Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Tài liệu Phân Tích Chi Phí và Lợi Ích - CHƯƠNG 5: Định Giá Đầu-Ra (output) Sử Dụng các Mức Giá Thị Trường doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.5 KB, 30 trang )

CHƯƠNG 5: Định Giá Đầu-Ra (output)
Sử Dụng các Mức Giá Thị Trường

Allen S. Bellas và Richard O. Zerbe
Đầu-ra (output) là các hàng hoá và dịch vụ do một dự án tạo ra. Đầu-ra (output) có
thể là điện do một đập thuỷ điện tạo ra, các căn hộ trong một dự án nhà chung cư
hay các lợi ích vui chơi giải trí mà một sân gôn của thành phố tạo ra. Trong khu
vực tư nhân, hàng hoá dịch vụ được bán trên các thị trường mà mức giá được chi
trả là thước đo chuẩn xác giá trị của chúng. Nếu đầu-ra (output) của một dự án
được bán trên các thị trường cho những người trả giá cao nhất thì mức giá thị
trường có thể được dùng để định giá cho các đầu-ra (output) này. Tuy nhiên, có
một số thách thức trong việc sử dụng giá thị trường để định giá cho đầu-ra (output)
của dự án. Cần phải tính đến thuế, tác nhân ngoại sinh và những bóp méo thị
trường chuẩn khác một cách chính xác. Ngoài ra, đầu-ra (output) cũng cần phải
được phân phối qua các thị trường mở mà bất kỳ người nào muốn bán hàng hoá đó
tại mức giá thị trường được phép làm vậy và trong điều kiện cân bằng, lượng cung
bằng với lượng cầu. Nếu vì một lý do nào đó đầu-ra (output) được bán với mức
giá không phản ánh giá trị thực trên thị trường của đầu-ra (output) thì giá trị tiền
mặt có thể không phải là thước đo tốt đối với lợi ích của dự án.

Ví dụ: Phân phối Phi thị trường ở các Khu chung cư


Ví dụ như hãy hình dung một dự án xây nhà chung cư xây dựng một số căn hộ
giống với những căn hộ đang được cho thuê trong khu vực tư song lại được bán
với mức giá thấp hơn so với mức giá thị trường cho các hộ gia đình có thu nhập
thấp đang có nhu cầu mua nhà chung cư. Việc sử dụng những mức giá cho thuê
thấp hơn mức giá thị trường này đối với mỗi đơn vị nhà ở cho thuê có thể là không
chính xác vì các đơn vị này tương đương với những đơn vị nhà ở do khu vực tư
cung cấp. Giá trị của chúng cần phải được định giá ở mức tương đương với giá trị
của các căn hộ cho thuê tư nhân. Độ chênh lệch giữa mức giá cho thuê cao ở khu


vực tư và mức giá cho thuê thấp của căn hộ của dự án chỉ đơn giản là một khoản
chuyển nhượng cho các gia đình thuê căn hộ của dự án. Mặt khác, nếu các hộ dành
được quyền thuê các căn hộ của dự án song hiện lại không sống trong những căn
hộ tư tương tự, rõ ràng là họ sẽ không định giá các căn hộ ở mức giá tư đầy đủ.
Thế nên việc dùng mức giá cho thuê ở khu vực tư nhân để định giá các căn hộ của
dự án có thể là không đúng. Trong bất kỳ trường hợp nào thì việc đơn thuần lấy
mức giá cho thuê của các căn hộ dự án làm thước đo cho giá trị của chúng cũng
đều là sai lầm.


Đối với một dự án tạo ra đầu-ra và cung cấp chúng cho thị trường thì có ba tác
động sau. Thứ nhất, giá thị trường của đầu-ra (output) có thể giảm đi do cung tăng.
Thứ hai, các nhà sản xuất đầu-ra (output) tư nhân khác có thể gánh chịu kết cục là
phải giảm lượng cung do mức giá giảm. Thứ ba, người tiêu dùng đầu-ra (output)
đó có thể mua một lượng nhiều hơn nếu dự án gây ra tác động giảm giá trên thị
trường.

Giảm sản xuất tư hay tăng tổng tiêu dùng đầu-ra (output) đều là một phần trong lợi
ích của dự án. Giảm sản xuất tư được coi là lợi ích nếu nhìn từ góc độ xã hội vì nó
giải phóng cho nguồn lực sản xuất đáng lẽ ra có thể được dùng cho các hoạt động
sản xuất khác.
[1] Tăng tiêu dùng tư được coi là một lợi ích là vì người tiêu dùng
đang có được nhiều hơn một thứ gì đó họ cần.

