Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

LICH SU VIET NAM TU NGUON GOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.17 KB, 22 trang )

LỊCH SỬ VIỆT NAM ĐẠI CƯƠNG
----------------------------------------------------------------------------------Chương 1:
Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX
1.1. Việt Nam thời nguyên thủy
1.1.1. Vài nét về đất nước và con người Việt Nam
- Nước Việt Nam nằm ở đông nam lục địa châu Á, bắc giáp nước cộng hòa nhân dân
Trung Hoa, tây giáp nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào và Vương quốc Campuchia,
đông và nam giáp Biển Đơng (Thái Bình Dương), có diện tích 331.991km2 đất liền,
3.200km đường bờ biển và khoảng trên 3.000 hòn đảo lớn nhỏ.
- Việt Nam có vùng địa hình đất liền khá đặc biệt: hai đầu phình ra, ở giữa thu hẹp và kéo
dài
+ Địa hình miền Bắc tương đối phức tạp, có nhiều khu rừng rậm, cổ như Cúc Phương,
núi cao như đỉnh Phanxipăng 3.143m, xen lẫn với các núi đá vơi ở Cao Bằng, Hịa Bình,
Ninh Bình. Sự xâm thực của thời tiết đã tạo nên hàng loạt hang động và quang cảnh
nhiều màu nhiều vẻ của vùng đất Bắc. Cùng với rừng rậm là nhiều loại cây ăn quả, hàng
trăm giống thú vật đã tạo nên những điều kiện đặc biệt thuận lợi cho sự sinh sống và phát
triển của con người.
+ Địa hình Trung Bộ với dải Trường Sơn trải dọc phía tây cũng tạo nên nhiều điều kiện
cho con người sinh sống, vùng đất đỏ Tây Nguyên được phủ lớp dung nham núi lửa nên
bằng phẳng và phì nhiêu, trở thành nơi cư trú của con người và của nhiều loại động thực
vật quý hiếm.
+ Nam Bộ là vùng đồng bằng phì nhiêu, những cánh đồng thẳng cánh cò bay, màu mỡ,
với hai mùa rõ rệt.
- Việt Nam có nhiều sơng ngịi, trong đó có hai con sông lớn nhất là sông Hồng và sông
Cửu Long, hai con sông này đã bồi đắp phù sa, bồi lấp vịnh biển tạo nên hai đồng bằng
rộng lớn thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và tụ cư của con người bao đời nay.
- Nằm trong khoảng 8030' - 23022' độ vĩ bắc, với chiều dài 15 vĩ tuyến (khoảng 1.600km),
Việt Nam thuộc khu vực nhiệt đới và một phần xích đạo, miền Bắc có 4 mùa, miền Trung
và miền Nam có 2 mùa (ở mỗi miền lại có những vùng tiểu khí hậu), với đặc điểm là
lượng mưa và độ ẩm tương đối lớn, tuy nhiên do vị trí gần biển nên hàng năm bão và
nắng hạn thường xuyên đe dọa sản xuất và đời sống của nhân dân.


- Trong lòng đất Việt Nam tàng trữ nhiều loại khống sản có giá trị kinh tế cao. Đây có
thể coi là một vùng được thiên nhiên “hào phóng”, nhưng trái lại nó cũng vơ cùng khắc
nghiệt, dữ dằn, có thể bất ngờ gây ra muôn vàn tai họa cho con người.
- Về con người Việt Nam: do vị trí địa lý nằm ở khu vực nối liền hai đại dương là Thái
Bình Dương và Ấn Độ Dương, vùng hải đảo và vùng lục địa châu Á, nên cũng là nơi tụ
cư của nhiều tộc người khác nhau. Việt Nam là nước nằm giữa hai trung tâm văn minh
lớn nên là điểm giao lưu của các nền văn minh đó. Đến nay, trên đất nước ta có 54 tộc
người sinh sống, người Việt chiếm 87% dân số. Mỗi dân tộc có những nét văn hóa riêng,
nhưng các dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau trong q trình dựng và giữ nước. Trong suốt
chiều dài lịch sử, nhân dân các dân tộc đa số và tiểu số, cả miền núi và miền xuôi đã cùng


nhau xây đắp nên phẩm chất, cốt cách của con người Việt Nam, tạo dựng nên một nền
văn hóa, văn hiến Việt Nam độc đáo, với nhiều giá trị cao đẹp.
1.1.2. Các giai đoạn phát triển của xã hội nguyên thủy trên đất Việt Nam
- Những dấu tích đầu tiên của con người trên đất nước ta
+ Buổi đầu của lịch sử loài người bắt đầu bằng sự xuất hiện của người vượn cách ngày
nay khoảng hai triệu đến vài chục vạn năm. Ở Việt Nam đã tìm thấy dấu vết của người
vượn cách ngày nay khoảng 30-40 vạn năm. Các nhà khảo cổ học, dân tộc học đã tìm
thấy những chiếc răng của người vượn ở các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn),
các công cụ lao động bằng đá của người vượn ở Núi Đọ (Thanh Hóa), Hang Gịn (Đồng
Nai), An Lộc (Bình Phước)
Người tối cổ sống thành từng bầy, mỗi bầy có khoảng 20 – 30 người, gồm 3-4 thế hệ.
Họ săn bắt và hái lượm để sinh sống.
- Sự chuyển biến từ Người tối cổ thành Người tinh khơn
+ Trong q trình tiến hóa, Người tối cổ đã chuyển biến thành Người tinh khơn (hay cịn
gọi là người hiện đại Homosapien). Trên lãnh thổ nước ta đã phát hiện những răng và
nhiều cơng cụ đá có hình dáng rõ ràng, được ghè đẽo của người tinh khơn.
Ở hang Hùm (n Bái), có những răng hóa thạch của Người tinh khôn giai đoạn sớm –
các nhà sử học coi là Người tinh khôn đầu tiên ở Việt Nam. Ở di tích Sơn Vi (Phú Thọ),

các nhà khảo cổ tìm thấy nhiều cơng cụ đá của Người tinh khơn giai đoạn muộn. Chủ
nhân của văn hóa Sơn Vi cư trú trong các hang động, mái đá và cả ở ngồi trời, ven các
sơng suối trên một địa bàn khá rộng từ Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Bắc
Giang, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị. Họ sống thành thị tộc, bộ lạc, lấy săn
bắt và hái lượm làm nguồn sống chính. Cơng cụ đặc trưng của văn hóa Sơn Vi là những
hịn cuội, được ghè đẽo ở rìa cạnh tạo thành lưỡi sắc dùng để chặt, nạo hay cắt. Văn hóa
Sơn Vi có niên đại cách ngày nay từ 10.000 đến 18.000 năm.
- Sự phát triển của công xã thị tộc
+ Cuộc sống ngày càng phát triển, nhu cầu cải tiến công cụ sản xuất và phương thức kiếm
sống ngày càng cao. Ở Hịa Bình và nhiều địa phương khác trên đất nước ta đã tìm thấy
nhiều dấu tích của một giai đoạn phát triển cách ngày nay khoảng 7.000 – 12.000 năm và
được gọi chung là văn hóa Hịa Bình. Dấu tích của văn hóa Hịa Bình được phát hiện ở
các tỉnh Hịa Bình, Thanh Hóa, Lai Châu, Sơn La, Hà Giang, Ninh Bình, Nghệ An,
Quảng Bình, Quảng Trị.
Cư dân Hịa Bình sống định cư lâu dài trong các hang động, mái đá gần nguồn nước,
hợp thành các thị tộc và lấy săn bắn, hái lượm làm nguồn sống chính. Ngồi ra họ cịn
biết trồng các loại rau, củ, cây ăn quả. Một nền nơng nghiệp sơ khai đã bắt đầu. Cư dân
Hịa Bình còn biết ghè đẽo nhiều hơn lên một bên mặt của cơng cụ lao động như rìu ngắn
bước đầu biết mài ở lưỡi. Ngồi ra cịn có một số cơng cụ được làm bằng xương, tre, gỗ.
+ Nối tiếp văn hóa Hịa Bình là văn hóa Bắc Sơn, có niên đại cách ngày nay khoảng
6.000 – 10.000 năm. Các dấu tích của văn hóa Bắc Sơn được tìm thấy ở nhiều tỉnh như
Lạng Sơn, Thái Ngun, Hịa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An… cư dân Bắc Sơn
cũng định cư trong các hang động đá vôi và dùng đá cuội để chế tạo công cụ. Họ đã biết
đến kĩ thuật mài công cụ và đồ trang sức, biết làm đồ gốm. Công cụ phổ biến của cư dân
Bắc Sơn là rìu mài ở lưỡi. Hoạt động kinh tế chính là săn bắt, hái lượm, đánh cá và chăn
nuôi. Sản xuất nơng nghiệp có bước tiến hơn cư dân Hịa Bình. Cuộc sống vật chất và
tinh thần cũng được nâng cao hơn. Các nhà khảo cổ học thường coi đó là “cuộc cách
mạng đá mới”.



+ Cách ngày nay 5.000 - 6.000 năm, trên đất nước Việt Nam, con người đã phát triển kỹ
thuật mài, cưa, khoan đá, làm gốm. Vì vậy cơng cụ lao động có hình dáng gọn, đẹp hơn,
thích hợp với từng loại công việc, từng vùng đất khác nhau. Nhờ thế, năng suất lao động
tăng lên rõ rệt. phần lớn cư dân bước vào giai đoạn nông nghiệp trồng lúa (dùng cuốc đá).
Cùng với sự gia tăng dân số là sự mở rộng trao đổi sản phẩm được đẩy mạnh giữa các bộ
lạc. Đời sống vật chất của cư dân đã ổn định hơn. Mỗi gia đình đều có cơng cụ lao động
vật dụng. Quần áo làm bằng da thú, vỏ cây sui, đã có dấu vết quần áo được làm bằng sợi
dệt. Con người đã chế tác, sử dụng nhiều đồ trang sức bằng đá, đất nung, vỏ ốc biển.
Người chết được chôn theo nhiều cách: ngồi xổm, nằm co, nằm ngửa… Địa bàn cư trú
của các thị tộc, bộ lạc bấy giờ đã mở rộng đến nhiều địa phương trong cả nước.
Nhiều dấu tích văn hóa hậu kì đá mới đã được phát hiện ở nhiều nơi như: Lạng Sơn,
Lai Châu, Sơn La, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Plây Cu, Đồng Nai.
- Sự ra đời của thuật luyện kim và nghề nông trồng lúa nước
+ Khoảng 3000 – 4000 năm cách ngày nay, các bộ lạc sống rải rác trên đất nước ta, trên
cơ sở trình độ phát triển cao của kĩ thuật chế tác đá và làm gốm, đã bắt đầu biết sử dụng
nguyên liệu đồng và thuật luyện kim để chế tạo công cụ. Nghề nông trồng lúa nước được
tiến hành ở nhiều thị tộc.
+ Đầu thiên niên kỉ thứ II TCN, các bộ lạc sống ở vùng lưu vực sông Hồng đã đưa kĩ
thuật chế tác đá lên đỉnh cao, đồng thời biết sử dụng hợp kim đồng và kĩ thuật luyện kim
để chế tạo cơng cụ. Đó là chủ nhân của văn hóa Phùng Ngun, mở đầu cho sơ kì thời đại
đồng thau ở Việt Nam.
Các di tích văn hóa Phùng Ngun được phát hiện ở Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang,
Bắc Ninh, Hà Tây, Hà Nội, Hải Phòng.
+ Các bộ lạc Phùng Nguyên là cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, sống định cư lâu dài
trong các công xã thị tộc. Công cụ chủ yếu vẫn bằng đá. Họ làm gốm bằng bàn xoay, biết
xe chỉ, dệt vải và chăn nuôi gia súc như trâu, bò, heo, gà…
+ Đời sống tinh thần của cư dân Phùng Nguyên khá phong phú, biểu hiện một trình độ
thẩm mĩ khá cao. Các cơng cụ đá được mài nhẵn đẹp mắt, gốm được trang trí hoa văn
nhiều kiểu, đồ trang sức có nhiều loại, nhiều kích thước làm bằng đá, sừng, xương. Tục
chơn người chết nơi cư trú, chôn theo công cụ lao động và các vật dụng khác.

