Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.35 KB, 14 trang )

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN MIÊU TẢ
CHO HS LỚP 5

Lệ Thuỷ, tháng 5 năm 2020


Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập – Tự do – hạnh phúc

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:

MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG LÀM VĂN MIÊU TẢ
CHO HS LỚP 5

Lệ Thuỷ, tháng 12 năm 2020

I.

PHẦN MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài:
Trong chương trình tiểu học, Tiếng Việt được chia thành các phân môn, mỗi
phân môn có nhiệm vụ rèn luyện cho học sinh những kĩ năng nhất định Tập làm văn
là phân môn tổng hợp tri thức các phân mơn đó. Mỗi một bài văn của các em là một
q trình tích luỹ các kiến thức đã học từ các phân môn khác.


Phân môn Tập làm văn là phân mơn mang tính tổng hợp cao nhất, nó có vai trị
rèn cho học sinh cả bốn kĩ năng, trong đó quan trong là các kĩ năng nghe, nói, viết.
Đ``ối với phân mơn này, các em được rèn luyện năng lực trình bày ở dạng văn bản
với nhiều thể loại khác nhau.
Qua thực tế giảng dạy môn Tiếng Việt lớp 5 năm học 2018- 2019, tôi nhận thấy
phân mơn Tập làm văn là phân mơn khó nhất trong các phân môn của môn Tiếng Việt
và thể loại văn miêu tả là thể loại có thể nói là vừa khó dạy lại vừa khó học. Nhìn
chung đa số học sinh đã biết làm một bài văn đảm bảo bố cục song việc dùng từ đặt
câu, sử dụng các biên pháp tu từ so sánh, nhân hóa cả biện pháp liên tưởng vào bài
làm còn rất nhiều hạn chế. Đa số học sinh thường mở bài trực tiếp và kết bài không
mở rộng. Trong cách làm bài của học sinh không sử dụng câu mở đoạn cho một đoạn
văn mặc dù kiến thức này đã được học ở lớp 4. Các câu trong đoạn văn hay cả bài văn
không có sự liên kết chặt chẽ, khơng theo một trình tự nhất định. Chính vì thế, để học
sinh có thể hồn thành tốt bài văn là điều khơng dễ dàng.
Để giúp các em đạt được mục tiêu đề ra tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp
rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5” nhằm giúp cho quá trình dạy và
học đạt hiệu quả tốt hơn
*Điểm mới của đề tài:
Với đề tài “Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 5”
không phải là một sáng kiến mới, nhưng qua đề tài tôi đã chọn lọc để đưa ra các biện
pháp thiết thực nhất giúp người dạy vững vàng hơn trong kĩ năng rèn của mình và
người học tự tin, mạnh dạn hơn khi gặp một đề bài văn miêu tả.
2. Phạm vi áp dụng đề tài:
Đề tài này áp dụng trong lĩnh vực giảng dạy đối với học sinh lớp 4 và lớp 5.
Nghiên cứu đề tài, tôi khơng có nhiều tham vọng mà chỉ nhằm mục đích đóng góp


một phần cơng sức của mình vào cơng tác giáo dục của nhà trường. Với việc nghiên
cứu đề tài, tôi mong muốn sẽ có được bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực
tiễn giảng dạy mơn Tập làm văn cho học sinh học trong trường chúng tôi nói riêng,

trong ngành giáo dục huyện Lệ Thủy nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu đề tài
thành cơng, đồng thời chất lượng học tập của học sinh học cũng sẽ được nâng lên một
cách đáng kể.

II. Phần nội dung:
1. Thực trạng việc dạy và học văn miêu tả của học sinh và giáo viên
Đa số các em rất ngại học phân mơn Tập làm văn vì đây là mơn học địi hỏi
phải dùng ngơn ngữ để nói hoặc trình bày bài làm của mình nhưng vốn từ ngữ của các
em cịn rất hạn chế. Trong tiết lí thuyết các em rất ít phát biểu, GV phải tích cực gợi ý
thì một số em mới trả lời được. Qua chấm bài tập làm văn đầu tiên với kiểu bài tả
cảnh kết quả bài làm của các em tôi rất đáng buồn và lo lắng, trăn trở. Bởi kết quả đạt
được như sau:
- Giỏi:

0 em

- Khá:

9 /26em đạt 34,6%

- Trung bình: 8/26 em đạt 30,7%
- Yếu:

