Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Thực Trạng Hoạt Động Tiêu Thụ Sản Phẩm Của Công Ty Cổ Phần May 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.7 KB, 62 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nước ta đang trong thời kì hội nhập với một nền kinh tế đang dần
dần được hình thành và hoàn thiện cùng với nó là bao nhiêu sự đổi thay lớn
lao.Từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với sự chỉ đạo từ trên xuống
dưới: sản xuất cho ai? , sản xuất cái gì ?sản xuất như thế nào?,các yếu tố
đầu vào mua ở đâu? giá cả như thế nào? cách tiêu thụ sản phẩm đầu ra?…
đều có sự sắp xếp từ phía các cơ quan nhà nước đến một nền kinh tế thị
trường đa thành phần , đa sản phẩm đa cạnh tranh-nền kinh tế mà ở đó mỗi
doanh nghiệp là một chủ thể mang tính tự chủ cao, tự mình quyết định mọi
vấn đề và tự chịu tránh nhiệm về tất cả những quyết định đó. Một đặc trưng
nổi bật của nền kinh tế thị trường là sự đa dạng và phong phú của các
chủng loại hàng hoá và cũng chính vì vậy mà khách hàng dần dần trở thành
thượng đế thực sự. Khách hàng có vô số sự lựa chọn còn các doanh nghiêp
đương nhiên luôn luôn muồn được phục vụ họ.Vấn đề đặt ra cho doanh
nghiệp bây giờ là làm sao để kéo khách hàng tới và tiêu dùng sản phẩm của
mình.Và tất nhiên tự họ phải trả lời câu hỏi đó.
Khi nói tới những sản phẩm mà thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi
không ngừng thì không thể không nói tới thời trang và những sản phẩm dệt
may.Có thể nói rằng để kinh doanh trong ngành này thì nếu một doanh
nghiệp muốn sản phẩm của mình được tiêu thụ thì luôn luôn phải đặt câu
hỏi “sản xuất cái gi?” và câu trả lời mỗi tháng sẽ thay đổi một lần, thậm chí
còn nhanh hơn. Vì vậy mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải vận
động không ngừng để tồn tại và phát triển.Và thực tế đã chứng minh rằng
các doanh nghiêp dệt may Việt Nam đã hoàn thành khá tốt công việc của
mình khi mà sản phẩm của ta đã xuất khẩu sang hầu hết các nước với tỉ
trọng lớn,và giờ đây Việt Nam đã có trong danh sách nhưng nước xuất
khẩu dệt may hàng đầu trên thế giới.Có một doanh nghiệp góp phần không
1
nhỏ trong thành tích trên đó là Công ty cổ phần May 10. Trong suốt hơn 60
năm quaMay 10 từ những nhà xưởng bằng tre, nứa thành một doang nghiệp
mạnh của nghành dệt may Việt Nam. Với 8000 lao động, mỗi năm sản xuất


trên 20 triệu sản phẩm chất lượng cao các loại, 80% sản phẩm được xuất
khẩu sang các thị trường Mỹ, Đức, Nhật Bản, Hồng Kông... Nhiều tên tuổi
lớn của nghành may mặc thời trang có uy tín trên thị trường thế giới đã hợp
tác sản xuất với Công ty cổ phần May 10 như Pierre Cardin, GuyLaroche,
Maxim, Jacques Britt, Seidensticker, Dornbusch, C&A, Camel, Arrow,
...Qua tìm hiểu em xin trình bày về một số biện phát công ty May10 đã áp
dụng để có dược những thành tich đáng kể trên.
2
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM
I. HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM
1. Khái niệm
Hoạt động tiêu thụ sản phẩm là qua trình đư hàng hoá tới người tiêu
dùng để họ chấp nhân mua và thanh toáôach sản phẩm đó
Mọi doanh nghiệp thàng lập đều hương tới múc tiêu cụ thể đó là thu
được lợi nhuân.Họ tiến hàng quá trình sản xuất hàng hoá là để bán và tìm
kiếm lợi nhuận.Vậy nên tiêu thụ sản phẩm là một trong những nội dung cơ
bản và quan trọng của quá trình sản xuát kinh doanh
Một sản phẩm được gọi là hàng hoá chỉ khi nó được qua quá trình
trao đổi mua bán.Tiêu thụ snr phẩm là qua trình thực hiện giá trị của hàng
hoá , quá trình chuyển hoá hình thái giá trị của hàng hoá từ hàng sang tiền,
sản phẩm dược gọi là. tiêu thụ nếu nó được khách hàng chấp nhận thanh
toán tiền hàng. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản
xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp . Tiêu thụ sản phẩm nhằm thực hiệnthực hiện mục đích củ sản xuất
hàng hoá lá snr phẩm sản xuất để bán và thu lợi nhuận
2 Vai trò
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung thì việc tiêu thụ sản phẩm
chỉ đơn giản là việc giao hàng và nhận hàng.Thậm trí giao cho ai, giao như
thế nao doanh nghiệp cững chẳng cần quan tâm.Vậy nên qua triùnh tiêu thụ
sản phẩm ít được nhắc đến.Nhưng trong cơ chế thị trường ngày nay thì vai

trò của quá trình tiêu thụ sản phẩm đã được khẳng định:
+Tiêu thụ hàng hoá giúp cho hàng hoá từ hình tháI hiện vật sang hình
thái giá trị và động thời vòng chu chuyển vốn kinh doanh của doanh nghiệp
được hình thành.
+Tiêu thụ sản phẩm giúp cho qua trình tái sản xuất được giữ vững và
có điều kiện phát triển.
3
+Qua quá trình tiêu thụ sản phẩm mới biểu hiện được tính hữu ích của
mình, và loa đọng của người lao động lúc đố mới được thừa nhận.
Vậy hoạt động tiêu thụ sản phảm giữ vai trò quyết định đến hoạt động
kinh doanh .Thông qua hoạt đọng tiêu thụ sản phẩm doanh nhiệp được tiếp
xúc với người tiêu dùng với khách hàng của mình từ đó họ hiểu được
khách hàng,biết họ muốn gí và tìm cách thoả mãn.việc lắm bắt được xu
hướng tiêu dùng của khách hàng là đặc biệt quan trọnh, bởi trong thời buổi
kinh tế thị trường ngày nay mọi hàng háo , mọi công nghệ đều thay đổi một
cách chóng mựt lên doanh ngi\hiệp cũng phảI vân đông theo ,và quan trọng
là phảI đúng hướng.
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ
SẢN PHẨM
1. Các yếu tố bên trong
1.1Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm có lẽ là yếu tố hàng đầu trong tiêu trí lựa chọn
mua của phần lớn người tiêu dùng.Một sản phẩm được coi là chất lượng tốt
khi nó làm thoả mãn nhu cầu đùng với kỳ vọng của người tiêu dùng.Hay
chất lượng sản phẩm còn được coi là sự phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của
khách hàng.
Mọi doanh nghiệp nếu muốn sản phẩm của mình được khách hàng
chấp nhận và tiêu dùng thì vấn đề đầu tiên có lẽ là phải đảm bảo đươc chất
lượng sản phẩm.Nhà nước ta đã đưa ra các hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất
lượng nhằm bảo vệ chính quyền lợi của người tiêu dùng .Song chính các