+ Cùng với các bộ lạc Phùng Ngun ở lưu vực sơng Hồng, cịn có các bộ lạc sống ở
vùng châu thổ sơng Mã (Thanh Hóa), chủ nhân của nền văn hóa Hoa Lộc và các bộ lạc ở
vùng lưu vực sông Lam là cư dân của nền nông nghiệp dùng cuốc đá phát triển. Trong
các di tích văn hóa Hoa Lộc cịn có một số hiện vật bằng đồng.
- Cách ngày nay khoảng 3000 - 4000 năm, ở vùng Nam Trung Bộ, các bộ lạc Bình Châu,
Long Thạnh… chủ nhân của văn hóa tiền Sa Huỳnh cũng đã tiến đến sơ kì thời đại đồng
thau, biết đến kĩ thuật luyện kim. Hoạt động chủ yếu của cư dân Sa Huỳnh là nông
nghiệp trồng lúa và các cây trồng khác. Ngồi ra họ cịn làm đồ gốm, dệt vải, rèn sắt và
làm đồ trang sức.
- Ở các tỉnh miền Nam cũng đã phát hiện một số di tích văn hóa đồ đồng như Dốc Chùa,
Cầu Sắt… được gọi chung là văn hóa Đồng Nai. Đây là một trong những cội nguồn hình
thành văn hóa Ĩc Eo. Cư dân văn hóa Đồng Nai làm nghề nơng trồng lúa nước và các
cây lương thực khác. Ngồi ra họ cịn làm nghề khai thác sản vật rừng, săn bắn, làm nghề
thủ cơng. Bên cạnh các cơng cụ bằng đá, cịn có một số hiện vật bằng đồng, sắt.


Tóm lại: cách ngày nay khoảng 3000-4000 năm đã hình thành những nền văn hóa lớn,
phân bố ở các khu vực khác nhau, làm tiền đề cho xã hội nguyên thủy chuyển biến sang
giai đoạn cao hơn.
1.2. Các quốc gia cổ đại trên đất nước Việt Nam
1.2.1. Nước Văn Lang - Âu Lạc
- Những chuyển biến trong đời sống kinh tế
+ Trải qua hàng nghìn năm tồn tại và phát triển, cư dân nguyên thủy có những biến đổi to
lớn trong sản xuất, do kĩ thuật luyện kim ngày càng phát triển, công cụ bằng đồng ngày
càng nhiều, từ nửa sau thiên niên kỉ thứ nhất, con người còn biết rèn sắt, nhờ vậy con
người khai phá vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cả thành những cánh đồng màu
mỡ, có nền kinh tế nơng nghiệp trồng lúa, dùng cày với sức kéo trâu bị. Cùng với nghề
nơng, cư dân Đơng Sơn cịn săn bắn, chăn ni, đánh cá và làm nông nghiệp.
- Những chuyển biến xã hội
+ Sự phát triển nhanh của kinh tế đã dẫn đến chuyển biến về xã hội. Từ thời Phùng

Nguyên, đã bắt đầu có sự phân hóa giữa giàu và nghèo, của cải làm ra ngày một nhiều,
khơng những đủ ăn mà cịn dư thừa, số dân đông lên và chia thành thành 3 tầng lớp có
cuộc sống sang hèn, giàu nghèo, khác nhau. Tiền đề sự phân hóa xã hội là vấn đề sản
phẩm thừa, sự ra đời của nhà nước là u cầu mang tính khách quan nhằm điều hịa các
mâu thuẫn trong xã hội.
- Cơ cấu tổ chức Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc
+ Mặc dù sự phân hóa xã hội chưa sâu sắc, nhưng do yêu cầu của công cuộc chống ngoại
xâm cùng với yêu cầu bảo vệ nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước trước nạn lũ lụt
thường xuyên đe dọa đã đẩy nhanh quá trình hình thành nhà nước. Quốc gia Văn Lang ra
đời vào khoảng thế kỷ VII TCN (theo Việt Sử lược thì nhà nước Văn Lang ra đời trong
khoảng năm 696-681 tr.CN).
- Dựa vào một số tài liệu thành văn của Việt Nam và Trung Quốc ta có thể phác họa cấu
trúc nhà nước Văn Lang theo hệ thống 3 cấp như sau:
+ Đứng đầu nhà nước Văn Lang là Hùng Vương. Ngôi vua Hùng cha truyền con nối. Vua
vừa là người chỉ huy quân sự, vừa là người chủ trì các nghi lễ tôn giáo.
+ Dưới vua là các lạc hầu, lạc tướng, trực tiếp cai quản công việc của các bộ. Nước Văn
Lang có 15 bộ (vốn là 15 bộ lạc trước đó).
+ Dưới bộ là làng (các cơng xã nơng thơn cịn gọi là kẻ, chạ, chiềng), đứng đầu là các già
làng (bồ chính). Mỗi cơng xã có một ngôi nhà chung để sinh hoạt, hội họp khi cần thiết.
+ Bờ cõi nước Văn Lang bao gồm Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ hiện nay. Đóng đơ ở Phong
Châu (có sách viết là Bạch Hạc), Văn Lang là quốc hiệu của nước ta thời các vua Hùng.
- Cuối thế kỉ thứ III, nhà Tần đem quân đánh Văn Lang, cuộc kháng chiến bùng nổ và
kéo dài từ 214 đến 208 TCN. Nhân dân Lạc Việt và Âu Việt dưới sự chỉ huy của Thục
Phán đã chiến đấu chống quân Tần thắng lợi. Năm 208 Thục Phán lên làm vua và xưng là
An Dương Vương, lập ra nước Âu Lạc, đóng đơ ở Cổ Loa (Đơng Anh, Hà Nội).
+ Tổ chức nhà nước và các đơn vị hành chính vẫn chưa có gì thay đổi so với thời các vua
Hùng. Đứng đầu nước Âu Lạc là Thục An Dương Vương.
- Cương vực nước Âu Lạc rộng lớn hơn nước Văn Lang. Cư dân nước Âu Lạc chủ yếu là
người Lạc Việt và người Âu Việt.
- An Dương Vương đã xây dựng được một đội quân khá mạnh lúc đó, chọn Cổ Loa

(Đông Anh, Hà Nội) làm kinh đô, cho xây dựng thành Cổ Loa kiên cố, trở thành trung


tâm của nước Âu Lạc. Là một căn cứ quân sự vững chắc, lợi hại, thành Cổ Loa trở thành
niềm tự hào của dân tộc ta (thành có 3 vịng, chu vi thành ngoài cùng dài 8.000m).
+ Trong xã hội Văn Lang – Âu Lạc, có ba tầng lớp là vua quan q tộc, dân tự do và nơ
tì.
- Nhà nước Âu Lạc tồn tại đến năm 179 tr.CN
Đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang - Âu Lạc)
Quốc gia Văn Lang - Âu Lạc tồn tại trên dưới 500 năm tr. CN, bằng sức lao động sáng
tạo và đấu tranh kiên cường, bền bỉ, người Việt đã xây dựng cho mình một đất nước phát
triển, với nhiều thành tựu kinh tế, văn hóa, làm nền tảng cho một nền văn minh bản địa
đậm đà bản sắc dân tộc.
- Về đời sống vật chất
+ Thóc gạo là nguồn lương thực chính, cư dân Văn Lang - Âu Lạc chủ yếu dùng gạo nếp.
Họ dùng gạo để nấu cơm, cơm được nấu trong ống tre, rồi tiến tới dùng chõ gốm để thổi
xơi. Gạo cịn dùng làm bánh chưng, bánh dầy. Ngồi gạo người dân cịn dùng các loại
cây lấy bột như khoai, sắn.
+ Thức ăn khá phong phú gồm các loại như: cá, tôm, cua, ốc, hến, các loại rau, củ, quả
như bầu, bí, cà, đậu. Thức ăn được chế biến theo nhiều cách khác nhau. Nghề chăn nuôi
và săn bắt cũng đã cung cấp thêm nguồn thực phẩm cho dân, các gia đình đã biết chăn
nuôi gia súc, gia cầm.
+ Trang phục phong phú, do nghề dệt khá phát triển nên đã xuất hiện nhiều loại vải khác
nhau. Trong sinh hoạt, nam thường đóng khố, nữ mặc váy. Riêng người phụ nữ cịn có
yếm che ngực, thắt lưng quấn ngang bụng và khăn quấn đầu. Để tóc là một phần trong
trang phục của phụ nữ Việt (đã có bốn kiểu để tóc).
+ Nhà ở có hai loại là nhà sàn và nhà mái cong làm bằng gỗ, tre, nứa. Phương tiện giao
thông chủ yếu bằng thuyền, bè trên sông.
- Đời sống tinh thần đạt đến một trình độ thẩm mỹ, tư duy khoa học khá cao. Cư dân Văn
Lang - Âu Lạc rất giỏi nghề luyện kim. Những sản phẩm tiêu biểu như trống đồng, thạp

đồng, đồ trang sức bằng đồng đã nói lên trình độ luyện và đúc đồng của người dân (từ lị,
khn, nguyên liệu, hoa văn). Kỹ thuật luyện sắt cũng khá phát triển.
+ Trong quá trình lao động sản xuất và chống ngoại xâm, xu hướng thống nhất, đồn kết,
hịa hợp, cộng đồng đã thắng thế các tư tưởng phân hóa, cục bộ trong các cộng đồng cư
dân. Từ ý thức cộng đồng đã nảy sinh ra tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh
hùng, các thủ lĩnh. Người dân Văn Lang - Âu Lạc đều có ý thức là họ chung một cội
nguồn, một tổ tiên.
+ Hình thức tín ngưỡng phồn thực đã xuất hiện, bên cạnh đó là phong tục chôn người
chết.
+ Lễ hội bấy giờ rất phổ biến, thịnh hành và là một bộ phận quan trọng trong đời sống
của cư dân Văn Lang - Âu Lạc. Lễ hội có quanh năm nhưng tập trung vào mùa thu, mùa
xuân với những nghi lễ và các trò chơi dân gian phong phú.
+ Người dân rất thích cái đẹp và hướng tới cái đẹp, từ đồ trang sức, công cụ lao động, đồ
dùng dùng trong sinh hoạt, thậm chí cả vũ khí đều đạt đến một trình độ kỹ thuật và mỹ
thuật rất cao. Người dân cịn có tục nhuộm răng đen, xăm mình.
+ Nghệ thuật âm nhạc phát triển, nhạc cụ gồm bộ gõ, bộ hơi và bộ dây. Bộ gõ tiêu biểu
nhất là trống, nhưng lâu đời nhất là khèn (kèn). Trống đồng Đông Sơn, Ngọc Lũ với
những nét đặc sắc có một khơng hai là niềm kiêu hãnh của người Việt cổ.