9/26 em đạt 34,6%

1.1. Những tồn tại
* Về học sinh
Khi chấm bài Tập làm văn, tôi thấy đa số học sinh đã biến các bài văn miêu tả
thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo nàn về từ, diễn đạt rườm rà tối nghĩa.
Trình tự sắp xếp cịn lộn xộn, bố cục thiếu chặt chẽ, bài văn chưa có trọng tâm. một số

học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, Mặt khác, khả năng cảm thụ văn học của các
em chưa cao. Chưa biết sử dụng các biện pháp nghệ thuật vào trong bài viết của mình
nên hầu hết các bài văn đều chưa có cảm xúc và chưa lơi cuốn người đọc. Nguyên
nhân dẫn đến thực trạng trên là do:
- Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
- Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả. Khơng biết hình dung
bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu tả khi quan sát.


- Vốn từ đã nghèo nàn lại khơng có điều kiện đọc sách báo, tích lũy vốn từ, cảm nhận
cái hay, cái đẹp của một đoạn văn, sắp xếp như thế nào để bài viết mạch lạc, chưa diễn
đạt được bằng vốn từ ngữ, ngơn ngữ của mình về một sự vật, cảnh vật, về một con
người cụ thể nào đó.
- Rất ít học sinh biết vận dụng các biện pháp nhân hóa, so sánh, điệp từ, điệp ngữ vào
bài làm của mình.
*Về giáo viên
- Với những tồn tại của học sinh như trên, một tiết học Tập làm văn Giáo viên vẫn
chưa bao quát hết các đối tượng để uốn nắn, sửa chữa kịp thời cho các em.

2. Các giải pháp
2.1. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh
Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người để
giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy- tức là lấy câu văn
để biểu hiện các đặc tính, chân tướng sự vật, giúp người đọc như được nhìn tận mắt,
sờ tận tay vào sự vật miêu tả. Vì vậy, khi dạy văn miêu tả, giáo viên cần chú ý hướng
dẫn học sinh quan sát và miêu tả theo các trình tự hợp lý :
a. Tả theo trình tự khơng gian:
Quan sát toàn bộ trước rồi đến quan sát từng bộ phận, tả từ xa đến gần, từ ngoài
vào trong, từ trái qua phải,... (hoặc ngược lại).
b. Tả theo trình tự thời gian:

Cái gì xảy ra trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau) thì
miêu tả sau. Trình tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu tả cảnh
vật hay tả cảnh sinh hoạt của người .
c. Tả theo trình tự tâm lí:
Khi quan sát cần thấy những đặc điểm riêng, nổi bật nhất, thu hút và gây cảm
xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước, các bộ phận khác tả sau. Khi
miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự này nhưng chỉ nên tả những
điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết như nhau của đối tượng.


Ngồi các trình tự miêu tả trên, giáo viên cần hướng dẫn và rèn luyện cho học
sinh kĩ năng sử dụng các giác quan (thính giác, thị giác, xúc giác, vị giác,...) để quan
sát, cảm nhận sự vật, hiện tượng miêu tả.
2.2. Chọn đề tài gần gũi, quen thuộc với học sinh và xác định yêu cầu trọng tâm đề
bài:
- Đối tượng học sinh chúng tôi là vùng nông thôn nên có một số đề bài khá xa
lạ đối với các em Ví dụ: Đề bài trong sách giáo khoa tiếng Việt lớp 5: Tả một khu vui
chơi mà em thích, hay tả dịng sơng ở q em hoặc tả cảnh biển buổi sáng… Với
những đề bài như thế này, tôi mạnh dạn thay bằng đề bài khác.
- Tuy nhiên, nói như vậy khơng có nghĩa là khơng cho học sinh có cơ hội phát
huy trí tưởng tượng của mình. Bởi trong một lớp học ln có nhiều đối tượng học
sinh.
Bài văn của học sinh được viết theo một đề bài cụ thể, cho nên yêu cầu hàng đầu
là các em phải viết đúng đề bài. Một đề bài đưa ra cho học sinh viết thường ẩn chứa
đến 3 yêu cầu: yêu cầu về thể loại (kiểu bài), yêu cầu về nội dung, yêu cầu về trọng
tâm.
Ví dụ: Đề bài ở tuần 4 lớp 5:
“ Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong
công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy).
Khi xác định yêu cầu trọng tâm của đề bài, giáo viên phải làm sao giúp học sinh