doanh nghiệp giờ đây cũng tự ý thức rằng nâng cao chất lượng sản phẩm
không chỉ vì khách hàng, người tiêu dùng mà vì chính tương lai của doanh
nghiệp mình.
Tất nhiên là các doanh nghiệp muốn nâng cao chất lượng để kéo
khách hàng về bên minh trung thành sử dụng sản phẩm của mình nhưng
làm thế nào để năng cao chất lượng sản phẩm thì đó lại là vấn đề không
4
nhỏ.Để nâng cao chất lượng sản phẩm doamh nghiệp cần có sự đầu tư nhất
định vào việc nghiên cứu môi trường đầu tư công nghệ,đào tạo nhân
công… việc nay còn một số vốn không nhỏ nên ỏ Việt Nam ta hầu hết mọi
hàng hoa chỉ ở chât lượng vừa và trung bình.
1.2 Giá cả sản phẩm.
Hầu hết những người tiêu dùng Việt Nam là những người có thu nhập
vùa và thấp.Vây nên giá cả của hàng hoá quyết định rất nhiêu tới sưc mua.
Giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá, nghĩa là số lượng
tiền phải trả cho hàng hoá đó. Về nghĩa rộng đó là số tiền phải trả cho một
hàng hoá, một dịch vụ, hay một tài sản nào đó.
Định giá sản phẩm đối với các doanh nghiệp không phải điều dễ
dàng,Nếu doanh nghiệp địng gía thấp hàng hoa có thể bấn được nhiều
nhưng doanh nghiệp thu được lợi nhuận thấp ,nếu địng giá cao sẽ ít người
mua và đương nhiên lợi nhuận cũng không cao.Doanh nghiệp cần định giá
sao cho có thể thu được lợi nhuôn cao nhất.
Có rất nhiều cách định giá sản phẩm tuỳ vào đặc điểm của sản phẩm
và khách hàng mà doanh nghiệp đưa ra các chính sách giá cho phù
hợp.Hiện nay đối với những hàng hoá xa xỉ có tính chất tính năng ưu việt,
người ta thường dùng chiễn lược “hớt phần ngon” ban đầu định gia cao thu
hút những khách hàng lớn .những người có khả năng kinh tế sẵn sàng bỏ ra
những khản tiền không nhỏ để có được những hàng hoá nay đầu tiên.Sau
đó giá của các sản phẩm này sẽ được giảm dần để thu hút những khách
hàng còn lai.Còn đối với những loại hành hoá thông thường doanh nghiệp

thường dùng biện pháp giá thấp để khuyến khích sự tiêu dùng của người
dân sau đó mới nâng giá lên để tìm kiếm lợi nhuộn.
1.3 Phân phối hàng hoá.
Hàng hoa muốn bán chạy thì phải dựa vào nhu cầu của người tiêu
dùng va người tiêu dùng ở các nơi khác nhau thì có những nhu cầu khác
5
nhau.Vậy nên việc sẽ phân phối sản phẩm ở đâu lán như thế nào là vô cùng
quan trong.
Việc đặt các địa điểm bán hàng cần có sự xem xét một cách kỹ
lưỡng.Các của hàng không lên dặt quá gần nhau vì có thể vô tình trở thành
đối thủ cạnh tranh của nhau.Khi chọn địa điểm đặt của hàng cần quan tâm
đến các vẩn đề như đặc điểm dân cư: mật độ dân cư thu nhập,phong
tục,nghề nghiệp,thu nhập …;Các loại hàng hoá được bán xung quanh;…
Các kênh phân phối hàng hoá cũng hết sức quan trọng.Đó có thể là
kênh trực tiếp: người sản xuất bán trực tiếp cho người tiêu dung,hay kênh
gián tiếp :hàng hoá từ người sản xuất qua trung gian rồi mới đến tiêu
dùng.Tuỳ vào đặc tính của sản phẩm cũng như nhu cấu của khách hàng mà
doanh nghiệp nên bố trí các kênh phân phối cho phù hợp.
1.4 Các hoạt động xúc tiến.
Xúc tiến thương mại là những công cụ để làm năng động và gây ảnh
hưởng định hướng giữa người bán và người mua, và là hình thức tuyên
truyền nhằm mục tiêu tạo ra sự chú ý và chỉ ra được những lợi ích của hàng
hóa và dịch vụ đối với khách hàng tiềm năng.
Bản chất của xúc tiến thương mại là truyền tin về sản phẩm, doanh
nghiệp tới khách hàng để thuyết phục họ mua sản phẩm.hoạt động xúc tiến
thương mại bao gồm khuyến mại, quảng cáo thương mại, hội chợ, triển lãm
thương mại.Trong đó loại hình xúc tiến được sử dụng rộng rãi hiện nay
phải kể đến các chương trình quảng cáo.Ngày nay người ta không chỉ
quảng cáo trên ti vi đài bái ,qua mang mà con sử dụng cả phim ảnh ,rồi các
ngôi sao nổi tiếng…Đây là các hình thức quảng cáo rất tốn kém nhưng hiệu

quả thu được thì hoàn toàn xứng đáng.Hiện nay có những sản phẩm mà
trong giá của nó có cấu thành 40%chi phí quảng cáo,thậm trí còn hơn thế
nữa.
2.Các yêu tố bên ngoài
2.1 Khách hàng
6
Khách hàng là toang bộ những người tiêu dùng sản phẩm có doanh
nghiệp.Khách hàng có thể phân ra làm hai loại khách hàng hiện tại và
khách hàng tiềm năng.
Một doanh nghiệp nếu không có khách hàng thì không thể tồn tạiSố
tiền mà khách hàng bỏ ra mang lại doanh thu cho doanh nghiêp. Và một
sản phẩm sản xuất ra chưa thể gọi là hàng hoa chỉ khi nào có khách hàng
mua nó mới là một hàng hoá thực thụ.
Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để khách hàng biết đến sản phẩm
của mình ,thích sản phẩm và dẫn tới quyết định mua sản phẩm.Muốn vậy
doanh nghiệp cần tìm hiểu về khách hang và doanh nghiệp cần biết những
điều cơ bản sau đây:
+Khách hàng là người mua quyết định thị trường và quyết định người
bán.
+Khách hàng chỉ quan tâm tới hàng hoá có chất lượng ,giá cả phải
chăng và được mua bán một cách thuận tiện.
+khách hàng là người mua đòi hỏi người bán hàng phải quan tâm đến
lợi ích của mình.
+Nhu cầu thị hiếu của khách hàng luôn thay đổi; gây khó khăn đối với
hoạt động kinh doanh.
+Hoạt động bán hàng diễn ra trong thời kỳ chuyển đổi cơ chế quản lý.
Để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, để khách hàng mua sản
phẩm của mình các doanh nghiệp thường sử dụng các công cụ marketing
vơi 4p (giá cả,sản phẩm, phân phối, xuc tiến)
2.2 Đối thủ cạnh tranh

