Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Quy trình Xây dựng và Nội dung Kế hoạch chi tiêu trung hạn ngành Giáo dục và Đào tạo giai đoạn 2007-2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.62 KB, 82 trang )

Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
Lời mở đầu
---------------------
Kế hoạch tài chính và chi tiêu trung hạn giai đoạn 2007-2009 có ý
nghĩa quan trọng trong việc tổ chức triển khai thực hiện các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội trong kế hoạch 5 năm 2006-2010 mà Đại hội Đảng và
Nghị quyết của Quốc hội đã thông qua.
Đây là kế hoạch huy động và đưa vào sử dụng các nguồn lực tài
chính quốc gia, đặc biệt là nguồn lực từ ngân sách nhà nước cho sự nghiệp
phát triển của đất nước trong giai đoạn trung hạn 2007-2009, hướng tới
việc hoàn thành mục tiêu chiến lược đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Kế hoạch tài chính và chi tiêu trung hạn giai đoạn 2007-2009 được
xây dựng trong bối cảnh đất nước chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ nước
ta tham gia vào tiến trình toàn cầu hóa một cách toàn diện và sâu sắc;
không những Việt Nam phải thực hiện đầy đủ các cam kết đã ký kết với
các nước và các tổ chức quốc tế mà còn hòa đồng vào một sân chơi đầy
thách thức và cũng nhiều cơ hội. Toàn cầu hóa sẽ làm tăng sức ép cạnh
tranh, nhất là sức ép đối với những nước có trình độ phát triển thấp như
nước ta.
Hòa nhập với cộng đồng quốc tế, việc xây dựng kế hoạch tài chính
và chi tiêu trung hạn là yêu cầu khách quan hết sức cần thiết với mục đích
cải thiện và nâng cao hiệu quả công tác xây dựng kế hoạch ngân sách nhà
nước năm 2007, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của quốc gia, phân bổ
nguồn lực vào các mục tiêu ưu tiên; chủ động hợp tác và tạo ra những điều
kiện để tận dụng các cơ hội phát triển.
Giáo dục và Đào tạo là một trong bốn Bộ ngành Trung ương ( Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Y tế, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
1
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46


Phát triển Nông thôn) thực hiện thí điểm kế hoạch chi tiêu trung hạn giai
đoạn 2007-2009.
Trong điều kiện nguồn lực tài chính ngân sách nhà nước còn hạn
hẹp, trong đó nhu cầu về vốn cho phát triển giáo dục là rất lớn, việc xác
định đầy đủ và huy động tối đa các nguồn lực tài chính nhà nước quản lý
qua ngân sách cũng như các nguồn lực xã hội có ý nghĩa rất quan trọng tới
khả năng thực hiện các mục tiêu của phát triển.
Trên cơ sở những dự báo về tăng trưởng kinh tế, những chính sách
về kinh tế xã hội trong thời kỳ trung hạn, Kế hoạch chi tiêu trung hạn đưa
ra những dự báo về khả năng nguồn lực và phân bổ nguồn lực tài chính
thực hiện các chính sách và đáp ứng cho các mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội của Chính phủ, xác định mức trần chi tiêu làm cơ sở để ngành Giáo
dục xây dựng dự toán và sắp xếp các mục tiêu phát triển cho phù hợp.
Làm tốt công tác kế hoạch chi tiêu, ngành giáo dục sẽ chủ động
trong phân bổ nguồn lực và qua đó tận dụng được mọi nguồn lực của quốc
gia cho “phát triển giáo dục_chìa khóa của sự phát triển”.
Xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo TS NGUYỄN
NGỌC SƠN, người đã hướng dẫn tận tình để em có thể hoàn thành bài viết
này. Xin được gửi lời cảm ơn tới Vụ Tài Chính – Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
tới chú LINH, tới anh NGUYỄN THẾ NGHIỆP, cùng toàn thể các anh chị
công tác tại Vụ Tài Chính đã nhiệt tình giúp đỡ trong suốt thời gian em
thực tập tại Cơ quan. Em xin cảm ơn.
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
2
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
Nội dung
----------------------
Chương I. Một số vấn đề lý luận về Kế hoạch chi
tiêu trung hạn ngành Giáo dục và Đào tạo
1. Lý luận về phương thức lập kế hoạch theo khuôn khổ chi

tiêu trung hạn (MTEF)
1.1. Nhược điểm của ngân sách truyền thống
Cách lập ngân sách truyền thống sau thời gian dài thực hiện đã bộc
lộ những khuyết điểm của mình, nó không những không trở thành công cụ
hữu hiệu của nhà nước về quản lý ngân sách như mục đích vốn có của
mình mà những bất cập do nó tạo ra đã góp phần làm trầm trọng thêm bài
toán rắc rối về ngân sách. Những bất cập thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất là sự tách rời giữa chính sách, việc lập kế hoạch và lập
ngân sách. Trong khi Chính phủ tập trung vào việc xây dựng và thực hiện
các kế hoạch trung hạn 5 năm, và các chính sách do Chính phủ đề ra
thường có tác dụng kéo dài nhiều năm thì ngân sách lại chỉ được xây dựng
cho từng năm một. Mối liên hệ giữa ngân sách hàng năm với việc thực
hiện mục tiêu kế hoạch 5 năm là không rõ rang. Vì thế, các mục tiêu kế
hoạch trung hạn không được gắn với khả năng nguồn lực sẵn có và cũng
không được phản ánh thường xuyên trong ngân sách. Kết quả là, chính
sách có thể được tài trợ trong một vài năm nhưng sau đó có thể bị cắt bỏ
tùy tiện khi tình hình ngân sách không cho phép. Mối liên hệ giữa ngân
sách, chính sách và kế hoạch trung hạn vì thế rất lỏng lẻo. Kết quả tất yếu
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
3
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
của điều này là hiệu lực của kế hoạch trung hạn rất kém, khiến nó không
trở thành công cụ quản lý vĩ mô đắc lực, mang tình nhìn xa trông rộng của
nhà nước được.
Thứ hai, không đảm bảo tính kế thừa giữa kế hoạch và ngân sách
các năm. Ngay cả khi soạn lập ngân sách có tham chiếu đến các chỉ tiêu
của kế hoạch 5 năm hay các chương trình, chiến lược của chính phủ,
nhưng kế hoạch trung hạn hiện nay mang tính định kỳ 5 năm, tức là hết
thời kỳ 5 năm này thì chuyển qua xây dựng kế hoạch 5 năm tiếp theo. Điều
này hạn chế tính liên tục của các chính sách. Nếu thay cách lập kế hoạch