Phương pháp định giá chuẩn xác đầu-ra (output) của dự án có thể được tóm
lược bằng hai quy tắc sau:

· Mức tiêu dùng đầu-ra tăng cần được đo lường dựa trên mức sẵn sàng chi trả của
người tiêu dùng cho đầu-ra đó.
[2]


· Mức giảm trong sản xuất tư của một đầu-ra cần được đo lường dựa theo chi phí
cận biên mà nhà sản xuất phải bỏ ra cho việc cắt giảm sản xuất.

Hình 5-1 minh hoạ những quy tắc này, đường cung và đường cầu ban đầu là S và
D. Dự án tăng cung đầu-ra từ S lên S'. Mức tăng trong tiêu dùng, Q
t
- Q
0
, được
định giá dọc theo đường cầu hay giá trị cận biên. Mức cắt giảm của sản xuất tư, Q
0

- Q
p
, được định giá dọc theo đường cung và đường chi phí cận biên. Tổng tiêu
dùng tăng và sản xuất giảm là tổng lượng đầu-ra (output) mà dự án tạo ra. Chương
này bàn đến việc áp dụng chuẩn xác những quy tắc này cho hàng loạt các tình
huống khác nhau.

Hình 5-1



Các kích cỡ tương ứng của sản xuất tư giảm và tiêu dùng tăng sẽ phụ thuộc vào độ
co dãn tương ứng của cung và cầu.

Nếu cầu là co dãn tương đối và cung là không co dãn tương đối thì đầu-ra (output)
tăng thêm do dự án tạo ra sẽ được dùng cho tiêu dùng gia tăng. Ví dụ như một dự
án làm tăng diện tích văn phòng công sở trong một khu vực sẽ khiến cho tổng diện

tích văn phòng tăng lên một lượng đáng kể về ngắn hạn song lại làm giảm rất ít
hay không hề khiến cho lượng diện tích văn phòng ở khu vực tư nhân.

Mặt khác, nếu cầu là không co dãn tương đối và cung là co dãn tương đối thì đầu-
ra (output) của dự án sẽ khiến cho sản xuất tư của mặt hàng đó suy giảm. Trong
khi nó có thể gây ra thiệt hại cho các nhà sản xuất tư thì chi phí sản xuất được cắt
giảm lại là tiết kiệm chi phí có được nhờ tác động của dự án. Một ví dụ có thể là
một dự án trồng một loại cây lương thực ở một nước. Cầu lương thực là không co
dãn song nếu nhà sản xuất lương thực được phép tự do xuất khẩu sang các nước
khác thì cung lương thực ở nước đó có thể là co dãn. Dự án sẽ tăng cung cả mặt
hàng lương thực đó và đẩy mức giá đi xuống. Người tiêu dùng sẽ tiêu thụ một
lượng lương thực bằng với mức trước dự án song nhà sản xuất sẽ phản ứng bằng
cách cắt giảm lượng hàng bán trong nước và tăng xuất khẩu sang các nước khác.

Có nhiều cách thức áp dụng khác nhau những quy tắc này tuỳ thuộc vào điều kiện
trong các thị trường đầu vào. Trước hết, chúng ta xét các thị trường hoạt động mà
không có bóp méo đáng kể nào. Sau đó, chúng ta sẽ chuyển sự chú ý sang một số
những bóp méo hay phi hiệu quả có thể khiến cho giá trị thực của đầu-ra (output)
khác xa so với mức giá chi trả cho chúng.

5.1 Khi các Thị trường là Tương đối Hiệu quả

Nếu các thị trường hoạt động hoàn toàn hiệu quả, mức sẵn sàng chi trả của người
tiêu dùng phải xấp xỉ bằng với chi phí cận biên của nhà sản xuất và cả hai giá trị
này đơn giản sẽ bằng với mức giá thị trường của đầu-ra (output). Điều này cho
thấy rằng một thị trường trong đó không có (hay có nhưng không đáng kể) thuế,
tác nhân ngoại sinh và sức mạnh thị trường và trong đó cả nhà sản xuất lẫn người
tiêu dùng đều được thông tin đầy đủ. Những điều kiện này nhất quán với mô hình
cạnh tranh hoàn hảo song một thị trường không nhất thiết phải là một thị trường
cạnh tranh hoàn hảo theo định nghĩa chặt chẽ nhất của nó để có thể áp dụng được

những nguyên tắc của phần này. Một điều quan trọng cần phải tính đến là không
có độ chênh lệch lớn giữa chi phí cận biên và mức giá chi trả bởi người tiêu dùng.