- Ý nghĩa của thời kỳ dựng nước đầu tiên
+ Sau một thời kỳ dài sống định cư và mở rộng lãnh thổ, phát triển nền kinh tế, với nông
nghiệp trồng lúa nước là chủ đạo, vượt qua nông nghiệp dùng cuốc, tiến lên nơng nghiệp
dùng cày, có sức kéo là trâu bò, cùng với những tiến bộ khác trong đời sống xã hội, người
Việt cổ đã đưa xã hội vượt qua thời tiền sử, vượt qua hình thái kinh tế - xã hội nguyên
thủy sang hình thái kinh tế - xã hội phân hóa giai cấp và có nhà nước.
+ Sự ra đời của nhà nước Văn Lang - Âu Lạc thế kỷ VII-III tr.CN đã mở ra thời đại dựng
nước đầu tiên của dân tộc, hình thành nền văn minh Việt Nam đầu tiên – văn minh sông
Hồng
+ Bản sắc, cốt cách dân tộc là cội nguồn sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn để dân tộc

Việt Nam vượt qua được mọi thử thách to lớn trong hơn 1.000 năm Bắc thuộc và trường
tồn đến ngày nay.
1.2.2. Quốc gia cổ Champa và Phù Nam
- Quốc gia cổ Champa
+ Trên địa bàn của văn hóa Sa Huỳnh (khu vực miền Trung và Nam Trung Bộ ngày nay)
đã hình thành quốc gia cổ Lâm Ấp – Champa: vào cuối thế kỉ II, nhân lúc tình hình Trung
Quốc loạn lạc, Khu Liên đã hô hào nhân dân Tương Lâm nổi dậy giành quyền tự chủ,
khởi nghĩa thắng lợi Khu Liên tự lập làm vua, đặt tên nước là Lâm Ấp.
+ Sau khi nước Lâm Ấp ra đời, dựa vào lực lượng quân đội khá mạnh, đã tiến hành các
cuộc tấn công các nước láng giềng, mở rộng lãnh thổ: về phía Bắc đến sơng Gianh
(Quảng Bình), phía Nam đến sơng Dinh (Bình Thuận) và gọi tên nước là Champa (thế kỉ
VI) đến thế kỉ XV thì suy thối và sáp nhập vào Đại Việt
+ Cũng như cư dân Việt cổ, hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Champa là nông
nghiệp trồng lúa nước, sử dụng công cụ bằng sắt và sức kéo của trâu bò, họ còn sử dụng
guồng nước trong sản xuất. nghề thủ công khá phát triển như rèn sắt, làm gốm, đồ trang
sức, chế tạo vũ khí, nghề đóng gạch khá phát triển, được biểu hiện ở hàng trăm tháp cổ
xây dựng công phu với trình độ cao cịn tồn tại đến ngày nay.
+ Champa theo chế độ quân chủ. Vua nắm mọi quyền hành về chính trị, kinh tế, tơn giáo,
dưới vua có Tể tướng và hai đại thần giúp việc. dưới các quan đại thần có các thuộc quan
chia làm ba cấp khác nhau. Cả nước chia làm 4 khu vực hành chính lớn gọi là châu (hay
quản hạt), dưới châu là các huyện. Huyện chia thành các làng. Mỗi làng có từ 200 đến
500 hộ.
+ Quân đội Champa khá hùng mạnh, với khoảng 40.000 đến 50.000 quân bao gồm thủy
binh, kị binh, tượng binh và bộ binh.
+ Kinh đô Champa lúc đầu là Sinhapura (Trà Kiệu, QuảngNam), sau rời sang Indrrapura
(ở Đồng Dương – Quảng Nam), rồi chuyển về Vigiaya (Chà Bàn – Bình Định).
+ Người Chăm có tục ở nhà Sàn, ăn trầu cau, hỏa táng người chết. tôn giáo của họ là
Hinđu giáo và phật giáo. Nghệ thuật âm nhạc, nhảy múa rất phát triển. Từ thế kỉ IV,
người Chăm đã có chữ viết bắt nguồn từ chữ Phạn của Ấn Độ.
+ Xã hội người Chăm bao gồm: quý tộc, dân tự do và nô lệ.

- Quốc gia cổ Phù Nam
+ Trên địa bàn châu thổ sông Cửu Long (Nam Bộ) đã hình thành nền văn hóa cổ cách
ngày nay khoảng 1500 - 2000 năm, các nhà khảo cổ gọi là văn hóa Ĩc Eo (thuộc huyện
Sơn Thoại tỉnh An Giang). Trên cơ sở văn hóa Ĩc Eo, Quốc gia cổ Phù Nam của cư dân
Nam Á và Nam Đảo sống trên đồng bằng sơng Cửu Long đã hình thành vào khoảng thế
kỉ I, phát triển vào thế kỉ III – V và làm chủ một vùng rộng lớn ở Đông Nam Á.


+ Cư dân Phù Nam làm nghề nông trồng lúa nước, ngồi ra cịn trồng cây ăn quả và cây
lương thực khác, họ chăn nuôi trâu, lợn, voi, ngựa. Thủ công nghiệp rất phát triển gồm
nhiều ngành nghề như gốm, luyện kim, nghề kim hoàn.
+ Tập quán phổ biến của cư dân Phù Nam là ở nhà Sàn trên nền đất đắp cao, ở trần hoặc
mặc áo chui đầu, xăm mình, xõa tóc, hỏa táng. Phật giáo và Hinđu giáo được sùng tín.
Nghệ thuật kiến trúc, ca, múa, nhạc khá phát triển. Thể chế chính trị quân chủ theo kiểu
Ấn Độ. Vua đứng đầu và quyền hành tuyệt đối.
+ Xã hội có sự phân biệt giàu nghèo với ba tầng lớp chính là q tộc, bình dân, nơ tì (từ
tù binh). Là nước hùng mạnh, Phù Nam đã đem quân chinh phục các nước láng giềng,
đặc biệt là bán đảo Mã Lai. Cuối thế kỉ VI, Phù Nam suy yếu, bị Chân Lạp thơn tính.
1.3. Những thế kỷ Bắc thuộc và đấu tranh chống Bắc thuộc (179 tr.CN đến 938)
1.3.1. Chính sách đơ hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc
Năm 179 tr.CN, Triệu Đà với âm mưu xảo quyệt (dùng Trọng Thủy làm nội gián) đã
thơn tính được Âu Lạc, lập ra nước Nam Việt. Đến năm 111 tr.CN Âu Lạc từ tay nhà
Triệu lọt vào tay nhà Hán. Từ năm 111 tr.CN đến năm 938, nước ta bị các triều đại phong
kiến Trung Quốc thống trị (từ nhà Triệu, Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương, Tùy, Đường),
tất cả đều thực hiện chính sách nơ dịch thâm độc trên tất cả các phương diện chính trị
cũng như kinh tế, văn hóa nhằm đồng hóa nhân dân ta. Chính sách của chính quyền ngoại
bang biểu hiện từng thời kỳ có khác nhau, lúc rắn, lúc mềm, nhưng mục đích biến nước ta
thành quận, huyện, đồng hóa dân tộc, bóc lột tàn tệ và triệt để nhân dân ta thì không hề
thay đổi.
- Tổ chức cai trị:

+ Sau khi chiếm được Âu Lạc của An Dương Vương vào năm 179 tr. CN, Triệu Đà sáp
nhập đất đai Âu Lạc vào nước Nam Việt, chia nước ta thành hai quận là Giao Chỉ (Bắc
Bộ) và Cửu Chân (Thanh - Nghệ - Tĩnh). Nhà Hán đặt thêm quận Nhật Nam từ Đèo
Ngang vào đến Quảng Nam - Đà Nẵng. Có khoảng 50 huyện, với hơn 40 vạn dân. Cai
quản hai quận này là hai viên Điển sứ (đại diện cho nhà Triệu). Giúp việc cho Điển sứ là
một lực lượng quân sự đồn trú (do một tả tướng chỉ huy). Dưới cấp quận chưa có một tổ
chức hành chính nào mới. Chế độ Lạc tướng cổ truyền của người Việt vẫn tồn tại. Nhà
Triệu phải dựa vào các tù trưởng địa phương để cai trị.
+ Năm 111 trước Công Nguyên, nhà Hán đem hơn 10 vạn quân đánh Nam Việt, bọn
quan lại nhà Triệu đầu hàng. Nhà Tây Hán thống trị nước từ (từ 111 tr. CN đến 220 sau
CN), nhà Hán sát nhập 3 quận của Nam Việt vào với 6 quận khác của Trung Quốc lập
thành Châu Giao (hay Giao Châu), trụ sở đặt tại Mê Linh. Đứng đầu là Thứ sử, mỗi quận
có một Thái thú coi việc dân sự và một Đô úy coi việc quân sự, ở các huyện vẫn là Lạc
tướng cai trị dân như cũ.
+ Nhà Lương 502-557 chia lại các khu vực hành chính, lập thêm châu, đặt thêm quận, đặt
thêm quan lại để thu vét thuế. Cho thi hành chính sách phân biệt đối xử gay gắt (chỉ ưu
tiên đối với những người họ Lương, họ Tạ mới được giữ các chức vụ quan trọng).
+ Năm 618, nhà Đường thay nhà Tùy thống trị nước ta (618-905). Nhà Hán và nhà
Đường là hai triều đại thống trị nước ta lâu nhất, mỗi triều đại trên dưới 400 năm. Nhà
Đường lập ra An Nam đô hộ phủ, đất nước ta bị chia thành các châu, quận. Dưới huyện là
hương và xã. Đứng đầu phủ là Đơ hộ thâu tóm mọi quyền hành. Đứng đầu mỗi châu là
tên Thứ sử. Ở huyện có Huyện lệnh (riêng ở miền núi lập ra các châu ki mi do các tù
trưởng địa phương cai trị).


+ Trụ sở phủ đơ hộ đặt ở Tống Bình (Hà Nội), ở Tống Bình và nhiều nơi, nhà Đường cho
xây thêm thành lũy và tăng quân số đóng giữ.
Trong hơn một nghìn năm đơ hộ nước ta, mặc dù phong kiến phương Bắc ra sức củng
cố bộ máy cai trị của chúng bằng nhiều biện pháp và thủ đoạn thâm độc, nhưng khơng có
một triều đại phong kiến Hán tộc nào đặt được hệ thống xã quan lên đất nước ta, nhiều

vùng rộng lớn vẫn nằm ngoài sự cai quản của phong kiến phương Bắc. Làng Việt, về cơ
bản vẫn là “bầu trời riêng” của người Việt. Trên thực tế người Việt mất nước nhưng
khơng mất làng.
- Chính sách vơ vét bóc lột và đồng hóa dân bản xứ:
+ Ngay từ thời kỳ đầu, nhà Triệu đã thông qua tầng lớp tù trưởng địa phương tiến hành
bắt nhân dân ta phải cống nạp sản vật. Sang thời nhà Hán, bọn thống trị đẩy mạnh việc
chiếm đất đai, xây dựng những cơ sở kinh tế riêng, chúng đưa tội nhân, dân nghèo người
Hán đến ở lẫn với người Việt, xâm lấn, khai phá ruộng đất để lập đồn điền. Người dân
Việt phải nộp tơ thuế, chịu lao dịch cho chính quyền đơ hộ. Một hình thức bóc lột cơng
khai, nặng nề đối với nhân dân ta là cống nạp, chúng vơ vét một cách vơ hạn độ. Bên
cạnh chính sách cống nạp, chính quyền đơ hộ cịn bắt hàng vạn thanh niên trai tráng
người Việt làm bia đỡ đạn cho các cuộc hỗn chiến ở Trung Quốc, bắt hàng ngàn thợ thủ
cơng giỏi sang xây dựng kinh đơ.
+ Chính quyền đô hộ nắm độc quyền sản xuất, mua bán muối và sắt, riêng hai mặt hàng
này đã đem lại những món lợi lớn.
+ Dưới thời thuộc Đường, sự bóc lột kinh tế nặng nề hơn, nhà Đường thực hiện chính
sách tô (thuế ruộng), dung (thuế người), điệu (sản phẩm thủ cơng).
- Đồng hóa dân tộc, khủng bố và đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta:
+ Để nô dịch nhân dân ta về tư tưởng và tinh thần, ngay từ thời Tây Hán, các lễ giáo,
phong tục, tập quán, lối sống của người Hán đã được du nhập vào nước ta. Các Thái thú
như Tích Quang, Nhâm Diên đã muốn dùng lối sống Hoa nhằm cải biến phong hóa Việt.
Người Việt lấy vợ lấy chồng nhất thiết phải theo “lễ nghĩa Trung Quốc”, bắt dân ta phải
theo y phục của người Hán.
+ Cùng với việc làm trên, nhà Hán và các triều đại sau này đẩy mạnh việc truyền bá Nho
giáo vào xã hội Việt Nam, lấy đó làm cơng cụ đồng hóa nhân dân ta về mặt tư tưởng.
+ Tiếng Hán và chữ Hán cũng được phổ biến ở Giao Châu nhằm làm cơng cụ thực hiện
chính sách đồng hóa người Việt thành người Hán. Trong hơn 1.000 năm, nền văn hóa
Hán-Đường đã xâm nhập vào người Việt một cách sâu sắc, song không tiêu diệt được
tiếng nói của dân tộc Việt, nhân dân lao động trong các làng xã Việt cổ vẫn duy trì tiếng
nói của tổ tiên mình.