hay ngân sách này bằng một kế hoạch cuốn chiếu, tức là khi một năm
trong khuôn khổ 5 năm đó được thực hiện xong, nó sẽ ra khỏi khuôn khổ
trung hạn và một năm kế hoạch mới kế tiếp sẽ được bổ sung thì tại bất cứ
thời điểm nào, khuôn khổ trung hạn của kế hoạch trước và kế hoạch sau
cũng đều có 4 năm giao thoa với nhau. Rõ rang, tính chất kế thừa liên tục
của ngân sách và kế hoạch đã được cải thiện đáng kể.
Thứ ba, quá trình lập ngân sách truyền thống thường phát sinh hiện
tượng dự toán theo kiểu điều chỉnh tăng dần. Điều đó có nghĩa là, thay vì
tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực hay nâng cao mức đầu ra có
được thì các nhà lập ngân sách lại chỉ hướng tới việc điều chỉnh số liệu dự
toán năm sau lên chút ít so với số liệu năm trước, tùy theo điều kiện cụ thể
của từng ngành và dự báo về khả năng huy động nguồn thu. Khi dự toán
chi vượt tổng mức chi tiêu dự kiến thì việc cắt giảm ngân sách cho các
ngành, các vùng diễn ra rất tùy tiện, thiếu hẳn những lý giải rõ ràng về
nguyên nhân cắt giảm đối với ngành này hay ngành khác. Do đó, phân bổ
chi tiêu theo các ưu tiên chiến lược không được đảm bảo, và sự dàn trải
trong chi tiêu là không thể tránh khỏi.
Thứ tư, việc đàm phán ngân sách giữa các bộ ngành và địa phương
với Bộ Tài chính thiếu một cơ sở minh bạch, dẫn đến quá trình này chịu sự
chi phối rất lớn của những bộ, ngành, địa phương có nhiều ảnh hưởng hoặc
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
4
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
sự tùy tiện trong việc điều chỉnh ngân sách của các cơ quan chức năng
trung ương. Cũng chính vì thế mà khuôn khổ ngân sách hàng năm đã hạn
chế rất nhiều tính tiên liệu.
Thứ năm, ngân sách truyền thống tách rời chi thường xuyên và chi
đầu tư. Hầu hết các công trình hạ tầng công cộng đều đòi hỏi ngoài những
chương trình đầu tư mang tính trung hạn còn phải có những khoản chi để
vận hành bảo dưỡng các công trình sau này khi chúng được xây dựng

xong. Tuy nhiên, với cách lập ngân sách truyền thống, hai loại chi tiêu này
được xây dựng độc lập với nhau. Chẳng hạn, ở cấp trung ương, trong khi
Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm quản lý và phân bổ các chương
trình chi đầu tư công cộng thì chi thường xuyên lại do Bộ Tài chính đảm
nhiệm. Kết quả là, trong các khoản chi thường xuyên hàng năm thiếu hẳn
phần dự toán chi vận hành bảo dưỡng cho các công trình công cộng đã và
đang được đưa vào hoạt động. Đây là một sự lãng phí nguồn lực vốn eo
hẹp của đất nước, vì các công trình công cộng không thể phát huy tối đa
công suất của mình, thậm chí còn xuống cấp rất nhanh chóng ngay sau khi
được xây dựng xong.
Tất cả những nhược điểm trên đều có thể được khắc phục được nếu
chuyển từ cách lập ngân sách truyền thống sang lập ngân sách theo khuôn
khổ chi tiêu trung hạn(MTEF).
1.2. Cơ sở lý luận về khuôn khổ chi tiêu trung hạn (MTEF)
a. Khái niệm
MTEF là một quy trình soạn lập và xây dựng kế hoạch ngân sách
minh bạch, trong đó đề ra giới hạn nguồn lực trung hạn được phân bổ từ
trên xuống nhằm đảm bảo kỷ luật tài khóa tổng thể và đòi hỏi việc xây
dựng các dự toán chi phí thực hiện chính sách từ dưới lên, thống nhất với
các chính sách chi tiêu theo các ưu tiên chiến lược.
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
5
Thảo luận chính sách
và xây dựng hạn
mức chi tiêu chính
thức
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
Nói một cách đơn giản, MTEF là quá trình kết hợp giữa việc xác
định các hạn mức chi tiêu chung cho toàn bộ nền kinh tế (hay còn gọi là kỷ
luật tài khóa tổng thể) ở cấp trung ương với việc phân bổ hạn mức đó cho

các ngành, các vùng theo các ưu tiên chiến lược của ngành hoặc vùng đó.
Và toàn bộ quá trình phân bổ ngân sách như vậy luôn được đặt trong bối
cảnh trung hạn (thường là ba năm), thay cho bối cảnh hàng năm như cách
lập ngân sách truyền thống.
b. Quy trình thực hiện MTEF(7 bước)
Quy trình này được thực hiện qua bảy bước như mô tả trong sơ đồ
dưới đây:
TỪ TRÊN XUỐNG: Bộ KHĐT, Bộ TC, Bộ KHĐT và Quốc hội
Bước 1 Bước 2 Bước 5 Bước 7

Bước 3 Bước 4 Bước 6
Các ngành
Các tỉnh
TỪ DƯỚI LÊN
(1) Các cơ quan phân bổ ngân sách Trung ương(TW) như Bộ Tài
chính hay Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ xây dựng các dự báo về tăng trưởng
kinh tế trong thời gian 3 năm, cũng như khả năng huy động các nguồn thu
trong và ngoài nước. Từ đó, kết hợp với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
6
Khuôn khổ
kinh tế vĩ
mô trung
hạn
Hạn mức
chi tiêu sơ
bộ trung
hạn
Xem xét và phê
duyệt dự toán

chính thức
Đánh giá lại các
cấp mục tiêu
trong chiến lược
hoạt động
Dự toán và sắp
xếp thứ tự ưu
tiên các hoạt
động
Xây dựng các
dự toán trung
hạn thống nhất
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
như mục tiêu tiết kiệm ngân sách… để xác định tổng nguồn lực có thể sử
dụng để chi tiêu trong thời kì trung hạn.
(2) Các cơ quan phân bổ ngân sách TW sẽ sơ bộ xác định các hạn
mức chi tiêu cho các ngành theo các mục tiêu ưu tiên của chính phủ.
Những hạn mức này sẽ được chính phủ thông qua.
(3) Các bộ, ngành, địa phương sẽ xác định nhu cầu chi tiêu của mình
trong thời kì trung hạn(thường là 3 năm). Muốn làm được như vậy, các bộ
ngành, địa phương trước hết phải đánh giá lại chiến lược hoạt động của
đơn vị mình, rà soát lại các mục tiêu lâu dài, mục tiêu trước mắt, các đầu ra
dự kiến cũng như các hoạt động dự kiến cần thực hiện để có được đầu ra
mong muốn đó. Việc đánh giá này nhằm giúp các bộ, ngành, địa phương
nhận thức rõ ràng mối quan hệ logic giữa những hoạt động của đơn vị
mình với viêc thực hiện các đầu ra và các mục tiêu dự kiến. Nó sẽ đảm bảo
hoạt động của mỗi đơn vị đều có hướng đích đến một mục tiêu cụ thể nào
đó.
(4) Trên cơ sở đánh giá lại chiến lược hoạt động, các Bộ ngành địa
phương sẽ sắp xếp thứ tự ưu tiên các mục tiêu chiến lược và dự toán kinh