Trong tình huống đơn giản này việc xác định kích cỡ tương ứng của sản xuất tư
cắt giảm và tiêu dùng gia tăng là không mấy quan trọng. Một điểm quan trọng cần
tính đến là lượng đầu-ra (output) được dự án tạo ra tương ứng với kích cỡ của thị
trường liên quan và liệu giá thị trường có thể thay đổi do tác động của dự án hay
không. Điều này có nghĩa là dự án tạo ra một lượng đầu-ra (output) nhỏ hay lớn?

Trường hợp cơ bản: Lượng Đầu-ra (output) Tương đối lớn

Hình 5-1 cho ta biểu đồ cơ bản nhất của cung của đầu-ra (output) của dự án. Việc
bán đầu-ra (output) của dự án trên thị trường mở tăng cung từ S=MC lên S' khiến
cho mức giá giảm từ P
0
xuống mức P
1
và tăng tổng lượng đầu-ra (output) được
tiêu thụ từ Q
0
lên Q
t
. Mức giá suy giảm cũng có nghĩa là lượng đầu-ra (output) do
nhà sản xuất tư làm ra giảm từ Q
0
xuống Q
p
. Cung của họ được cho bởi đường
cung ban đầu. Như mô tả ở trên, tổng giá trị của đầu-ra (output) dự án bằng tổng
mức sẵn sàng chi trả của người tiêu dùng cho đầu-ra (output) tăng thêm (phía bên

phải của vùng bôi sẫm ở Hình 5-1) và cắt giảm trong chi phí sản xuất của nhà sản
xuất tư cắt giảm sản lượng của mình (phía bên trái của vùng bôi thẫm trong Hình
5-1).

Không khó để tính toán vùng này nếu biết các lượng đầu-ra (output) và mức giá
liên quan. Tổng giá trị của đầu-ra (output) ngang bằng với tổng đầu-ra (output) của
dự án (Q
t
- Q
p
) nhân với trung bình của các mức giá trước và sau dự án là P
0
và P
1
.
Nói cách khác, mỗi đơn vị đầu-ra (output) của dự án cần phải được định giá ở mức
trung bình của mức giá trước dự án và mức giá sau (hay trong thời gian thực hiện)
dự án. Ví dụ, nếu một dự án tạo ra 1000 đơn vị đầu-ra (output) có mức giá dự kiến
sẽ giảm từ $5.00 xuống còn $4.00 do cung tăng, giá trị đúng gắn cho đầu-ra
(output) này là $4.50/đơn vị hay tổng giá trị là $4500.

Trong việc ước tính tác động giá cả của những dự án có quy mô lớn, một cách tiếp
cận là dùng con số ước lượng về độ co dãn giá cầu và độ co dãn giá cung của đầu
vào đang xét. Phần trăm giảm giá do tác động của một dự án có thể được tính bằng
phương trình sau



trong đó



Q = tổng lượng hàng được trao đổi trên thị trường trước khi có dự án

Q
dự án
= lượng hàng sẽ được một dự án tạo ra

PED = độ co dãn giá của cầu đầu vào (Price Elasticity of Demand)

PES = độ co dãn giá của cung đầu vào (Price Elasticity of Supply)

Ví dụ:

Một chương trình đào tạo nghề bao gồm việc thiết lập một nhà máy sản xuất xe
đạp để bán trong thị trường nội địa. Trung bình có 10,000 chiếc xe đạp được bán
ra thị trường xe đạp địa phương hàng năm. Lượng xe đạp dự án dự định sản xuất
ra mỗi năm là 1500 chiếc hay chiếm khoảng 15% thị phần địa phương. Các nhà
kinh tế ước tính rằng độ co dãn giá của cung trên thị trường xe đạp địa phương là
0.8 và độ co dãn của cầu tương ứng là -1.3. Vấn đề cần phân tích cho dự án là cần
gắn giá trị nào cho những chiếc xe đạp được sản xuất ra.

Công thức để tính phần trăm cắt giảm trong mức giá là



Thế nên, giá xe đạp có thể sẽ giảm xuống khoảng 7.1% do tác động của dự án.

Để vận dụng thông tin này trong việc định giá những chiếc xe đạp được sản xuất
ra, bạn cần phải biết được mức giá xe đạp trước khi có dự án.
[3] Hãy hình dung

rằng mức giá trung bình của xe đạp là $400. Dựa trên điều này, bạn có thể ước
tính là mức giá xe đạp sau khi dự án bắt đầu hoạt động sẽ là



và giá trị đúng gắn cho xe đạp do dự án sản xuất ra sẽ là mức trung bình của mức
giá trước dự án ($400) và mức giá sau dự án ($371.60) hay $385.80.
[4]

Có thể thấy một số lời khuyên mang tính thực tế ở đây. Trong khi có hàng loạt các
ước tính về độ co dãn cầu, các con số ước tính về độ co dãn cung hiếm hoi hơn.
Nếu bạn không có được con số về độ co dãn cung và cầu của thị trường bạn quan
tâm thì dưới đây là một số chỉ dẫn có thể giúp bạn dự đoán các tác động của giá
cả.