Có rất nhiều khái niệm về đối thủ cạnh tranh nhưng nhìn chung đối
thủ cạch tranh là nhưng doanh nghiệp mà mặt hàng doanh nghiệp kinh
doanh có khả năng làm giảm doanh thu cũng như lợi nhuận của công ty.
Các sản phẩm má đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất có
thể cùng chủng loại hay không cùng chủng loại với mặt hàng mà doanh
7
nghiệp đang kinh doanh.Nếu có càng nhiều đối thủ cạnh tranh thì sản phẩm
của doanh nghiệp càng bị đe doạ, nếu chất lượng sản phẩm của đối thủ mà
càng tốt thì khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp càng bị đe doạ…
Nhìn chung doanh nghiệp muốn tồn tai và phát triển thì phải luôn đổi mới
mình đúng cách,tự mình tìm ra những ưu điểm và phát huy để có thể vượt
qua các đối thủ cạnh tranh.Không có doanh nghiệp nao không có đối thủ
cạnh tranh và đã là đối thủ thì lợi ích không đồng thuận song không vì vậy
mà ta có thể dùng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh vì điều đố sẽ
làm suy giảm kinh tế đất nước.
2.3 Nhà cung ứng
Nhà cung ứng là những người cung ững những nguyên liệu đầu vào
cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp muốn tiêu thụ được nhiều sản phẩm thì cần cần giảm
các chi phí.Trong khi đó chí phí nguyên vật liệu là một trong những thành
phần chính cấu thành lên giá sản phẩm.Giá thành là một chuyện song
doanh nghiệp cần phải để ý đến chất lượng nguyên vật liệu,thời gian giao
hàng cách thức giao hàng .Các nhà cung ứng có thể coi là một dạng đối thủ
cạnh tranh của doanh nghiệp vì nếu lợi nhuân của họ trên một đơn vị sản
phẩm của họ càng lớn thị lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ giảm.
Trong nhiều trường hợp nhà cung ứng có thể gây sức ép lên doanh
nghiệp nếu nguyên vật liệu của họ là loại tốt hoặc hiếm.Để vhủ động hơn
doanh nghiệp có thể lấy hàng từ một số nhà cung ứng thay vì chi trung thuỷ
với một nhà cung ứng.
2.4Các sản phẩm liên quan

Các sản phẩm liên quan bao gồm sản phẩm thay thế và sản phẩm bổ
xung.
Sản phẩm thay thế là các sản phẩm có thể thoả mãn cùng một nhu
cầu của người tiêu dùng,nếu người tiêu dùng mua sản phẩm này sẽ thôi
mua sản phẩm kia nên nó đe doạ đến việc tiêu thụ sản phẩm của doanh
8
nghiệp.Tuy các sản phẩm cùng một nhu cầu cơ bản nhưng mỗi sản phẩm
vẫn có những đặc trưng riêng của mình .Vậy nên doanh nghiệp cần phát
huy tôt nhất những ưu thế của mình để không bị các sản phẩm thay thế thay
thế mình hoàn toàn tren thị trường.
2.5 Các yếu tỗ vĩ mô
Các yếu tố vĩ mô bao gồm môi trường kinh tế ,môi trường công
nghệ,môi trường văn hoá xã hội,môi trường tự nhiên,môi trường chính
phủ .pháp luậtvà chính trị.môi trường toàn cầu.Đó là các yếu tố vĩ mô nên
nó ảnh hưởng đến tất cả các vấn đề của xã hội và tất nhiên ảnh hưởng đến
ngành dêt may.
III. NỘI DUNG CỦA QUÁ TRÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM
9
1.Nghiên cứu thị trường.
Mọi sản phẩm đươc tạo ra là để mang ra thị trường trao đổi.Và muốn
hàng hoá của mình coa thể tìm được chỗ đứng trên thị trường thì doanh
nghiệp phải biết được thị trường cần gì và càn với số lựong bao nhiêu. Để
biết điều này thì phải nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường là nhằm xác định khả năng tiêu thụ những loại
hàng hoá trên một địa bàn nhất định trong một khoảng thời gian nhất
định.Và dựa vào đó doanh nghiệp có thể có các biện pháp nhằm thoả mãn
Thị trường
Nghiên cứu thị
trường
Thông tin thị

trường
Lập các kế hoạch
tiêu thụ sản phẩm
Hàng hoá dinh
vụ
Quản lý hệ thống
phân phối
Quản lý dự trứ và
hoàn thiện sản
phẩm
Quản lý lưc lượng
bán
Tổ chức bán hàng
và cung cấp dịnh
vụ
Thị trường
Sản phẩm
Dịch vụ
Giá.doanh số
Phân phối vá
giao tiếp
Ngân quỹ
Phối hợp và tổ
chức thực hiện các
kế hoạch
10
nhu cầu thị trường.Trước kia trong nền kinh tế kế hoach hoa tập trung thì
thị trường dường như đồng tính,mọi sản phẩm sản xuất ra đều sẽ được tiêu
thụ,Song giờ là thời buổi kinh tế thị trường với rất nhiều sự cạng trạnh vậy
lên khôngcó chỗ cho những sản phẩm không phù hợp.