phí cần thiết để thực hiện chúng. Việc sắp xếp thứ tự ưu tiên các hoạt động
rất quan trọng. Nó cho phép các Bộ, ngành, địa phương thấy rõ những
công việc nào cần mở rộng giữ nguyên hay thu hẹp. Trong trường hợp tổng
hợp nhu cầu chi tiêu từ tất cả các Bộ, ngành, địa phương vượt quá hạn mức
chi tiêu cho phép thì các đơn vị buộc phải cắt giảm chi tiêu của mình. Việc
sắp xếp thứ tự ưu tiên sẽ giúp các đơn vị biết được cần cắt giảm ở những
hoạt động nào trước , tránh tình trạng cắt giảm tùy tiện.
(5) Đây là giai đoạn các cơ quan phân bổ trung ương và các bộ,
ngành, địa phương ngồi lại với nhau để tổng hợp và cân đối giữa tổng nhu
cầu chi tiêu của các đơn vị với hạn mức chi tiêu trần đã được duyệt. Khi
tổng nhu cầu chi tiêu vượt quá nguồn lực sẵn có, chính phủ sẽ tiến hành cắt
giảm ngân sách và tái phân bổ giữa các ngành. Việc tái phân bổ này căn cứ
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
7
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
vào ưu tiên chiến lược của quốc gia, cũng như khả năng giải trình chiến
lược của từng ngành hay địa phương. Kết thúc bước này các cơ quan phân
bổ trung ương và các đơn vị thụ hưởng ngân sách sẽ thống nhất với nhau
về mức ngân sách chính thức phân bổ cho từng đơn vị.
(6) Khi đã thống nhất về hạn mức kinh phí chung, các bộ, ngành, địa
phương sẽ xây dựng dự toán thống nhất chi tiết cho từng năm trong khuôn
khổ 3 năm của mình.
(7) Chính phủ sẽ rà soát lại, thảo luận và thông qua dự toán cho từng
năm trong khuôn khổ trung hạn của các đơn vị, rồi trình Quốc hội phê
duyệt. Mặc dù Quốc hội chỉ phê chuẩn dự toán của năm thứ nhất( chứ
không phải toàn bộ 3 năm ), nhưn sự phê chuẩn đó được đặt trong bối cảnh
là Quốc hội luôn biết rõ tiếp theo dự toán chi tiêu của năm thứ nhất đó thì
chi tiêu của các ngành và địa phương trong ba năm tiếp theo sẽ như thế
nào( nếu không có sự thay đổi đột ngột biến trong tình hình kinh tế vĩ mô).
MTEF đã được thực hiện thành công ở nhiều quốc gia phát triển như

Ôxtrâylia, Niu Zilân và bước đầu được áp dụng ở một số quốc gia đang
phát triển như Malaysia, Malauy hay Thái Lan. Ở Việt Nam phương pháp
này đang được thực hiện thí điểm ở 4 Bộ ngành trung ương là Bộ Giáo dục
– Đào tạo, Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Giao
thông vận tải. Kế hoạch tài chính và kế hoạch chi tiêu trung hạn giai đoạn
2007-2009 được mở rộng thí điểm tại 4 tỉnh, thành phố Vĩnh Long, Bình
Dương, Hà Tây và Hà Nội, qua đó sẽ hỗ trợ các địa phương này khai thác
huy động nguồn lực đáp ứng yêu cầu phát triển theo mục tiêu nhiệm vụ
kinh tế - xã hội, đồng thời cải thiện quy trình nâng cao chất lượng công tác
xây dựng kế hoạch và ngân sách nhà nước hàng năm của địa phương.
c. Ưu điểm của MTEF so với ngân sách truyền thống
Như vậy quy trình MTEF này đã thể hiện những ưu điểm hơn hẳn so
với quy trình lập nganh sách truyền thống, thể hiện ở chỗ:
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
8
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
Ngân sách hàng năm luôn được đặt trong bối cảnh trung hạn, do đó
khi Quốc hội hay Chính phủ thông qua dự toán hàng năm, họ đều nhận
thức được rõ những gì sẽ tiếp tục được chi tiêu một cách nhất quán với kế
hoạch trung hạn của ngành và quốc gia trong những năm tiếp theo.
Nguồn lực khan hiếm luôn được đảm bảo phân bổ cho những lĩnh
vực ưu tiên. Việc tái phân bổ ngân sách cũng được thực hiện một cách
minh bạch, có những luận chứng chứ không phải là sự cắt giảm tùy tiện.
Các bộ ngành, địa phương chỉ được cấp ngân sách, để thực hiện
được các đầu ra hay mục tiêu đã dự kiến. Vì thế, việc quản lý ngân sách sẽ
chuyển từ kiểm soát đầu vào sang kiểm soát đầu ra và kết quả hoạt động
của các đơn vị thủ hưởng ngân sách. Điều này còn góp phần nâng cao tính
minh bạch và trách nhiệm giải trình của các đơn vị.
Việc phân bổ ngân sách sẽ căn cứ theo chiến lược và mục tiêu hoạt
động của các ngành và địa phương, vì vậy khắc phục được nhược điểm

tách rời giữa chi thường xuyên và chi đầu tư.
Mối liên hệ, trao đổi thông tin giữa trung ương và địa phương được
duy trì thường xuyên. Đồng thời, tính tự chủ của các bộ ngành địa phương
trong việc chi tiêu ngân sách cũng được nâng cao.
1.3. Những điều kiện tiền đề để có thể thực hiện thành công MTEF ở
Việt Nam
Nói chung điều kiện khi thực thi một chính sách mới đó là ý chí
quyết tâm của lãnh đạo, năng lực lãnh đạo, trang thiết bị cho chính sách
mới và cuối cùng là điều kiện về mặt pháp lý. Khi chuyển từ lập ngân sách
hàng năm sang MTEF tuy không phải là phương thức hoàn toàn mới song
công tác lập ngân sách là rất phức tạp và đòi hỏi trình độ cao. Để thực hiện
thành công cần có những điều kiện tiền đề quan trọng sau đây:
Cần có một nhận thức đúng là MTEF là một quy trình nâng cao hiệu
quả phân bổ nguồn lực chứ không phải là một sự đảo lộn hay thay đổi hoàn
toàn thực tế soạn lập ngân sách hiện hành.
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
9
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
Phải có một hệ thống dự báo kinh tế vĩ mô trung hạn thật tốt. Điều
này đòi hỏi phải có sự thu thập, xử lý và công khai hóa thông tin kinh tế vĩ
mô. Sở dĩ khuôn khổ trung hạn thường được chọn là 3 năm vì các chuyên
gia cho rằng, ngay cả những dự báo kinh tế vĩ mô tốt nhất cũng chỉ đáng
tin cậy trong vòng 3 năm trở lại.
Phải có sự đồng bộ trong việc triển khai MTEF với hàng loạt các cải
cách khác có liên quan. Ví dụ, nếu thực hiện theo MTEF thì trong luật
ngân sách cũng cần phải có những sửa đổi thích hợp về những quy định
liên quan đến việc xây dựng dự toán ngân sách hàng năm.
Phải có sự quyết tâm cao từ phía các nhà hoạch định chính sách, bởi
vì quy trình mới sẽ đòi hỏi phải có những thay đổi rất lớn trong thông lệ
lập và phê duyệt dự toán hàng năm. Điều này không thể thực hiện nếu