hiểu được rằng việc viết đúng yêu cầu của đề bài là yếu tố quyết định nội dung bài
viết:
Với đề bài trên, ẩn chứa 3 yêu cầu sau:
a. Yêu cầu về thể loại của đề là: Miêu tả (thể hiện ở từ “Tả”).
b. Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều) thể hiện ở cụm từ “cảnh
một buổi sáng (hoặc trưa, chiều)”.
c. Yêu cầu về trọng tâm là: Ở trong một vườn cây (hay trong công viên….).
Trong thực tế, không phải đề bài nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu. Như đề bài
“Tả một cơn mưa” chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung. Với đề bài này, giáo viên


cần giúp học sinh tự xác định thêm yêu cầu về trọng tâm của bài viết. Chẳng hạn “Tả
một cơn mưa khi em đang trên đường đi học”...
Việc xác định đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên các
em có được ý cụ thể, chính xác, tránh việc viết tràn lan, chung chung,...

2.3. Giúp học sinh nắm đặc điểm của từng kiểu bài miêu tả:
*Kiểu bài tả cảnh: Cần xác định các yêu cầu sau:
a. Xác định không gian, thời gian nhất định:
Sau khi xác định thời gian, không gian nhất định học sinh cần biết lựa chọn trình
tự quan sát. Đồng thời phải biết phân chia cảnh ra thành từng mảng, từng phần để
quan sát.
b. Xác định trình tự miêu tả:
Khi tả phải xác định một trình tự miêu tả phù hợp với cảnh được tả.
c. Chọn nét tiêu biểu:
Chỉ nên chọn nét tiêu biểu nhất của cảnh để tả, tập trung làm nổi bật đặc điểm đó
lên, có thể tả xen hoạt động của người, của vật, ... trong cảnh để góp phần làm cho
cảnh sinh động hơn, đẹp hơn.
d. Tả cảnh gắn với cảm xúc riêng bằng nhiều giác quan:
Tả cảnh luôn luôn gắn với cảm xúc của người viết. Cảnh vật mang theo trong nó cuộc

sống riêng với những đặc điểm riêng. Đây chính là phần hồn của cảnh. Cảnh khơng
có hồn sẽ trơ trọi, thiếu sức sống.
e. Chọn từ ngữ thích hợp khi tả cảnh:
Khi làm văn miêu tả cần biết lựa chọn từ ngữ gợi tả, dùng hình ảnh so sánh hoặc
nhân hoá để làm nổi bật đặc điểm cảnh đang tả giúp người đọc như đang đứng trước
cảnh đó và cảm nhận được những tình cảm của người viết.
Ví dụ : Trong bài văn Buổi sáng ở thành phố Hồ Chí Minh(SGK lớp 5- tập 2- trang
132) có đoạn Mặt trời chưa xuất hiện nhưng tầng tầng lớp lớp bụi hồng ánh sáng
đã tràn lan khắp không gian như thoa phấn trên những tòa nhà cao tầng của
thành phố…Thành phố như bồng bềnh nổi giữa một biển hơi sương...Những vùng
cây xanh bỗng òa tươi trong nắng sớm…Mặt trời dâng chầm chậm, lơ lững như
một quả bóng bay mềm mại…


*Kiểu bài tả người:
a. Chú ý tả ngoại hình hoạt động:
Khi tả người cần chú ý đến tuổi tác- mỗi lứa tuổi khác nhau sẽ có sự phát triển về
cơ thể, về tâm lý riêng biệt khác nhau và có những hành động thể hiện theo giới tính,
thói quen sinh hoạt, hoàn cảnh sống…. Khi miêu tả cần tập trung vào việc làm sao
nêu được cái chung và cái riêng của con người được miêu tả.
b. Quan sát trò chuyện trực tiếp:
Khi tả người, điều cần nhất là quan sát trực tiếp hoặc trò chuyện, trao đổi ý kiến
với người đó. Quan sát khn mặt, dáng đi, nghe giọng nói, xem xét cách nói, cử chỉ,
thao tác lúc làm việc…để rút ra nét nổi bật...
c. Tả kết hợp ngoại hình, tính nết, hoạt động:
Khi miêu tả có thể tách riêng từng mặt,từng bộ phận để tả nhưng để nội dung bài
văn miêu tả đạt được sự gắn bó, súc tích ta nên kết hợp tả ngoại hình, tính nết đan xen
với tả hoạt động.
d. Tả những nét tiêu biểu bằng tình cảm chân thật của mình:
Khi tả người, điều quan trọng là cần tả chân thật những nét tiêu biểu về người

