Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Phân tích tư tưởng HCM về đạo đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229 KB, 27 trang )

1

KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
---------------------------------

BÀI THẢO LUẬN
MÔN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI: PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC? LIÊN
HỆ TỚI QUÁ TRÌNH TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THƯƠNG MẠI HIỆN NAY?

2020 – 2021


2

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kì phát triển đất nước, cuộc sống con người từ đó cũng được nâng cao và
cải thiện, những chuẩn mực về đạo đức cũng dần dần bị thay đổi hơn để phù hợp với xu
hướng thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ vĩ đại đã dành cả cuộc đời của mình cho
dân tộc cho đất nước người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng
để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân.


3

Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi


đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước: Người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng làm nền tảng thì mới hồn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước,
khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng
phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”
Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh khơng có nghĩa là tuyệt đối hố mặt đức, coi
nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà khơng có đức là người vơ dụng nhưng có đức mà
khơng có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với
nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Để hiểu rõ hơn tư tưởng Hồ Chí về vấn đề đạo
đức, nhóm 9 chúng em xin trình bày đề tài thảo luận “Phân tích tư tưởng của hồ chí minh về
đạo đức? Liên hệ tới quá trình tu dưỡng đạo đức của sinh viên trường đại học thương mại
hiện nay?” Rất mong nhận được sự góp ý của cơ và các bạn để bài thảo luận được hồn
chỉnh hơn và từ đó rút ra những bài học cho bản thân
Nhóm 9 xin chân thành cảm ơn!

ĐỀ TÀI CHÍNH: PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC? LIÊN HỆ TỚI Q TRÌNH TU DƯỠNG ĐẠO ĐỨC
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI HIỆN NAY?
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm, tầm quan trọng của đạo đức
Khái niệm đạo đức:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện tương đối sớm và có vai trị quan
trọng đối với sự phát triển của xã hội. Đạo đức được hiểu “Là hệ thống các quy tắc, chuẩn


4

mực xã hội mà nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi
ích của cộng đồng, của xã hội
Tầm quan trọng của đạo đức

Đạo đức có vai trị rất lớn trong đời sống xã hội, trong đời sống của con người, đạo
đức là vấn đề thường xuyên được đặt ra và giải quyết nhằm đảm bảo cho cá nhân và cộng
đồng tồn tại phát triển. Sống trong xã hội, người ta ai cũng phải suy nghĩ về những vấn đề
đạo đức để tìm ra những con đường, cách thức và phương tiện hoạt động nhằm kết hợp lợi
ích của mình và cộng đồng, từ đó bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của chính mình và cộng
đồng.
Người quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng, từ rất sớm và
xuyên suốt cuộc đời cách mạng của mình. Cuốn sách “Đường cách mệnh” năm 1927 không
phải là một chuyên luận về vấn đề đạo đức cách mạng, nhưng ở trang đầu cuốn sách. Người
đã nêu lên hai mươi ba điều về tư cách một người cách mạng, giải quyết ba mối quan hệ:
Với mình, với người, với việc. Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm
quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng, vơ tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo
dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế
xây dựng chủ nghĩa xã.
Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã khẳng
định đạo đức là nguồn ni dưỡng và phát triển con người. Trong điều kiện Đảng cầm
quyền, Người trăn trở với nguy cơ Đảng xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi vào thoái
hoá, biến chất. Vì vậy, Hồ Chí Minh u cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh ln đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi đơi với
hành động và hiêu quả trên thực tế. Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức mới, đạo đức cách
mạng, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong sáng, suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với
dân, suốt đời tranh đấu cho Đảng, cho cách mạng. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ln đặt
lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình


5

2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức

2.1. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn tại Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình phong kiến đầu hàng. Việt Nam từ một
nước phong kiến độc lập trở thành một nước thuộc địa và phong kiến, trong xã hội Việt Nam
xuất hiện nhiều mâu thuẫn, đặc biệt mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến cam
tâm làm tay sai cho Pháp. Dưới chế độ thuộc địa và phong kiến, do chính sách cai trị độc ác
của chủ nghĩa thực dân, đã để lại hậu quả hết sức nặng nề. Quần chúng nhân dân lao động họ
không những bị áp bức nặng nề về thể xác, mà cịn bị nơ dịch về tinh thân. Đặc biệt, trên
lĩnh vực văn hóa, đạo đức, sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến và sự áp đặt “lối
sống tư sản”, cơ hội, thực dụng chạy theo đồng tiền, đề cao chủ nghĩa cá nhân của chủ nghĩa
thực dân là nguy cơ đe dọa đến những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và là
một trở ngạị to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đòi hỏi khách quan của sự
nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong q trình tổ chức, xây dựng chế độ xã hội mới,
nhằm biến nước ta từ một nước nghèo nàn, lạc hậu trở thành một nước giàu mạnh, văn minh,
thì việc xây dựng nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng cho nhân dân ta nói chung và cán bộ,
đảng viên nói riêng càng trở nên cấp thiết. Thực tế đó đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí
Minh và trở thành cơ sở quan trọng, hình thành nên tư tưởng của Người về đạo đức cách
mạng.
Cơ sở thực tiến trên thế giới
Trong hành trình của mình Người đã đi đến nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới,
Người đã nhận thấy chủ nghĩa đế quốc một mặt thẳng tay đàn áp phong trào đấu tranh của
nhân dân lao động, mặt khác chúng thực hiện chính sách đầu độc về văn hố, tun truyền
cho lối sống thực dụng, đề cao chủ nghĩa cá nhân. Chế độ tư bản chủ nghĩa trên thế giới gắn
liền với chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân coi cá nhân là cốt lõi và xuất phát điểm để
nhìn nhận các giá trị cao nhất, xã hội chỉ là cơng cụ để đạt được mục đích cá nhân. Chủ
nghĩa cá nhân chủ trương thực hiện bình đẳng và tự do cá nhân, nhấn mạnh dân chủ tự do,
phản đối sự can thiệp của nhà nước đối với những việc thuộc lĩnh vực của cá nhân, chủ