Các nhà sản xuất không thể thay đổi lượng hàng họ đưa ra bán trên thị trường
trong ngắn hạn. Ví dụ như trường hợp của quỹ nhà ở trong một thành phố. Trong
một vài tháng, hầu như là không thể tăng cung nhà ở trong thành phố. Điều này
hàm ý rằng độ co dãn cung ngắn hạn xấp xỉ bằng 0. Nếu điều đó xảy ra với ví dụ
xe đạp nêu trên thì mức giá giảm do tác động của dự án sẽ là



hay mức giá giảm khoảng 11.5%.

Về dài hạn, nếu các công ty có thể ra khỏi thị trường mà không phải trả giá gì hết
thì nếu có đủ thời gian, mức giá có khả năng sẽ quay trở lại mức cân bằng dài hạn.
Điều này hàm ý rằng độ co dãn cung dài hạn là co dãn hoàn toàn, có nghĩa là
không có hiện tượng giảm giá về dài hạn.



Khoảng thời gian cần thiết để chuyển từ ngắn hạn sang dài hạn tuỳ thuộc vào tính
chất từng ngành, tùy thuộc vào ý kiến của từng người. Một chỉ dẫn có thể là xét
lượng thời gian mà một doanh nhân cần có để quyết định gia nhập thị trường, tiến
hành những khoản đầu tư xác định cần thiết, bắt đầu đi vào hoạt động và tạo dựng
khả năng cạnh tranh. Hoặc là bạn có thể xét khoảng thời gian một công ty hiện
đang hoạt động thua lỗ cần để quyết định giải thể, thanh lý hàng tồn và đóng cửa
các cửa hàng.


Ví dụ: Dự án sản xuất thuốc Aspirin của Chính phủ

Một dự án của chính phủ thiết lập một nhà máy lớn sản xuất thuốc aspirin. Không
có bản quyền sản xuất thuốc Asspirin nào có hiệu lực. Chúng được sản xuất đại trà
và bán cạnh tranh trên thị trường. Lượng thuốc sản xuất kỳ vọng sẽ chiếm khoảng
18% thị trường nội địa. Nếu mức giá cho một hộp 50 viên là $1 và độ co dãn giá
của cầu cho loại thuốc này là -0.4, thì phải dùng mức giá nào để xác định giá trị
của thuốc aspirin do dự án sản xuất?

Điều thứ nhất cần tính đến là liệu có một thị trường quốc tế cho thuốc aspirin hay
không. Nếu có, thì cung trong nước sẽ là rất co dãn và các nhà cung cấp chỉ đơn
thuần chuyên chở sản phẩm của mình sang nước khác. Trong trường hợp này, mức
giá $1 trước dự án sẽ là giá trị thích hợp.

Nếu không có thị trường quốc tế cho thuốc aspirin, chúng ta có thể giả định rằng
độ co dãn giá ngắn hạn bằng 0. Điều này có nghĩa là các nhà sản xuất trong nước
sẽ duy trì mức sản lượng của mình ít nhất là trong ngắn hạn. Công thức trên cho
chúng ta




hay mức giá giảm khoảng 45% từ $1 xuống còn khoảng $0.55. Giá trị thích hợp
gắn cho thuốc aspirin được làm ra sẽ làm trung bình của hai con số này tức là
khoảng $0.775.

Về mặt dài hạn, một số nhà sản xuất aspirin tư nhân sẽ đóng cửa. Giá aspirin sẽ
tăng trở lại mức cân bằng ban đầu là $1. Kể từ thời điểm này, giá trị thích hợp gắn
cho thuốc aspirin làm ra sẽ là $1. Khoảng thời gian cần để chuyển sang dài hạn
phụ thuộc vào khoảng thời gian cần thiết để một số nhà sản xuất thuốc aspirin từ
bỏ hoàn toàn thị trường thuốc aspirin.