đó, khơng cần phải tơ điểm người mình tả bằng những hình ảnh hoa mĩ, vẽ nên một
hình ảnh toàn diện. Làm như vậy bài văn sẽ trở nên khuôn sáo, thiếu sự chân thật làm
người đọc cảm thấy khó chịu.
Ví dụ:
Trong bài văn tả “Hạng A Cháng” (sách Tiếng Việt 5- tập 1- trang 119) nhà văn Ma
Văn Kháng đã viết: “A Cháng trông như một con ngựa tơ 2 tuổi, chân chay chạy qua
chín núi mười khe khơng biết mệt…Mười tám tuổi, ngực nở vịng cung, da đỏ như lim,
bắp tay bắp chân rắn như trắc, gụ. Vóc cao, vái rộng, người đứng thẳng như cái cột
đá trời trồng….”
2.4. Hướng dẫn học sinh lập dàn ý:
Đây là một việc làm khó. Giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh lập dàn ý trước
khi làm thành một bài văn hồn chỉnh. Có lập được dàn bài thì mới có thể tìm ý, sắp
xếp ý, viết thành một bài văn mạch lạc, bố cục rõ ràng, ý văn trong sáng. Đối với đối
tượng học trung bình và yếu việc lập dàn ý một bài văn không giống những dàn ý của


đối tượng khá và giỏi mà tôi dựa vào các câu hỏi gợi ý của mình, câu trả lời của các
em để hình thành nên dàn bài mẫu( ở đây giáo viên phải viết dàn bài lên bảng cho học
sinh quan sát.Thậm chí nếu các em khơng hình dung được thì giáo viên dùng dàn bài
dạng mở cho học sinh, chọn từ để điền vào dàn bài theo từng câu trả lời.
Ví dụ: Tả về người bạn thân của em.
Dàn bài sau khi đặt câu hỏi của giáo viên và câu trả lời của học sinh như sau:
1. Mở bài:- Bạn định tả là bạn: Minh, học chung với em từ lớp 1.
2. Thân bài:
- Tả hình dáng:
+ Vừa tầm
+ Nước da ngăm đen
+ Mặt tròn
+ Mắt sáng, dễ thương
- Tả tính tình:

+ Hịa nhã
+ Thơng minh
+ Học giỏi
+ Hay giúp đỡ bạn bè…
+ Có tinh thần trách nhiệm cao trong mọi hoạt động phong trào…
3. Kết bài:
- Rất quý bạn
- Noi gương bạn
Dàn bài mở( cho học sinh chọn từ thích hợp để điền vào câu trả lời)
Ví dụ phần thân bài( Tả hình dáng):
+ hình dáng( vừa tầm, khơng cao, bình thường)
+ Nước da( ngăm đen, nước da bánh mật, hơi đen, đen như cột nhà cháy)
+ Mặt( trịn, vng, hơi trịn, dài)
+ Mắt( sáng, mắt lanh lợi, mắt to trịn)
Có lập được dàn bài thì mới có thể tìm ý, sắp xếp ý, viết thành một bài văn mạch lạc,
bố cục rõ ràng, đúng theo yêu cầu.


2.5. Sử dụng phương pháp luyện tập theo mẫu:
Gợi ý cho học sinh khá giỏi làm bài, trình bày câu văn, đoạn văn. Cả lớp theo
dõi, nhận xét, giáo viên chốt lại và cho học sinh phát biểu. Nhưng điểm mấu chốt là
giáo viên phải chú ý từng đối tượng học sinh, sửa cho từng em, động viên sự sáng tạo
của các em, dù là rất nhỏ.
Dựa trên một đề văn cụ thể, giáo viên hướng dẫn học sinh vận dụng các kiến
thức kĩ năng đã học về đề văn đó để làm nhiều bài khác nhau, nhất là với đối tượng
học sinh trung bình, yếu. Ví dụ:
+ Học bài văn tả người thân, học sinh tả bà ngoại. Khi gặp một đề văn yêu cầu tả
một người hàng xóm, học sinh có thể sử dụng thứ tự miêu tả, bố cục, các biện pháp
nghệ thuật đã sử dụng ở đề bài trước để thực hiện làm đề bài thứ hai. Tất nhiên, giáo
viên phải giúp học sinh tránh sự sao chép nguyên văn.