+ Chính quyền đơ hộ cịn đẩy mạnh việc di dân Hán đến ở lẫn với người Việt, những
cuộc di dân như thế diễn ra khi ồ ạt, khi lẻ tẻ nhưng không bao giờ dứt.
+ Để duy trì nền thống trị và ách áp bức bóc lột, các triều đại phong kiến phương Bắc đã
áp dụng luật pháp hà khắc như hình phạt xẻo mũi, thích chữ vào mặt những người chống
đối. Chúng sử dụng một đội qn đơng đảo, sẵn sàng đàn áp và dìm các cuộc khởi nghĩa
của nhân dân ta trong máu.
1.3.2. Những chuyển biến về kinh tế, văn hóa, xã hội
- Về kinh tế: công cụ bằng sắt được dùng phổ biến hơn trong sản xuất nông nghiệp, công
cuộc khai hoang mở rộng diện tích được đẩy mạnh, các cơng trình thủy lợi được mở
mang, nhờ thế năng suất lúa tăng hơn trước. Thủ cơng nghiệp, thương mại có sự chuyển


biến đáng kể. Một số nghề mới xuất hiện như làm giấy, làm thủy tinh. Nhiều đường giao
thông thủy bộ nối liền các vùng, các quận được hình thành.
- Về văn hóa xã hội: trong thời Bắc thuộc, nhân dân ta đã biết tiếp nhận những yếu tố tích
cực của nền văn hóa Trung Hoa thời Hán, Đường và “Việt hóa” nó, nên trong lĩnh vực
văn hóa có những chuyển biến tích cực về ngơn ngữ, văn tự.
+ Nhân dân ta khơng bị đồng hóa. Tiếng Việt vẫn được bảo tồn, các phong tục tập quán
như nhuộm răng, ăn trầu, tơn trọng phụ nữ vẫn được duy trì.
+ Mâu thuẫn bao trùm trong xã hội là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với chính quyền
phương Bắc. Mặc dù chính quyền đô hộ ngày càng tăng cường bộ máy cai trị nhưng
khơng khống chế được làng xã người Việt. Làng xóm trở thành nơi xuất phát giành độc
lập.
+ Trong cảnh bị thống trị, nhân dân ta đã tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa Trung Hoa để làm
giàu cho văn hóa Việt Nam
1.3.3. Các phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc (từ 179 tr.CN đến 938)
- Khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và cuộc kháng chiến chống xâm lược Hán (năm 40-43)
+ Dưới ách áp bức của nhà Đông Hán, đặc biệt là sự cai trị tàn bạo của Thái thú Tô Định,
đông đảo các tầng lớp nhân dân ta sục sôi căm thù. Mùa xuân năm 40, Hai Bà Trưng đã
nổi dậy khởi nghĩa ở Hát Môn (Phúc Thọ - Hà Tây), sau đánh chiếm Mê Linh (Vĩnh

Phúc), Cổ Loa (Hà Nội) nhân dân ba quận đã hưởng ứng liệt nhiệt, cuộc khởi nghĩa thắng
lợi, giành được quyền độc lập tự chủ trong ba năm.
+ Mùa hè năm 42, vua Hán cử Mã Viện và phải dùng một lực lượng quân sự mạnh mới
chiếm lại được Giao Chỉ vào năm 43.
- Cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu (năm 248)
+ Năm 248, Triệu Thị Trinh mới 19 tuổi đã cùng anh trai là Triệu Quốc Đạt người vùng
Quan Yên thuộc quận Cửu Chân (nay là Nơng Cống, Thanh Hóa) phất cờ khởi nghĩa.
Nhà Ngô hoảng sợ điều Lục Dận sang đàn áp, Triệu Thị Trinh đã chiến đấu dũng cảm rồi
hy sinh trên núi Tùng (Hậu Lộc, Thanh Hóa).
- Cuộc khởi nghĩa của Lí Bí và nhà nước Vạn Xn (542-603)
+ Mùa xn năm 542, Lí Bí ốn giận nhà Lương bỏ chức quan về quê tụ họp hào kiệt,
chiêu mộ quân sĩ phất cờ khởi nghĩa, chỉ sau 3 tháng cuộc khởi nghĩa đã thắng lợi, thành
Long Biên (nay thuộc Bắc Ninh) được giải phóng. Sau khi đánh bại quân xâm lược, đất
nước độc lập, tháng 2-544, Lí Bí lên ngơi vua lấy tên là Lí Nam Đế. Ông cho đặt tên
nước là Vạn Xuân (mong muốn đất nước bền vững lâu dài), đặt kinh đô ở cửa sông Tô
Lịch (Hà Nội) và cho dựng điện Vạn Thọ (mong muốn đất nước bền vững), cho dựng
ngôi chùa Khai Quốc nay là chùa Trấn Quốc bên Hồ Tây.
+ Tháng 5-545, vua Lương phái quân sang đánh nước ta, do quân Lương quá mạnh,
thành vỡ, Lí Nam Đế phải rút lui dần từ Tơ Lịch về Gia Ninh (Việt Trì), rồi Phú Thọ.
Ông trao lại quyền cho Triệu Quang Phục rồi lấy căn cứ Dạ Trạch (Khoái Châu, Hưng
Yên) để đóng quân.
+ Lợi dụng thời cơ Trần Bá Tiên bị điều về Trung Quốc dẹp loạn, Triệu Quang Phục xuất
quân tiến về giải phóng Long Biên, xưng Dạ Trạch Vương (tức vua Đầm Đêm). Đến năm
550 Triệu Quang Phục đánh đuổi hoàn toàn quân xâm lược giành lại chủ quyền đất nước,
xây dựng lại nhà nước Vạn Xuân.
+ Năm 603 nhà Tùy dẹp được cuộc khởi nghĩa và đặt ách đô hộ lại nước ta.
- Cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế năm 722)


+ Dưới ách đô hộ của nhà Đường, dân ta vừa phải nộp sưu cao, thuế nặng, lao dịch nặng

nề, vừa phải cống nạp phiền nhiễu, đông đảo các tầng lớp nhân dân ta hết sức căm phẫn.
Năm 722, Mai Thúc Loan lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa, lấy vùng Sa Nam hiểm yếu làm
căn cứ chống giặc. Nhà Đường đem 10 vạn quân đến đàn áp, cuộc khởi nghĩa thất bại.
- Khởi nghĩa Phùng Hưng (766-791)
+ Cuối thế kỷ VIII, nhà Đường bước vào thời kỳ suy yếu, trước tình hình đó Phùng Hưng
và em là Phùng Hải đã hô hào nhân dân nổi dậy khởi nghĩa chống nhà Đường đòi độc lập
dân tộc. Lợi dụng quân địch ở Tống Bình khơng chịu tn lệnh chỉ huy, qn khởi nghĩa
bao vây và đánh chiếm được thành, tổ chức lại việc cai trị.
- Cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ năm 905
+ Giữa năm 905, nhân lúc vua quan nhà Đường ở Trung Quốc lục đục khơng thể kiểm
sốt chặt chẽ nước ta như trước được nữa, Khúc Thừa Dụ đã nổi dậy chiếm được Tống
Bình và tự xưng là Tiết độ sứ. Nhà Đường buộc phải công nhận việc đã rồi. Đầu năm
906, vua Đường chính thức phong Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ, đất nước giành được
quyền tự chủ.
- Chống quân Nam Hán năm 930. Dương Đình Nghệ khôi phục nền độc lập
+ Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mĩ lên thay, vẫn xưng Tiết độ sứ. Mượn
cớ Khúc Thừa Mỹ không chịu thần phục, mùa thu năm 930 vua Hán huy động một lực
lượng lớn cả quân thủy và bộ tấn công nước ta. Khúc Thừa Mỹ chống cự không được bị
bắt đem về Quảng Châu, quân Nam Hán tàn phá nước ta rồi đem quân chiếm đóng thành
Đại La.
+ Nhân dân ta không chịu khuất phục, mùa xuân năm 931, một tướng cũ của Khúc Hạo là
Dương Đình Nghệ từ làng Ràng (Thiệu Hóa, Thanh Hóa) đem quân ra Bắc, quân Nam
Hán lo sợ phải cho người về nước cầu cứu. Viện binh của địch chưa kịp đến nơi thì
Dương Đình Nghệ đã dẫn quân đánh chiếm thành Đại La. Sau đó ông tổ chức lực lượng
đánh quân tiếp viện và thắng lớn, quân giặc bị đuổi ra khỏi nước ta. Dương Đình Nghệ
xưng là Tiết độ sứ. Quyền tự chủ của đất nước một lần nữa được khôi phục.
- Chiến thắng Bạch Đằng năm 938
+ Năm 937, Dương Đình Nghệ bị một tướng dưới quyền là Kiều Công Tiễn giết để đoạt
chức Tiết độ sứ. Ngô Quyền bấy giờ đang trấn giữ ở châu Ái (Thanh Hóa) kéo quân ra
Bắc trị tội tên phản bội. Khi quân Nam Hán còn đang ngồi bờ cõi nước ta, Ngơ Quyền

đã giết chết Bùi Cơng Tiễn, đồng thời lo tổ chức tồn dân chống giặc. Ơng bàn với các
tướng sĩ sẽ đóng cọc trên sông Bạch Đằng, lợi dụng quy luật của thủy triều để tiêu diệt
quân địch.
+ Kế hoạch được tướng sĩ ba quân hưởng ứng, hàng ngàn chiếc cọc gỗ vót nhọn đầu bịt
sắt được đóng xuống lịng sơng Bạch Đằng. Căn cứ vào quy luật của thủy triều, ông nhử
địch vào sâu rồi cho quân ra nghênh chiến, quân giặc mắc mưu rơi vào ổ phục kích của
ta, tồn bộ số quân thủy của địch bị quân ta mai phục từ hai bên bờ bất ngờ tấn cơng phá
vỡ đội hình. Hoảng sợ chúng bỏ chạy và bị cọc chọc thủng, thuyền vỡ và đắm rất nhiều,
tướng giặc là Hoằng Tháo bỏ mạng tại đây. Vua Nam Hán nghe tin con bị chết trận, thu
quân rút về nước. Ý đồ xâm lược của quân Nam Hán bị đè bẹp.
+ Cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ (905), chiến thắng Bạch Đằng năm 938 chấm đã
dứt thời kỳ nhân dân ta bị phong kiến Trung Quốc đô hộ, mở ra thời kỳ độc lập, tự chủ
lâu dài của Tổ quốc.