Lượng Đầu-ra (output) Tương đối nhỏ

Nếu dự án sản xuất ra một lượng đầu-ra (output) tương đối nhỏ, dự án sẽ không
gây ra tác động thay đổi nào đáng kể đối với mức giá thị trường. Có thể lấy mức
giá trước khi triển khai dự án làm giá trị của đầu-ra (output). Có thể còn nhiều bất
đồng xung quanh ý nghĩa của "một lượng tương đối nhỏ". Nếu lượng đầu-ra
(output) dự án sẽ tạo ra chiếm một phần nhỏ trong tổng lượng đầu-ra (output)
được tiêu thụ trong vùng thì có thể coi đó là một lượng nhỏ. Nếu có thị trường
quốc gia hay toàn cầu của đầu-ra (output) đó dự án ít có khả năng sẽ thay đổi mức
giá quốc gia hay toàn cầu của mặt hàng đó. Lúc đó, cũng có thể coi lượng đầu-ra
(output) của dự án là một lượng nhỏ. Tuy nhiên, nếu có những hạn chế đáng kể
cản trở việc lưu chuyển đầu-ra (output) ra khỏi thị trường địa phương thì các tác
động của một dự án lên mức giá địa phương có thể là quan trọng ngay cả khi dự án
không tác động gì tới mức giá toàn cầu.

Ví dụ như, một dự án tạo ra 100,000 galông dầu thô mỗi năm sẽ không có khả
năng tác động đến mức giá thị trường vì dầu thô được buôn bán trên các thị trường
quốc tế rộng lớn. Mặt khác, việc xây dựng một sân gôn trong một vùng hầu như

chưa có sân gôn có thể đẩy mức giá cân bằng của một ván gôn xuống vì thị trường
thích ứng cho một ván gôn là thị trường quốc gia nhiều hơn là thị trường toàn cầu.

Trong một nền kinh tế vận hành tốt, có rất ít dự án có quy mô đủ lớn để có thể kỳ
vọng là có tác động đáng kể lên mức giá của phần lớn các thị trường. Thế nên,
trong phần nhiều trường hợp khi thị trường hoạt động hoàn toàn hiệu quả, có thể là
hợp lý khi lấy các mức giá trước dự án làm giá trị của đầu-ra (output).

5.2 Định giá đầu-ra (output) khi thị trường bị bóp méo hay hoạt động không
hiệu quả

Hàng loạt các bóp méo có thể tồn tại trên một thị trường. Những bóp méo này có
thể thay đổi việc xác định giá trị của các đầu-ra (output) của dự án. Phần còn lại
của chương này sẽ bàn đến việc định giá các đầu-ra (output) khi có bóp méo thị
trường bao gồm thuế, các tác nhân ngoại sinh và sự góp mặt của các công ty với
sức mạnh thị trường đáng kể. Tuy hai quy tắc định giá nêu trên vẫn là những
nguyên tắc chỉ đường, song việc áp dụng chúng trong trường hợp có các bóp méo
thị trường sẽ là phức tạp hơn đôi chút.

5.3 Định giá Đầu-ra (output) khi có các loại thuế

Một phần lớn hàng hoá và dịch vụ trong một nền kinh tế phải chịu các khoản thuế.
Ở Mỹ, lao động, xăng dầu và phần lớn các mặt hàng phi thực phẩm khác được tiêu
dùng đều phải chịu một loại thuế nào đó. Việc định giá các đầu-ra (output) của dự
án có chịu thuế là phức tạp hơn đôi chút so với những hàng hoá không thuế. Đối
với các hàng hoá có thuế, cần phải ước tính các kích cỡ tương ứng của những thay
đổi trong sản xuất và tiêu dùng vì cắt giảm trong sản xuất tư và tăng trong tiêu
dùng sẽ được định giá khác nhau.

Để đạt được mục đích đề ra trong chương này, giả định rằng chính phủ thu thuế có

vị thế trong phân tích (standing in analysis). Hệ quả là chi trả thuế chỉ đơn giản là
những khoản chuyển nhượng từ người nộp thuế sang chính phủ và không được coi
là chi phí hay lợi ích. Một cách nhìn khác có thể là chính phủ thu thuế không có vị
thế. Có thể áp dụng quan điểm này nếu chính phủ (và thuật ngữ này có thể được
dùng một cách tương đối rộng rãi) thu thuế bị coi là không chính đáng, phân tích
sẽ thay đổi đôi chút vì chi trả thuế lúc đó cần được coi là chi phí.