2.6.Chấm bài thường xuyên:
Giáo viên phải tăng cường chấm bài nhằm giúp giáo viên nắm bắt kịp thời
những lỗi các em hay sai để có cách điều chỉnh phù hợp.
Đi đôi với công việc chấm bài là phải hướng dẫn học sinh sửa bài. Phải giúp
các em phát hiện ra những điểm hay cần học tập và những điểm chưa hay, chưa đạt để
sửa chữa trong bài văn của mình. Trên cơ sở đó, các em phải sửa lại bài làm của mình
cho hay hơn, đúng hơn.
Đối với học sinh học yếu giáo viên cần tránh việc chê bai các em mà ln động
viên, khuyến khích các em dù là những điều nhỏ nhất như các em biết chấm câu, biết
viết hoa chữ đầu câu, chữ rõ hơn…

2.7. Làm giàu vốn từ, tích lũy kiến thức văn học cho học sinh
Nếu học kiểu bài kể chuyện học sinh chỉ tái hiện lại nội dung câu chuyện đã
nghe, đã đọc là có thể đạt được yêu cầu cơ bản của đề bài thì văn miêu tả địi hỏi phải
có một vốn từ phong phú mới có thể làm bài. Thế giới quanh ta rất phong phú đa dạng
và không ngừng biến đổi. Người viết văn không thể “vẽ” được một cảnh một người
nếu bản thân người ấy thiếu vốn từ, vốn sống.
Làm giàu vốn từ cho học sinh có nghĩa là giúp cho các em nắm một số từ gợi tả
để có thể dùng trong miêu tả. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm các từ ngữ gợi tả


tầm vóc,dáng người ( cân đối, thon thon, thon thả, dáng người hơi thấp, khệnh khạng,
dong dỏng, cao cao, lùn tịt, lưng cịng, lưng tơm, gù…). Đơi mắt ( hình dáng mắt to,
bồ câu…), màu sắc mắt, tính cách( đen lay láy, đen huyền, lanh lợi, sắc sảo, ngây thơ,
nhân từ ), mắt thể hiện tâm trạng( lờ đờ, đờ đẫn, buồn bả, quả quyết, quyến rủ…) mắt
thể hiện tuổi tác ( có dấu chân chim, mờ đục, trũng sâu, …)
Cho học sinh tìm từ bằng các hình thức như: quan sát thực tế (quan sát bạn),
quan sát tranh ảnh, xem phim, đọc sách truyện, nhất là qua các phân môn của Tiếng
Việt như môn Tập đọc, luyện từ và câu là rất cần thiết.

- Khi tả tính tình của một con người cần chú ý những đặc điểm phù hợp với đối
tượng đó ví dụ: Tả em bé thì tính tình hiền lành, thơng minh, hóm hĩnh, ngoan
ngỗn…; Tả cơ giáo hoặc mẹ dịu dàng, cơng bằng, tận tình, bao dung, đảm đang…;
Tả một người xấu thì có tính hà tiện, keo kiệt, bủn xỉn, ích kỉ, tàn bạo, dối trá…
- Khi đã có một số vốn từ, việc tích lũy kiến thức văn học là điều kiện tối thiểu
để có thể học tốt mơn tiếng Việt, nhất là phân môn Tập làm văn. Giáo viên đã cho học
sinh sử dụng sổ tay chính tả để ghi chép những tiếng khó, ghi những trường hợp mắc
lỗi chính tả đã được sửa chữa. Trong môn Tập làm văn, đây cũng là một biện pháp
tích cực để giúp học sinh trau dồi vốn kiến thức văn học. Sổ tay văn học để cho học
sinh ghi chép các ý hay, câu đoạn văn hay. Việc ghi chép này không nhất thiết để cho
học sinh khi làm văn sẽ mở ra sử dụng nhưng trước hết, mỗi lần ghi chép, các em sẽ
được một lần đọc, ghi nhớ, bắt chước, lâu dần thành thói quen. Khi làm bài, những từ
ngữ, hình ảnh, ý văn sẽ tự động tái hiện, giúp học sinh có thể vận dụng làm văn.