6

trương quyền tư hữu tài sản và kinh tế thị trường tự do. Chủ nghĩa cá nhân là con dao hai
lưỡi, nó vừa ảnh hưởng tích cực và tiêu cực đến đời sống chính trị - xã hội. Nó là động lực
dẫn dắt con người, cá nhân hành động vì lợi ích, nhưng trong nhiều trường hợp nó là nhân tố
kìm hãm sự phát triển của xã hội nếu như lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích cộng đồng.
Ngồi ra, chủ nghĩa đế quốc cịn áp đặt các giá trị đạo đức, luân lý tư sản vào các nước thuộc
địa. Do đó, cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa không chỉ nhằm mục tiêu độc lập dân
tộc, mà còn để bảo vệ những giá trị văn hoá, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình.
2.2 Cơ sở lý luận
Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Dân tộc Việt Nam có lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước đã hình thành
những truyền thống tốt đẹp: đó trước hết là tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết, nhân
ái, khoan dung trong cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân bang; tinh thần cần cù, dũng
cảm, sáng tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương người của dân tộc Việt Nam. Đó chính là cơ sở đầu
tiên, nguồn gốc sâu xa hình thành nên tư tưởng, phẩm chất của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí
Minh. Người đã kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
lên tầm cao mới. Tư tưởng của người là sự kết tinh, hội tụ và tỏa sáng tinh hoa văn hóa Việt
Nam.
Tinh hoa văn hóa nhân loại
Tinh hoa văn hóa, tư tưởng phương Đơng kết tinh trong ba học thuyết lớn Nho giáo,
Phật giáo, Lão giáo.
Về Nho giáo, Kế thừa và phát triển quan niệm của Nho giáo về việc xây dựng một xã
hội lý tưởng trong đó cơng bằng, bác ái, nhân, nghĩa, trí, dũng, tín, liêm được coi trọng để có
thể đi đến một thế giới đại đồng với hịa bình, khơng có chiến tranh, các dân tộc có quan hệ
hữu nghị và hợp tác. Đặc biệt, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, đổi mới, phát triển tinh thần
trọng đạo đức của Nho giáo trong việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của con người; trong
công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
Về Phật giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng từ bi, vị tha, yêu
thương con người, khuyến khích làm việc thiện, chống lại điều ác; đề cao quyền bình đẳng



7

của con người và chân lý; khuyên con người sống hịa đồng, gắn bó với đất nước của Đạo
Phật.
Về Lão giáo, Hồ Chí Minh chú ý kế thừa, phát triển tư tưởng của Lão Tử, khuyên con
người nên sống gắn bó với thiên nhiên, hịa đồng với thiên nhiên, hơn nữa phải biết bảo vệ
mơi trường sống; tư tưởng thốt mọi ràng buộc của vòng danh lợi trong Lão giáo.
Các học thuyết phương Đơng khác, Hồ Chí Minh cịn chú ý kế thừa, phát triển tìm
hiểu những trào lưu tư tưởng tiến bộ thời cận hiện đại
Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về đạo đức
Chủ nghĩa Mác - Lênin rất quan tâm đến vấn đề đạo đức và xây dựng đạo đức cách
mạng cho giai cấp vô sản. Hơn nữa, sức thuyết phục của tư tưởng đạo đức trong học thuyết
đó, khơng chỉ ở tính cách mạng và khoa học của nó, mà cịn ở tấm gương đạo đức mẫu mực,
trong sáng, cao cả của các nhà kinh điển. Chính vì vậy, tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác
- Lênin đã tác động ảnh hưởng một cách sâu sắc đến cả nhận thức, tư duy, tình cảm và hành
động của Hồ Chí Minh. Như vậy, chính thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin đã giúp Hồ Chí Minh vận dụng lý luận và kinh nghiệm thực tiễn phịng phú của
mình để từ đó tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc ta.

CHƯƠNG II: NHỮNG NỘI DUNG CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cách mạng
a) Trung với nước, hiếu với dân
Trong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân
dân, với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất,
bao trùm nhất. Người cho rằng đạo đức của chế độ mới cao rộng hơn, khơng chỉ có hiếu với
bố mẹ và "Trung" với một cá nhân ai đó mà Trung với nước, Hiếu với dân...



8

Đối với cán bộ đảng viên phải suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, đó là
điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Phải tuyệt đối trung thàmh với Đảng, với dân, phải
tận trung, tận hiếu, thì mới xứng đáng vừa là đầy tớ trung thành, vừa là người lãnh đạo của
dân; dân là đối tượng để phục vụ hết lịng. Phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, cải
thiện dân sinh, nâng cao dân trí để dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người chủ đất
nước.
Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước là của
dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích
đều vì dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Trung với nước, hiếu
với dân là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội,
nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.
Bác vừa kêu gọi hành động vừa định hướng chính trịđạo đức cho mỗi người Việt Nam.
Nội dung chủ yếu của trung với nước là: Đặt lợi ích của đảng, của Tổ quốc, của cách
mạng lên trên hết. Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu của cách mạng. Thực hiện tốt chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Nội dung của hiếu với dân là: Khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân. Tin
dân, lắng nghe dân, học dân, tổ chức vận động nhân dân cùng thực hiện tốt đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước. Chăm lo đến đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mọi
đường lối, chính sách đều phục vụ lợi ích của nhân dân


9

Khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn dân vừa kháng chiến vừa kiến
quốc. Dù ở đâu, dù làm gì, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ tâm niệm một điều rằng: “Đảng
ta là đảng cách mạng. Ngồi lợi ích của nhân dân. Đảng ta khơng có lợi ích gì khác”
“chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống nhân dân”… vì

vậy, Người ln chỉ ra cho mọi người thấy và hiểu rõ vấn đề chủ chốt nhất của đạo đức cách
mạng đó là: “Chúng ta phải hiểu rằng các cơ quan của Chính phủ từ tồn quốc đến chắc là
đều là công bộc của dân nghĩa là là để gánh vác việc cho dân chứ không phải để đè đầu dân
như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp Nhật…”
b) Cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư
Cần, kiệm, liêm, chính rất cần thiết đối với người cán bộ, đảng viên. Nếu đảng viên
mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng. Cần, kiệm,
liêm, chính cịn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh của
dân tộc. “Nó” là cái cần để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng
sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.
Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao
động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Lao
động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người.
Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của
đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; Khơng xa sỉ, khơng hoang phí,
khơng bừa bãi, theo Hồ Chí Minh Cần phải đi liền với Kiệm, cần mà khơng kiệm cũng giống
như gió vào nhà trống, thùng không đáy, và một dân tộc biết cần, biết kiệm là một dân tộc
giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, một dân tộc văn minh tiến bộ.
Liêm là ln ln tơn trọng giữ gìn của cơng và của dân; khơng xâm phạm một đồng
xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của,
danh tiếng, sung sướng. Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm,
ham tiến bộ. Hành vi trái với chữ liêm là… cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc
trộm của cơng làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm
vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham uý lạo. Cụ Khổng


10

nói: người mà khơng liêm, khơng bằng súc vật. Cụ Mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ
nguy.