- Nguyên nhân thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc
+ Về mặt chủ quan, chúng ta bước vào thời kỳ Bắc thuộc từ những thành tựu rực rỡ của
lịch sử và văn hóa. Đó là hàng chục vạn năm văn hóa tiền sử và nền văn hóa Đơng Sơn
đã định hình lối sống, cá tính và truyền thống Việt Nam. Đó là một cơ cấu văn minh
riêng, một thể chế chính trị, xã hội riêng xác lập những cơ sở ban đầu nhưng rất vững
chắc về ý thức quốc gia, dân tộc.
+ Về mặt khách quan, nền đô hộ của phong kiến Trung Quốc trong thời kỳ Bắc thuộc tuy
hết sức tàn bạo và nguy hiểm, nhưng cũng bộc lộ nhiều chỗ yếu căn bản của nó. Thời kỳ
Bắc thuộc tuy kéo dài hơn nghìn năm, nhưng lại có nhiều gián đoạn bởi nhân dân ta đấu
tranh và nhiều lần giành được độc lập tạm thời.
+ Bộ máy chính quyền đơ hộ với tất cả khả năng và dù có cố gắng đến mức cao nhất cũng
khơng làm sao trực tiếp kiểm sốt và khống chế được tồn bộ lãnh thổ nước ta.
+ Ngồi ra, chúng ta cịn phải kể đến tinh thần yêu nước và ý chí đấu tranh vì độc lập tự
do của dân tộc Việt Nam. Tài chỉ huy của những người lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa: biết
nắm bắt thời cơ, biết mình, biết người, biết thu phục lịng dân, chọn cách đánh thích hợp,

đối với từng kẻ thù, biết lợi dụng những điều kiện tự nhiên như sông nước, thủy triều để
thắng địch.
1.4. Đại Việt từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX
1.4.1. Quá trình hình thành và phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam (thế kỉ X – XV)
- Thời kỳ Ngô, Đinh, Tiền Lê (939-1009)
+ Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938, Ngô Quyền xưng Vương, bãi bỏ tổ chức cai trị
của nhà Đường và chế độ Tiết độ sứ, xây dựng triều đình mới theo chế độ quân chủ trung
ương tập quyền, đóng đơ ở Cổ Loa (Hà Nội). Năm 944 Ngô Quyền mất, hai con là Ngô
Xương Ngập và Ngơ Xương Văn cịn nhỏ tuổi, người em vợ của ông là Dương Tam Kha
cướp ngôi, các phe phái tranh chấp lẫn nhau quyền lực, tình hình trong triều mất thế ổn
định. Sau khi lật đổ Dương Tam Kha, anh em họ Ngô thay nhau trông coi việc nước,
nhưng uy tín nhà Ngơ đã giảm sút, đất nước ngày càng thêm hỗn loạn.
+ Năm 965 xảy ra loạn 12 sứ quân, sản xuất đình trệ, đời sống nhân dân khó khăn. Dẹp
xong các sứ quân, năm 969, Đinh Bộ Lĩnh lên ngơi hồng đế (thường gọi là Đinh Tiên
Hoàng), đặt tên nước là Đại Việt, chọn Hoa Lư (Ninh Bình) làm nơi đóng đơ, xây dựng
cung điện. Năm 970 bỏ khơng dùng niên hiệu của các hồng đế Trung Hoa, đặt niên hiệu
mới là Thái Bình, tổ chức lại qn đội, thực hiện chính sách ngoại giao hịa hiếu với nhà
Tống ở phương Bắc.
+ Năm 979, Đinh Tiên Hồng và con trưởng là Đinh Liễn bị Đỗ Thích là một viên quan
nhỏ lẻn vào giết chết, Đinh Toàn mới 6 tuổi lên nối ngơi, ở bên ngồi nhà Tống chuẩn bị
kế hoạch xâm lược nước ta, được sự ủng hộ và suy tôn của Dương thị (Dương Thái hậu mẹ Đinh Tồn), các quan đồng lịng cử Thập đạo tướng qn Lê Hồn lên ngơi hồng đế
(“lấy áo long cổn khốc lên mình Lê Hồn”).
+ Tổ chức nhà nước thời Lê Hồn so với thời Khúc, Ngơ, Đinh từng bước được kiện tồn
nhất là ở triều đình trung ương, trở thành một chính quyền độc lập, tự chủ, tuy nhiên còn
đơn giản, các hoạt động của nhà nước chưa được thể chế hóa, việc lực chọn quan lại chưa
có chế độ rõ ràng. Nhà Tiền Lê tồn tại và phát triển từ 980 đến năm 1009.
- Từ thế kỉ XI – XV: phát triển và hoàn chỉnh nhà nước phong kiến
Triều đại nhà Lý (1010-1225)



Sau khi vua Lê Long Đĩnh chết, được sự ủng hộ của các đại thần và sư tăng đứng đầu là
nhà sư Vạn Hạnh, các quan trong triều tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Năm 1010 Lý
Công Uẩn lên ngơi hồng đế, đặt niên hiệu là Thuận Thiên, mở ra triều đại nhà Lý.
+ Năm 1010, nhà Lý dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long. Lý Công Uẩn chăm lo tổ chức
chính quyền trung ương và địa phương. Năm 1054, đổi tên nước là Đại Việt, chia cả nước
thành 24 lộ, phủ, dưới là huyện và hương.
+ Tổ chức lại chính quyền quân chủ: đứng đầu nhà nước là vua, giúp việc vua có quan
đại thần, bên dưới là các quan văn võ.
+ Năm 1042, nhà Lý ban hành bộ Hình thư, đó là bộ luật đầu tiên của nước ta. Quân đội
gồm hai bộ phận: cấm quân và địa phương quân; có các binh chủng: bộ, thủy, kỵ và
tượng binh. Vũ khí gồm giáo mác, cung nỏ, máy bắn đá. Từ thời nhà Lý, đã thi hành
chính sách “ngụ binh ư nơng” (gửi lính về nhà nơng).
+ Nhà Lý chú ý xây dựng tình đồn kết các dân tộc trong nước, đặc biệt là các dân tộc
thiếu số. Luôn giữ quan hệ hữu hảo với nhà Tống.
Triều đại nhà Trần (1226-1400)
Do nhà vua cuối cùng của họ Lý khơng có con trai, nên nhường ngơi cho con gái. Các
quan đại thần họ Trần đã cho rằng đất nước đang lâm nguy, buộc Lý Chiêu Hoàng (7
tuổi) phải nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh mới (6 tuổi). Trong những năm Trần
Cảnh nhỏ tuổi, Trần Thủ Độ quán xuyến mọi cơng việc.
+ Về xây dựng chính quyền: đứng đầu nhà nước là vua, nhà Trần đặt lệ nhường ngôi cho
con từ rất sớm và xưng là Thái Thượng hoàng. Các chức đại thần văn võ được giao cho
người trong họ nắm giữ. Đặt thêm một số chức quan như Hà đê sứ, Khuyến nông sứ, Đồn
điền sứ.
+ Cả nước được chia thành 12 lộ, đứng đầu có các chức chánh phó An phủ sứ. Dưới là
phủ, châu, huyện, do các chức tri phủ, tri huyện trông coi. Năm 1307, nhà Trần đổi hai
châu Ô và Lý thu nạp của Champa thành châu Thuận và châu Hóa. Dưới cùng là xã. Bên
cạnh các chức do dân cử, nhà Trần còn đặt thêm một xã quan.
+ Nhà nước ban hành bộ Hình luật, xác định lại những điều ban hành dưới triều Lý, chế
độ tư hữu được bảo vệ, việc ni nơ tì khơng bị hạn chế như trước.
+ Nhà Trần cho xây dựng một quân đội mạnh. Đạo quân Thiên Thuộc chuyên bảo vệ nhà

vua và hoàng thành được tuyển chọn kỹ tại vùng quê họ Trần (Tức Mạc - Nam Định).
Quân đội luyện tập đều đặn và dưới sự chỉ huy của các tướng có kinh nghiệm. Con em
vương hầu quý tộc được chọn vào học ở Giảng Võ đường (phía tây thành Thăng Long)
nhằm đào tạo thành võ quan cao cấp.
+ Nhà Trần rất chú trọng đến việc bảo vệ những vùng trọng yếu và biên giới, một số
tướng giỏi, tin cậy được cử cầm quân trấn giữ mạn Bắc. Việc cai quản các lộ Thanh Hóa,
Nghệ An được giao cho con em vua. Đối với Champa, nhà Trần chủ trương đặt quan hệ
thân thiết.
Vương triều Hồ (1400-1407)
Từ nửa sau thế kỷ XIV, xã hội Đại Việt rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng, nhà Trần
rơi vào tình thế rất khó khăn, năm 1400 Hồ Q Ly truất ngôi vua Trần, thành lập nhà Hồ
và đưa ra những cải cách chính trị, quân sự, kinh tế - tài chính, văn hóa giáo dục nhằm
cứu vãn Đại Việt. Những cải cách của Hồ Qúy Ly đụng chạm đến tất cả các tầng lớp
nhân dân và mọi hoạt động của xã hội nên tác dụng trên thực tế không nhiều.
Thời nhà Lê (1427-1527)


Năm 1427, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi và Nguyễn Trãi lãnh đạo thắng lợi.
Tháng 4-1428, Lê Lợi lên ngơi Hồng đế ở Đơng Kinh (Thăng Long). Nhà Lê khôi phục
lại tên nước Đại Việt, tiếp tục xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền.
+ Vua có quyền hành tuyệt đối, tự xưng là “Thiên tử”. Giúp việc vua là các quan Thượng
thư đứng đầu các bộ. Bên cạnh bộ có Hàn lâm viện (cơ quan soạn thảo công văn), Quốc
tử giám (cơ quan phụ trách giáo dục), Ngự sử đài (cơ quan kiểm tra, kiểm soát). Để tập
trung quyền hành nhà Lê bỏ chức Tể tướng, vua trực tiếp là tổng chỉ huy quân đội.
+ Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo (năm 1471 lập thêm đạo Quảng Nam), dưới
đạo là phủ, huyện (miền núi là châu), xã. Năm 1471, bản đồ 13 đạo được hồn thành.
+ Qn đội nhà Lê có khoảng 8 vạn bao gồm thủy binh, bộ binh, tượng binh, kỵ binh,
ngồi ra cịn có các đơn vị chun dùng súng lửa gọi là hỏa đồng. Đây là quân đội hùng
mạnh, có bản lĩnh chính trị cao, chế độ huấn luyện khá chặt chẽ, các võ quan cao cấp
được huấn luyện võ nghệ, học hỏi binh pháp tại Giảng Võ đường Thăng Long.

+ Các vua thời Lê đều rất chú ý xây dựng luật pháp. Đến đời vua Lê Thánh Tơng, bộ
Luật Hồng Đức được ban hành (cịn gọi là Lê triều hình luật bao gồm 721 điều, chia làm
6 quyển). Các vua nhà Lê rất chú ý đến việc bảo vệ biên cương và đoàn kết dân tộc.
- Nhà nước phong kiến trong các thế kỉ XVI - XVIII
Vương triều Mạc (1527-1592)
+ Thời kỳ nhà Lê, chế độ phong kiến Việt Nam phát triển hưng thịnh, tuy nhiên bước
sang thế kỷ XVI nhà nước trung ương tập quyền rơi dần vào khủng hoảng. Năm 1527
Mạc Đăng Dung truất ngôi vua Lê, lập ra triều Mạc. Phạm vi cai trị của nhà Mạc lúc đầu
bao gồm toàn bộ lãnh thổ Đại Việt thời Lê Sơ, nhưng từ năm 1546 khi Nam triều được
thành lập ở Thanh Hóa (chính quyền của nhà Lê Trung Hưng) thì phạm vi này bị thu hẹp
từ Ninh Bình trở ra Bắc.
+ Triều đình nhà Mạc cũng gồm đủ các ban văn võ. Đứng đầu là nhà vua. Để xây dựng
một đội ngũ quan lại trung thành với triều đại mình, nhà Mạc đẩy mạnh chế độ thi cử (cứ
3 năm tổ chức 1 kỳ thi, kể cả khi chiến tranh với Nam triều).
+ Nhà Mạc rất chú ý xây dựng quân đội, cho thực hiện chính sách lộc điền với quân lính.
+ Trong chính sách đối ngoại, nhà Mạc đã đầu hàng nhục nhã nhà Minh. Năm 1527 cử
phái đoàn sang Trung Quốc xin được thay nhà Lê thống trị đất nước.
Đất nước bị chia cắt: Sự thành lập Nam triều
+ Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê (1527), Nguyễn Kim (cựu thần của nhà Lê)
chạy vào Thanh Hóa lập Lê Duy Ninh làm vua. Năm 1539 đánh chiếm Thanh Hóa, năm
1540 đánh Nghệ An. Từ đó địa phận từ Thanh Hóa trở vào thuộc quyền cai trị của nhà Lê
(sử cũ gọi là Nam triều). Năm 1545 Nguyễn Kim bị giết, quyền hành rơi vào tay con rể là
Trịnh Kiểm.
+ Cuộc chiến tranh Nam triều với Bắc triều kéo dài 47 năm (1546-1592), thắng lợi thuộc
về phía Nam triều. Tháng 12-1592 nhà Mạc bị tiêu diệt.
Chiến tranh Trịnh – Nguyễn (1627-1672)
+ Từ khi Nguyễn Kim bị giết, nội bộ Nam triều đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa hai
dòng họ phong kiến Trịnh - Nguyễn. Năm 1558 Nguyễn Hoàng là con thứ của Nguyễn
Kim sợ anh rể giết đã xin vào trấn thủ Thuận Hóa. Bề ngồi vẫn giữ làm trịn bổn phận
với Nam triều, nhưng bên trong ra sức xây dựng thế lực cát cứ chống lại họ Trịnh.

