Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SKKN một số biện pháp giúp học sinh đóng vai xử lí tình huống trong tiết thực hành môn đạo đức lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.1 KB, 15 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

TÊN ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH ĐÓNG VAI XỬ LÍ
TÌNH HUỐNG TRONG TIẾT THỰC HÀNH MƠN ĐẠO
ĐỨC LỚP 3

Quảng Bình

1


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

TÊN ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH ĐÓNG VAI XỬ LÍ
TÌNH HUỐNG TRONG TIẾT THỰC HÀNH MƠN ĐẠO
ĐỨC LỚP 3

Họ và tên: Võ Thị Hồng Thái
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị cơng tác: Trường TH Thanh Thủy

Quảng Bình

2


I. PHẦN MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn sáng kiến
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt phản ánh theo các nguyên
tắc, yêu cầu, chuẩn mực, chi phối hành vi của con người trong các mối quan hệ
giữa con người và với tự nhiên. con người với xã hội và giữa con người với
nhau. Do đó mơn đạo đức là một trong những môn học bắt buộc ở bậc tiểu học.
Nó là mơn học cơ bản trang bị cho học sinh các chuẩn mực đạo đức, lối sống
lành mạnh và cách sống có lý tưởng. Ngồi ra nó cịn giúp cho học sinh giải
quyết các sự việc vừa có lí vừa có tình. Từ đó giúp các em biết cách vận dụng
một cách linh hoạt các hành vi đạo đức, chuẩn mực đó vào cuộc sống để cư xử
với cha mẹ thầy cô và bạn bè.
Mục tiêu của mơn Đạo Đức ở tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng là
giúp cho học sinh có những hiểu biết ban đầu hình thành chuẩn mực đạo đức
phù hợp với lứa tuổi, đồng thời nắm được ý nghĩa của việc thực hiện những
chuẩn mực hành vi đạo đức đó. Nó từng bước hình thành cho học sinh kĩ năng
nhận xét đánh giá hành vi của bản thân và những người xung quanh, lựa chọn và
thực hiện các chuẩn mực hành vi đạo đức trong các tình huống cụ thể của cuộc
sống. Khơng những thế nó cịn hình thành thái độ tự trọng tự tin, yêu thương
quý trọng con người, u cái tốt khơng đồng tình với cái xấu cái ác.
Mơn Đạo đức có tác dụng giúp học sinh phát triển những hành vi cơ bản,
một số chuẩn mực hành vi đạo đức phù hợp với lứa tuổi học sinh lớp 3, biết
quan tâm đến những người xung quanh trong cuộc sống; thể hiện lịng biết ơn,
kính trọng những anh hùng đã chiến đấu, hi sinh để bảo vệ tổ quốc trong các
cuộc kháng chiến, nhận thấy tầm quan trọng của nước sạch, làm những việc phù
hợp với bản thân để bảo vệ nguồn nước.
- Biết nhận xét, đánh giá các ý kiến, quan niệm, hành vi, việc làm có liên
quan đến các chuẩn mực đã học; biết lựa chọn cách ứng xử phù hợp trong các
tình huống và biết thực hiện các chuẩn mực đã học trong cuộc sống hằng ngày.
- Biết kính yêu Bác Hồ, làm những việc những phù hợp với bản thân,
quan tâm chăm sóc ơng bà, bố mẹ, quan tâm giupps đỡ hàng xóm, láng
giềng….