Chính là khơng tà, thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình khơng tự cao, tự đại, ln chịu
khó học tập cầu tiến bộ, ln kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở. Đối với
người, khơng nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm
tốn, đồn kết, khơng dối trá, lừa lọc. Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì
cho đến nơi, đến chốn, khơng ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.
Chí công vô tư, là rất mực công bằng, công tâm; vơ tư là khơng được có lịng riêng,
thiên tư, thiên vị “tư ân, tư huệ, hoặc tư thù, tư oán”, đem lịng chí cơng, vơ tư đối với người,
với việc. “Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình
nên đi sau”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Muốn “chí cơng vô tư” phải chiến thắng
được chủ nghĩa cá nhân.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau, với chí cơng vơ tư. Cần, kiệm,
liêm, chính dẫn đến chí cơng vơ tư. Ngược lại, đã chí cơng vơ tư thì nhất định sẽ thực hiện
được cần, kiệm, liêm, chính. Hồ Chí Minh ln nêu cao đạo đức cách mạng: cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng vơ tư. Trong việc giáo dục cán bộ, đảng viên, Hồ Chí Minh thường
nhấn mạnh đến yếu tố năng động chủ quan của con người, đến sức mạnh của lý tưởng, của ý
chí, của tu dưỡng đạo đức cách mạng. Theo Người, cần, kiệm, lêm, chính là tứ đức khơng
thể thiếu được đối với mỗi con người giống như trời có bốn mùa, đất có bốn phương
c. Yêu thương con người
Yêu thương con người là một nội dung quan trọng trong bốn nội dung về quan điểm
của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực của đạo đức cách mạng. Tình yêu thương con người
được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân, được thể hiện trong mối quan hệ giữa bạn
bè, đồng chí, với mọi người bình thường trong quan hệ hàng ngày. Tình u thương đó là
tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp
bức, bóc lột khơng phân biệt màu da dân tộc. Nghiêm khắc với mình, độ lượng với người
khác. Người căn dặn Đảng phải có tình đồng chí thương u lẫn nhau, trên nguyên tắc tự


11

phê bình và phê bình chân thành. Tình yêu thương con người cịn là tình u bạn bè, đồng

chí, có thái độ tơn trọng con người, điều này có ý nghĩa đối với người lãnh đạo.
d) Tinh thần quốc tế trong sáng, thuỷ chung
Tinh thần quốc tế trong sáng là phẩm chất, là yêu cầu đạo đức của mỗi người Việt
Nam trong mối quan hệ rộng lớn, vượt qua phạm vi quốc gia, dân tộc. Nội dung chủ nghĩa
quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở sự tơn trọng, hiểu biết, thương u, đồn kết
với các dân tộc bị đàn áp, với giai cấp vô sản, với nhân dân lao động các nước trong cuộc
đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột; đồn kết với nhân loại tiến bộ vì
hồ bình, cơng lý và tiến bộ xã hội, chống lại mọi sự chia rẽ, bất bình đẳng, phân biệt chủng
tộc; đồn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tinh thần quốc tế thủy chung trong sáng là sự mở
rộng những quan niệm đạo đức nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi tồn nhân loại. Có
thể nói tinh thần quốc tế trong sáng trong đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ tình thương
yêu đối với con người; vì mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người, mang lại tự do và bình đẳng thực sự cho con người. Từ chủ nghĩa quốc tế
trong sáng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng và xây dựng nên tình đồn kết quốc
tế rộng lớn của nhân dân Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, góp phần vào những thắng
lợi to lớn của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới.
2. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng
a. Nói đi đơi với làm, nêu gương về đạo đức
“Nói đi đơi với làm” là nét đẹp trong đạo đức truyền thống của dân tộc được Hồ Chí
Minh nâng lên một tầm cao mới. Người coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây
dựng nền đạo đức mới. Là đặc trưng bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Thể hiện
sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư tưởng và hành động, nhận thức và việc làm. Đối
với mỗi người, để thực hiện được việc thống nhất giữa lời nói với việc làm phải có nhận
thức đúng và quyết tâm vượt qua chính mình. Để nói đi đơi với làm, cịn cần có sự cố gắng,
bền bỉ và quyết tâm, bởi bất kỳ cơng việc nào, nhiệm vụ gì, dù lớn hay nhỏ, khó hay dễ,
phức tạp hay giản đơn, nhưng nếu khơng ra sức phấn đấu thì cũng khơng thể thành công


12


được. Nói đi đơi với làm thể hiện bằng kết quả công việc, với những sản phẩm cụ thể. Kết
quả công việc là thước đo sự cống hiến của mỗi người.
Theo Người, về bản chất, “nói đi đơi với làm” không chỉ là nguyên tắc đạo đức, lẽ
sống, phương châm hoạt động mà còn là biểu hiện sinh động cụ thể của việc quán triệt sâu
sắc nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, giữa suy nghĩ và hành động, giữa tư
tưởng đạo đức và hành vi đạo đức của mỗi người. Ngun tắc “Nói đi đơi với làm” được thể
hiện qua:
Một là, nói phải đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, khơng được xun tạc, nói sai. Cán bộ, đảng viên phải nắm vững đường lối cách mạng
của Đảng trong toàn bộ tiến trình cách mạng và được cụ thể hóa trong từng giai đoạn. Phải
rèn luyện bản lĩnh vững vàng để có niềm tin vào mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng, dù
trải qua những tình huống phức tạp, những bước ngoặt hiểm nghèo, trung thành với Đảng,
với sự nghiệp cách mạng, bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng xã hội tự do, ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân. Để làm được điều đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần tự
học, tự nghiên cứu, thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng. Đồng thời, khi đã nắm chắc chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thì phải truyền đạt lại cho
nhân dân đúng nội dung, đúng tinh thần, khơng nói sai, khơng xun tạc.
Hai là, nói đi đơi với làm, khơng được “nói một đàng làm một nẻo”. Khi đề ra cơng
việc, phải tránh cách nói chung chung, đại khái và khó hiểu. Khi nói cần phải cụ thể, thiết
thực, từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ dễ đến khó. Cán bộ phải nói đi đơi với làm, nói
trước làm trước. Khơng được nói nhiều làm ít hoặc nói mà khơng làm. Nếu chính mình tham
ơ mà bảo người khác liêm khiết, mình khơng làm việc nhưng hơ hào người khác làm việc thì
khơng được. Để chống việc nói một đàng làm một nẻo, mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng
cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và phải phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng tập thể và
cá nhân. Khi giao nhiệm vụ cần thật cụ thể, chi tiết, không chung chung, đại khái, ai hiểu thế
nào cũng được, như vậy rất khó thực hiện. Mỗi cơng việc đều phải xác định rõ mục đích, u
cầu, lộ trình, tiến độ, khối lượng và chất lượng.