Một sản phẩm giờ muốn tiêu thụ được phải coá chất lưong tốt,có mẫu mã
hiểu dáng đẹp có cách phân phối phù hợp...Nhưng thế nào là tôt,thế nào là
đẹp ,thế nào là phù hợp thì còn phụ thuộc vào từng loại khách hàng,từng
loại thị trường,từng thời điểm cụ thể...Mọi yếu tố của thị trường vân động
một cách thường xuyên nen vấn đề nghiên cứu thị trường càng đặc biệt trở
lên quan trọng.
Công tác nghiên cứu thị trường không phải là một vấn đề đơn
giản.người nghiên cứu phải là người có trình độ, phải biết sử dụng các biện
pháp nghiên cứu khác nhau.Và việc nghiên cứu còn rất tốn kém.Song tất
nhiên hiệu quả mà nó mang ại là rất lớn thậm trí có tính chất tới sự tồn tại
và phát triển của doanh nghiệp.
Ngiên cứu thị trường là để giải quyết các vấn đề sau:
+Đâu là thị trường có triển vọng đối với sản phảm của doanh nghiệp?
+Khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường đố ra
sao
+Phải sử dung những biện pháp gì để có thể tăng khối lượn sản phẩm
tiêu thụ?
+Những sản phẩm nào phù hợp với công nghệ sản xuất của doanh
nghiệp?
+Sản phẩm lên bán ở mức gia nào thì đem lại hiệu quả kinh doanh là
cao nhất.
+Mạng luqoqí phân phối.khâu tổ chức bán hàng phải như thế nào để
thuận tiên nhất cho người tiêu dùng
2.Lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
11
Quá trình tiêu thụ sản phẩm phải phù hợp với nhịp độ sản xuất vậy
nên lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là rất quan trọng.Việc xây dựng kế
hoạch hợp lý sẽ giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
tiến hành nhịp nhàng, liên tục theo kế hoạch đã định.
Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm phải phản ánh được những nội dung cơ

bản:
+Khối lượng tiêu thụ sản phẩm về hiện vật và giá trị còn phân theo
tiêu thức : lượng tiêu thụ phải được xác định dựa trên cơ sở của việc nghiên
cứu nhu cầu của khách hàng, khách hàng có nhu cầu về những loại sản
phẩm gì,số lượng bao nhiêu; đặc điểm đặc trưng của bản thân sản phẩm:sản
phẩm có dễ bảo quản không,có dễ hỏng không?…
+Cơ cấu sản phẩm và cơ cấu thị trường tiêu thụ: việc tìm hiểu thị
trường phân đoạn thị trường là rất quan trọng,doanh nghiệp phải biết được
rằng đoạn thị trường nào cần những sản phẩm nào? từ đó có nhưng kế
hoạch tiêu thụ sản phẩm cụ thể.
+Giá cả tiêu thụ:có thể nói giá cả của sản phẩm ảnh hưởng rất nhều tới
sự lựa chọn của người tiêu dùng,vậy nên việc xác định giá cả là rất quan
trọng.Nhưng không phải là cứ giá rẻ là có hiệu quả trong việc tiêu thụ sản
phẩm.Viêc xac đinh giá tất nhiên phải phụ thuộc vào chi phí song ngoài ra
nó còn phụ thuộc vào tính chất của sản phẩm,sản phẩm thiết yếu hay sản
phẩm sa sỉ,phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của công ty...
Các chỉ tiêu về tiêu thụ sản phẩm có thể tính theo hiện vật và giá
tri,chỉ tiêu tương đối và tuyệt đối tuỳ vào đặc điểm tính chất của các chủng
loại sản phẩm.
Việc xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm không phải dễ dàng , song
ta có thể sửng dụng các phương pháp cân đối,phương pháp quan hệ động
và phương pháp tỷ lệ cố định…Trong xây dựng kế hoạch tiêu thụ sản phẩm
thì phương pháp cân đối được coi là phương pháp chủ yếu.A3.Chuổn bị để
xuất bán hàng hoá
12
Chuẩn bị hàng hoá để xuất bán cho khách hàng là hoạt độn của quá
trình sản xuât kinh doanh trong khâu lưu thông.Muốn cho qua trình lưu
thông hàng hoá được liên tục, không bị gián đoạn thì các doanh nghiệp
phải chú trọng tới nghiệp vụ sản xuất ở kho như:
+Tiếp nhận: tiếp nhận phải đầy đủ về mặt số lượng và chất lượng hàng

hoá từ các nguồn nhập kho hàng hoá từ các nguồn nhập kho khác nnhau
như:phân xưởng,tổ đội sản xuất của doanh ngiệp theo dúng mặt hàng quy
cách,chủng loại hàng hoá.Kho hàng thường được thiết kế ở gần nơi sản
suất sản phẩm để tiện cho các công đoạn thao tác, đớ được chi phí vận
chuyển,tránh dược các rủi ro cũng như các biến cố có thể xảy ra trên
đường.
+Phân loại sản phẩm :các loại sản phẩm phải được phân ra theo các
chủng loại mẫu mã một cách chính xác và cụ thể để đưa ra thị trường một
cách chính xác.Trong khâu nay sản phẩm chưa có bao bì nhãn mãc nên
việc nhầm lẫn là có thể xảy ra.
+Lên nhãn hiậu sản phẩm:Trong một nền kinh tế thị trường như ngày
nay nhãn hiệu là một phân quan trọng của sản phẩm,Nhãn hiêu giờ không
chỉ để người ta gọi tên mỗi khi mua mà còn là đặc trưng của sản
phẩm.Nhãn hiệu không chỉ cần dễ nhớ, gọi tên mà nó con phải giúp cho
khách hàng ấn tượng và định vị hình ảnh sản phẩm trong tâm trí của
mình.Để rồi nhản hiệu sản phẩm sẽ dần trở thành thương hiệu đặc trưng
cho không chỉ sản phẩm mà còn cho cả hình ảnh công ty.Đích mà mọi công
ty đều muốn vươn tới.
+Muốn sản phẩm có thể tiêu thụ một cách dễ dàng thì đóng gói sản
phẩm như thế nào là cả một nghệ thuât.Từ việc xác định xem trọng lượng
của mỗi đơn vị sản phẩm ra sao để tiên lợi nhất cho người sử dụng. Đến
việc sản phẩm nên được chứa đựng bằng gi để gây được ấn tượng và thiện
cảm đối với người tiêu dung đầu tiêm và sự quen thuộc và thuận tiên đối
13
với người tiêu dùng quen thuộc.Rồi những thông tin trên sản phẩm phải
đầy đủ,chích xác theo các quy định của pháp luật.
+Sắp xếp hàng hoá ở kho: việc sắp xếp hàng hoá đúng quy cách giúp
cho việc nhập kho xuất kho một cách đẽ dàng đối với một số sản phẩm có
nhưng đặc điểm bảo quản đăc biệt như nhiệt độ , ánh sáng,thời gian bảo
quản thì việc sắp xếp này cần được lưu ý.