3


- Thông qua việc dạy - học môn Đạo đức các giá trị, chuẩn mực đạo đức
của xã hội được chuyển thành niềm tin, tình cảm, hành vi đạo đức của học sinh;
tạo cho học sinh được thực hành bài học trong thực tiễn cuộc sống.
Mục đích của mơn Đạo đức là hình thành phẩm chất đạo đức cho học sinh.
Một phẩm chất đạo đức bao giờ cũng có 3 khía cạnh là: ý thức, thái độ, tình cảm
và hành vi, thói quen. Do đó, để đạt được mục đích đặt ra, dạy – học môn Đạo
đức phải giải quyết 3 nhiệm vụ tương ứng: hình thành ý thức, hình thành thái độ,
tình cảm và hình thành hành vi, thói quen.
- Giáo dục ý thức đạo đức:
Môn Đạo đức cung cấp cho học sinh hệ thống tri thức đạo đức sơ đẳng, trên
cơ sở đó bước đầu hình thành niềm tin đạo đức, hình thành năng lực, định hướng
các giá trị đạo đức cho học sinh tiểu học. Điều đó giúp các em phân biệt được
đúng – sai, tốt – xấu, thiện - ác … để từ đó theo cái đúng, cái tốt, tránh cái sai,
đấu tranh với những biểu hiện sai trái, xấu xa, độc ác.
- Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức:
Giúp học sinh có thái độ rõ ràng đối với các chuẩn mực đạo đức nói riêng, hình
thành và bồi dưỡng cho các em cảm xúc đạo đức, biến những chuẩn mực đạo
đức sơ giản thành động cơ bên trong thôi thúc các em hành động theo những
chuẩn mực đạo đức đã được quy định, trên cơ sở đó hình thành tình cảm đạo
đức trong sáng.
- Giáo dục hành vi, thói quen:
- Hình thành ở học sinh các hành vi tương ứng với ý thức thái độ tình cảm và từ
đó giúp các em có thói quen đạo đức bền vững.
Từ việc xác định vị trí, vai trị của mơn đạo đức trong trường tiểu học, bản
thân tôi là một giáo viên dạy đạo đức, tôi nghĩ cần phải có một giải pháp cụ thể
để giúp học sinh thực hiện đóng vai xử lí tình huống tốt hơn trong các tiết thực
hành nhằm giúp Hs suy nghĩ sâu sắc về một vấn đề bằng cách tập trung vào một

sự việc cụ thể mà các em vừa thực hiện hoặc quan sát được. Việc “diễn” không
những là phần chính của phương pháp này mà học sinh cịn phải thảo luận tìm ra
những cách giải quyết đúng, hợp lí sau phần diễn ấy. Ưu điểm của đóng vai xử lí
tình huống là: Học sinh được rèn luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và bày
4


tỏ thái độ trong mơi trường an tồn trước khi thực hành trong thực tiễn; Gây
hứng thú và chú ý cho học sinh; Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của học
sinh; Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực hành vi
đạo đức và chính trị – xã hội; Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói
hoặc việc làm của các vai diễn.
Do vậy, tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh đóng vai xử lí
tình huống trong tiết thực hành mơn đạo đức lớp 3” để nghiên cứu, thực
nghiệm, nhằm góp phần tìm ra biện pháp khắc phục khó khăn cho bản thân, cho
đồng nghiệp cũng như giúp các em học sinh lớp 3 có thêm nhiều kĩ năng đóng
vai xử lí tình huống để làm cho tiết học hiệu quả.
2. Điểm mới của sáng kiến
Sáng kiến của tơi ngồi việc cung cấp cho giáo viên các yêu cầu sư phạm
tổ chức cho học sinh nhập vai vào các nhân vật trong những tình huống đạo đức
giả định cịn giúp học sinh mạnh dạn, tự tin khi lên đóng vai và đưa ra những
cách ứng xử phù hợp với nội dung tình huống.
3. Phạm vi áp dụng sáng kiến
Nghiên cứu đề tài này, tơi nghiên cứu thực tiễn khả năng đóng vai xử lí
tình huống cho học sinh trong các tiết thực hành ở lớp 3. Từ đó đưa ra các biện
pháp để giúp giáo viên cũng như học sinh thực hiện tốt những bước cần thiết để
tổ chức phương pháp đóng vai xử lí tình huống.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Thực trạng nội dung cần nghiên cứu
Những năm qua tôi được nhà trường phân công giảng dạy môn Đạo đức

lớp 3. Qua quá trình giảng dạy, tơi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn
như sau:
1.1. Thuận lợi
Giáo viên nhiệt tình giảng dạy, có ý thức tinh thần trách nhiệm cao, biết
nắm bắt đổi mới phương pháp và hình thức dạy học, lấy học sinh làm trung tâm.
Thường xuyên chăm lo học hỏi đồng chí đồng nghiệp, qua sách báo tài liệu, đặc
biệt nhanh nhạy trong việc tiếp cận với xu thế của việc dạy học mới hiện nay.