+ Năm 1613 Nguyễn Hoàng qua đời, con là Nguyễn Phúc Nguyên lên thay cha đẩy
nhanh công cuộc cát cứ, thải hồi các quan lại do họ Trịnh phái vào, cắt đứt sự lệ thuộc


vào họ Trịnh. Tổ chức lại chính quyền trung ương, không chịu nộp thuế cho nhà Trịnh.
Hành động này đã làm cho mâu thuẫn Trịnh-Nguyễn thêm gay gắt.
+ Từ 1627 - 1672, 2 bên đã đánh nhau 7 lần, trong đó có 6 lần qn Trịnh chủ động, kết
quả khơng bên nào thắng, sông Gianh được lấy làm giới tuyến chia đôi đất nước. Từ đây
sử cũ gọi là Đàng Trong, Đàng Ngoài. Ở Đàng Ngoài, từ 1595 về sau, Trịnh Tùng và con
cháu kế vị đều xưng vương nhân dân gọi là “chúa Trịnh”. Họ Trịnh không cướp ngôi vua,
nhưng biến vua Lê thành bù nhìn để giữ danh nghĩa chính thống, chống lại các phe phái
đối lập. Trên thực tế, họ Trịnh nắm toàn quyền thống trị. Ở Đàng Trong, họ Nguyễn nắm
chính quyền, nhân dân quen gọi là “chúa Nguyễn”.
Tình trạng đất nước bị phân chia thành hai miền kéo dài đến cuối thế kỷ XVIII.
- Chế độ phong kiến Việt Nam từ đầu thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX
+ Ở Đàng Ngoài, từ 1595 Trịnh Tùng và các con cháu họ Trịnh đều xưng vương, dù
khơng cướp ngơi nhưng họ Trịnh thâu tóm mọi quyền hành. Đến nửa sau thế kỷ XVIII
chính quyền phong kiến Đàng Ngoài đã mục nát đến cực độ, vua Lê chỉ là cái bóng mờ
nhạt trong cung cấm. Các cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra liên tiếp làm cho chính quyền
họ Trịnh bị lung lay, suy yếu, tạo điều kiện cho phong trào nông dân Tây Sơn sau này thu
được thắng lợi nhanh chóng.
+ Nửa sau thế kỷ XVIII, chế độ phong kiến Đàng Trong rơi vào khủng hoảng, việc mua
quan bán tước trở nên phổ biến. Trong triều đình, tập đồn Trương Phúc Loan tự xưng là
Quốc phó, giết hại những ai chống đối. Q tộc thì đua nhau ăn chơi hưởng lạc. Nông
dân ngày càng cơ cực do bị bóc lột nặng nề, ruộng đất cơng làng xã bị bọn cường hào lấn
chiếm. Ruộng tư của nhân dân vốn rất ít lại bị bọn địa chủ cướp đoạt. Cảnh sống ngột
ngạt đã làm tăng nỗi bất bình ốn giận chính quyền họ Nguyễn.
Vương triều Quang Trung
+ Sau chiến thắng chống ngoại xâm (1789), bộ chỉ huy quân Tây Sơn chuyển hóa thành
bộ máy nhà nước phong kiến. Quang Trung đóng đơ ở Phú Xn (Nguyễn Nhạc là Trung

ương Hồng đế đóng đơ ở Quy Nhơn; Nguyễn Lữ là Đơng Định Vương đóng đơ ở Gia
Định; Nguyễn Huệ là Bắc Bình Vương, đóng đơ ở Phú Xn).
+ Quang Trung đã có nhiều biện pháp khơi phục kinh tế và ổn định xã hội, phát triển giáo
dục. Ông ban hành Chiếu khuyến nông, thực hiện chế độ quân điền, nhiều loại thuế được
giảm nhẹ, mở cửa buôn bán với nhà Thanh, thủ công nghiệp và buôn bán được phục hồi
dần.
+ Quang Trung còn cho soạn bộ luật mới Hình thư, nhanh chóng tổ chức lại chính quyền
từ trung ương đến xã, huyện, ban hành chế độ tín bài bắt buộc người dân phải thường
xuyên mang theo.
+ Đề phòng mối đe dọa từ phương Bắc (nhà Thanh), phía Nam (Nguyễn Ánh), Quang
Trung tăng cường khả năng quốc phòng và thi hành chính sách ngoại giao tích cực. Nhà
Thanh phải công nhận Quang Trung là Quốc vương, cam kết không giúp đỡ tập đoàn Lê
Chiêu Thống. Trong khi sự nghiệp dang dở, ông bị bệnh nặng và chết năm 1792 khi mới
39 tuổi.
Vương triều Nguyễn (1802-1945)
+ Quang Trung mất, con là Quang Toản lên thay, nhưng không điều khiển được việc
nước. Trong khi đó anh em Tây Sơn lại mâu thuẫn, Nguyễn Ánh đã lợi dụng thành công
mâu thuẫn này để thiết lập nên triều Nguyễn. Từ năm 1787, Nguyễn Ánh đem quân từ
Xiêm về chiếm lại đất Gia Định, sau đó ra sức củng cố lực lượng của mình.


+ Năm 1792 Quang Trung mất, triều đại Tây Sơn mất đi trụ cột vững chắc nhất. Năm
1802, được sự ủng hộ của bọn địa chủ Đàng Ngoài cũ, Nguyễn Ánh đánh bại triều Tây
Sơn, thiết lập nên triều Nguyễn. Năm 1804 đổi tên nước là Việt Nam, sau đổi thành Đại
Nam.
+ Nhà Nguyễn tăng cường củng cố nhà nước quân chủ chuyên chế, chọn Phú Xuân làm
kinh đô. Vua Nguyễn trực tiếp nắm mọi công việc hệ trọng trong nước. Dưới vua là 6 bộ
giải quyết các công việc cụ thể. Năm 1830-1831, nhà Nguyễn bỏ tổng, trấn thành lập 30
tỉnh và phủ Thừa Thiên. Đứng đầu tỉnh có các chức Tổng đốc, Tuần phủ, trực tiếp chịu
trách nhiệm trước vua. Bộ máy quản lý tổng, xã được đặc biệt chú ý.

+ Để tăng quyền lực, nhà Nguyễn ban hành Luật Gia Long (niên hiệu của Nguyễn Ánh)
sao chép nguyên vẹn bộ luật phản động của nhà Thanh (Trung Quốc). Nhà Nguyễn cịn
cho xây dựng thành trì vững chắc ở kinh đô và các tỉnh, huyện. Dọc đường Bắc - Nam
cho dựng một hệ thống trạm ngựa nhằm kịp thời chuyển tin từ địa phương về triều đình
nhanh nhất.
+ Mọi cải cách tiến bộ thời Tây Sơn đều bị xóa bỏ, nhà Nguyễn trả thù một cách hèn hạ,
man rợ con cháu và các lãnh tụ Tây Sơn. Các cuộc khởi nghĩa của nơng dân bị dìm trong
bể máu.
+ Về mặt đối ngoại, nhà Nguyễn thần phục nhà Thanh một cách mù qng, nhưng lại
đóng cửa khơng quan hệ với các nước phương Tây.
Dưới sự thống trị của nhà Nguyễn, nền kinh tế sa sút nghiêm trọng, đô thị chậm phát
triển. Tính từ 1802 đến 1858 cả nước ta có 500 cuộc đấu tranh của nhân dân.
1.4.2. Cơng cuộc củng cố và bảo vệ lãnh thổ Tổ quốc
- Cuộc kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê (981)
Cùng với việc xây dựng một chính quyền quân chủ tập trung, các triều đại phong kiến
Việt Nam đã phải đối phó chống lại các cuộc xâm lược của phong kiến Trung Quốc.
+ Năm 979 được sự ủng hộ và suy tôn của (Dương thị) Dương Thái hậu, các quan đồng
lòng cử Thập đạo tướng qn Lê Hồn lên ngơi hồng đế chỉ đạo cuộc kháng chiến
chống Tống.
+ Năm 981, quân Tống chia làm hai đạo tiến vào nước ta, quân bộ đánh vào Lạng Sơn,
quân thủy đánh vào Bạch Đằng. Lê Hoàn một mặt cho qn dùng cọc đóng trên sơng
Bạch Đằng, mặt khác đích thân chỉ huy một cánh quân khác tiến lên biên giới chặn quân
bộ của địch. Quân Tống bị thua tan tác phải chạy tháo thân về nước, chiến thắng rực rỡ
của Lê Hoàn đã bảo vệ vững chắc nền độc lập tự do của Tổ quốc.
- Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống của nhà Lý (1075-1077)
Năm 1072, nhà Tống ráo riết chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Trước tình hình đó, Lý
Thường Kiệt chủ động tiến đánh thành Khâm Châu, Liên Châu và Ung Châu (Nam Ninh,
Quảng Tây, Trung Quốc), giáng đòn phủ đầu bất ngờ vào kẻ thù. Sau 42 ngày, quân ta
chiếm được thành Ung Châu, đốt hết lương thực, phá cầu cống rồi nhanh chóng rút quân
về nước, chuẩn bị mọi mặt kháng chiến. Nhiều phịng tuyến được xây dựng, trong đó

đáng kể nhất là phòng tuyến xây dựng bên bờ nam sông Như Nguyệt (sông Cầu, đoạn
chảy qua Yên Phong, Bắc Ninh).
+ Đúng như ta dự đoán, đạo quân xâm lược nhà Tống gồm 10 vạn bộ binh, 20 vạn dân
phu theo đường bộ kéo sang xâm lược nước ta. Một đạo quân khác theo đường thủy cũng
tiến sang phối hợp. Đoàn quân thủy do Lý Kế Nguyên chỉ huy bị ta đánh cho tan tành tại
Quảng Ninh làm cho quân bộ của địch rơi vào cảnh thiếu thốn đủ bề. Chờ mãi khơng có
qn viện, Qch Quỳ cho qn vượt sơng đánh vào phịng tuyến của ta. Vào một đêm


cuối năm 1077, đại quân ta vượt sông Như Nguyệt đánh mạnh vào các doanh trại quân
Tống, quân Tống thua to bị tiêu diệt đến quá nửa. Nhận thấy đã đến lúc kết thúc chiến
tranh, Lý Thường Kiệt chủ động cho người đến “giảng hòa”. Trong thế tuyệt vọng, chỉ
huy quân Tống là Quách Quỳ đồng ý cho quân rút về nước.
Nhà Trần ba lần kháng chiến chống quân Mông - Nguyên
- Kháng chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất (năm 1258)
+ Đầu năm 1258, ba vạn quân Mông Cổ tràn vào nước ta, kẻ thù đã chiếm được Thăng
Long, nhưng Thăng Long khơng một bóng người (do qn Trần chủ động rút lui chiến
lược), quân xâm lược tàn phá Thăng Long, nhưng thế của chúng ngày càng nguy ngập.
+ Nắm được tình hình quân địch, ta mở cuộc tấn công lớn ở Đông Bộ Đầu (bến sông
Hồng ở phố Hàng Than, Hà Nội ngày nay) đánh bật quân địch ra khỏi kinh thành Thăng
Long, kẻ địch tháo chạy về Vân Nam nhưng trên đường còn bị dân binh của Hà Bổng
chặn đánh. Chỉ trong vòng nửa tháng, quân dân Đại Việt thời Trần đã đánh bại quân xâm
lược Mông Cổ.
- Kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ hai (năm 1285)
+ Cuối tháng 1-1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan (con trai của vua Nguyên) chỉ
huy ồ ạt tiến vào nước ta. Thấy thế giặc mạnh, Trần Hưng Đạo vừa đánh tiêu hao, tiêu
diệt binh lực địch, vừa chủ động bỏ Thăng Long cho quân sĩ rút về Vạn Kiếp (Chí Linh Hải Dương). Quân Nguyên chiếm được Thăng Long nhưng khơng dám ở lại trong thành
mà đóng qn tại phía bắc sơng Hồng.
+ Một đạo qn Ngun khác do Toa Đô chỉ huy từ Champa đánh ra Nghệ An nhằm thực
hiện thế hai gọng kìm.