13

Ba là, không được hứa mà không làm. Lời hứa chỉ có giá trị khi đi liền với việc làm
cụ thể. “Làm” ở đây chính là hành động, là hoạt động thực tiễn, là tổ chức thực hiện; đưa
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, từ việc
nhỏ đến việc lớn mang ý nghĩa thiết thực. Cán bộ, đảng viên “cần phải óc nghĩ, mắt trông,
tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ khơng phải chỉ nói sng, chỉ ngồi viết mệnh
lệnh... phải thật thà nhúng tay vào việc”. Cán bộ lãnh đạo làm gương cho nhân viên; cấp trên
làm gương cho cấp dưới; cán bộ, đảng viên làm gương cho nhân dân. Nói đi đơi với làm cịn
là biểu hiện của sự gương mẫu, trung thực, trong sáng của cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức nêu gương trước nhân dân.
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương Đơng. Người
nhận thức rằng: Đối với các dân tộc phương Đơng thì “một tấm gương sống cịn có giá trị
hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Do vậy, khi địa vị càng cao, uy tín càng lớn, Hồ
Chí Minh càng ra sức tự hồn thiện để trở thành tấm gương đạo đức trọn vẹn. Sự gương mẫu
của cán bộ, đảng viên trong lời nói và việc làm không chỉ là cách thức để giáo dục đạo đức
cho quần chúng, mà còn là một phương pháp để tự giáo dục bản thân mình. Với ý nghĩa đó,
Hồ Chí Minh đã đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng Việt Nam không chỉ bằng lý luận cách
mạng tiền phong mà cịn bằng chính tấm gương đạo đức cao cả của mình.
b). Xây đi đơi với chống
Hồ Chí Minh cho rằng, ngun tắc xây đi đơi với chống là đòi hỏi của nền đạo đức
mới, thể hiện tính nhân đạo chiến đấu vì mục tiêu của sự nghiệp cách mạng; xây tức là xây
dựng các giá trị, các chuẩn mực đạo đức mới; chống là chống các biểu hiện, các hành vi vơ
đạo đức, suy thối đạo đức. Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ
giữa xây và chống. Chính vì vậy, việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức rõ ràng không
đơn giản. Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây, lấy
xây làm chính. Vấn đề quan trọng trong việc giáo dục đạo đức là phải khơi dậy ý thức đạo
đức lành mạnh ở mỗi người, để mọi người tự giác nhận thức được trách nhiệm đạo đức của
mình, như Hồ Chí Minh đã nói, cảm nhận thấy sâu sắc sự trau dồi đạo đức cách mạng là việc
làm “sung sướng và vẻ vang nhất trên đời”. Hồ Chí Minh cho rằng, trên con đường đi tới

tiến bộ và cách mạng, đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng thành cơng trên cơ sở kiên trì


14

mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những thói quen và tập tục lạc hậu, phải loại trừ
chủ nghĩa cá nhân. Đây thực sự là một cuộc cách mạng khó khăn, lâu dài, gian khổ, sâu sắc
giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa cách mạng và phản cách mạng.
c) Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Người đã nhiều lần chỉ rõ: mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức
như việc rửa mặt hàng ngày, đấy cũng là cơng việc phải làm kiên trì bền bỉ suốt đời, khơng
người nào có thể chủ quan tự mãn. Người đưa ra lời khuyên rất dễ hiểu: "Đạo đức cách
mạng khơng phải trên trời sa xuống, đó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát
triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong". Do
khơng chú ý điều này nên có những người trong lúc tranh đấu thì hăng hái, trung thành,
không sợ nguy hiểm, không sợ cực khổ, không sợ qn địch, nghĩa là có cơng với cách
mạng, song đến khi có ít quyền hạn trong tay thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ơ,
lãng phí, quan liêu, khơng tự giác mà biến thành người có tội với cách mạng.
Đó là điều chúng ta vẫn thấy diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Có những người đã
phấn đấu gần hết cuộc đời, có nhiều cơng lao, nhưng cuối đời lại khơng giữ được tấm lịng
trong sáng, nên sự nghiệp đã đổ vỡ. Điều này cũng đúng như Lênin trước kia đã nhận định:
cái chết về đạo đức nhất định sẽ dẫn tới cái chết về chính trị. Đối với mỗi người, việc tu
dưỡng đạo đức phải được thực hiện trong mọi hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như đời
công - sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu, trong mọi mối quan hệ xã hội từ hẹp đến
rộng, từ nhỏ đến lớn - gia đình, nhà trường, xã hội, từ quan hệ bạn bè, đồng chí, anh em đến
quan hệ tập thể, với cấp trên cấp dưới, với Đảng, với nước, với dân, và cả trong các mối
quan hệ quốc tế.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đã là người thì ai cũng có chỗ hay chỗ dở, chỗ
xấu chỗ tất, ai cũng có thiện có ác ở trong bản thân mình. Vấn đề là dám nhìn thẳng vào con
người mình, khơng tự lừa dối, huyễn hoặc; thấy rõ cái hay cái tốt, cái thiện để phát huy và

thấy rõ cái dở, cái xấu, cái ác để khắc phục.