thiếu sự hậu thuẫn chính trị của các nhà lãnh đạo cấp cao.
Cần có sự liên kết chặt chẽ giữa quy trình lập, thực hiện, giám sát,
báo cáo và đánh giá ngân sách.
Phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan phân bổ ngân sách
trung ương như Bộ Tài chính, Bộ KH và ĐT, và giữa các cơ quan này với
các bộ, ngành, địa phương thụ hưởng ngân sách.
Phải tăng them quyền chủ động cho các bộ, ngành, địa phương trong
việc xây dựng các chiến lược hoạt động nhằm thực hiện kết quả đầu ra của
mình.
Phải có một đội ngũ cán bộ hoạch định kế hoạch và ngân sách có
trình độ cao từ cấp trung ương tới cấp địa phương. Điều này không thể
ngay một lúc mà có được, mà nó đòi hỏi phải có kế hoạch nâng cao năng
lực cán bộ lập ngân sách ngay từ bây giờ, với việc tranh thủ sự ủng hộ và
trợ giúp của các chuyên gia quốc tế.
Tóm lại, MTEF là một quy trình soạn lập và quản lý ngân sách hiệu
quả, nâng cao được tính minh bạch về ngân sách, đảm bảo được kỷ luật tài
chính tổng thể và phân bổ được các nguồn lực khan hiếm của ngân sách
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
10
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
vào các lĩnh vực được ưu tiên. Thực hiện MTEF đòi hỏi phải có sự chuẩn
bị chu đáo và chuyển đổi dần dần từ quy trình soạn lập ngân sách truyền
thống hàng năm. Tuy nhiên, với quyết tâm cao từ phía các nhà lãnh đạo,
việc chuyển đổi đó là có thể thực hiện được, giống như nhiều quốc gia
xung quanh chúng ta đã và đang thử nghiệm.
2. Vai trò của giáo dục với phát triển kinh tế
2.1. Giáo dục và Đào tạo và vai trò quyết định của nó trong đào tạo
nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế
Con người là trung tâm của sự phát triển, nó vừa là mục tiêu vừa là
động lực của phát triển. Tuy nhiên, nhân tố con người vốn nằm ở dạng

tiềm năng. Ðể nhân tố con người trở thành nguồn lực mạnh mẽ bao gồm
những người lao động, có ý thức tốt, trình độ cao, dồi dào tinh thần yêu
nước, trách nhiệm với công việc, sống có văn hóa, cầu thị chính là mục
tiêu và kết quả của giáo dục - đào tạo.
a. Vài nét về vốn con người
Thông thường khi nói đến vốn, người ta thường đề cập đến vốn vật
chất như: Nhà xưởng, máy móc, trang thiết bị kỹ thuật, dự trữ hàng hoá và
nguyên liệu thô. Nhưng “ vốn con người “- năng lực, tri thức và kỹ năng
của con người đóng vai trò rất quan trọng đối với sản xuất. Ở Mỹ thu nhập
dựa trên tri thức và kỹ năng (thông qua lương) gấp 14 lần so với thu nhập
dựa trên vốn vật chất (thông qua cổ tức và lợi nhuận công ty không chia).
Lao động một yếu tố đầu vào của sản xuất. Trước đây chúng ta chỉ
quan niệm lao động là yếu tố vật chất đầu vào giống như yếu tố vốn và
được xác định bằng số lượng nguồn lao động của mỗi quốc gia( theo đầu
người hoặc thời gian lao động). Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện
đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao động gọi là
vốn nhân lực. Đó là các lao động có kỹ năng sản xuất, có thể vận hành
những máy móc phức tạp, có sáng kiến và phương pháp mới trong các hoạt
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
11
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
động kinh tế. Việc hiểu rõ yếu tố lao động theo hai nội dung có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong việc phân tích lợi thế và vai trò của yếu tố này trong
TTKT của các nước phát triển và các nước đang phát triển. Hiện nay
TTKT của các nước ĐPT được đóng góp nhiều bởi quy mô, số lượng lao
độn, yếu tố vốn nhân lựccòn có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng
lao động ở các nước này còn thấp.
TTKT phụ thuộc vào các yếu tố vốn, kỹ thuật – công nghệ, lao
động. Ở những nước ĐPT, vốn là thứ mà có thể huy động ở trong nước
hoặc nước ngoài. Kỹ thuật- công nghệ là thứ mà ta có thể mua được.

Nhưng cả hai yếu tố trên đều có chung những đặc điểm. Một, nếu phải vay
hoặc mua ở nước ngoài thì phải trả cả vốn lẫn lãi, thậm chí còn là lãi
kép( gồm lãi của bản thân vốn và lãi do tỷ giá tăng). Hai, đều phải qua sự
sử dụng của con người mới phát huy được hiệu quả, nếu để lãng phí, thất
thoát thì chẳng những TTKT không tương ứng, mà còn làm cho gánh nặng
nợ nần gia tăng. Khác với hai yếu tố trên , lao động là thứ mà nước ta sẵn
có tức là nội lực. Tuy lao động nước ta rất nhiều nhưng lại thiếu hụt lao
động có tay nghề, trình độ cao. Đòi hỏi phải đầu tư cho giáo dục đáp ứng
nhu cầu lao động tạo điều kiện thúc đẩy TTKT.
Bắt đầu những năm 1990 là sự công nhận một giai đoạn mới trong
sự phát triển kinh tế toàn cầu: “ nền kinh tế tri thức” hay kinh tế được tri
thức thúc đẩy. Sự công nhận này xuất phát từ thực tế là các quốc gia quan
tâm phát triển tri thức thông qua đầu tư mạnh vào giáo dục. Hơn nữa, ngày
nay các nước nghèo có thể “nhảy vọt “ trong quá trình phát triển của mình
với điều kiện có thể tiếp thu các tri thức tiên tiến của toàn cầu và điều
chỉnh nó phù hợp với nhu câu phát triển của nền kinh tế nước họ. Lực
lượng lao động được đào tạo tốt và có khả năng thích ứng là yếu tố trung
tâm để thực hiện mục tiêu này.
Hầu hết vốn con người được tạo dựng thông qua giáo dục hoặc đào
tạo để giúp tăng năng suất kinh tế của cá nhân- tức là tạo điều kiện cho
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
12
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
người đó sản xuất các hàng hoá và dịch vụ ngày càng có giá trị hơn và nhờ
đó kiếm được thu nhập cao hơn. Chính vì vậy các Chính phủ, công nhân va
các chủ doanh nghiệp đầu tư vào vốn con người thông qua vịêc đầu tư tiền
bạc và thời gian vào giáo dục và đào tạo. Chính phủ chi tiêu công quỹ cho
giáo dục vì họ tin rằng người dân được đào tạo tốt hơn sẽ đóng góp vào sự
phát triển nhanh hơn và bền vững hơn của đất nước. Các ông chủ trả tiền
đào tạo cho người lao động vì họ hy vọng sẽ bù đắp chi phí và có thêm lợi