+ Trần Quốc Tuấn và vua Trần lui quân ra các lộ miền biển, rồi rút vào Thanh Hóa.
Khơng bắt được vua Trần và tiêu diệt quân chủ lực nhà Trần quân giặc lâm vào tình thế
khó khăn lớn: thiếu lương thực, ốm đau, bệnh tật. Nắm đúng thời cơ đó ta thực hiện cuộc
phản cơng tiêu diệt chúng ở Tây Kết (Khối Châu, Hưng n), Hàm Tử (Khối Châu),
Chương Dương (Thường Tín, Hà Tây), Thăng Long. Sau hai tháng quân và dân Đại Việt
đã đánh tan tành nửa triệu quân Nguyên, một đạo quân hung hãn nhất thế giới hồi đó,
đuổi chúng ra khỏi đất đai của Tổ quốc ta.
Cuộc kháng chiến lần ba (1287-1288)
+ Tháng 12-1287, quân xâm lược Nguyên ồ ạt tiến vào nước ta lần thứ 3, cuộc kháng
chiến bùng nổ. Cánh quân bộ của địch sau khi vượt qua Lạng Sơn tiến xuống và đóng
quân tại Vạn Kiếp, xây dựng căn cứ vững chắc. Cánh quân thủy gồm 600 chiến thuyền
do Ô Mã Nhi chỉ huy theo đường biển tiến vào cửa sông Bạch Đằng, chúng đã đánh bại
quân của Trần Khánh Dư rồi dong thuyền vượt sông Bạch Đằng hội quân với Thoát Hoan
tại Vạn Kiếp.
+ Đoán biết đoàn thuyền lương thực của quân Nguyên sắp tiến vào nước ta, Trần Khánh
Dư bố trí trận địa tại Vân Đồn, tiêu diệt và chiếm hầu hết đoàn thuyền lương của chúng.
Đợi mãi khơng thấy đồn thuyền lương thực đến chi viện, Thoát Hoan ra lệnh cho quân
tiến vào Thăng Long (1-1888), chúng điên cuồng cướp phá, nhưng đến đâu cũng bị nhân
dân chống trả quyết liệt, đạo quân xâm lược đơng đảo rơi vào tình thế nguy khốn... thời
cơ để quân Trần tiêu diệt quân Nguyên đã đến. Trận địa mai phục quân xâm lược được
Trần Hưng Đạo và quân sĩ nhà Trần chuẩn bị trên sông Bạch Đằng.
+ Đầu 4-1288, đồn thuyền do Ơ Mã Nhi chỉ huy có kỵ binh hộ tống rút về trước theo
hướng sơng Bạch Đằng, qn ta tiếp tục tập kích khiến chúng vất vả mới lui về được
sông Bạch Đằng. Lúc đó một số thuyền nhẹ của ta bơi ra khiêu chiến rồi vờ thua chạy,


quân địch đuổi theo lọt vào trận địa mai phục. Nước triều xuống nhanh, từ hai bờ hàng
nghìn thuyền nhỏ của ta đổ ra chiến đấu phá vỡ đội hình giặc. Bị đánh bất ngờ và quá
mạnh, quân Nguyên hoảng hốt chen nhau chạy ra biển. Thuyền của chúng xô cả vào bãi
cọc đang nhô lên bị vỡ đắm. Giữa lúc đó, hàng loạt bè lửa xi nhanh theo thủy triều

đang xuống, quân giặc khiếp sợ lao lên bờ thì bị đại qn của Trần Hưng Đạo đón đánh.
Tồn bộ đạo quân thủy của giặc bị tiêu diệt, Ô Mã Nhi bị bắt sống.
+ Cùng thời gian này, ta liên tiếp đánh phục kích cánh qn bộ do Thốt Hoan rút theo
hướng Lạng Sơn, bọn địch phải liều mạng mới thoát chết.
- Đấu tranh chống quân Minh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi (1418-1427)
Năm 1407, nhà Minh xâm lược nước ta, quân xâm lược phải mất 10 năm mới dập tắt
được các phong trào kháng chiến của nhân dân ta, nhưng ngay sau đó, quân Minh phải
chống lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
+ Mùa xuân năm 1418, vào ngày mồng 2 tết, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn (Thọ
Xuân, Thanh Hóa), giai đoạn đầu cuộc khởi nghĩa đã gặp vơ vàn khó khăn do qn Minh
liên tục tấn cơng và bao vây. Để thốt khỏi vịng vây, tháng 5-1419 Lê Lai đã phải cải
trang làm Lê Lợi dẫn quân ra giáp chiến với giặc và hy sinh anh dũng. Tháng 3-1423 khi
giặc mở tấn công lớn lên căn cứ (núi Chí Linh), nghĩa quân lại rơi vào một tình thế hiểm
nghèo, phải giết cả voi và ngựa ni qn. Để thốt khỏi tình thế trên, Lê Lợi tạm hịa
hỗn với qn Minh (1924-1925).
+ Theo đề nghị của Nguyễn Chích, nghĩa qn Lam Sơn rời Thanh Hóa, tiến vào Nghệ
An. Đây là một quyết định chiến lược vì kể từ đây nghĩa quân chẳng những thoát khỏi thế
bao vây mà còn liên tiếp giành được thắng lợi. Năm 1425 nghĩa quân giải phóng cả một
vùng rộng lớn từ Nghệ An đến Thuận Hóa.
+ Cuối năm 1425, Lê Lợi chỉ để lại một bộ phận bao vây các thành trì từ Thanh Hóa trở
vào cịn đại qn tiến ra Bắc theo 3 hướng. Từ năm 1426 nghĩa quân giành được nhiều
thắng lợi vang dội như Ninh Kiều (ngoại thành Hà Nội), Tốt Động, Chúc Động (Hà
Tây)... hàng vạn quân Minh bị tiêu diệt và bắt sống, quân địch phải vào cố thủ trong
thành Đông Quan. Quân ta vừa tổ chức bao vây chặt quân Minh trong thành vừa tiêu diệt
đồn lũy của địch ở các nơi.
Sau 10 năm vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng, đến năm 1427 quân khởi nghĩa lớn
mạnh, từ căn cứ Lam Sơn, Thanh Hóa đã tiến về bao vây Đông Quan.
Tháng 1-1427, 20 vạn viện binh từ Trung Quốc tràn sang giải vây, nhưng cả hai đạo
quân Minh do Liễu Thăng và Mộc Thạch chỉ huy đều bị tiêu diệt (tháng 11-1427, 5 vạn
quân Minh bị tiêu diệt và bắt sống tại Xương Giang; tháng 12-1427 ta tiêu diệt quân

Minh ở Chi Lăng) quân địch ở Đơng Quan hồn tồn khiếp đảm. Trong bối cảnh đó,
Vương Thơng phải xin hàng (16-12-1427), đồng ý mở hội thề Đông Quan và 2 ngày sau
rút quân về nước, cam kết không xâm lược Đại Việt.
- Quang Trung đánh tan quân Xiêm (1785) đại phá quân Thanh (1789)
+ Mùa xuân năm 1771 ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lên Tây Sơn
thượng đạo (tỉnh Gia Lai) lập căn cứ chống chính quyền họ Nguyễn (Đàng Trong). Sau
nhiều lần tấn công vào Gia Định về cơ bản chính quyền họ Nguyễn đã bị đánh tan, chỉ
cịn Nguyễn Ánh sống sót chạy sang Xiêm. Được Nguyễn Ánh dẫn đường, năm 1785
quân Xiêm sang xâm lược Nam Bộ. Chỉ trong một ngày, 2 vạn quân của Nguyễn Huệ
đánh bại 5 vạn quân Xiêm tại Rạch Gầm, Xoài Mút (Châu Thành, Tiền Giang).
+ Từ năm 1786 đến 1788, Tây Sơn ba lần kéo quân ra Bắc đánh tập đoàn phong kiến
phản động Trịnh, Lê và cơ bản thống nhất đất nước.


+ Được vua Lê Chiêu Thống cầu cứu, cuối năm 1788, 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ
Nghị sang xâm lược nước ta. Trước thế giặc mạnh, ta chủ động bỏ Thăng Long về lập
phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn (Ninh Bình - Thanh Hóa). Được Ngơ Thời Nhâm cấp
báo, Nguyễn Huệ lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Quang Trung rồi tiến quân ra Bắc. Bằng
cuộc tấn công thần tốc, vừa đi vừa tuyển quân, đến giữa tháng chạp năm 1789, Quang
Trung đã hội quân tại Tam Điệp. Cho qn lính ăn tết trước rồi ơng thẳng tiến về Thăng
Long. Chỉ trong 5 ngày đêm chiến đấu, dưới sự chỉ huy thiên tài của Quang Trung, 29
vạn quân Thanh đã bị đánh tan. Đây là một chiến công chói lọi bậc nhất trong lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc ta.
1.4.3. Kinh tế Đại Việt trong những thế kỷ độc lập (thế kỷ X-XIX)
- Tình hình kinh tế ( thế kỉ X-XV)
+ Nông nghiệp: nghề nông được xem là sinh hoạt chính trong đời sống kinh tế quốc gia
(“dĩ nông vi bản”). Các triều đại ngay từ thời Đinh – Tiền Lê đều có chính sách khuyến
nơng như miễn thuế, thành lập cơ quan riêng chỉ đạo nông nghiệp, đặc biệt khuyến khích
việc khai khẩn ruộng đất hoang. Từ thời nhà Lý đã cấp đất cho những người có cơng, cho
chùa chiền, nhà Lý cho đắp đê Cơ Xá, nhà Trần đắp đê Quai Vạc (1248). Đến nhà Lê, cơ

