, góp phần đảm bảo
cho quyền và lợi ích của phụ nữ. Tỷ lệ nữ là Đảng viên cũng tăng dần, năm
1997: 17,33%, năm 2000 có 19,29%. Địa vị kinh tế-xã hội của phụ nữ ngày
càng bình đẳng với nam giới trong quyền quyết định các công việc quan trọng
của gia đình. Điều đó khẳng định sự tiến bộ của phụ nữ về nhiều mặt học vấn,
năng lực…
Trong khi tỷ lệ phụ nữ tham gia các cơ quan lập pháp cao thì tỷ lệ này ở
cơ quan hành pháp lại thấp. Chỉ có 30 thành viên nội các Chính phủ là phụ nữ, ở

cấp tỉnh phụ nữ chỉ chiếm 6, 4% trong Uỷ ban nhân dân tỉnh, các cấp chính
quyền dưới tỷ lệ này còn ít hơn.
Trong các Ủy ban của Quốc hội và trong Chính phủ, phụ nữ thường đảm
nhận các công việc mang tính xã hội và thường "nhẹ hơn"; trong khi đó nam
giới lãnh đạo các Bộ có thẩm quyền đưa ra những quyết định quan trọng và
chiến lược. Nhìn chung tỷ lệ phụ nữ nắm cương vị lãnh đạo trong Chính phủ
Trung ương còn thấp, chỉ có 11% trong số các Bộ trưởng, 7% trong số các Thứ
trưởng, 12% trong số các Giám đốc, 13% trong số các phó giám đốc. Trên thực
tế, ở cấp tỉnh số phụ nữ được bầu vào Hội đồng nhân dân tỉnh trong nhiệm kỳ
1999-2004 chênh lệch nhau đáng kể giữa các tỉnh. Trong đó cao nhất là tỉnh
Tuyên Quang có 33,3 % đại biểu hội đồng nhân dân là nữ; các tỉnh Đồng Nai
32,4%, Sơn La: 31,3% Lào Cai: 30,4%… Thấp nhất là tỉnh Khánh Hoà: 6,5%,
Trà Vinh: 6,7%, Thừa Thiên – Huế:10,9%, Hải Phòng:12,7%, Vĩnh Phúc:
12,8% Phú Yên: 13,3%…
Tiếp cận của phụ nữ với đất đai và tín dụng: Nhà nước đã có những thiết
chế và chính sách cụ thể để tạo điều kiện cho phụ nữ tiếp cận với đất đai và tín
dụng một cách bình đẳng với nam giới. Song hiện tại mới có 2,3% số hộ gia
đình trong cả nước có tên của 2 vợ chồng trong giấy Chứng nhận quyền sử dụng
đất đai (theo Tổng cục Thống kê năm 2003). Nguyên nhân chính của tình trạng
này là do tập tục và thông lệ xã hội cũ, tài sản trong gia đình thường do người
chủ hộ đứng tên (thường là người đàn ông cao tuổi nhất). Vì thế khi người phụ
nữ gặp hoàn cảnh éo le như ly dị hoặc thừa kế… không có tên trong giấy đăng
ký quyền sử dụng đất đai nên thường không có cơ sở pháp lý để đòi phần đất mà
họ có quyền được hưởng. Do vậy, phụ nữ bị tước đoạt về đất đai làm gia tăng
khả năng tổn thương và sự lệ thuộc về kinh tế vào nam giới đối với các yếu tố
đầu vào sản xuất như đất đai và tín dụng. Thực tế cho thấy 2/3 số người đứng ra
vay vốn là nam giới. Đây là một vấn đề lớn đối với nước ta khi số vụ kiện ngày
càng tăng trong đó phụ nữ đòi quyền sử dụng đất trong trường hợp giải quyết ly
dị và trường hợp người chồng qua đời.
Các quy định về phân bổ đất đai dựa trên cơ sở độ tuổi lao động cũng đưa