nhuận khi năng suất tăng. Các cá nhân thường đầu tư thời gian và tiền bạc
vào giáo dục và đào tạo do ở hầu hết các quốc gia những người được đào
tạo tốt và có kỹ năng thường kiếm được nhiều tiền hơn.
Để tạo ra hiệu suất kinh tế, giáo dục và đào tạo phải đáp ứng các
nhu cầu thường xuyên thay đổi của thị trường lao động, đó là giáo dục và
đào tạo phải trang bị cho các h ọc viên kiến thức và kỹ năng cần thiết trong
từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế của một nước. Những nước đang
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường
thường cần nhiều người được đào tạo về kinh tế và quản lý kinh doanh để
làm việc trong những lĩnh vực tư nhân mới nổi cũng như trong các lĩnh
vực Nhà nước đã cải tổ. Cuộc cách mạng thông tin liên lạc ngày càng đòi
hỏi phải có được nhiều người có kỹ năng máy tính hơn, còn quá trình toàn
cầu hoá lại thúc đẩy nhu cầu về nhân công có kỹ năng ngoại ngữ.
b. Vai trò của giáo dục đối với việc nâng cao chất lượng lao động
Tài sản thực sự của một quốc gia là con người và mục đích cuối của
tăng trưởng là tạo môi trường cho phép người dân được hưởng thụ cuộc
sống trường thọ, mạnh khoẻ và sáng tạo. Phát triển con người vừa là
phương tiện, vừa là mục tiêu của PTKT. Các quốc gia đều đặt trọng tâm
chính vào phát triển con người. Giáo dục có vai trò hết sức quan trọng
trong phát triển con người. Giáo dục tạo ra một lực lượng lao động có trình
độ, có kỹ năng làm việc với năng suất cao là cơ sở để thúc đẩy tăng trưởng
nhanh và bền vững. TTKT nhanh và bền vững là điều kiện cần thiết nâng
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
13
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
cao phúc lợi cho con người. Giáo dục có vai trò rất lớn trong nâng cao chất
lượng lao động là:
Thứ nhất, giáo dục là cách thức để tăng tích lỹ vốn con người đặc
biệt là tri thức và sẽ giúp cho việc sáng tạo ra công nghệ mới, tiếp thu công
nghệ mới do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn.

Thứ hai, giáo dục tạo ra một lực lượng lao động có trình độ, có kỹ
năng làm việc với năng suất cao là cơ sở thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững.
Vai trò của giáo dục thường được các nhà kinh tế đánh giá bằng chỉ
tiêu ”tỷ suất lợi nhuận cho giáo dục”. Về lý thuyết , tỷ suất lợi nhuận từ
đầu tư giáo dục cũng giống lợi nhuận đầu tư vào bất kỳ dự án nào khác. Đó
là tỷ lệ phần trăm của lợi nhuận đầu tư ở một mức độ giáo dục nhất định
với tổng các chi phí. So sánh chỉ số này giữa các cấp giáo dục có thể giúp
cho việc đánh giá lợi ích kinh tế của đầu tư giáo dục ở cấp nào có hiệu quả
hơn.
Kết quả nghiên cứu ở các nước cho thấy tỷ suất lợi nhuận đầu tư
vào cấp tiểu học là cao hơn các cấp học khác. Chẳng hạn, tỷ suất lợi nhuận
chung của thế giới (đầu thập niên 90) ở cấp tiểu học là 18,4% trung học là
13,1%, Đại học là 10,9%. Các số liệu tương ứng của Việt Nam là 10,8%,
3,8% và 3,0%. Như vậy có thể thấy rằng giáo dục tiểu học và giáo dục cơ
bản là có hiệu quả hơn, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Do
vậy chính sách giáo dục của các nước đang phát triển cũng tập trung nhiều
và ưu tiên nhiểu hơn cho giáo dục tiểu học.
Thứ ba, giáo dục giúp cho việc cung cấp kiến thức và những thông
tin để người dân đặc biệt là phụ nữ có thể có thể sử dụng những công nghệ
nhằm tăng cường sức khoẻ,dinh dương. Chẳng hạn tỷ lệ tử vong trẻ em
giảm xuống, tỷ lệ dinh dương trẻ em tăng lên cùng với học vấn của cha
mẹ, đặc biệt của người mẹ vì biết sinh hoạt về sinh hơn hay biết cách sử
dụng những thức ăn giầu dinh dưỡng hơn… Với ý nghĩa trên giáo dục còn
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
14
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
góp phần vào việc bổ sung cho các dịch vụ y tế ( giảm nhu cầu về những
dịch vu y tế).
Như vậy, giáo dục có vai trò vô cùng quan trọng, bên cạnh y tế và

tác phong công nghiệp, giáo dục quyết định chất lượng của lực lượng lao
động. Một xã hội có chất lượng lao động càng cao thì càng phát triển.
2.2 Thực trạng ngành giáo dục Việt Nam
a. Tổng quan
Tuổi
(Nguồn: Trang web Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
15
HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN
Tiến sĩ
( 2- 4 năm)
Đại học
( 4 – 6 năm)
Cao đẳng
( 3 năm)
Trung học phổ thông
( 3 năm )
TH chuyên
nghiệp (3năm)
Dạy nghề
Dài hạn (1-3 năm)
Ngắn hạn (< 1
năm)
Trung học cơ sở (4 năm)
Tiểu học (5 năm)
Mẫu giáo
Nhà trẻ
Giáo
dục
không