bản hệ thống đê điều ở miền Bắc đã được hồn thành.
+ Thủ cơng nghiệp: ở các triều đại phong kiến đầu tiên chưa có sự phân cơng giữa nông
nghiệp và thủ công nghiệp Thủ công nghiệp vẫn là nghề phụ của người nơng dân, nhưng
chất lượng hàng hóa ngày càng được cải thiện. Nhà nước thành lập các ty, tượng và có
một số chính sách khuyến khích thủ cơng nghiệp trong nhân dân. Các nghề quan trọng
như đóng tàu, đúc súng, đúc tiền do nhà nước quản lý thông qua các xưởng thủ công của
nhà nước gọi là cục Bách tác.
+ Thương nghiệp: địa vị nghề buôn bị xem thường cho là nghề bất nhân, được xếp vào
hạng chót trong tứ dân. Mọi giao dịch thường diễn ra ở các chợ làng theo phiên, các sản
phẩm do người nông dân làm ra được mang trao đổi. Trước thế kỷ XVI, ta chủ yếu buôn
bán với Trung Quốc (tại một số điểm biên giới đã có địa điểm trao đổi hàng hóa, sau đó
ta đã bn bán với nhiều nước như: Nhật Bản, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha,
Pháp... hai thương cảng quan trọng nhất lúc đó là Phố Hiến và Hội An.
+ Tiền tệ: trong việc trao đổi hàng hóa, nhân dân đã sử dụng tiền đồng, tiền kẽm và tiền
giấy do triều đình phát hành. Loại hình tiền khá phong phú. Ngồi ra cịn dùng bạc nén,
bạc thoi, bạc vụn để trao đổi.
- Công cuộc khai phá vùng đất Đàng Trong
Trong các thế kỉ XVI, XVII, XVIII, tuy đất nước bị chia cắt, nhưng kinh tế vẫn có
những bước chuyển biến, đất nước được mở rộng về phía Nam:
+ Năm 1558 Nguyễn Hồng vào cai quản vùng đất Thuận Hóa, ơng đã tìm cách mở rộng
và khẳng định thế lực, trong đó có cơng cuộc khai thác vùng đất Đàng Trong. Trong hai
thế kỷ XVI-XVII, chính quyền họ Nguyễn tổ chức di dân khai hoang vùng Thuận Quảng. Nhà nước cung cấp nông cụ, lương ăn trong nửa năm. Khi lập thành làng ấp, nhà
nước không thu thuế mấy năm đầu. Ruộng đất mới khẩn hoang là của nhà nước. Nhờ
chính sách khai hoang tích cực, vùng Thuận - Quảng diện tích canh tác được mở rộng,
nhiều xóm làng mới mọc lên.
+ Sang thế kỉ XVII, đất Thuận Quảng được mở rộng về phía Nam
Năm 1611, Nguyễn Hồng cho qn vượt đèo Cù Mơng lập phủ Phú Yên
Năm 1653, Nguyễn Phúc Tần mở rộng biên cương đến Phan Rang
Năm 1693, tồn bộ phần đất cịn lại của Champa được sáp nhật vào Đàng Trong



+ Trên vùng đất đồng bằng sông Cửu Long, trong thế kỷ XVII đã có những nhóm di dân
người Việt vượt biển vào Đồng Nai làm ăn. Cuối thế kỷ XVII, nhà Nguyễn khuyến khích
người giàu bỏ tiền, bỏ của ra thuê người đi khai hoang lập ấp trại. Năm 1698, chúa
Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Phúc Chu vào kinh lý phía Nam đặt Phủ Gia
Định gồm hai dinh: Trấn Biên (các tỉnh như Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Dương, Bình
Phước) và Phiên Trấn (thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Sau đó Mỹ Tho, Hà Tiên
(phần Tây Nam Bộ ngày nay) cũng sáp nhập vào phủ này (1708). Đến giữa thế kỷ XVIII,
miền đồng bằng sông Cửu Long có nhiều thơn, xã được lập thêm, như vậy vùng đồng
bằng sông Cửu Long đã được khai phá. Tại vùng đất màu mỡ này, nông nghiệp phát triển
mạnh, chăn nuôi gia súc quy mô lớn xuất hiện.
- Sự phát triển của kinh tế hàng hóa
+ Thủ cơng nghiệp nhà nước: cả chính quyền Lê – Trịnh (Đàng Ngồi) và chính quyền
chúa Nguyễn (Đàng Trong) đều chú trọng xây dựng các quan xưởng đúc súng, thuyền,
trang phục, đồ trang sức cho vua quan trong triều. Lực lượng lao động là các thợ thủ công
giỏi được tuyển chọn từ các địa phương.
+ Thủ công nghiệp trong nhân dân: các làng thủ công xuất hiện ngày càng nhiều như: Bát
Tràng (Hà Nội), Thanh Hà (Quảng Nam), Hiền Lương (Thừa Thiên – Huế). Xuất hiện
nghề khai mỏ (Đàng Ngồi), sản xuất mía đường (Đàng Trong). Kĩ thuật nấu đã đạt trình
độ cao.
+ Thương nghiệp, hầu hết các làng, xã đều có chợ, cá biệt có làng mọi người đều tham
gia bn bán. Trong những khu vực rộng khoảng 10-15 km 2 thì ngày nào cũng có chợ.
Hàng hóa là nơng phẩm và hàng thủ cơng. Lực lượng bn bán chính là phụ nữ. Đã bắt
đầu hình thành các luồng bn bán giữa miền núi và miền xi. Bất chất sự ngăn cấm của
chính quyền vẫn hình thành việc bn bán giữa Đàng Trong và Đàng Ngồi.
Bn bán với Trung Quốc và Nhật Bản đặc biệt phát triển, một lực lượng khá đông
kiều dân hai nước đã định cư buôn bán. Từ thế kỉ XVI, các công ti Bồ Đào Nha, Hà Lan,
Anh, Pháp… đến buôn bán tại Hội An (Quảng Nam), Phố Hiến (Hưng Yên), Thăng Long
(Hà Nội). Hàng hóa của họ là vũ khí, tơ lụa, pha lê, thuốc bắc, thủy tinh và các sản phẩm
khác. Các thương nhân nước ngoài mua của ta sản phẩm thủ cơng, đồ sứ, tơ lụa, đường

mía, lâm thổ sản…
+ Đơ thị hưng thịnh: ở Đàng Ngồi “thứ nhất kinh kì, thứ nhì Phố Hiến”. Năm 1666 một
giáo sĩ người Ý mơ tả Thăng Long có 62 khu phố sầm uất, cịn Phố Hiến có khoảng 2000
nhà và 20 phường sản xuất thủ công và buôn bán.
Ở Đàng Trong có Thanh Hà (Huế), Nước Mặn (Bình Định), Gia Định (Thành phố Hồ
Chí Minh) và đặc biệt Hội An đã trở thành trung tâm trao đổi hàng hóa của Đàng Trong,
là thương cảng quốc tế. Từ thế kỉ XVII, Hội An là một thành phố cảng lớn, hội tụ nhiều
thuyền buôn và thương điếm của các nước phương Đơng và phương Tây. Hội An cịn có
các khu cư trú riêng của người Nhật và người Hoa.
Đến triều Nguyễn, mặc dù khai khống có bước phát triển (xuất hiện hình thức th
mướn cơng nhân), nhưng thương nghiệp lại suy thối do hệ thống thuế khóa phức tạp, đơ
thị tàn lụi.
1.4.4. Văn hóa Đại Việt
- Văn hóa thời Lý
+ Năm 1070 nhà Lý lập Văn Miếu, mở trường dạy Nho học ở kinh thành. Năm 1075 tổ
chức kỳ thi quốc gia đầu tiên, lấy một số người đỗ vào làm quan. Việc học hành chủ yếu
dành cho con em quan lại, thi cử chưa đều đặn, khi cần mới mở. Văn học chữ Hán bắt


đầu phát triển. Ngoài thơ văn của các nhà sư cịn có của vua quan. Lý Thường Kiệt có bài
thơ bất hủ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Đạo Phật được truyền bá rộng rãi hơn trước,
nhiều chùa lớn được xây dựng.
+ Kiến trúc và điêu khắc rất phát triển, các cơng trình có quy mơ lớn và tương đối độc
đáo. Tiêu biểu là: Tháp Báo Thiên gồm 12 tầng, cao 60m; chùa Một Cột được xây dựng
trên một cột đá lớn (Chùa Một Cột tên là chùa Diên Hựu nghĩa là phúc lành lâu dài, xây
dựng năm 1049 thời vua Lí Thái Tơng, chùa tuy nhỏ nhưng được tạo dáng như một bông
sen cách điệu từ dưới nước vươn lên).
Nền văn hóa phong phú độc đáo và linh hoạt của nhân dân thời Lý đánh dấu sự ra đời
của một nền văn hóa riêng biệt của dân tộc - văn hóa Thăng Long.
- Văn hóa thời Trần

+ Nhân dân thời Trần rất thích ca hát, nhảy múa, thể dục thể thao. Nghệ thuật chèo,
tuồng, múa rối phát triển.
+ Đạo Phật rất phát triển, ngay cả vua, quý tộc vương hầu cũng thành nhà sư, chùa chiền
được mọc lên ở khắp nơi. Nho học ngày càng mở rộng. Các nhà Nho giỏi được quý
trọng, thầy Chu Văn An được cả vua và triều đình kính nể.
+ Nhà Trần chăm lo việc giáo dục, trường Quốc Tử giám mở rộng việc đào tạo con em
quý tộc, quan lại. Ở các lộ, phủ quanh kinh thành đều có trường cơng. Các kỳ thi quốc gia
được tổ chức đều đặn tuyển chọn nhân tài. Số quan lại có học thức cao ngày càng nhiều.
+ Thơ văn chữ Hán đặc biệt phát triển, tiêu biểu có Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo,
bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu. Năm 1272, nhà sử học Lê Văn Hưu soạn
xong bộ Đại Việt sử ký gồm 30 quyển, khẳng định sự tồn tại độc lập lâu dài của đất nước
ta. Đây còn là một tài liệu có giá trị nhiều mặt.
+ Về khoa học kỹ thuật: Trần Hưng Đạo viết Binh thư yếu lược tổng kết kinh nghiệm
chiến tranh qua các triều. Đặng Lộ chế tạo thành công chiếc Lung linh nghi để dự báo
thời tiết. Trần Nguyên Đán ghi chép sự biến đổi của trăng. Tuệ Tĩnh nghiên cứu thuốc
nam và tổng kết việc chữa bệnh. Hồ Nguyên Trừng và các thợ thủ công đã chế tạo thành
công súng thần cơ và đóng các loại thuyền lớn đi biển.
+ Các nghệ nhân đã sáng tác ra những cơng trình nghệ thuật có giá trị. Ở Thăng Long,
hoàng thành được xây dựng lại. Cung Thái Thượng hoàng ở Nam Định được xây dựng bề
thế, chùa Phổ Minh ở ngoại thành Nam Định có đỉnh đồng nặng hơn một ngàn cân, tháp
Bình Sơn ở Lập Thạch, Vĩnh Phú 11 tầng cao 15m…
- Văn hóa thời Lê
+ Nhà Lê lấy đạo Nho làm khuôn khổ, mẫu mực để đào tạo nhân tài. Đạo Nho đề cao vai
trị người cha, người chồng trong gia đình.
+ Cơng việc học hành, thi cử được vào quy củ, tổ chức được 12 kì thi Hội (1460-1497).
Nhà nước khuyến khích học để làm quan, giúp vua trị nước. Kinh đô Thăng Long có
Quốc Tử Giám, ở các đạo, phủ có trường cơng, trường tư, học trị rất đơng. Tổ chức thi
cử có quy chế chặt chẽ và tiến hành thường xuyên theo ba cấp: thi hương, thi hội, thi
đình. Người đỗ đầu kỳ thi đình được phong là Trạng nguyên, các tiến sĩ được vua mời ăn
yến ở cung đình, ban cho áo, mũ đẹp và được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu (xây

dựng năm 1484).
+ Văn học thời Lê có nội dung yêu nước, thể hiện tinh thần bất khuất, khí phách anh
hùng của dân tộc ta. Tiêu biểu nhất cho các nhà văn thời kỳ này là Nguyễn Trãi. Các tác
phẩm của ông như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngơ đại cáo, Phú núi Chí Linh, Quốc
âm thi tập... là tiêu biểu cho tư tưởng của thời đại. Suốt cuộc đời ông khi đánh giặc cũng



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×