5


Giáo viên sử dụng các phương pháp và hình thức dạy học phù hợp, phát
huy khá hiệu quả khả năng học tập của học sinh. Sử dụng có hiệu quả các
phương tiện dạy học như băng hình, truyện kể..... giúp học sinh nắm được nội
dung bài học.
Nhà trường đang dạy học theo mơ hình trường học mới VNEN, đây là
một thuận lợi rất lớn vì học sinh được phát huy tính tự tin, phát huy quyền làm
chủ trong q trình học tập do đó, số học sinh tự ti, nhút nhát sẽ giảm đáng kể.
Được Ban giám hiệu nhà trường, lãnh đạo địa phương, phụ huynh học
sinh... quan tâm giúp đỡ khích lệ.
Đa số các em thích chơi trị chơi, đóng vai trong các tiết học. Học sinh xác
định được động cơ và thái độ học tập đúng đắn. Các em chăm chỉ học tập, thích
tìm hiểu và khám phá, thích được thầy cơ giáo khen.
1.2. Khó khăn
* Về giáo viên: Trong q trình dạy mơn Đạo đức lớp 3, tơi nhận thấy giáo viên
gặp khó khăn khi hướng dẫn học sinh đóng vai xử lí tình huống.
- Giáo viên cho học sinh trước “kịch bản”, học sinh chỉ cần đọc thuộc rồi
lên diễn lại nên giọng nói, cử chỉ, điệu bộ còn rất cứng nhắc, chưa linh hoạt.
- Giáo viên vì sợ mất thời gian nên thường gọi hoặc chọn những em,
những nhóm nhanh nhẹn, mạnh dạn, tự tin lên thực hiện đóng vai.

- Khi tổ chức phương pháp đóng vai thì cơng tác chuẩn bị trang phục, đạo
cụ cịn gặp khó khăn bởi giáo viên cần phải chuẩn bị nhiều đồ dùng dạy học
(trang phục, các đồ dùng cần thiết......) trong khi giáo viên cịn phải dạy nhiều
mơn học khác.
- Ngồi các tình huống có sẵn trong chương trình thì giáo viên cũng mất
thêm thời gian tạo ra các tình huống khác.
* Về học sinh:
Đối với học sinh, khi lên thực hiện đóng vai xử lí tình huống không
phải em nào cũng muốn tham gia. Hầu hết những em nhút nhát, ngoại hình
khơng được bắt mắt (béo q, gầy q,.....) khơng dám lên tham gia vì sợ các
bạn dưới lớp trêu chọc.

6


Các em thường hay quên mang theo những dụng cụ hóa trang cho nhân
vật mình đóng dù giáo viên đã nhắc nhở hoặc phân công.
2. Một số biện pháp giúp học sinh đóng vai xử lí tình huống trong các tiết
thực hành môn Đạo đức lớp 3.
Biện pháp 1: Giáo viên vần đưa ra các tình huống đóng vai phải phù hợp
với chủ đề bài học, phù hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh và điều kiện,
hồn cảnh lớp học.
Mỗi bài đạo đức lớp 3 là một chủ đề khác nhau. Vì thế mỗi giáo viên cần
xác định nội dung đóng vai phải phù hợp, gần gũi với học sinh, làm sao giúp học
sinh có khả năng tự hình thành một kịch bản phù hợp để thực hiện đóng vai. Vì
thế khi đưa ra các tình huống giáo viên cần:
a) Tình huống khơng nên q dài và phức tạp, vượt quá thời gian cho phép.
Khi đưa ra các tình huống, bản thân giáo viên là người trực tiếp hướng
dẫn cho học sinh thực hiện xử lí tình huống cần đưa ra tình huống phù hợp với
nội dung bài học, gắn với những hành vi ứng xử của học sinh trong cuộc sống