chính
quy
Thạc sĩ
(2 năm)
24
21
18
18
15
11
6
6
3
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
Nhìn vào sơ đồ có thể thấy rõ hệ thống giáo dục Việt Nam được
phân cấp rất rõ ràng từ cấp nhà trẻ cho trẻ em từ 3 tuổi cho đến cấp thạc sỹ,
tiến sỹ từ 24 tuổi trở lên sau khi đã tốt nghiệp bậc đại học, cao đẳng. Các
bậc giáo dục tăng dần theo cấp học và theo độ tuổi của học viên, và tại
từng mỗi cấp học đều có quy định số năm đào tạo cụ thể. Học viên hoàn
thành phổ cập giáo dục theo từng cấp và được cấp bằng tương ứng với cấp
giáo dục đó theo đúng quy chế. Hệ thống giáo dục Việt Nam bao gồm có 4
cấp cơ bản : giáo dục mầm non(trong độ tuổi từ 3-5 tuổi), giáo dục phổ
thông(trong độ tuổi từ 6-15), giáo dục chuyên nghiệp(trong độ tuổi từ
15-18) và giáo dục đại học (từ 15-24 tuổi) và sau đại học(trên 24 tuổi).
Tương ứng với các cấp giáo dục và cũng là điều kiện cho việc chuyển từ
cấp giáo dục thấp lên cấp giáo dục cao thì cũng có thêm quy định về hệ
thống văn bằng chứng chỉ.
b. Thành tựu
Mặc dù đất nước còn nghèo, thu nhập quốc dân còn thấp, lại trải
qua mấy chục năm chiến tranh nhưng giáo dục Việt Nam đã đạt được

những thành tựu to lớn.
* Hệ thống giáo dục quốc dân tương đối hoàn chỉnh, thống nhất,
đa dạng hóa được hình thành với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ
mầm non đến sau đại học. Mạng lưới các trường phổ thông được xây dựng
rộng khắp trên toàn quốc.
Không thể phủ nhận chính giáo dục đã chọn lọc và đào tạo nên
những nhân tài cho đất nước, đào tạo nên nguồn lao động có tri thức, ham
học hỏi đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp phát
triển đất nước.
* Công bằng xã hội trong giáo dục cơ sở về cơ bản được đảm bảo,
giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số có những chuyển biến tích cực. Cả
nước hoàn thành công tác xóa mù chữ, tỷ lệ biết chữ ở Việt Nam tương đối
cao (92% dân số), thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học.
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
16
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
Nhà nước đã có những chính sách khuyến khích giáo dục cơ sở
như miễn học phí tiểu học, sử dụng nguồn ngân sách nhà nước chi trả phấn
lớn cho các chi tiêu trong giáo dục. Nhà nước cũng trú trọng tới việc phát
triển các khu vực vùng sâu vùng xa như có chính sách đãi ngộ đặc biệt với
giáo viên (phân nhà, chế độ lương và thưởng đặc biệt…), hay ưu tiên các
học sinh sinh viên trong khu vực vùng cao có điều kiện tiếp cận và theo
học chương trình giáo dục tại miền xuôi.
* Công tác xã hội hóa giáo dục đã đem lại kết quả bước đầu. Tỷ
trọng kinh phí xã hội đóng góp trong tổng kinh phí giáo dục ngày càng
tăng, đạt khoảng 25% vào năm 2000. Đây là xu hướng tất yếu của sự phát
triển tuy nhiên cần nhận thức rõ tránh bước đi sai lầm. Xã hội hóa giáo dục
là huy động sức mạnh tập thể toàn xã hội vào giáo dục, là mọi người mọi
nhà đều làm giáo dục chứ không phải vứt giáo dục cho tư nhân làm để
chính phủ rảnh tay làm việc khác. Nhận thức đúng đắn để có con đương đi

đúng đắn.
* Giáo dục đang có những bước đi đúng hướng, đón đầu trong bối
cảnh đất nước bước sang giai đoạn mới.
Chúng ta vừa gia nhập WTO, trong giai đoạn trước mắt, một số
lượng khổng lồ các dự án sẽ được đầu tư ở Việt Nam, bạn bè quốc tế công
nhận Việt Nam là điểm đến hấp dẫn và đầy tiềm năng. Việc chuẩn bị lực
lượng lao động sẽ là yếu tố quyết định tới việc Việt Nam có trở mình để
trở thành một con rồng hay không. Nhận thức rõ điều này, chính phủ và Bộ
Giáo dục đã và đang có những chiến lược, kế hoạch phát triển những
ngành học phù hợp với xu hướng phát triển trong thời đại mới, cải cách sâu
rộng nền giáo dục vốn đã quá nặng nề và lạc hậu của chúng ta.
c. Hạn chế
- Hạn chế chung
Bên cạnh các thành tích đó, hệ thống giáo dục Việt Nam còn nhiều
khó khăn. Chất lượng giáo dục còn chưa cao, cơ sở vật chất giáo dục còn
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
17
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
thiếu thốn, nghèo nàn lạc hậu, giáo trình thiếu cập nhật, trình độ giáo viên
chưa cao và chưa được quan tâm đúng mức, công tác quản lý giáo dục còn
kém hiệu quả... Đặc biệt hiện vẫn còn hàng triệu trẻ em không được đến
trường.
Những hạn chế của nền giáo dục Việt Nam bắt nguồn từ những
nhược điểm có tính truyền thống của văn hóa Việt Nam và những hạn chế
của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhiều cuộc cải cách giáo dục đều diễn ra
nhưng hầu như đều thất bại do chỉ cải cách trên phương diện lý thuyết.
Chương trình giáo dục thiếu tính đa dạng, vẫn nặng lý thuyết, tính ứng
dụng thực tế thấp. Bên cạnh đó nặng về thi cử với nhiều kỳ thi kéo dài gây
áp lực cho thí sinh, sinh ra tâm lý học đối phó ở một bộ phận học sinh, sinh
viên. Và một trong những sai lầm cơ bản của hệ thống giáo dục Việt Nam

là coi vai trò của giáo dục đại học cao hơn giáo dục phổ thông. Tư tưởng
này trái ngược với hầu hết các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.
Thêm vào đó, nạn dạy thêm tràn lan, gian lận trong thi cử và bệnh
thành tích trong giáo dục…Tình trạng “hổng kiến thức” ở một bộ phận học
sinh sinh viên cũng đáng báo động.
Chúng ta thường nghe thấy những lời phàn nàn về chất lượng giáo
dục. Trong thời kỳ còn chiến tranh hay trong cơ chế bao cấp, nền giáo dục
XHCN của nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, chất lượng
giáo dục ở nhiều mặt đã được khẳng định, và chính nguồn nhân lực do
ngành giáo dục và đào tạo đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước, như chúng ta đang chứng kiến.
Một điều trăn trở là sự phân hóa quá lớn trong chất lượng giáo dục
phổ thông, mà kết quả kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2007 mới chỉ phản ánh
một phần. Khi mà chất lượng dạy học (về mặt văn hóa) còn chưa bảo đảm,
thì khó có thể nói đến chất lượng giáo dục toàn diện. Ðiều này sẽ ảnh
hưởng lâu dài đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
18
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
Ai cũng biêt vai trò quan trọng then chốt của giáo dục đối với tiền đồ
dân tộc. Thế nhưng, chúng ta đã để cho giáo dục VN tụt hậu khá xa so với
các nước trong khu vực và trên thế giới. Chưa bao giờ tình hình giáo dục
trở nên bức xúc như hiện nay. HTGD hoạt động chưa khoa học, hiệu quả
kém, chất lượng thấp, đang có nguy cơ bị thương mại hoá. Về cả ba
phương diện dân trí, nhân lực và nhân tài, những bất cập đều quá rõ:
• Dân trí thấp, biểu hịên trên lối sống và suy nghĩ, tập quán, tác
phong, tư tưởng, ý thức... Đạo đức bị xói mòn, thói gian dối, thiếu trung
thực đang tác động nặng nề đến mọi mặt của đời sống xã hội.
• Nhân lực không đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Yếu kiến
thức, kém kỹ năng thực hành, ít khả năng xoay xở, thiếu đầu óc tưởng