Việc chuẩn bị hàng hoá để xuất bán cân phải thực hiện một cách có tổ
chức cụ thể và rõ ràng tránh làm gián đoạn ảnh hưởng tới tiến trình sản
xuất
4 Lựa chọn các hình thức tiêu thụ sản phẩm.
Để sản phẩm đến được với người tiêu dùng cuối cùng thì doanh
nghiệp phải sử dụng các kênh phân phối.Mỗi kênh phân phối là một hình
thức vận động khác nhau của sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu
dùng.Muốn chọn một kênh phânphối phì hợp cho từng loại sản phẩm ta cân
dựa trên cơ sở đặc điểm của sản phẩm, các điều kiện vận chuyển,bảo quản
và sử dụng…
Có nhiều cách để sản phẩm vận dộng từ nhà sản xuất đến tay người
tiêu dung.Nếu căn cứ vào quan hệ giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng
cuối cùng thì có thể chia ra kênh phân ơhối trực tiếp và kênh phân phối
gián tiếp:
Kênh phân phối trực tiếp là hình thức mà doanh nghiệp sản xuất bán
trực tiếp sản phẩm cho người tiêu dùng.Hình thức tiêu thụ này có nhiều ưu
điểm song cũng không ít hạn chế. Ưu điểm chủ yếu ở đây là tiết kiệm được
chi phí lưu thông hay nói đúng hơn là doanh nghiệp không mất hoa hông
cho các trung gian bán hàng;thời gian sản phẩm tới tay người tiêu dùng
nhanh hơn;các doanh nghiệp có điều kiện trực tiếp tiếp xúc với người tiêu
dùng,từ đó có thể thăm dò về nhưnh đặc điểm tiêu dùng của ho,xem họ có
hài lòng về sản phẩm của mình không hay chưa hài lòng ở chỗ nào…từ đó
dần dần hoàn thiện của công ty mình.Song cach này cúng mang lại nhiều
14
bất cập cho doanh nghiệp như là họ phải tiếp xúc với quá nhiều khách
hàng,mất nhiều thời gian và công sưc để phục vụ họ,hạn chế khả năng cung
ứng,tôc độ chu chuyển vốn chậm do quá trình bán hàng đi sâu vào từng đối
tượng cụ thể.Ngay nay khi mà công nghệ thông tin đang phát triển thì xuất
hiện nhiều kênh phân phối trưc tiêpnhư:bán hang qua truyền hình,qua mạng
qua điện thoại.

Kênh tiêu thụ gián tiếp là hình thức mà doanh nghiệp bán sản phâm
cho cho các nhà trung gian,và các nhà trung gian đó sẽ tiếp tục phân phối
hàng hoá đến người tiêu dùng cuối cùng.Các nha trung gian có thể nhiều
hay ít, tương ứng với nó là kênh phân phối ngắn hay dài.Hình thức tiêu thụ
này rất thuận lợi cho các sản phẩm đại trà bởi doanh nghiệp sản xuất có thể
tiêu thụ liên một luc một khối lượn hàng lớn trong một thời gian ngắn,từ đó
thu hồi vốn nhanh,tiết kiệm được chi phí bảo quản hao hụt…Tuy nhiên
hình thức tiêu thụ nay làm cho thời gian lưu thông dài ,tăng chi phí tiêu thu
mặt khác doanh nghiêp khó co thể kiểm soat được việc bán sản phẩm của
các khâu trung gian bởi đôi khi lợi ích của nha sản xuất và trung gian mua
bán là không đồng hành.
Mỗi hình thức tiêu thụ đều có đặc điêm riêng cũng như ưu điểm và
nhược điểm của mình. Các doanh nghiệp sẽ căn cứ vào đặc điểm của sản
phẩm,các điều kiên sẵn cá của công ty,nhu cầu của khách hàng…mà tìm
cho nình một kênh phân phối phù hợp nhất.
5 .Tổ chức các hoạt động xúc tiến bán hàng
Xúc tiến lá hoạt động marketing tới khách hàng tiềm năng của bản
thân doanh nghiệp.Các thông tin bao gồm thông tin về doanh nghiệp, về
doanh nghiệp,về sản phẩm của doanh nghiệp,về phương thưc phục vụ và
những lợi ích mà khách hàng sẽ thu được khi mua sản phẩm của doanh
nghiệp,cũng như những tin tức cần thiết từ khách hàng,qua đó để doanh
nghiệp tìm ra cách thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
15
Hoạt động xúc tiên ban hàng là toàn bộ các hoạt động nhằm tìm
kiếm và thúc đẩy cơ hội bán hạng trong các hoat động tiêu thụ sản
phẩm.Xúc tiên bán hàng chứa đựng trong các hình thức và biện pháp nhằm
thúc dẩy cơ hội bán hàng ra của doanh nghiệp.Xuc tiến bán hàng có ý nghía
rất quan trọng trong việc chiếm lĩnh thị trường và nâng cao sức cạnh tranh
của hàng hoá trên thị trường ,nhờ đó mà qua trình tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp được đẩy mạnh về mặt số lượng và thời gian.Yểm trợ cho là

các hoạt động nhằm hố trợ,thúc đẩy ,tạo điều kiện thuận lợi cho doanh
nghiệp thực hiên tốt công viẹc tiêu thụ sản phẩm.Xúc tiến bán hàng vả yểm
trợ là các hoạt động rất quan trọng có tác dụng hỗ trợ và thúc đẩy công tác
tiêu thụ sản phẩm,giúp cho doanh nghiêp có diền kiện mở rộng các mối
quan hệ với khachd hàng ,củng cố phát triển thị trường.Những nội dung
chủ yếu của hoạt đông xúc tiến, yểm trợ bán hàng phải kể đến là quảng
cáo,chào hàng,khuyến mại.tham gia hội trợ triểm lãm…Các hoạt động xúc
tiến bán hàng ngày nay đang trở nên vô cùng quan trọng và chiếm trọng
lớn trong giá thành sản phẩm.
Các hình thức xúc tiến cũng ngay một đa dạng và phong phú.Nếu
như ngày trước quảng các trên ti vi,giói thiệu sản phẩm qua các triển lám
thì giớ đây giới thiệu sản phẩm đã thâm nhậm vào mọi mặt của cuộc
sống.Từ phim ảnh,thể thao,rồi cả trong từ thiện và dùng cả cuộc sống riêng
tư của các ngôi sao để quảng bá cho sản phẩm của mình.
6.Tổ chức hoạt động bán hàng
Trong cơ chế thị trường nay thì khẩu hiểu khách hàng là thượng đế
đang được sử dụng một cách rộng rãi.Do khách hàng giờ đây có vô số sự
lưa chon nên việc kéo khách hàng đên với sản phẩm của mình là cả một
vấn đề không hề đơn giản. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào việc bán hàng,
một trong những khâu cuối cùng của hoạt động kinh doanh.Hay nói đung
hơn bàn hàng là hoạt động mang tính nghệ thuật, tác động tới tâm lý ngưởi
mua nhằm đạt được mục tiêu bán hàng.
16
Hoạt động bán hang tất nhiên phụ thuộc rất nhiều vào người bán hàng.
Người bán hàng phải đặc biệt quan tâm đến quá trịnh tác động vào tâm lý
của khách hàng vì những bước tiến triển của tâm lý ,tinh thần, tính chủ
quan và khách quan diễn ra rất nhanh chóng trong khách hàng.Sự diễn biến
tâm lý của khách hàng thường trải qua 4 giai đoạn:từ sự chú ý đến quan
tâm rồi nguyện vọng mua và cuối cung đến quyết định mua.Và người bán
hàng phải biết được tâm lý của khách hàng trong từng giai đoạn,từ đó có