hằng ngày. Tình huống phải đảm bảo thời gian học sinh thực hiện và chia sẻ
trước lớp.
Ví dụ: Bài tập 5: Em đã hứa cùng bạn làm một việc gì đó, nhưng sau đó
em hiểu ra việc làm đó là sai. Khi đó em sẽ làm gì?
a) Vẫn thực hiện lời hứa
b) Khơng làm việc đó và cũng khơng nói gì với bạn
c) Khơng làm và giải thích lí do mình khơng muốn làm
d) Khơng làm, giải thích lí do và khun bạn cũng khơng nên làm điều sai trái.
(Bài 2: Giữ lời hứa trang 4)
Với các nội dung tình huống trên, giáo viên cần đưa ra sẵn nội dung gợi
mở cho học sinh. Trong bài tập trên thì tình huống có thể vẫn xảy ra hằng ngày
trong cuộc sống và chắc chắn các em cũng đã gặp rất nhiều. Ví dụ như: các em
trốn học đi chơi điện tử; lấy trộm tiền của bố mẹ, người thân để mua đồ chơi;
....
b) Tình huống phải có nhiều cách giải quyết.

7


Khi đưa ra tình huống, giáo viên nên cho học sinh đưa ra nhiều cách giải
quyết khác nhau. Nhóm này có thể đưa ra cách giải quyết này thì nhóm khác có
thể có những cách giải quyết khác để giải quyết vấn đề đặt ra, như vậy bản thân
học sinh dễ dàng vận dụng.
Ví dụ: Bài 3: Em sẽ làm gì trong tình huống sau:
- Bà Năm ở cạnh nhà em là mẹ liệt sĩ. Mấy hôm nay bà bị ốm
(Bài 8: Biết ơn thương binh, liệt sĩ trang 31)
Giáo viên có thể chọn tình huống này để cho học sinh thảo luận đóng vai
bởi tình huống này có nhiều cách giải quyết khác nhau. Học sinh có thể thảo
luận xử lí tình huống này như sau:
+ Đi mua thuốc giúp bà.

+ Rủ một số bạn trong lớp đến giúp bà làm việc nhà, trò chuyện với bà.
+ Báo cho chính quyền địa phương biết để có hướng giải quyết.
c) Tình huống cần để mở để HS tự tìm cách giải quyết, cách ứng xử phù hợp;
không cho trước “ kịch bản”, lời thoại.
Khi đưa ra tình huống, giáo viên cần để mở để học sinh biết tự tìm
phương án giải quyết tình huống đó. Học sinh tự tìm kịch bản phù hợp để đưa ra
cách giải quyết thấu đáo nhất đối với vấn đề được đưa ra.
Biện pháp 2: Cho học sinh quan sát các cách ứng xử trong đời sống hằng
ngày.
Để đi đến xây dựng một kịch bản phù hợp với nội dung tình huống đưa ra,
giáo viên cần yêu cầu học sinh quan sát các hành vi ứng xử của bản thân, bạn
bè, thầy cơ, gia đình để có những ngữ liệu cần thiết trong việc đưa ra cách thể
hiện của mình trước những vấn đề mà các em đã thấy hoặc đã nghe. Mỗi cách
ứng xử của mọi người chính là bài học mà học sinh có thể rút ra và làm theo.
Theo tơi, khi xây dựng một kich bản, giáo viên nên cho học sinh tập quan sát,
tập lắng nghe để học sinh biết việc làm nào đúng, việc làm nào sai và vận dụng
một cách linh hoạt trong việc tạo ra một kịch bản hay để đóng vai xử lí tình
huống.
Ví dụ : Bài 2: Xử lí các tình huống sau:

8


a) Bác Hai ở cạnh nhà em bị cảm. Bác nhờ em đi gọi con gái bác đang làm ngoài
đồng
(Bài 7: Quan tâm, giúp đỡ hàng xóm láng giềng trang 25)
Ở bài tập này, tơi có thể cho học sinh thảo luận để đóng vai. Đối với tình
huống đưa ra, tơi nhận thấy đây là tình huống mà tất cả chúng ta ai cũng bắt gặp.
Việc giúp đỡ mọi người là một việc làm mà chúng ta thường xuyên thực hiện
trong đời sống hằng ngày. Như vậy, vấn đề đưa ra gần gũi với các em. Tôi

hướng các em nhớ lại cách ứng xử của mình khi giúp đỡ mọi người, được mọi
người giúp đỡ lại mình để đưa ra cách xử lí cho phù hơp. Tơi ln nói với các
em rằng, mỗi ngày, các em hãy dành cho mình một ít thời gian để quan sát, lắng
nghe những việc xảy ra trong cuộc sống. Việc làm đó khơng những giúp mình có
nhiều hiểu biết hơn mà việc làm đó cịn giúp mình biết lắng nghe và chia sẻ. Và
các em hãy ln quan niệm rằng “Cho đi là cịn mãi” để thấy cuộc đời ln có
nhiều niềm vui.
Hay như bài: Quan tâm, chăm sóc ơng bà, cha mẹ, anh chị em, tình
huống đưa ra như sau: Đang ngồi học bài trong nhà thì em nhìn thấy có mấy em
nhỏ đang chơi trị chơi nguy hiểm ngồi sân (như trèo cây, nghịch dao, chơi ở bờ
ao,......) Đây là tình huống mà em nào cũng có thể gặp trong cuộc sống. Tình
huống rất gần gũi đối với các em. Các em thường ứng xử như thế nào thì có thể
đưa vào để giải quyết tình huống này. Hay như tình huống " Bác Nam có việc
vội đi đâu từ sớm. Bác nhờ em trơng nhà giúp". Tình huống này thực sự là tình
huống rất gần gũi đối với các em. Các em đã trải qua trong thực tế hàng ngày.
Tôi cho các em tự quan sát, tự ứng xử để áp dụng.
Biện pháp 3: Giúp học sinh xây dựng kịch bản đóng vai
Sau khi học sinh đã xác định được nội dung cần đóng vai thì người giáo
viên cần hướng dẫn cho học sinh xây dựng một kịch bản vừa giải quyết được
vấn đề, vừa áp dụng được trong cuộc sống. Để thực hiện được biện pháp này
giáo viên cần:
a) Mỗi tình huống có thể phân cơng một hoặc nhiều nhóm cùng đóng vai
Đối với các tình huống đưa ra, tơi ln lựa chọn một tình huống và phân
cơng các nhóm xây dựng kịch bản để đóng vai. Việc làm này giúp học sinh tập
9


trung vào môt vấn đề nhưng đưa ra nhiều cách giải quyết khác nhau. Như vậy,
mỗi nhóm sẽ học hỏi những bài học mà các nhóm khác đưa ra và các em sẽ có
nhiều hành vi ứng xử để áp dụng vào thực tiễn cuộc sống.

Ví dụ ở bài 12: Tôn trọng thư từ, tài sản của người khác
Em hãy cùng các bạn trong nhóm thảo luận xử lí các tình huống sau:
a) Giờ ra chơi, thấy Mai đang ngồi đọc thư của bà ở quê gửi lên, Linh liền giật
thư từ tay Mai và chạy ra sân rủ Quang mở ra xem.
Em sẽ làm gì nếu là Quang?
b) Bình và Nguyên sang nhà Dung chơi. Trong lúc Dung ra phịng ngồi nghe
điện thoại, Bình rủ Ngun lấy sổ nhật kí của Dung để trên bàn ra xem Dung
viết những gì.
Em sẽ làm gì nếu là Nguyên?
Đối với các tình huống này, tơi sẽ phân cơng 3 nhóm thực hiện tình huống
a, ba nhóm cịn lại thực hiện nhiệm vụ b. Như vậy, sẽ có ba nhóm đưa ra các
cách giải quyết các tình huống khác nhau. Học sinh có thể dễ dàng nhận thấy tất
cả các hành vi ứng xử khác nhau để vận dụng trong cuộc sống.
b) Phải dành thời gian phù hợp cho HS thảo luận xây dựng kịch bản và chuẩn bị
đóng vai
Theo tơi, để học sinh xây dựng được một kịch bản hay thì giáo viên cần
cho học sinh thời gia thảo luận. Trong quá trình dạy học, tơi thường u cầu học
sinh tìm hiểu kĩ tình huống trước. Các em có thể thực hiện cơng việc này ở nhà
và xem nó như một dự án cần thực hiện. Khi học sinh xem là dự án thì bản thân
các em sẽ tìm hiểu kĩ càng tình huống, xác định các cách giải quyết, xác định
các nhân vật tham gia xử lí các tình huống trên.
c) Cần quy định rõ thời gian thảo luận và đóng vai của các nhóm
Trong q trình học sinh thảo luận, giáo viên cần đưa ra thời gian cụ thể
để học sinh thảo luận, tạo cho học sinh biết cách làm việc khoa học. Cần quy
định thời gian đóng vai để học sinh xây dựng kịch bản giải quyết một cách ngắn
gọn, súc tích.
d) Trong khi HS thảo luận và chuẩn bị đóng vai, GV nên đi đến từng nhóm lắng
nghe và gợi ý, giúp đỡ HS khi cần thiết.
10