phụ nữ vào tình thế bất lợi. Do phụ nữ ở Việt Nam nghỉ hưu ở độ tuổi 55 so với
nam là 60 tuổi (sớm hơn 5 năm) theo quy định, đất cấp cho phụ nữ ở độ tuổi 55-
60 tuổi chỉ bằng một nửa nam giới cùng độ tuổi. Ngoài ra, diện tích đất phân bổ
cho các hộ gia đình do phụ nữ làm chủ cũng ít hơn do thiếu vắng ngươì chồng,
thiếu nhân lực lao động và quy định lỏng lẻo về độ tuổi lao động. Do vậy tổng
số đất nông nghiệp cấp cho hộ gia đình nông nghiệp do phụ nữ làm chủ tính
trung bình chỉ bằng 54% so với các gia đình do nam giới làm chủ. Tỷ lệ cán bộ
tham gia ngành địa chính còn thấp do đó cũng hạn chế tiếng nói của chị em về
vấn đề đất đai.
3- Thách thức đối với vấn đề giới.
Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: " Đối với phụ nữ,
thực hiện tốt luật pháp và bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng
cao học vấn; có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các
cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp, các ngành; chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ
bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ; xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc." Đó chính là nguồn động
lực góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập của Việt Nam với cộng đồng quốc tế
trong bối cảnh toàn cầu diễn ra nhanh chóng. Tuy nhiên, vấn đề bình đẳng giới
và nâng cao năng lực cho phụ nữ vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức. "Báo
cáo khác biệt giới trong nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam" do Uỷ ban vì sự
tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP)
và Tổ chức nông lương thế giới (FAO) phối hợp công bố cho thấy, mặc dù đã
đạt được những thành tựu quan trọng về bình đẳng giới, song phụ nữ và trẻ em
gái nước ta vẫn bị thiệt thòi hơn nam giới và trẻ em trai trong một số lĩnh vực.
Về giáo dục đào tạo. Phụ nữ, trẻ em gái còn chịu nhiều thiệt thòi về cơ hội
học tập để nâng cao học vấn và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Tỷ lệ học sinh
nữ ở tất cả các bậc học đều thấp hơn học sinh nam. Số người chưa biết đọc biết
viết của nữ luôn cao hơn nam từ khoảng 2-3 lần. Trong tổng số lao động nữ vẫn
còn 10% chưa tốt nghiệp tiểu học, số tốt nghiệp trung học phổ thông mới đạt
gần 70%. Càng ở cấp học cao sự chênh lệch giữa nam và nữ càng lớn: Tỷ lệ học

sinh nữ ở cao đẳng, đại học là 39,9%, thạc sĩ 18%, tiến sĩ 14%.
Về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ : có tới 89% lao động nữ từ 15 tuổi trở
lên đang hoạt động kinh tế thường xuyên không có chuyên môn nghiệp vụ và
chưa được đào tạo về kỹ thuật. Số nữ công nhân kỹ thuật có bằng chỉ chiếm 3%,
tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp: 4,13%, cao đẳng, đại học: 3,31%, trên đại
học : 0,05%. Quan niệm con gái không cần học nhiều vì càng học cao càng khó
lấy chồng, càng khó giữ gìn hạnh phúc gia đình…vẫn còn tồn tại dai dẳng trong
một bộ phận không nhỏ nhân dân, đặc biệt đối với miền núi và vùng sâu vùng
xa, trong đó có nhiều đức lang quân cũng không muốn cho vợ được học cao và
tiến bộ hơn mình… Những quan niệm lạc hậu, cổ hủ đó đã trở thành bức rào cản
vô hình khiến nhiều bé gái, nhiều chị em phải bỏ dở việc học tập của mình.
Tỷ lệ phụ nữ dưới 40 tuổi biết chữ đã tăng dần trong những năm 90 và
hiện là 94,3%, gần với mục tiêu Quốc gia là 95% vào năm 2005. Sự khác biệt
giữa thành thị và nông thôn về chỉ tiêu này đang giảm dần nhưng vẫn còn tồn tại
một khoảng cách khá lớn đối với một số nhóm dân tộc. Trong khi tỷ lệ biết chữ
của phụ nữ người Kinh, và người Hoa dưới 40 tuổi là trên 97% thì tỷ lên này đối
với phụ nữ các dân tộc thiểu số chỉ chiếm khoảng trên 75% hiện nay có tăng
thêm chút ít không đáng kể. Mặc dù đời sống kinh tế xã hội chung của phụ nữ
đã được cải thiện nhiều đặc biệt là trong những năm đổi mới vừa qua, song nếu
xét về khía cạnh phát triển con người ta vẫn thấy còn quá nhiều chệnh lệch đáng
kể về giới. Do những hạn chế về trình độ học vấn và kỹ năng nghề nghiệp nên
phụ nữ thường gặp khó khăn trong lựa chọn nghề nghiệp, thu nhập và cơ hội
thăng tiến. Mức thu nhập bình quân thấp hơn nhiều so với nam giới cùng làm
một công việc với trình độ như nhau. Lao động nữ chủ yếu tập trung trong
những ngành đòi hỏi kỹ năng lao động ở mức thấp, nặng nhọc, thu nhập thấp.
Có khoảng 70% lao động nữ làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp
và ngư nghiệp. Trong những lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghiệp những
ngành có lợi thế trong nền kinh tế thị trường phụ nữ được đào tạo chuyên môn
chỉ có 27,3%. Phụ nữ còn gánh nặng công việc gia đình, sinh đẻ và chăm sóc
con cái nên ít có cơ hội cạnh tranh trên thị trường lao động. Không có thời gian