15

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI
HỌC THƯƠNG MẠI HIỆN NAY
1. Nhận thức của Sinh viên thương mại hiện nay về việc tu dưỡng đạo đức theo tấm
gương HCM
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới vấn đề đạo đức, nhất là đạo
đức của người cách mạng. Trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc”, Người khẳng định: Đạo đức là
cái gốc của người cách mạng. Như vậy, theo Bác, đạo đức chính là gốc. Nếu gốc vững, thì
con người dễ dàng phát huy tài trí, tự làm sáng bản thân và trở thành con người có ích cho xã
hội. Nếu gốc ấy khơng vững, thì con người dễ dàng ngả nghiêng, sa ngã, “lịng dạ khơng cịn
trong sáng nữa”. Và khi đó, con người đó sẽ tự làm xấu chính mình và làm hại người khác.
Theo Hồ Chí Minh đối với thế hệ trẻ việc tu dưỡng đạo đức là vô cùng quan trọng vì
đối với mỗi người sinh viên, họ chính là những con người được đào tạo bài bản để đóng góp
cho đất nước của chúng ta khi họ ra trường, hay nói cách khác sinh viên chính là " người chủ
tương lai của nước nhà"; là cầu nối giữa các thế hệ và sinh viên chính là người tiếp sức cho
cách mạng trong thời đại hiện nay.
Sinh viên là những con người được đào tạo trong các trường đại học và có tài năng
tuy nhiên có tài mà khơng có đức thì chỉ là người vơ dụng, cho nên việc tu dưỡng đạo đức
với sinh viên là vô cùng quan trọng và cần thiết. Hồ Chí Minh khơng chỉ là một nhà đạo đức
học lỗi lạc mà còn là một tấm gương đạo đức vơ song. Chính điều này đã đem lại cho tư
tưởng và tấm gương đạo đức của người có một sức sống mãnh liệt và sự cổ vũ lớn lao không
chỉ với nhân dân Việt Nam mà còn cả với nhân dân thế giới trong cuộc đấu tranh vì dân chủ
và tiến bộ xã hội. Để trở thành người có ích cho xã hội, người chủ tương lai của nước nhà
thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên, thanh niên trí thức nói riêng cần phải học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Vì vậy, sinh viên chúng ta cần chủ động, tích cực, thường xun tìm hiểu, tun

truyền tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đơi
với làm, góp phần nâng cao nhận thức và ý chí quyết tâm thực hành trong sinh viên. Mỗi khi
thanh niên, sinh viên tích cực nêu cao trách nhiệm, trung thực, nói đi đơi với làm, đồng thời


16

tuyên truyền tinh thần đó cho xã hội, đặc biệt là đối với thiếu niên, nhi đồng, càng có ý nghĩa
lớn lao, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ.
a) Những ảnh hưởng tích cực:

Đi vào nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, một nền đạo
đức mới đã và đang hình thành cùng với công cuộc đổi mới của Đảng là nguồn động lực
quan trọng của cơng cuộc phát triển đất nước. Đó là nền đạo đức vừa phát huy những giá trị
truyền thống của dân tộc như: yêu nước, thương người, song nghĩa tình trọn vẹn, cần, kiệm,
liêm, chính, chí cơng vơ tư với những yêu cầu mới, những nội dung mới do địi hỏi của dân
tộc và thời đại. Nhờ đó, phần lớn sinh viên vẫn giữ được lối sống tình nghĩa, trong sạch, lành
mạnh; khiêm tốn, luôn cần cù và sáng tạo tronghọc tập; sống có bản lĩnh, có chí lập thân, lập
nghiệp, năng động, nhạy bén, dám đối mặt với những khó khăn, thách thức, dám chịu trách
nhiệm, khơng ỷ lại, trây lười; ln gắn bó với nhân dân, đồng hành cùng dân tộc, phấn đấu
cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
* Là những con người năng động và sáng tạo
Đa số các bạn sinh viên có tinh thần yêu nước, sống và làm theo pháp luật, chấp hành
nghiêm túc các chính sách của nhà nước và đường lối của đảng, ko tin theo và không cố xúy
các thông tin sai lệch, phản động. Ví dụ như giữa tâm bão của dịch Covid-19 Đảng và nhà
nước ra chỉ thị cách ly toàn dân, hạn chế tiếp xúc, gần như tuyệt đối các sinh viên đã nghe và
làm theo, tối thiểu việc ra ngồi đường khi khơng cần thiết. Sinh viên ra sức học tập để nâng
cao thành tích của bản thân và đóng góp vào thành tích chung của nhà trường. Hăng hái
tham gia các cuộc thi, đề tài nghiên cứu khoa học do nhà trường tổ chức. Vào kì nghỉ hè thì
các bạn tích cực đăng kí đi kiến tập để nâng cao kinh nghiệm, kĩ năng nghiệp vụ về chuyên

ngành mình đang học. Nhiều bạn sinh viên khi ra trường đã có chứng chỉ ngoại ngữ rất tốt,
thậm chí có nhiều hơn một ngoại ngữ. Sinh viên trường Thương Mại năng động, sáng tạo,
tích cực tham gia các câu lạc bộ về tình nguyện, thể dục thể thao, học thuật, phát triển bản
thân, …
Trong thời kì nền kinh tế không ngừng đổi mới như hiện nay, sinh viên Đại Học
Thương Mại đã tích cực nâng cao trình độ học vấn đồng thời tích lũy cho bản thân những
kinh nghiệm trải nghiệm thực tế trong môi trường cạnh tranh. Sinh viên Thương Mại không
chỉ quan tâm đến học tập mà cịn rất năng động trong mơi trường học đường. Khơng ngừng


17

tham gia các hoạt động ngoại khóa, các cơng việc tình nguyện cũng như nâng cao trình độ
của bản thân trong chuyên ngành mình theo học.
* Táo bạo và tự tin.
Tự tin nhưng khơng kiêu- đó chính là sinh viên Đại học Thương Mại. Phần lớn sinh
viên đều rất khiêm tốn, họ không bao giờ nghĩ rằng như thế là mình đã hơn các bậc tiền bối.
Trong suy nghĩ của họ, họ còn thiếu nhiều lắm, nhất là kinh nghiệm và sự từng trải. Chính vì
thế, khi quyết định một điều gì, sinh viên khơng bao giờ qn tham khảo ý kiến của những
người xung quanh, đặc biệt là bậc cha chú của mình. Và khi đã nhận được sự ủng hộ của lớp
người đi trước, họ thêm tự tin thực hiện ý định của mình.
Đối với sinh viên Thương Mại, có nhiều clb trong trường, tham gia rất nhiều hoạt
động thiện nguyện, giúp đỡ những hồn cảnh khó khăn, giúp sinh viên Thương Mại có tinh
thần đồn kết rất cao, hịa nhập được với cộng đồng khơng phân biệt đối xử, ln hịa nhập
đồn kết mọi người với nhau, có tinh thần giúp đỡ lá lành đùm lá rách. Sinh viên ln tổ
chức hoạt động ngoại khóa của các clb, các chuyến đi như Đơng Ấm, tự mình làm chủ tổ
chức các hoạt động vui chơi, linh hoạt trong cách xử lí tình huống. Khi xảy ra tình huống bất
ngờ, sinh viên cũng có cách xử lí khơng khéo không gây nên tổn hại.
Tham gia rất nhiều hoạt động, không ngừng tiếp thu những kiến thức mới. Với các
hoạt động như kế hoạch khởi nghiệp… sinh viên Thương Mại tham gia rất tích cực, nêu ra ý