Giáo viên không nên để cho học sinh tự thực hiện. Mỗi nhóm sẽ có tiến
độ thực hiện khác nhau. Vì thế, trong quá trình học sinh xây dựng kịch bản đóng
vai, giáo viên cần quan sát các nhóm một cách kĩ càng để phát hiện nhóm nào đã
biết xử lí, nhóm nào cịn lúng tùng, chưa đưa ra được kịch bản giải quyết. Trong
quá trình dạy học, bản thân tôi xem công việc này rất quan trong. Tôi luôn ln
theo dõi tiến độ hồn thành để có biện pháp can thiệp kịp thời đối với các nhóm.
Biện pháp 4: Giáo dục học sinh biết cách hợp tác nhóm
Trong dạy học, giáo viên cần kết hợp phát triển tất cả các năng lực cho
học sinh. Một trong những năng lực cần cho học sinh là năng lực hợp tác nhóm.
Với mỗi tình huống khác nhau, học sinh trong nhóm phải biết cùng nhau đưa ra
cách giải quyết. Trong đó tơi ln quan tâm bồi dưỡng cho nhóm trưởng, người
trực tiếp điều khiển các hoạt động của nhóm. Tơi ln u cầu các nhóm trưởng
cắt cử người đóng vai phù hợp, có sự phân cơng hợp lí giữa các thành viên trong
nhóm. Mỗi cá nhân trong từng nhóm cần góp ý kiến phù hợp với nội dung, sát
với yêu câu. Trong nhóm cần phụ giúp nhau đưa ý tưởng, xây dựng và hồn
thiện kịch bản, phân cơng nhân vật, chuẩn bị đạo cụ để thực hiện. Trong thực tế
các lớp tôi dạy, tơi thấy các nhóm đã hoạt động nhóm khá tốt. Các em đã biết
phân cơng cơng việc hợp lí giữa các thành viên.
Biện pháp 5: Cần khích lệ cả những HS nhút nhát cùng tham gia.
Trong lớp học, có những học sinh rất mạnh dạn, năng nổ nhưng cũng có
nhưng học sinh nhút nhát, chưa mạnh dạn tham gia các hoạt động. Đối với việc
diễn kịch thì càng khó hơn cho những em chưa tự tin. Tôi thấy hoạt động đóng
vai giúp cho học sinh tự tin hơn lên rất nhiều. Những em học sinh nhút nhát
được tham gia làm việc nhóm, được đóng vai cùng các bạn làm tăng khả năng
giao tiếp cho các em. Vì thế, giáo viên cần yêu cầu tất cả các học sinh cùng tham
gia. Khi đóng vai, khơng nên hạn chế số lượng học sinh tham gia. Giáo viên nên
quan tâm hơn đến các em học sinh thiếu tự tin, yêu cầu các nhóm phân cơng
nhiệm vụ, nhân vật thích hợp để các bạn đó được tham gia. Các em được tham
gia, được trao đổi đóng góp y kiến sẽ giúp các em tăng thêm các năng lực của

bản thân.