Trong trường hợp thường hay gặp hơn, chính phủ có vị thế, hai quy tắc đã nêu
trong chương này hàm ý rằng nên đưa các khoản thuế vào giá trị của tiêu dùng gia
tăng song không đưa vào giá trị của sản xuất tư cắt giảm. Người tiêu dùng tư sẽ
mua các đơn vị đầu-ra (output) tăng thêm cho đến khi giá trị cận biên giảm đến
mức giá
bao gồm thuế, vì đó là mức giá mà người tiêu dùng phải trả. Bởi vậy, giá
trị cận biên của người tiêu dùng có bao gồm thuế mà họ phải đóng. Bất kỳ lượng
tiêu dùng tư gia tăng nào cũng cần được định giá ở mức giá bao gồm thuế như
minh hoạ trong Hình 5-2. Các nhà cung cấp tư của đầu-ra (output) sẽ sản xuất các
đơn vị tăng thêm cho đến khi chi phí cận biên tăng đến mức giá họ nhận được
song mức giá này là mức giá trước thuế. Bất kỳ lượng cắt giảm sản xuất nào cũng
cần được định giá ở mức chi phí sản xuất cận biên chính là mức giá thị trường trừ
đi thuế. Thuế chi trả cho việc bán những đơn vị đầu-ra (output) tăng thêm này chỉ
đơn thuần là một chuyển nhượng cắt giảm sang nhà chức trách thu thuế. Nó không
được tính là chi phí hay lợi ích.
[5]

Biểu đồ Chuẩn: Những Lượng Tương đối Lớn

Xét một dự án sản xuất một lượng lớn một đầu-ra (output) nào đó khiến cho mức
giá suy giảm. Điều này có nghĩa là một số nhà sản xuất tư của đầu-ra (output) đó
sẽ cắt giảm sản lượng và một số người tiêu dùng sẽ tăng lượng tiêu dùng của
mình. Hình 5-2 mô tả tình huống đó.


Cần phải đưa thuế vào giá trị gắn cho lượng tiêu dùng gia tăng vì độ sẵn sàng chi
trả tư bao gồm thuế đánh vào mặt hàng đó. Ví dụ như hình dung một dự án sản
xuất một loại xăng nào đó. Nếu mức giá của xăng là $1.50 bao gồm $0.40 thuế thì
những ngưởi đang tiêu dùng một lượng xăng đó sẽ có giá trị cận biên là $1.50.
Tiêu dùng gia tăng có nghĩa là người tiêu dùng đang được hưởng nhiều hơn những
gì đúng ra họ được hưởng ở mức giá $1.50.

Cần đưa thuế vào giá trị gắn cho lượng cắt giảm sản xuất tư vì chúng không phải
là một phần của chi phí của các nguồn lực mà đáng lẽ ra đã được dùng để sản xuất
ra đầu-ra (output) đó. Nếu mức giá của xăng là $1.50 song mức giá này bao gồm
$0.40 thuế thì chi phí sản xuất cận biên của xăng (trong một thị trường khác nào
đó vận hành tốt và mang tính cạnh tranh) phải là khoảng $1.10. Nếu các nhà cung
cấp tư rút cục phải thu hẹp sản xuất do tác động của dự án, những nguồn lực tiết
kiệm được lúc đó sẽ có giá trị vào khoảng $1.10 một galông xăng thôi không sản
xuất nữa.

Điều này quay trở lại hai quy tắc định giá đầu vào. Thay đổi trong tiêu dùng tư
được định giá ở mức giá có thuế vì mức sẵn sàng chi trả của cá nhân mỗi người
tiêu dùng bằng với mức giá có thuế. Thay đổi trong sản xuất tư được định giá ở
mức giá chưa thuế vì chi phí cận biên của việc mở rộng sản xuất là chi phí của
nguồn lực tiêu tốn để làm ra đầu vào chứ không phải là chi phí trả cho việc bán
đầu vào. Nếu các công ty sản xuất đầu-ra (output) đang tối đa hoá lợi nhuận và
cạnh tranh với nhau thì chi phí cận biên của họ phải xấp xỉ với mức giá chưa thuế.

Hình 5-2 mô tả tác động của một dự án lên thị trường của một đầu-ra (output) bị
đánh thuế. Đường cung ban đầu được quy định bởi phương trình S=MC, chi phí
sản xuất cận biên không bao gồm thuế. Tác động của thuế khiến cho đường cung
dịch chuyển từ S
t

, ngang với chi phí sản xuất cận biên cộng thuế. Tác động của dự
án là tăng tổng cung của đầu-ra (output) trên một thị trường. Tác động lên đường
cung có thể lớn hơn hay nhỏ hơn so với tác động của thuế. Trong biểu đồ này, tác
động đó là nhỏ hơn so với tác động của thuế nên mức giá do tác động của dự án
cao hơn mức giá trong trường hợp không có thuế. Tác động của dự án là làm giảm
mức giá từ P
0
xuống P
1
và giảm lượng do các nhà cung cấp tư bán ra trên thị
trường. Phía bên phải của vùng bôi thẫm cho thấy giá trị của tiêu dùng gia tăng
được định giá theo mức sẵn sàng chi trả của người tiêu dùng. Phía bên trái của
vùng bôi thẫm là giá trị của lượng sản xuất tư bị cắt giảm được định giá theo chi
phí cận biên của nhà sản xuất.