trau dồi kiến thức kỹ năng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn. Để có thể
thăng tiến chị em phải cố gắng gấp 3-4 lần nam giới. Nhiều nhà tuyển dụng có
tâm lý coi thường phụ nữ, ngại tuyển dụng phụ nữ, bởi quan niệm chung cho
rằng phụ nữ năng lực có hạn, hơn nữa còn phải mang thai, sinh đẻ, nuôi con…
Sự tồn tại dai dẳng các quan niệm thái độ; sự phân biệt đối xử giữa nam
và nữ ở nước ta cũng như thiếu một cơ chế quốc gia để thu thập các dữ liệu phân
theo giới tính và các thông tin cụ thể khác về giới một cách tổng hợp và có hệ
thống chính là những thách thức cơ bản thuộc nhiều lĩnh vực đối với việc thực
hiện bình đẳng giới.
Muốn giải phóng phụ nữ, trước tiên người phụ nữ phải giải phóng chính
mình./.
KẾT LUẬN
Tuy khẳng định Việt Nam sẽ hoàn thành các MDGs đúng thời hạn vào
năm 2015, báo cáo cũng chỉ ra 2 thách thức không nhỏ đối với Việt Nam trong
1/3 chặng đường còn lại và về lâu dài.
Thách thức thứ nhất là đảm bảo các MDGs có thể đạt được đối với cả
nhóm bất lợi (nhất là dân tộc thiểu số, dân nghèo nông thôn, nghèo thành thị).
Như đối với mục tiêu Xoá bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói, báo cáo đã chỉ ra
thực tế là tốc độ giảm nghèo ở nhóm dân tộc thiểu số không đáng kể trong
những năm gần đây; mức độ bất bình đẳng giữa nông thôn và thành thị, đặc biệt
là với khu vực thành phố lớn ngày càng gia tăng. Hay đối với mục tiêu Tăng
cường sức khoẻ bà mẹ, báo cáo cũng nhấn mạnh, tỷ lệ chết mẹ khi sinh vẫn còn
cao ở các nhóm người nghèo, dân tộc; Tiếp cận dịch vụ y tế về chăm sóc sức
khoẻ bà mẹ còn hạn chế và có sự khác biệt lớn giữa các vùng, miền, các tầng lớp
dân cư…
Thách thức thứ 2 của Việt Nam là đảm bảo thành quả bền vững trong thực
hiện các MDGs trong điều kiện đối mặt với các thách thức mới gồm cả thách
thức ngắn hạn (như tác động của khủng hoảng kinh tế, biến động giá lương thực,
năng lượng) và dài hạn (như biến đổi khí hậu)./.

×