11


Biện pháp 6: Nên có hố trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của
tiểu phẩm đóng vai.
Đối với mỗi tiểu phẩm, ngồi kịch bản hay thì đạo cụ, hóa trang sẽ làm
tăng tình hấp dẫn của tiểu phẩm. Giáo viên có thể yêu cầu học sinh chuẩn bị từ
trước các đạo cụ cần thiết. Các em có thể hóa trang để hóa thân thành các nhân
vật như người già, bác trưởng thôn, bà cụ, thầy cô giáo, chú công an, anh thương
binh,... Tất cả sẽ tạo hiệu ứng rất tốt, giúp các em tự tin để diễn, và tình huống
đó sẽ sát hơn với thực tế cuộc sống của các em.
Ví dụ tình huống "Sâm đang chơi với các bạn ở đầu ngõ thì thấy bà ngoại
ở quê ra chơi" (Bài 4: quan tâm, chăm sóc ông bà, cha mẹ, anh chị em). Với
kịch bản của mình, tơi nhận thấy một số lớp tơi dạy, các em đã hóa trang thành
bà ngoại rất dễ thương, một số em ở các lớp cịn hóa trang bà cầm thêm một cái
gậy, lưng các em hơi còng xuống, các em cịn đưa thêm cái nón đội lên đầu rất
ra dáng bà già. Như vậy với cách diễn xuất và phục trang đạo cụ như vậy thì
việc đóng vai sẽ rất thú vị.
3. Kết quả, bài học kinh nghiệm:
a. Kết quả:
Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng thực hiện ở các lớp tơi dạy thì kết
quả khả quan hơn so với cách dạy thông thường và đây là kết quả thu được sau
khi áp dụng phương pháp đóng vai xử lí tình huống trong các tiết thực hành.
Số học sinh

Số học sinh được

Số học sinh thích


Số học sinh nhút

khối 3

tham gia đóng vai

tham gia đóng vai

nhát, khơng tự tin

Lớp
3A
3B
3C
3D
Tổng

SL
32
29
29
29
119

SL
32
29
29
29

119

TL
100 %
100 %
100 %
100 %
100 %

SL
26
24
23
24
97

TL
82,8 %
83,3 %
79,3 %
82,8 %
81,5 %

SL
6
5
6
5
22


TL
20,7 %
16,7 %
20,7 %
17,2 %
18,5 %

b. Bài học kinh nghiệm: Qua quá trình áp dụng thực hiện ở các lớp đã dạy thì
tơi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:

12


1. Cần phải nghiên cứu kỹ các văn bản chỉ đạo chuyên môn dạy học môn Đạo
đức của cấp trên.
2. Khơng ngừng học tập nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ.
3. Thường xuyên cập nhật các tình huống, các câu hỏi liên quan đến nội dung
môn học trên các phương tiện thông tin đại chúng.
4. Giáo viên cũng cần phải là một tấm gương sáng về xử lý các tình huống trong
cuộc sống hằng ngày để học sinh noi theo.
III. PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của sáng kiến:
Môn đạo đức ở trường Tiểu học sẽ giúp cho học sinh có những hiểu biết
ban đầu về một số chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi
trong các mối quan hệ của các em với bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng,
môi trường tự nhiên và ý nghĩa của việc thực hiện các chuẩn mực đó. Từng bước
hình thành kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân và những người
xung quanh. Theo chuẩn mực đã học, kĩ năng lựa chọn và thực hiện các hành vi
ứng xử phù hợp với chẩn mực trong các mối quan hệ và tình huống đơn giản, cụ
thể của cuộc sống. Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương tôn