Giá trị của đầu-ra (output) có thể được tính bằng cách nhân lượng tiêu dùng gia
tăng với trung bình của mức giá có thuế trước và sau dự án hay nhân lượng sản
xuất bị cắt giảm với trung bình của mức giá không thuế trước và sau dự án.

Hình 5-2



Vì tiêu dùng tăng thêm được định giá không giống với sản xuất bị cắt giảm nên
việc đưa ra giả định nào đó về kích cỡ tương ứng của những thay đổi này là quan
trọng. Như thảo luận trước đó, một giả định về kích cỡ tương ứng của lượng tiêu
dùng gia tăng và lượng sản xuất tư bị cắt giảm có thể được dựa trên thông tin về
các phương trình cung và cầu, độ co dãn của cung và cầu và những nhân tố khác
phải tính đến. Những kiểu giả định này chắc chắn là không chính xác.


Như trong bất kỳ phân tích nào, việc thuế được chi trả cho ai là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng. Nếu chính phủ thu thuế không có vị thế trong phân tích thì cần phải
đưa thuế vào giá trị của sản lượng bị cắt giảm cũng như giá trị của tiêu dùng gia
tăng. Khoản thuế mà lẽ ra phải chi trả cho sản xuất tư bị cắt giảm được đưa vào
như lợi ích vì chi trả thuế sẽ rơi vào tay một bên không có vị thế. Thuế đánh vào
tiêu dùng gia tăng được tính đến vì mức giá có thuế là thước đo giá trị cận biên
hay mức sẵn sàng chi trả của người tiêu dùng. Mặt khác, nếu chính phủ đánh thuế
không có vị thế (như trường hợp thường xảy ra giống như trường hợp nêu trên) thì
chi trả thuế đối với sản lượng đầu-ra (output) bị cắt giảm đơn thuần là một chuyển
nhượng và không được đưa vào trong chi phí của đầu vào.

Phần khó nhất trong quá trình này là quyết định xem phân chia đầu-ra (output) của
dự án như thế nào giữa cắt giảm sản xuất tư và tăng tiêu dùng.

Chìa khoá để quyết định là một số kiến thức nhất định về độ co dãn cung và cầu
cho loại hàng đang xét. Cách dễ dàng nhất để có được những con số này là lấy
chúng từ độ co dãn cung và cầu dự tính mà các nhà kinh tế đã thực hiện và một số
kiến thức về đặc tính của các nhà cung cấp trên thị trường. Danh sách các nguồn
lực ở cuối cuốn sách có thể có độ co dãn cung và cầu dự đoán cho những loại hàng
hoá mà bạn quan tâm.

Nếu có được độ co dãn cung và cầu dự đoán đáng tin cậy thì những thay đổi trong
lượng cung và lượng cầu tư có thể được ước tính thông qua những phương trình
sau:



trong đó



dQ
S
là thay đổi của lượng do các nhà sản xuất tư cung cấp

dQ
D
là thay đổi về lượng cầu của người tiêu dùng

dX là lượng đầu vào dùng trong dự án

PES là độ co dãn giá của cung

PED là độ co dãn giá của cầu (ví dụ là -0.5)


Phần sau sẽ bàn tới hai trường hợp cực đoan.

Ví dụ: Một dự án thực nghiệm điều tra sản xuất rượu quy mô lớn ở bang Nevada
sẽ sản xuất 120,000 thùng rượu thuộc loại hiếm. Mặt hàng rượu phải chịu một
khoản thuế là $20/thùng.


Trường hợp A: Bạn có con số dự đoán về đường cung (có thuế) và đường cầu
cho thị trường này. Chúng là:


Qd = 600,000 - 2,000P

Qs = 3,000P - 60,000


Mức giá cân bằng trước dự án và $132.00 và lượng cân bằng là 336,000 thùng.
Khi nguồn cung của dự án được bổ sung vào thị trường thì lượng cung tăng thêm
120,000 thùng nữa lên mức

Qs' = 3,000P - 60,000 + 120,000

Qs' = 3,000P + 60,000

dẫn đến mức giá cân bằng mới là $108.00 và lượng cân bằng mới là 384,000
thùng. Sản xuất tư lúc đó giảm xuống còn 264,000 thùng: 384,000 thùng trừ đi
120,000 do dự án cung cấp.