những sự tác động nhất định vào khách hàng đẻ kích thích hành động mua
của họ mặc dù đó không phải điêu dễ dàng.Người bán hàng phải được đào
tạo một cách bài bản về nghiệp vụ,có sự hiểu biết nhất định về các vấn đề
của sản phẩm,có sự nhạy bén trong giao tiếp.Nhìn chung người bán phải
phải làm chủ quá trình bán hàng về tâm lý, để điều khiển có ý thức quá
trình bán hàng.
Một người bán hàng giỏi phải có một số kỹ năng nhất định và các mẹo
nhỏ để tac đong vao khách hàng như:biết lăm băt cảm xuc của khách hàng
để có co thê tiếp cận và tạo lập quan hệ một cách tự nhiên và thân
thiện.Tập trung vào nhu cầu của khách hàng khiên khách hàng có cảm giác
mình đang mua đúng sản phẩm mà mình mong muốn ,mọi sự thuyết phục
nên hướng vào lợi ích của khách hàng,ngoài công dụng của sản phẩm nên
hướng vào những yếu tố tiện ích khác của sản phẩm.tìm hiểu vấn đề má
khách hàng dâng vường mắc để giớ thiệu những sản phẩm phù hợp.
Hiên nay có rất nhiều các hình thức tổ chức bán hàng như:Bán hàng
trực tiếp,có thể bán qua mạng qua truyền hình trực tuyến…;bán hàng qua
mang lưới đại lý,có thể tự xây dưng đại lý cho mình,hoặc hơp tác với các tổ
chức cá nhân khác…;Bán theo hợp đồng hình thức nay chủ yếu là bán buôn
với khối lượng lớn;bán thanh toán ngay,bán trả góp và bán chịu,bán
buôn,bán lẻ.bán qua hệ thốn thương mại điện tử…Các hình thức bán hàng
này phải phù hợp với đặc điểm của sản phẩm cũng như mong muốn của
khách hàng.
17
7.Phân tích đánh giá hiệu quả của hoạt động tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm là một quá trình liên tuc ,nối tiếp nhau theo từng
chu kỳ,Vậy nên để việc tiêu thụ ngay một có hiêu quả hơn sau mỗi hỳ kinh
doanh, doanh nghiệp cần phải phân tích và đáng giá tình hình tiêu thụ sản
phẩm của các kỳ trước để xem xét những biên pháp mà mình đã thực hiện
có hiệu quả không.Nhưng gì là ưu điểm mà ta có thể phát huy,những gì là
hạn chế mà doanh nghiệp cần khắc phục.Từ đó đưa ra những quyết định

đối với hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong chu kỳ tiếp theo.Thông qua việc
đánh giá doanh nghiệp có thể quyết định xem có nên mở rộng hay thu hẹp
thị trường tiêu thụ, hiệu quă hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp,
18
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA DỆT
MAY VIỆT NAM VÀ CÔNG TY MAY 10
I. KHÁI QUẢT CHUNG VỀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
1. Vai trò của nghành dệt may trong nền kinh tế quốc dân.
Dệt may là nhgành có vai trò vô cùng quan trong trong nền kinh tế
dân đặc biệt trong thời ki hội nhập như ngày nay .Vai trò cụ thể của nghàng
được thể hiện cụ thể như sau:
1.1 Tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao động:
Việt Nam là nước có dân số trẻ với khoảng 50% số người trong độ
tuổi lao động.Vậy nên vấn đề việc làm luôn là bài toán khó giải cho các nhà
lãnh đạo và các cấp chính quyền. Số người trong độ tuổi lao động đã nhiều
mà trình độ học vấn và tay nghề của họ lại không cao vậy nên việc tìm ra
những công việc phù hợp là rất khó.
Trước kia nước ta là nước thuần nông, phần lớn người lao động xuất
phát từ nông dân,học vấn của họ không cao nhưng lại có tính cần cù và
chụi khó vậy nên nghành dệt may có thể tận dụng được.
Quy trình xuất của nghành dệt may:
Qua quy trình sản xuất trên ta thấy rằng ngoài công đoạn thiết kế thì
các công đoạn khác nghành dệt may có thể tận dụng được có trình độ học
vấn không cao và trình độ tay nghề có thể đào tạo được trong thời gian
ngắn.Các công đoạn cần nhiều nhân công nhất đó là cắt may hoàn thiện sản
phẩm và tiêu thụ sản phẩm thì người lao động việt Nam hoàn toàn có thể
thiết kế
lựa chọn
nhà cung

ứng
Mua
nguyên
phụ liệu
cắt may
hoàn
thiện
Tiêu thụ
sản phẩm
19
đáp ứng.Công doạn cắt may ,hoàn thiên sản phẩm chỉ là những công việc
chân tay hoặc điều khiển máy móc theo nhưng mẫu có sẵn công việc.Việc
tiêu thụ sản phẩm thì cần nhiều lao động nhất trong công đoạn bán
hàng,công đoạn nay đòi hỏi người lao động có sự nhạy cảm,khéo léo,thân
thiện điều này cũng không quá khó để thực hiện.
Một điều tất nhiên là công việc không đòi hỏi cao thì mưc lương cũng
chỉ khiêm tốn.Mức lương của công nhân trong nghành diệt may không cao
song cững bảo đảm cuộc sông cho người lao động.Có việc làm là biện pháp
hữu hiệu nhất để giảm những tệ nạn có thể phát sinh trong thời buổi đất
nước nhạy cảm và có nhiều biến động như ngày nay.
1.2 Đáp ưng nhu cầu may mặc trong nước.
Sản phẩm cua nghanh dệt may dap ứng một trong các nhu cầu thiết
yếu của con người đó là may măc.
Trước đây trong thời bao cấp việc ăn măc của ai cũng như ai.Các
doanh nghiêp dệt may chỉ phải sản xuất nhưng sản phẩm che thân có hiệu
quả:xmùa hè thì mát mua đông thì ấm.Mọi chiếc áo chiếc quần đều như
nhau có khac nhau cung chỉ là kích cỡ. Còn các sản phẩm khác của nghành
dệt may thi chỉ gồm một số sản phẩm như khăn mặt,khăn tay,mũ và một số
đồ dùng cần thiết trong sinh hoạt khac.
Song ngày nay thì khác hẳn .Trang phục giờ đây không chỉ là phục vụ