tưởng của bản thân đồng thời cũng tiếp thu những nhận xét của mọi người. Sinh viên không
chỉ học hỏi từ thầy cô, sinh viên còn nâng cao kiến thức qua bạn bè, môi trường xung quanh
cũng như những sai phạm mà bản thân đã mắc phải.
* Phong cách độc lập.
Không giống như sinh viên các thế hệ trước chỉ biết sống phụ thuộc vào gia đình,
sinh viên ngày nay đã biết thân tự lập thân. Không chỉ riêng việc học tập, mà mọi vấn đề
khác trong cuộc sống đều được sinh viên giải quyết trong sự chủ động. Nếu như trong quá
khứ, sinh viên còn chờ đợi tiền chu cấp của gia đình mỗi đầu tháng thì ngày nay mọi chuyện
dường như đã khác đi rất nhiều. Ngồi giờ học, họ tìm việc làm kiếm thêm tiền mua sách vở
hay phục vụ cho những chi tiêu thường ngày khác. Nhiều người không chỉ lo được cho bản


18

thân mà cịn có thể giúp đỡ những người bạn khác thiệt thịi hơn mình, hay giúp đỡ gia đình
ngay cả khi họ vẫn còn ngồi trong gảng đường đại học. Những con người ấy thật đáng khâm
phục, xứng đáng trở thành những gương mặt tiêu biểu đại diện cho sinh viên Việt Nam thời
đại mới
Thái độ hiếu học, tôn sư trọng đạo của sinh viên Thương Mại là một trong những đức
tính tốt được kế thừa từ tư tưởng Hồ Chí Minh. Kế nhiệm truyền thống và tư tưởng Hồ Chí
Minh, sinh viên Thương Mại đang khơng ngừng phấn đấu trở thành những phiên bản hoàn
thiện nhất mà bản thân có thể thực hiện.
b) Những ảnh hưởng tiêu cực:

Những thói hư tật xấu nó ảnh hưởng đến tất cả mọi người nhưng chúng ta sẽ nói đến
nền móng của đất nước. Và đương nhiên trong đó có chính chúng ta, những người học sinh
sinh viên, chủ nhân tương lai của nước nhà. Đạo đức trong học sinh, sinh viên hiện nay là
vấn đề khá nóng bỏng được xã hội rất quan tâm.
Nhiều bạn sinh viên chưa chú tâm vào việc học, chểnh mảng trong việc học tập đến
mức bị cảnh cáo học vụ hay thậm chí bị đuổi học. Đã là sinh viên thì việc học phải để lên

hàng đầu nhưng nhiều bạn luôn chạy theo những thứ khác coi việc học chỉ là phụ. Nhiều bạn
có tư tưởng là bây giờ bằng cấp không quan trọng, kiến thức trên trường chỉ là lý thuyết
suông không áp dụng được vào thực tế, đặc biệt coi thường những môn lý luận chung mà
quan trọng phải là kĩ năng sống, kinh nghiệm ngồi thực tế. Đó là tư tưởng hồn tồn sai
lầm.
Vẫn còn xảy ra hiện tượng sinh viên sống theo chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, khơng quan
tâm đến người khác. Trước khi làm việc gì ln suy nghĩ xem mình có nhận được lợi ích gì
hay khơng, nếu khơng cũng không cần quan tâm đến. Khi làm việc tập thể ln nghĩ cho lợi
ích của mình đầu tiên, mặc kệ lợi ích tập thể, thậm chí lấy việc cơng để thỏa mãn việc riêng.
Thậm chí đáng buồn hơn cả là tại trường ĐH Thương Mại còn xảy ra trộm cắp. Đơn
giản thì là việc vơ tình nhặt được tài sản giá trị của người khác nhưng lại lấy làm của riêng
của mình. Hay nghiêm trọng hơn là hành vi cố tình trộm cắp tài sản của người khác. Đã có
những trường hợp các bạn sinh viên trong giờ thể dục để balo của mình ở ghế đá và đã có


19

người trong khu vực đó lấy ví và điện thoại ở trong balo, …Một số sinh viên có lối sống
chưa tiết kiệm, hoang phí. Là sinh viên, đa số cịn nhận trợ cấp từ bố mẹ nhưng nhiều bạn
không biết chi tiêu đúng cách, còn hùa theo những lời rủ rê từ bạn bè, bị những người bán
hàng lôi kéo hay chính bản thân có thói quen chi tiêu hoang phí vào những thứ khơng cần
thiết để rồi những lúc có việc cần đến tiền lại phải xin bố mẹ hoặc đi vay mượn người khác.
Thậm chí cịn có bạn cần đến những tổ chức hỗ trợ tài chính bên ngoài trường rồi đến lúc
phải dùng nhiều cách khác nhau để trả nợ.
2. Những điều cần làm giúp sinh viên Đại học Thương Mại học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Đối với tầng lớp sinh viên, Hồ Chí Minh đã sớm xác định những phẩm chất đạo đức
cần thiết để họ có phương hướng phấn đấu, rèn luyện. Sinh viên Thương Mại cần kiên trì tu
dưỡng theo những phẩm chất được gói gọn trong 6 cái yêu dưới đây:
Yêu Tổ quốc, Yêu như thế nào? Yêu là phải làm sao cho Tổ quốc ta giàu mạnh. Muốn

cho Tổ quốc giàu mạnh thì phải ra sức lao động, ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết
kiệm.
Yêu nhân dân: Mình phải hiểu rõ sinh hoạt của nhân dân biết nhân dân còn cực khổ
như thế nào, biết chia sẻ những lo lắng, những vui buồn, những công tác nặng nhọc với nhân
dân.
Yêu chủ nghĩa xã hội: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã
hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm. Tổ quốc
mỗi ngày một giàu mạnh thêm.
Yêu lao động: Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội thì
phải u lao động, vì khơng có lao động thì chỉ là nói sng.
u khoa học và kỷ luật: bởi vì tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải có khoa học và kỷ
luật"
Một số giải pháp về giáo dục cũng được chú trọng như