tượng và năng lực sáng tạo, đó là những đặc trưng chất lượng lao động
khiến sức cạnh tranh rất thấp.
• Nhân tài tuy không đến nỗi quá thiếu nhưng phát hiện và bồi
dưỡng kém, thiếu cơ hội và điều kiện phát triển. Chất xám bị lãng phí
nghiêm trọng dưới nhiều hình thức khác nhau.
HTGD Việt Nam cũng như cơ cấu giáo dục của ta có nhiều hạn chế
và bất hợp lý hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt
là trong GDĐH. Ở đây ta xét nhiều GDĐH vì nó có tác động trực tiếp đến
lao động- một nhân tố quan trọng của tăng trưởng.
- Hạn chế ở giáo dục phổ thông
Mâu thuẫn lớn trong GDPT hiện nay là một mặt ta lên án học vẹt,
học vì bằng, luôn hô hào cải tiến phương pháp dạy học, phát huy chủ động
của học sinh, học đi đôi với hành,… nhưng mặt khác vẫn duy trì cách thi
cử cổ lỗ, vẫn dung túng dạy thêm, học thêm tràn lan. Chính những việc đó,
cộng thêm chương trình và sách giáo khoa bất cập, là nguyên nhân trực
tiếp gây ra môi trường học đường ngày càng bị ô nhiễm, nền giáo dục của
ta ngày càng lạc hậu.
- Hạn chế ở giáo dục đại học
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
19
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
Trong thời đại cách mạng công nghệ, đại học có vai trò chủ đạo
trong toàn bộ hệ thống giáo dục của một nước. Nhưng so với thế giới và
khu vực, GDĐH của ta còn quá yếu kém, tụt hậu còn xa hơn GDPT. Trước
đây ta xây dựng đại học theo mô hình Liên xô cũ, nó không còn thích hợp
với giai đoạn phát triển mới của đất nước, song những biện pháp sửa đổi
chắp vá thời gian qua đã phá vỡ tính hệ thống của nó, rốt cuộc tạo ra cảnh
tượng lộn xộn, không còn chuẩn mực, không theo quy củ, tuỳ tiện, và kém
hiệu quả. Cụ thể là :
Chương trình học ở Việt Nam quá dài. Nên GDĐH Việt nam vẫn

còn mang nặng tính sách vở lý thuyết, giảm đáng kể tính sáng tạo áp dụng
thực tế của sinh viên.
Chương trình học ở Việt nam rất dàn trải, buộc sinh viên phải học
rất nhiều môn của nhiều chuyên ngành cùng một lúc, trong khi đó kiến
thức cung cấp cho sinh viên không thực sự sâu và có tính sáng tạo.
Chương trình ở Việt Nam không trang bị cho học sinh những kiến
thức cơ bản và toàn diện, khoa học tự nhiên, nhân văn, văn chương và
nghệ thuật, không có một lớp nào về phương pháp nghiên cứu và viết luận
văn… Đó là những kiến thức cơ bản rất cần thiết mà rất nhiều sinh viên
muốn biết.
Đương nhiên, đây không chỉ là vấn đề của giáo dục, mà là vấn đề
của toàn xã hội, nhưng trong đó trách nhiệm và vai trò cuả giáo dục rất lớn.
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
20
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
Chương II. Quy trình Xây dựng và Nội dung Kế
hoạch chi tiêu trung hạn ngành Giáo dục và
Đào tạo giai đoạn 2007-2009
I. Quy trình xây dựng Kế hoạch chi tiêu trung hạn
“Theo MTEF, việc phân bổ ngân sách dựa trên sự thống nhất giữa mức
trần chi tiêu ngân sách do cơ quan phân bổ TW xác định và nhu cầu về
ngân sách do các bộ, ngành, địa phương đề xuất. ”
1.Mức trần chi tiêu ngân sách
1.1.Khái niệm và nguyên tắc xác định mức trần chi tiêu ngân sách
Mức trần chi tiêu ngân sách cho một ngành trong tài khóa trung hạn
là khả năng cân đối có được của ngân sách nhà nước phân bổ cho ngành
đó, bao gồm cả chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển được tính toán và
dự báo và dựa vào các nguyên tắc sau đây:
Khả năng nguồn thu cân đối ngân sách có được trong năm tài khóa
được thể hiện trong bản cân đối tổng thể ngân sách nhà nước hàng năm

(năm 2007 đã được quốc hội phê duyệt) và dự báo cho thời kỳ trung hạn 3
năm 2007-2009 trên cơ sở kế hoạch 5 năm 2006-2010.
Mục tiêu nhiệm vụ phát triển của các ngành trong tổng thể mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được hoạch định trong bản kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã được Quốc hội thông qua.
Các nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách, được thể hiện trong
Luật Ngân sách đã được ban hành.
Các định mức chi tiêu công, trong đó chi thường xuyên và chi đầu
tư phát triển, những nội dung chi tiêu, những danh mục công trình đầu tư.
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
21
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
Các chính sách ưu tiên, các ngành ưu tiên và các nội dung chi tiêu
ưu tiên được xác định trong kế hoạch nhà nước.
1.2.Khuôn khổ chi tiêu ngân sách trung hạn 2007-2009 cho giáo dục
Ta có mức trần trong cân đối ngân sách được thể hiện trong bảng dưới đây:
Bảng 1: Mức trần trong cân đối ngân sách chi tiêu cho ngành Giáo
dục và Đào tạo
( Đơn vị: Tỷ đồng)
Khuôn khổ chi
Thực hiện
2005
Thực hiện
2006
Thực hiện
2007
Dự báo
2008
Dự báo
2009