nhu cầu thiết yếu của con người mà người ta còn dùng trang phục để khẳng
định phong cách , địa vị và cá tính của bản thân mình.Và theo đó nghành
dẹt may cung đã luôn luôn lỗ lực để dáp ứng được nhu câu đó.Các sản
phẩm dệt may giờ đây vô cùng đa dạng với mẫu mã phong phú từ mùa sắc
đến kiểu dáng.Các sản phẩm giờ đây không chỉ phân loại theo mùa mà
phân theo rất nhiều tiêu th ức khác nhau:
+Theo gia trị sản phẩm:N ếu như trong xã hội con người ta có các m
ức thu nhập khác nhau thì trong nghành dệt may cung tạo ra nhưng sản
phẩm đáp ứng một cách phù hợp.Những người có thu nhập cao có thể chọn
20
lựa các sản phẩm có chất liệu tốt và đẹp như da thú,lụa,gấm và những chất
liệu tổng hơp đắt tiền khác, đó thường là sản phẩm của các thương hiệu nổi
tiếng hoăc được thiết kế bởi các nhà tạo mẫu có tên tuổi với những hoạ tiết
và nhưng đường may tinh tế và cầu kỳ…Tuy nhiên ở nước ta những người
tiêu dùng nghững sản phẩm nay không nhiều bởi nước ta những người có
thu nhầp thực sự cao như vậy là ít.Những sản phẩm hiện nay được tiêu
dùng nhiều thường chỉ ở mức gia trung bình.Nhưng sản phẩm này thì chất
liệu không thưc sự tốt thường là cotton hoăc sợi tổng hợp đơn thuần.Song
mẫu mã cũng vô cùng phong phú và đa dạng.
+Theo lứa tuổi: theo cách này hàng hoá có thể chia ra các sản phẩm
cho người giá, cho ngưới trung niên,cho giới trẻ và cho trẻ em.Các mặt
hàng ngày nay dang được chú ý đó là trang phục cho giới trẻ Thị hiếu thời
trang của giới trẻ thay đổi một cách nhanh chóng , đồng thời giớ trẻ cũng
luôn muốn thể hiện phong cách của mình vây nên những trang phục phục
vụ cho họ rất phong phú và đầy cá tính.Thời tranh cho trẻ em bây giờ cũng
được chú ý nhiều khi mà chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao sự
chăm sóc và đầu tư cho con cái cũng dược chú trọng .Hiện nay trên thị
trường giá cả của những bộ đồ trẻ em có giá cả không hề kém người lớn.
+Theo tinh chất công việc: hiện nay có những đồ công sở nói chung,
Đồng phục công ty, những đồ dạ tiệc, đồ mặc ở nhà hay những đồ đi

chơi,đi dạo. Đôg công sở hiện nay không còn cứng nhắc như ngày trước
mà giờ đây mẫu mã cũng phong phú và đa dạng về kiểu cách.Các công ty
lớn giờ đây cũng thường may đồng phục cho nhân viên, những bộ đồng
phụ co kiêu dáng và màu sắc đặc trưng cho từng công ty.
Ngoài trang phục mặc hằng ngày nghành dệt may còn sản xuất các sản
phẩm dệt kim khác như các loại khăn:khăn mặt,khăn tay,khăn tắm ;các đồ
phụ kiện như găng tay,mũ nón..;các đồ trang trí như thảm thêu ,tranh
thêu… các sản phẩm này cũng rất đa dạng nhiều chủng loại phục vụ các
tầng lớp khách hàng trong và ngoài nước.
21
1.3 Dệt may chiếm tỷ trọng lớn trong những ngày xuất khẩu.
Trong nền kinh tế đang từng bước hội nhập như ngày nay việc trao đổi
buôn bán với nước ngoài là vấn đề tất yếu để phát triển nghành kinh tế
nước nhà.Việt Nam ta đã và đang tân dụng mọi lợi thế trong nước để sản
xuất ra các sản phẩm có khả năng phục vụ khách hàng nước ngoài nhằm
xuất khẩu thu ngoại tệ.Và dệt may đang là mặt hàng có tỷ trọng xuất khẩu
lớn trong tổng kim nghạch xuất khẩu của nước ta cụ thể là chiếm khoảng từ
16%-18%.Những thị trường chủ yếu của dệt may Việt Nam là Mỹ,
EU,Nhật Bản
Tình hình xuất khẩu dệt may Việt Nam Năm qua diễn biến như sau:
ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam đạt khoảng 7,8 tỷ USD, tăng 31%
so năm 2006, là 1 trong 10 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Đây
là kết quả không thể tốt hơn trong năm đầu tiên Việt Nam thực hiện theo
các cam kết của WTO. Đến lúc này, các nhà hoạch định chính sách đã đưa
ra mục tiêu đến năm 2020 kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam đạt
25 tỷ USD, là 1 trong 5 nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Kết thúc
năm 2007, dệt may xuất khẩu Việt Nam ước đạt khoảng 7,8 tỷ USD, tăng
31% so năm 2006. Trong đó, thị trường Hoa Kỳ chiếm vị trí chủ đạo đạt
4,4 - 4,5 tỷ USD, chiếm 56% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, tăng
32%, tiếp đó là thị trường EU đạt khoảng 1,45 – 1,5 tỷ USD, chiếm 18%,

tăng khoảng 20%, thị trường Nhật Bản đạt khoảng 700 triệu USD, chiếm
9%, tăng khoảng 12%...Việt Nam đã trở thành 1 trong 10 nước xuất khẩu
hàng dệt may lớn nhất thế giới. Đây là kết quả không thể tốt hơn trong năm
đầu tiên Việt Nam thực hiện các cam kết của WTO.
1.4 Dệt may là ngành thu hút một lượng vốn đầu tư lớn từ nước ngoài.
Qua thống kê cho thấy, Đài Loan đầu tư nhiều nhất về giá trị vào
ngành dệt may Việt Nam là 1,690 tỷ USD vốn đăng ký, với 156 dự án.
22
Trong đó, có 45 dự án đầu tư vào ngành dệt, 93 dự án đầu tư vào ngành
may, còn lại đầu tư vào ngành phụ liệu. Tiếp đến là Hàn Quốc, mặc dù tính
về số dự án là 177 dự án, nhiều hơn Đài Loan, nhưng tính về tổng vốn đăng
ký lại đứng sau Đài Loan với 1,003 tỷ USD. Trong đó, đầu tư vào ngành
dệt là 40 dự án, ngành may là 122 dự án, còn lại là đầu tư vào ngành phụ
liệu. Ở mức độ vốn đăng ký lên trên 100 triệu USD có Hongkong và Nhật
Bản, còn lại là dưới mức 100 triệu USD, trong đó Đức và Thái Lan có tổng
vốn đăng ký ít nhất với 9 triệu USD. Bảng thống kê cũng cho thấy, số dự
án của các nước đầu tư vào Việt Nam chủ yếu là ngành may, sau đó là
ngành dệt, cuối cùng là phụ liệu. Điều này cũng dễ hiểu bởi Việt Nam xuất
khẩu chủ yếu là các sản phẩm may mặc, nên các nước tập trung đầu tư vào
ngành này. Còn ngành phụ liệu, xu hướng ở Việt Nam chủ yếu là nhập
khẩu nguyên vật liệu cho ngành dệt may (trên 80%) nên các nhà đầu tư
chưa tập trung mạnh vào lĩnh vực này vì lợi nhuận không cao bằng ngành
may.
Trước khi Việt Nam gia nhập WTO, các nhà phân tích từng đưa ra dự
báo rằng, Việt Nam sẽ thu hút mạnh các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có
ngành dệt may khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO. Thật vậy,
bước vào năm 2007, năm đầu tiên Việt Nam thực hiện các cam kết WTO,
hoạt động đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may của Việt Nam đã có những
chuyển động tích cực. Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) cho biết, các
dự án dệt may lớn đã thu hút được sự quan tâm đầu tư từ phía các đối tác