20

* Giải pháp giáo dục
Tạo khơng khí học tập vui vẻ, thoải mái và thân thiện giữa các bạn sinh viên và đặc
biệt là mối quan hệ giữa giảng viên bộ môn vơi sinh viên trong lớp. Giảng viên tổ chức các
hoạt động nhóm khuyến khích sinh viên làm câu hỏi trắc nghiệm theo nhóm để cộng điểm
tạo cho sinh viên hứng thú hơn trong việc tìm hiểu bài. Hướng sinh viên đến việc học đơn
giản, ngắn gọn nhưng hiểu được bản chất và những tư tưởng cốt lõi, cơ bản nhất.
* Giải pháp về tuyên truyền
Tuyên truyền về các cuộc thi, các hoạt động cần phải được rộng rãi hơn nữa, không
chỉ trên mạng, trên các trang của trường, trên các băng rôn, biểu ngữ mà cần đi vào thực tế.
Các phong trào hưởng ứng cần sáng tạo thêm hình thức và cách thức tổ chức, tránh
lặp lại quá nhiều để tạo sự hứng thú cho các bạn sinh viên.
* Giải pháp phát huy tính tích cực tự giác của sinh viên
Cần khuyến khích sự tự giác và tự học hỏi của mỗi sinh viên vì việc học phải từ việc

tự giác thì mới có thể hiểu rõ, hiểu sâu và vận dụng một cách hợp lý những phẩm chất đạo
đức chủ tịch Hồ Chí Minh Bản thân mỗi sinh viên phải tự nhận thức được tầm quan trọng
của việc tu dưỡng đạo đức của bản thân.. Mỗi sinh viên phải năng động, chủ động tham gia
các hoạt động cổ vũ phong trào. Sinh viên phải thực hiện hóa những tư tưởng, tấm gương
đạo đức của Bác vào trong cuộc sống hằng ngày của mình. Sau khi đã có được một nền tảng
kiến thức tốt, nhận thức được tầm quan trọng của những kiến thức ấy, cụ thể hoá nó qua từng
hành động trong thực tiền cuộc sốngthì việc cuối cùng là thực hiện nhứng việc đó. Đẩy
mạnh bài trừ các tệ nạn xã hội, thành phần xấu của xã hội xâm nhập vào môi trường học
đường.


21

ĐỀ TÀI PHỤ: PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT
QUỐC TẾ VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Sự cần thiết của đoàn kết quốc tế
1.1 Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo
sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
Thực hiện đoàn kết quốc tế để tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào
lưu cách mạng thời đại để tạo thành sức mạnh tổng hợp cho cách mạng Việt
Sức mạnh dân tộc: là sự tổng hợp của các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước hết
là sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và ý thức tự lực, tự cường dân tộc; sức mạnh của tinh
thần đoàn kết; của ý chí đấu tranh anh dũng, bất khuất cho độc lập, tự do… Sức mạnh đó đã
giúp cho dân tộc Việt Nam vượt qua mọi thử thách, khó khăn trong dựng nước và giữ nước.
Sức mạnh thời đại: là sức mạnh của phong trào cách mạng thế giới, đó còn là sức
mạnh của chủ nghĩa Mác – Lênin được xác lập bởi thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười
Nga năm 1917. Trong quá trình hoạt động cách mạng, nhờ chú ý tổng kết thực tiễn dưới ánh
sáng chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã từng bước phát hiện ra sức mạnh vĩ đại tiềm
ẩn trong các phong trào cách mạng thế giới mà Việt Nam cần tranh thủ.

1.2. Thực hiện đồn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng lợi
các mục tiêu cách mạng của thời đại
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải được gắn liền với chủ
nghĩa quốc tế vơ sản, đại đồn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; thực hiện đồn
kết quốc tế khơng những vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà cịn vì sự nghiệp chung
của nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động quốc tế.
Muốn tăng cường đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung, các đảng
cộng sản trên thế giới phải kiên trì chống lại mọi khuynh hướng sai lầm của chủ nghĩa cơ
hội, chủ nghĩa vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sơ vanh…, tiến hành có hiệu quả việc giáo dục chủ
nghĩa yêu nước chân chính kết hợp với chủ nghĩa quốc tế vô sản cho nhân dân


22

2. Lực lượng đồn kết quốc tế và hình thức tổ chức
2.1. Lực lượng đoàn kết quốc tế
* Phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế
Hồ Chí Minh cho rằng, sự đồn kết giữa giai cấp cơng nhân quốc tế là một bảo đảm
vững chắc cho thắng lợi của chủ nghĩa cộng sản. Chủ trương đoàn kết giai cấp cơng nhân
quốc tế, đồn kết giữa các đảng cộng sản trong tư tưởng Hồ Chí Minh xuất phát từ tính tất
yếu về vai trị của giai cấp cơng nhân trong thời đại ngày nay. Trong hồn cảnh đó, chỉ có
sức mạnh của sự đồn kết, nhất trí, sự đồng tình và ủng hộ lẫn nhau của lao động toàn thế
giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới có thể chống lại được những âm
mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
* Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
Hồ Chí Minh đã phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc của các nước đế quốc, tạo sự
biệt lập, đối kháng và thù ghét dân tộc, chủng tộc nhằm làm suy yếu phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Để tăng cường đoàn kết giữa cách mạng thuộc địa
và cách mạng vơ sản chính quốc như hai cái cánh của cách mạng thời đại.