trọng con người, yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt, khơng đồng tình với cái ác, cái
sai, cái xấu. Và quan trọng hơn cả đó là người giáo viên phải là tấm gương sáng
cho học sinh noi theo.
Ở lứa tuổi học sinh tiểu học, các em đang trong quá trình hồn thiện vốn
sống của bản thân. Người giáo viên cần có phương pháp giảng dạy làm sao để
các em dễ hiểu nhất, tìm được kết quả với con đường ngắn nhất, cải tiến góp
phần cho lớp học có chất lượng đồng đều, giảm hẳn lượng học sinh không đủ tự
tin lên tham gia đóng vai trong giờ học.
Qua việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp dạy học giúp học sinh
nạnh dạn, tự tin tham gia đóng vai xử lí tình huống trong các tiết thực hành mơn
đạo đức cho thấy việc lên tham gia đóng vai đối với học sinh khơng khó. Sau
q trình nghiên cứu và áp dụng các biện pháp trên vào thực tiễn thì tôi thấy học
sinh đã mạnh dạn hơn, tự giác lên tham gia đóng vai góp phần làm cho giờ học
phong phú sôi nổi, hấp dẫn và tăng hiệu quả của tiết dạy.
13


Với quá trình nghiên cứu, tham khảo tài liệu và ý kiến đóng góp của bạn
bè đồng nghiệp. Tơi tự tìm ra con đường để tháo gỡ những vướng mắc giúp học
sinh nắm vững bài học. Tuy các biện pháp tôi đưa ra chưa thật đầy đủ do điều
kiện về năng lực cũng như về thời gian nghiên cứu thực hành nhưng tơi hi vọng
rằng nó góp một phần khơng nhỏ trong việc dạy học môn đạo đức trong trường
tiểu học.
2. Kiến nghị:
Sau khi tìm hiểu thực trạng của việc vì sao học sinh khơng mạnh dạn, tự
tin lên tham gia đóng vai hóa thân vào các nhân vật trong các tiểu phẩm, tình
huống cũng như xác định được một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó,
nhằm giúp học sinh u thích phương pháp đóng vai ở mơn học đạo đức, tôi xin
đề xuất một số ý kiến sau:
2.1. Đối với nhà trường:

- Cần có thêm tài liệu tham khảo, nâng cao cho giáo viên và học sinh để bổ
sung phương pháp dạy, đáp ứng nhu cầu dạy – học.
- Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi sinh hoạt chuyên môn để học hỏi kinh
nghiệm của các đồng nghiệp.
- Duy trì tốt việc thao giảng, thăm lớp, dự giờ giáo viên trong trường.
- Với yêu cầu tiết dạy môn Đạo đức sử dụng đồ dùng dạy học minh họạ
nhiều, thường xuyên để tạo cảm hứng cho học sinh học tập, tiết dạy đạt hiệu quả
cao. Vì thế nhà trường nên phân công cho giáo viên chuyên phụ trách dạy mơn
học này để giáo viên có điều kiện đầu tư vào việc chuẩn bị kĩ đồ dùng dạy học,
sử dụng được cho nhiều lớp.
2.2. Đối với giáo viên:
Giáo viên phải ln đổi mới phương pháp dạy theo mơ hình trường học mới
phù hợp với đối tượng học sinh của mình: “Lấy học sinh để hướng vào hoạt
động học, thầy là người hướng dẫn, tổ chức, trò nhận thức chủ động trong việc
học''.
Giáo viên cần phải chịu khó tìm tịi, sưu tầm thêm nhiều tình huống xảy
ra hằng ngày trong cuộc sống để cho các em thực hiện đóng vai trong các tiết
học, ít nhất trong một bài học thì có một tình huống đóng vai.
14


Trong các buổi sinh hoạt ngoại khóa, giáo viên có thể chủ động lồng ghép
dạy đạo đức cho nhiều lớp, tổ chức trò chơi thi đua giữa các lớp với nhau nhằm
tạo điều kiện cho các em giao lưu, học hỏi kiến thức từ các bạn lớp khác.
Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã và đang thực hiện. Tuy các biện
pháp này còn nhiều hạn chế, thiếu sót nhưng nếu chúng ta biết phối kết hợp và
vận dụng chúng sao cho phù hợp với thực tế đối tượng học sinh của mình thì nó
sẽ góp phần khơng nhỏ vào việc làm cho các em học sinh yêu thích mơn học đạo
đức. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp chân thành của các bạn đồng
nghiệp./.


15



×