nước ngoài ngay từ đầu năm 2007, cụ thể: Tập đoàn Pamatex Berhad
(Malaysia) đã quyết định đầu tư hơn 100 triệu USD vào Khu kinh tế mở
Chu Lai (Quảng Nam), Công ty Daewon (Hàn Quốc) đầu tư xây dựng một
nhà máy may xuất khẩu trị giá 8 triệu USD tại Khu công nghiệp Hòa
Khánh (Đà Nẵng).Những tín hiệu này cho thấy ngành dệt may nội địa đang
hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài.
23
Bên cạnh đó, một số dự án cũng đã đi vào hoạt động ngay từ đầu năm
2007, cụ thể: Sau hơn một năm thi công, cuối tháng 3/2007, tại khu công
nghiệp Thuận Yên, thành phố Tam Kỳ, Công ty Intergarment Corporation
Đài Loan khánh thành nhà máy may Sportteam với tổng vốn đầu tư 2 triệu
USD.Nhà máy may Sportteam xây dựng trên diện tích 2,1 ha, gồm 22
chuyền may với trên 1200 lao động, chuyên sản xuất các sản phẩm hàng
dệt kim và dệt thoi gồm áo quần thể thao các loại với năng lực sản xuất 20
triệu sản phẩm/năm. Sản phẩm được xuất trực tiếp sang thị trường các nước
EU, Mỹ, Canada và các nước Đông Nam Á. Theo kế hoạch, năm 2008 nhà
máy tiếp tục mở rộng giai đoạn 2 của dự án nâng tổng diện tích xây dựng
lên 3,7 ha, giải quyết việc làm cho 2.000 lao động.
Các chuyên gia cho biết, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ngành dệt
may vào khoảng 3 tỷ USD cho giai đoạn từ nay đến năm 2010. Trong đó,
vốn đầu tư phát triển nguyên liệu dệt khoảng 180 triệu USD; các dự án dệt
nhuộm 2,275 tỷ USD; các dự án may 443 triệu USD; các trung tâm thương
mại và nghiên cứu triển khai đào tạo vào khoảng hơn 200 triệu USD. Do
vậy, người ta trông đợi đến nguồn vốn chính đến từ các nhà đầu tư nước
ngoài, ngoài ra có thể là vốn vay từ các quỹ đầu tư, vốn từ quỹ đất khi di
dời và một phần vốn từ thị trường chứng khoán.
2 Thực trạng tiêu thụ sản phẩm dệt may Việt Nam.
2.1 Các sản phẩm chính của dệt may Việt Nam
Dệt may là ngành có sản phẩm phong phú và đa dạng phụ thuộc vào
xu hướng tiêu dùng của khách hàng mà trong thời buổi hiên nay thì xu

hướng tiêu dùng mặt hàng nay thay đổi một cách chóng mặt.
Về các măt hàng may mặc để nắm bắt được xu hướng tiêu dùnglà một
vấn đè không phải dễ dàng.trang phục phụ thuộc nhiều vào cá tính của
người tiêu dùng và việc nắm bắt được những cá tính này càng khó khăn
hơn trong một xã hội mà ai cũng muốn khẳng định mình.
24
Để nắm bắt được xu hướng này các doanh nghiệp trong ngành dệt
may phải tiến hành nghiên cứu thị trường một cách nghiêm túc và triệt
để.Qua nghiên cứu ngành dệt may đã quyết định sản xuất các sản phẩm
chính sau:
+Áo sơ mi: Đây là mặt hàng truyền thống, kiểu dáng đơn giản song
luôn lá mặt hàng được ưu tiên sản xuất và có lượng tiêu thụ lớn nhất trong
các mặt hàng dệt may. Đối với nam giới thì đây là mặt hàng không thể
thiếu.Vậy nên dây là mặt hàng phục vụ ch mọi tăng lớp khách hàng. Áo
nay có thể sử dụng trong mọi hoàn cảnh có thể là đồ công sở ,có thể là đồ
mặc đi chơi…ÁO sơ mi nam có đặc điểm là kiểu dáng không phức tạp dễ
mặc nên các doanh nhiệp dệt may thường chỉ tập trung vào màu sắc và chất
liệu của sản phẩm.Và đó cũng là căn cứ phân cấp các loại mặt hàng. Áo sơ
mi nữ thì khác giờ đây loại sản phẩm này được cách tân rất nhiều.Kiểu
dáng giờ đây không chỉ đơn thuần là đuôi tôm cổ đức mà được đình thêm
hoa văn hoạ tiết cầu kỳ hơn rất nhiều. ÁO sơ mi nữ thường là áo ôm sát
người nêm kiểu dáng cũng được các nhà thiết kế chú ý đến.Ngoài ra màu
sắc cũng là một yếu tố quan trọng tạo lên phong cách cho áo sơ mi nữ.
+Quần nam,quần nữ:Tương tư như áo sơ mi,quàn nam đơn giản hơn
quần nư rất nhiều.quân nam công sở và cho những người đứng tuổi thương
rộngnên chi tiết đường may không cần quá cầu kỳ song chất liệu lại giữ vai
trò quan trọng.Quân nam công sở thừong được ưu tiên các chất liệu mền và
sóng vải,ngoài ra các loại quần cho giới trẻ thì thường bằng các chất liệu
như bo,kaki,thô và kiểu dàn nghịch ngợm và phá cách.Cong quần nữ thì tất
nhiên đa kiểu dáng đa phong cách.Quần nữ bó sát nên dược chú ý tới các

đường máy chi tiết.Chất liệu ở đây cũng không kém phần quan trọng các
chất liệu cũng được phân bổ như quần nam ỏ trên song chất liệu co giãn ở
quần nữ được sử dụng khá rộng rãi để tạo sự thoải mái khi mặc.Ngoài ra
quần nữ còn đa dạng bởi độ dài ngắn cuả quân:từ quần dài,quần ngố,quần
sooc…
25

×