Hồ Chí Minh cịn đề nghị Quốc tế cộng sản bằng mọi cách phải "Làm cho đội tiên
phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn
đường cho một sự hợp tác thật sự sau này; chỉ có sự hợp tác này mới bảo đảm cho giai cấp
công nhân quốc tế giành thắng lợi cuối cùng”. Người nói đứng trước chủ nghĩa đế quốc,
quyền lợi của giai cấp vơ sản chính quốc và của nhân dân các nước thuộc địa là thống nhất.
* Các lực lượng tiến bộ, những người u chuộng hồ bình, dân chủ, tự do và công lý
Trong xu thế mới của thời đại, sự thức tỉnh dân tộc gắn liền với sự thức tỉnh giai cấp,
Hồ Chí Minh đã gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam với mục tiêu bảo vệ hịa bình, tự
do, cơng lý và bình đẳng để tập hợp và tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế
giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: Chính vì đã biết kết hợp phong trào cách
mạng nước ta với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và của các dân tộc bị áp


23

bức, mà Đảng đã vượt qua được mọi khó khăn, đưa giai cấp công nhân và nhân dân ta đến
những thắng lợi vẻ vang. 3. Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
2.2 Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quy tụ, đoàn kết được mọi giai cấp, tầng lớp
cần phải bảo đảm các điều kiện sau đây:
Phải lấy lợi ích chung là điểm quy tụ, đồng thời tôn trọng các lợi ích khác biệt chính
đáng. Đại đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở yêu nước, thương
dân, chống áp bức bóc lột, nghèo thần lạc hậu.
Phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, đồn kết của dân tộc. Truyền thống
này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dung thước và giữ nước hàng
ngàn năm của dân tộc và đã trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm
hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người. Theo Hồ Chí Minh, trong mỗi cá
nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điểm, mật tốt, mặt xấu. Cho
nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lòng khoan đụng độ lượng, trân trọng phần thiện

dù nhỏ nhất ở mỗi người, có vậy mới tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng
Phải có niềm tin vào nhân dân, Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân,
sống, phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao trong cuộc sống.
2.3. Hình thức tổ chức
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh khi được
tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, đó là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận
dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dẫn
nước Việt, cả trong nước và kiều bào sinh sống ở nước ngoài.
Do yêu cầu và nhiệm vụ của từng chặng đường lịch sử, Mặt trận dân tộc thống nhất
đã có những tên gọi khác nhau: Hội Phản để đồng minh (năm 1930 ); Mặt trận Dân chủ
Đông Dương ( năm 1936 ); Mặt trận Nhân dân phân đế Đông Dương ( 1939 ), Mặt trận Việt
Minh ( năm 1941 ); Mặt trận Liên Việt ( năm 1951; Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam


24

Việt Nam ( năm 1960 ); Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hịa bình Việt Nam
( năm 1968 ): Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ( các năm 1988 , 1976 ) ...
Như vậy, tư tưởng đồn kết vì thắng lợi của cách mạng Việt Nam đã định hướng cho
việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn kết Việt
Nam – Lào – Campuchia; Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam; Mặt trận nhân
dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển
rực rỡ nhất và thắng lợi to lớn nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết
3. Ngun tắc đoàn kết quốc tế
3.1. Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý, có tình
Đồn kết với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế: Hồ Chí Minh giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện đoàn kết thống nhất trên
nền tảng của chủ nghĩa Mác —Lênin và chủ nghĩa quốc tế vơ sản, có lý, có tình. Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng sản và cơng
nhân quốc tế thì đồn kết giữa các Đảng “là điều kiện quan trọng nhất để bảo đảm cho

phong trào cộng sản và cơng nhân tồn thắng trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương lai tươi
sáng của toàn thể loài người”. Người cho rằng, thực hiện sự đoàn kết đó phải đứng vững trên
lập trường giai cấp cơng nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vơ
sản.
”Có lý”, “có tình” vừa thể hiện tính nguyên tắc, vừa là một nội dung của chủ nghĩa
nhân văn Hồ Chí Minh – chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng rất lớn khơng chỉ
trong việc củng cố khối đoàn kết quốc tế của giai cấp cơng nhân mà cịn củng cố tình đồn
kết trong nhân dân lao động.
Đoàn kết với các dân tộc trên thế giới: Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập,
tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc. Độc lập, tự do cho mỗi dân tộc là tư tưởng nhất
quán được Hồ Chí Minh coi là chân lý, là ”lẽ phải khơng ai chối cãi được”. Hồ Chí Minh
không chỉ suốt đời đấu tranh cho tự do của dân tộc mình mà cịn đấu tranh cho độc lập, tự do
của các dân tộc khác. Trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng Lào,
Campuchia, Trung Quốc, cũng như với các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Hồ Chí Minh


25

thực hiện nhất qn quan điểm có tính ngun tắc: Dân tộc Việt Nam tơn trọng độc lập, chủ
quyền, tồn vẹn lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới,
đồng thời mong muốn các quốc gia, dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt
Nam trên cơ sở những ngun tắc đó.
Đồn kết với các lực lượng tiến bộ trên thế giới: Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ
hịa bình trong cơng lý, hịa bình. Giương cao ngọn cờ hịa bình và đấu tranh bảo vệ hịa bình
là tư tưởng bất di bất dịch của Hồ Chí Minh. Trong suốt hai cuộc kháng chiến, quan điểm
hịa bình trong cơng lý, lịng thiết tha hịa bình trong sự tơn trọng độc lập và thống nhất đất
nước của Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đã làm rung động trái tim nhân loại. Nó có tác
dụng cảm hóa lơi kéo các lực lượng tiến bộ thế giới đứng về phía nhân dân Việt Nam địi
chấm dứt chiến tranh, văn hóa hịa bình.
3.2 Đồn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực tự cường

Đoàn kết quốc tế là để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng quốc
tế, nhằm tăng thêm nội lực, tạo sức mạnh thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ cách mạng đặt ra.
Để đồn kết tốt phải có nội lực tốt. Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn tranh thủ được sự ủng hộ
quốc tế, Đảng phải có đường lối độc lập, tự chủ và đúng đắn.
Sự đoàn kết của Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc trong kháng chiến chống đế
quốc Mỹ đã góp phần quan trọng vào việc củng cố đoàn kết của các nước xã hội chủ nghĩa,
của phong trào cách mạng thế giới, tạo chỗ dựa cho phong trào nhân dân thế giới ủng hộ
Việt Nam đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ.
4. Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Một là, cần phải làm tốt công tác vận động quần chúng (dân vận).
Vận động quần chúng để thu hút quần chúng là để đoàn kết mọi người, tạo ra động
lực phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa. Để phát huy đầy đủ vai trị, khả năng của dân
chúng trong sự nghiệp kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước cũng
như mọi cán bộ, đảng viên cần phải:
Làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ và vận động dân
chúng thực hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.


×