2.8. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu, cảm nhận cái hay, cái đẹp của một
đoạn văn
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu để cảm nhận cái hay, cái đẹp qua việc đọc một
đoạn văn được giáo viên tiến hành qua nhiều tiết học. Cảm nhận được cái hay, cái
đẹp, các em sẽ hình thành những cảm xúc thẩm mĩ, giúp cho việc học tập làm văn tốt
hơn, nhất là văn miêu tả.
- Để hướng dẫn tìm hiểu cảm nhận cái hay, cái đẹp của đoạn văn, giáo viên
hướng dẫn học sinh hình thành thói quen suy nghĩ, tự đặt và ghi các câu hỏi xoay
quanh nội dung đoạn văn như: Đoạn văn trên miêu tả đặc điểm gì của nhân vật? Có


những từ láy nào gợi tả hình ảnh của nhân vật? Có những hình ảnh so sánh, nhân
hóa nào? Em có suy nghĩ gì sau khi đọc đoạn văn trên? …
III. KẾT QUẢ
Sau một thời gian thực hiện, theo nhận định của tôi, chất lượng học tập kiểu bài
miêu tả trong phân môn Tập làm văn lớp 51 do tôi chủ nhiệm đã có sự chuyển biến rõ

rệt.
Kết quả khảo sát môn Tập làm văn - Năm học 2018 – 2019 theo từng giai đoạn
như sau
Đợt 1 Đề bài: Em hãy tả ngơi trường thân u đã gắn bó với em trong nhiều
năm qua
Đợt 3 Đề bài: Em hãy tả một người bạn thân trong lớp của em.
Đợt 4 Đề bài: Em hãy tả một ở quê em vào buổi sáng sớm
Tổng Nữ
GKI
GKII
CKII

số
26
26
26

13
13
13

Dưới 5
TS
%
7
2

26,9
7,7


Điểm 5-6
TS
%

Điểm 7-8
TS
%

10
7
5

7
12
14

38,5
26,9
26,9

26,9
46,2
38,5

Điểm 9-10
TS
%
2
5
7


7,7
19,2
26,9

IV. PHẦN KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của đề tài:
Sau một năm học áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, thành công tuy nhỏ nhoi
nhưng tôi ý thức được rằng để giúp học sinh lớp tôi làm được bài văn miêu tả sinh
động, đúng kiểu bài, đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian, cơng sức nghiên cứu
soạn giảng, có lịng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề nghiệp. Thầy cô
giáo đã miệt mài, tận tuỵ thì việc mong muốn có nhiều học sinh giỏi văn sẽ khơng cịn
là khó. Sau thời gian đầu tư nghiên cứu và áp dụng những biện pháp dạy học như trên,
học sinh lớp tôi đã có chuyển biến đi lên về chất lượng phân mơn Tập làm văn nói
riêng và mơn Tiếng Việt nói chung.


Tập làm văn đúng là phân mơn có tính chất tổng hợp và sáng tạo cao. Cho nên
mỗi bài văn của từng học sinh là một tác phẩm văn học của các em, chúng ta phải tơn
trọng nó, giúp đỡ nó để mỗi ngày có được nhiều học sinh giỏi văn hơn, các em thích
học văn hơn. Có thể nói, bước đầu thành công trong việc dạy Tập làm văn miêu tả cho
học sinh lớp 5 là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽ đem kinh nghiệm này tiếp tục
áp dụng để giảng dạy phân môn Tập làm văn ở các năm sau, với mong muốn lớn nhất
của tôi là giúp học sinh nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cấp Tiểu học.
Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh cũng
cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Tôi nghĩ rằng nội dung
đề tài này khơng có nhiều điểm mới, đó chỉ là nhiệm vụ hằng ngày của giáo viên mà
thôi. Nhưng đồng thời tôi cũng tin rằng nếu lâu nay ta làm chưa tốt thì bây giờ ta dốc
hết tâm huyết vào, tận tuỵ với học sinh, soạn giảng nghiêm túc thì chắc chắn sẽ gặt
hái được thành công.

Rất mong nhận được sự đồng tình của q thầy cơ và các bạn đồng nghiệp lớp
Bốn - Năm
2. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT
Với những kết quả ban đầu thu được sau một thời gian áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm “Một số giải pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp Năm”, tơi
đề nghị Nhà trường tổ chức khảo nghiệm và có ý kiến góp ý, chỉ đạo để tơi tiếp tục
hồn chỉnh đề tài.
Nếu được công nhận, đề nghị Nhà trường tạo điều kiện cho tôi tiếp tục triển khai đề
tài này trong nhà trường nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt nói
chung, chất lượng dạy học cho học sinh lớp Năm nói chung./.




×