Thế nên, tổng tiêu dùng sẽ tăng từ mức 336,000 thùng lên 384,000 thùng, tăng
48,000 thùng. Lượng tăng này được định giá ở mức trung bình của mức giá trước
dự án là $132.00 và sau dự án là $108.00 cho tổng giá trị là

48,000 thùng x $120.00/thùng = $5,760,000

Sản xuất tư sẽ giảm từ 336,000 thùng xuống còn 264,000 thùng, giảm 72,000
thùng
[6]. Lượng giảm này được định giá ở mức trung bình của mức giá trước dự
án là $112.00 và mức giá sau dự án trừ đi $20 tiền thuế là $88.00 cho tổng giá trị
của

72,000 thùng x $100.00/thùng = $7,200,000

Thế nên, tổng giá trị gắn cho lượng rượu do dự án sản xuất phải là tổng của giá trị
của lượng tiêu dùng gia tăng và lượng sản xuất tư bị cắt giảm hay là $12,960,000.



Trường hợp B: Bạn biết mức giá cân bằng ban đầu là $132.00 và lượng cân bằng
ban đầu là 336,000 thùng. Bạn có độ co dãn dự kiến của cung là 1.18 và của cầu là
-0.78.

Dựa trên độ co dãn của cung và cầu, có thể ước tính lượng tiêu dùng gia tăng và
lượng sản xuất tư bị cắt giảm như sau:



Mức tăng trong lượng cung trên thị trường 47,755 là mức tăng xấp xỉ 13%
[7].
Điều này có nghĩa là mức giá có thuế có thể dự kiến sẽ giảm (theo độ co dãn của
cầu) khoảng 16.7% xuống còn khoảng $111.70.
[8]

Thế nên, tổng tiêu dùng sẽ tăng 47,755 thùng. Cần định giá lượng tăng này ở mức
trung bình của mức giá trước dự án là $132.00 và mức giá sau dự án là $111.70
cho tổng giá trị của

47,755 thùng x $ 121.85/thùng = $5,818,947

Sản xuất tư sẽ giảm 72,245 thùng. Cần định giá lượng sản xuất bị cắt giảm này
theo mức trung bình của mức giá trước dự án là $112.00và sau dự án trừ đi $20
thuế là $91.70, cho tổng giá trị của

72,245 thùng x $101.85/thùng = $7,358,153




Thế nên, tổng giá trị gắn cho rượu do dự án sản xuất phải là tổng giá trị của tiêu
dùng gia tăng và sản xuất tư bị cắt giảm hay là $13,177,100.


Giả định Cực đoan 1: Cung Co dãn Hoàn toàn

Một giả định cực đoan song không nhất thiết là không thể xảy ra đó là cung là co
dãn hoàn toàn. Giả định này giống với tất cả đầu-ra (output) của dự án thay thế
cung tư nhân. Nói cách khác, giả định này tuyên bố rằng dự án sẽ không tạo ra bất
kỳ một sự tăng giá nào mà chỉ khiến cho sản xuất tư bị thu hẹp. Lượng cắt giảm
trong sản xuất tư sẽ bằng chính xác với lượng đầu-ra (output) do dự án tạo ra.

Với giả định này, đầu-ra (output) của dự án được định giá một cách dễ dàng. Vì
không có thay đổi trong tổng lượng đầu-ra (output) cung cấp cho thị trường nên
không có thay đổi trong mức giá thị trường. Tác động duy nhất là sản xuất tư bị
cắt giảm. Vậy nên, đầu-ra (output) của dự án phải được định giá ở mức giá trừ đi
thuế.

Giả định này có thể là thích hợp nhất cho các khoảng thời gian lớn hơn nếu mức
chi phí rút khỏi thị trường mà các công ty phải trả không cao. Trước tình trạng lợi
nhuận bị cắt giảm do mức giá thấp trong ngắn hạn, các công ty có thể sẽ chọn rút
ra khỏi thị trường cho đến khi giá thị trường tăng trở lại mức cân bằng dài hạn. Về
ngắn hạn sẽ có một phản ứng nào đó về thay đổi giá. Tuy nhiên, về dài hạn nếu dự
án có một thời gian hoạt động lâu dài thì giả định giá sẽ không thay đổi mà chỉ có
sản xuất tư bị cắt giảm có thể là hợp lý.

Trong ví dụ rượu ở Nevada, nếu lượng rượu 120,000 thùng do dự án làm ra được
bù đắp bởi lượng cắt giảm sản xuất tư 120,000 thùng thì phải định giá lượng rượu
do dự án làm ra ở mức giá trước dự án loại trừ thuế hay $112.00/thùng cho tổng

giá trị của $13,440,000.

×