Tổng chi NS cho
ngành giáo dục đào
tạo
45.023 51.271 66.103 72.000 81.200
% so với tổng chi
NSNN
17% 19,4% 18,5% 18,9% 18,9%
Trong đó
Chi đầu tư 7.423 10.109 11.530 13.100 15.200
Chi thường xuyên 37.600 41.162 54.573 58.900 66.000
(Nguồn: Báo cáo Kế hoạch tài chính ngành giáo dục 2006-2010)
Các ưu tiên của MTEF 2007-2009 cho ngành giáo dục và đào tạo là
tăng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách cho lĩnh vực giáo dục, đồng thời đẩy
mạnh công tác xã hội hóa để huy động nhiều nguồn lực thuộc các thành
phần kinh tế để đầu tư cho giáo dục đào tạo. Đầu tư cho hệ thống các
trường tiểu học, các trường trung học cơ sở để hoàn thành chương trình
phổ cập trung học cơ sơ vào năm 2010; tiếp tục thực hiện chương trình
kiên cố hóa trường học. Tập trung đầu tư cho các dự án lớn: hai đại học
Quốc gia; các trường đại học trọng điểm: các trường Đại học Bách khoa,
Sư phạm, Kinh tế, Y, Dược; các trường đại học vùng. Đầu tư giải quyết
chỗ ở cho sinh viên từ nhiều nguồn vốn đầu tư trong xã hội.
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
22
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
2. Vốn đề xuất chi tiêu ngân sách của ngành giai đoạn
2007-2009
Ngành giáo dục và đào tạo dựa vào mức trần của kế hoạch ngân
sách trung hạn 2007-2009 để xây dựng kế hoạch chi tiêu của ngành. Trong
quá trình xây dựng kế hoạch chi tiêu của ngành, về phần thu ngân sách, các
ngành đã tình toán, dự báo khá đầy đủ các nguồn thu ngân sách ngoài cân

đối được để lại cho ngành theo cơ chế hiện hành và theo những quyết định
riêng của Thủ tướng Chính phủ. Ngoài ra, trong lĩnh vực giáo dục, còn có
thêm nguồn vốn trái phiếu chính phủ, công trái giáo dục… Do vậy, ngành
cũng gộp vào nguồn vốn đề xuất chung cho chi tiêu trong ngân sách của
mình.
Bảng 2: Tổng chi thường xuyên và chi đầu tư cho ngân sách cơ sở
và các nhiệm vụ và chính sách mới đề xuất của ngành Giáo dục và
Đào tạo.
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Khuôn khổ chi
Thực hiện
2005
Thực hiện
2006
Thực hiện
2007
Dự báo
2008
Dự báo
2009
Tổng chi NS cho
ngành giáo dục đào
tạo
45.023 51.271 66.103 72.000 81.200
% so với tổng chi
NSNN
17% 19,4% 18,5% 18,9% 18,9%
Trong đó
Chi đầu tư 7.423 10.109 11.530 13.100 15.200
Chi thường xuyên 37.600 41.162 54.573 58.900 66.000

(Nguồn: Kế hoạch tài chính ngành Giáo dục 2006-2010)
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
23
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
2.1. Vốn đề xuất chi tiêu cho các chính sách và hoạt động hiện hành
của ngành Giáo dục trong tài khóa trung hạn 2007-2009
Việc đề xuất chi tiêu cơ sở cho các ngành được căn cứ vào các yếu
tố như sau:
Mức trần ngân sách trong cân đối được bố trí cho các ngành. Đây là
căn cứ đầu tiên quan trọng, một đề xuất quá cao trong bối cảnh nguồn ngân
sách eo hẹp là không thực tế và ngược lại một đề xuất quá thấp sẽ là không
tận dụng triệt để nguồn lực, thông thường thì các bộ ngành đều đề xuất
mức chi tiêu cao hơn so với mức trần ngân sách.
Các chi tiêu cơ sở đã và đang thực hiện. Việc đề xuất vốn chi tiêu
cho năm mới không thể tách rời năm cơ sở và xu hướng của nó, có thế thì
mối liên kết giữa các năm mới được đảm bảo.
Các cam kết của chính phủ về chi tiêu thường xuyên và chi tiêu đầu
tư đã có nguồn vốn bố trí trong năm cơ sở.
Khoảng thu ngân sách, phí, lệ phí và các nguồn thu khác ngoài
nguồn cân đối ngân sách nhà nước ở mức trần. Bên cạnh nguồn từ ngân
sách, giáo dục cũng có thể tận dụng vốn chi tiêu từ các nguồn thu khác.
Theo đó vốn đề xuất chi tiêu cho ngành giáo dục như sau:
Bảng 3: Vốn đề xuất của các ngành Giáo dục và Đào tạo cho chi tiêu
hiện hành
(Đơn vị: tỷ đồng)
Năm 2007 2008 2009
Tổng 90.260 99.287 109.215
% so với tổng nhu cầu
đề xuất chi tiêu của ngành
85,2 86 86,5

Trong đó
Chi thường xuyên 70.626 80.633 91.459
Chi đầu tư 19.673 18.653 17.720
(Nguồn: Kế hoạch tài chính ngành Giáo dục 2006-2010)
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
24
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
2.2.Vốn đề xuất chi tiêu cho các sáng kiến mới của ngành Giáo dục và
Đào tạo trong tái khóa trung hạn 2007-2009
Căn cứ vào mục tiêu phát triển của ngành, các cơ chế chính sách
mới sẽ đưa vào thực hiện trong thời kỳ trung hạn; ngành giáo dục đã dự
báo nhu cầu chi tiêu cho các sáng kiến mới trong MTEF 2007-2009 như
sau:
Bảng 4: Vốn đề xuất chi tiêu cho các sáng kiến mới của ngành giáo
dục.
(Đơn vị: tỷ đồng)
Năm 2007 2008 2009
Tổng 15.673 15.759 17.043
% so với tổng nhu cầu
đề xuất chi của ngành
14,8 14,0 13,5
Trong đó
Chi thường xuyên 4.462 4.957 8.197
Chi đầu tư 8.661 3.370 804
(Nguồn: Kế hoạch tài chính ngành Giáo dục 2006-2010)
3. So sánh mức đề xuất chi tiêu của Bộ Giáo dục và Đào tạo
với mức trần chi tiêu đặt ra
So sánh mức trần trong cân đối ngân sách, việc đề xuất chi tiêu của
ngành Giáo dục và Đào tạo tăng khá cao. Bảng dưới đây chứng mình điều
đó:

Bảng 5: So sánh mức chênh lệch của trần Ngân sách và đề xuất chi
tiêu ngành Giáo dục và Đào tạo
(Đơn vị: tỷ đồng)
Năm
Mức Đề % tăng Mức Đề % tăng Mức Đề % tăng
trần xuất so với trần xuất so với trần xuất so với
dự toán 2007 trần dự toán 2008 trần dự toán 2009 trần
2007 2007 2008 2008 2009 2009
Tổng 66.103 105.934 59 72.000 115.082 59 81.200 126.529 55,8
ĐT 11.530 28.121 154 13.100 26.921 105 15.200 25.228 66
Chuyên đề thực tập Nguyễn Quang Tiến - KTPT 46
25

×