Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

(Luận văn thạc sĩ) nghiên cứu so sánh một số chỉ tiêu hóa sinh, sinh trưởng, năng suất và phẩm chất của 3 giống ngô nếp trồng trong vụ thu đông tại huyện chưprông, tỉnh gia lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.41 MB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

TRẦN VĂN ĐIỆN

NGHIÊN CỨU SO SÁNH MỘT SỐ CHỈ TIÊU HÓA SINH,
SINH TRƢỞNG, NĂNG SUẤT VÀ PHẨM CHẤT CỦA
3 GIỐNG NGÔ NẾP TRỒNG TRONG VỤ THU ĐÔNG
TẠI HUYỆN CHƢPRÔNG, TỈNH GIA LAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC THỰC NGHIỆM

Bình Định - Năm 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

TRẦN VĂN ĐIỆN

NGHIÊN CỨU SO SÁNH MỘT SỐ CHỈ TIÊU HÓA SINH,
SINH TRƢỞNG, NĂNG SUẤT VÀ PHẨM CHẤT CỦA
3 GIỐNG NGÔ NẾP TRỒNG TRONG VỤ THU ĐÔNG
TẠI HUYỆN CHƢPRÔNG, TỈNH GIA LAI

Chuyên ngành : Sinh học thực nghiệm
Mã số

: 8420114

Ngƣời hƣớng dẫn: PGS.TS. Võ Minh Thứ



Bình Định - Năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ
một học vị nào. Các tài liệu trích dẫn được chỉ rõ nguồn gốc và mọi sự giúp
đỡ đã được cảm ơn.
Gia Lai, ngày 02 tháng 05 năm 2019
Tác giả luận văn

Trần Văn Điện


LỜI CẢM ƠN
Hồn thành luận ăn này, trước hết tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
thầy giáo PGS,TS. Võ Minh Thứ, đã tận tình hướng dẫn tơi trong suốt q
trình thực hiện đề tài.
Tơi xin trân trọng cảm ơn quý thầy cô là Lãnh đạo, giảng viên SinhKTNN, Phòng Đào tạo sau đại học Trường Đại học Quy nhơn đã quan tâm
giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt cho tôi trong thời gian học tập
nghiên cứu tại trường.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Cán sự và học viên lớp Cao học Sinh học
thực nghiệm K20.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn tới các bạn bè, đồng nghiệp người thân trong
gia đình đã động viên, giúp đỡ tơi hồn thành luận văn này.
Gia Lai, ngày 02 tháng 05 năm 2019
Tác giả luận văn

Trần Văn Điện



1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cây ngô (Zea mays L.) là cây lương thực được phát hiện cách đây 7.000
năm tại Mêxicơ và Pêru. Ngơ có những đặc điểm như: thích ứng rộng, chống
chịu tốt với điều kiện bất lợi và sâu, bệnh hại, có tiềm năng năng suất cao.
Ngơ đóng vai trị quan trọng trong nền kinh tế của nhiều quốc gia, cung cấp
lương thực cho 1/3 dân số thế giới. Các nước như: Ấn Độ, Philippin, Mêxico
và một số nước ở Châu Phi dùng ngô làm lương thực chính, có tới 90% sản lượng
ngơ của Ấn Độ, 66% của Philippin dùng làm lương thực cho con người [24]. Sản
xuất ngô đang được đánh giá là một ngành sản xuất có nhiều triển vọng bởi
nhu cầu ngơ đang tăng nhanh ở quy mơ tồn cầu, do ngơ khơng chỉ được
dùng làm thức ăn chăn nuôi và lương thực cho người. Bởi vì trong hạt ngơ có
chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng như: glucid, lipid, protein, vitamin, khoáng
chất…, mà hiện nay lượng ngô để chế biến nhiên liệu sinh học (ethanol) đang
ngày một tăng nhanh. Mậu dịch ngô thế giới tăng liên tục những năm gần đây.
Giá ngô thế giới cũng tăng nhanh so với những năm trước. So sánh về năng
suất và giá thành sản phẩm của Việt Nam và một số nước vẫn còn một
khoảng cách chênh lệch đáng kể. Vì vậy, vấn đề đặt ra là b ng biện pháp nào
để tăng năng suất ngô và nâng cao hiệu quả kinh cho người trồng ngô.
Tại Việt Nam, đã từ lâu cây ngô được xem là loại cây trồng xóa đói giảm
nghèo cho nơng dân vì tính hiệu quả và khả năng thích ứng cao của nó. Diện
tích, năng suất và sản lượng ngơ khơng ngừng tăng lên. Tuy nhiên sản lượng
ngô trong nước vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu hàng năm còn phải nhập khẩu
một lượng lớn ngô nguyên liệu để chế biến thức ăn chăn nuôi. Trong những
năm tới, ngô vẫn là cây có vai trị quan trọng trong hệ thống canh tác. Vì vậy,
để cây ngơ Việt nam phát triển một cách bền vững, mang lại hiệu quả kinh tế

cao cho người sản xuất, việc đánh giá đúng thực trạng sản xuất, đưa ra các giải


2

pháp cụ thể đồng thời nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật canh tác phù hợp cho
từng vùng sản xuất ngô là điều hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Trong thực tế những năm gần đây cho thấy khi đời sống nâng lên nhu
cầu về các nhóm ngơ nếp, ngô thực phẩm cũng tăng cao, thế nhưng đối với
nhóm ngơ này cho đến nay diện tích gieo trồng mới chiếm khoảng 2-3% diện
tích ngơ của cả nước. Sự hạn chế này do điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu và tập
quán canh tác truyền thống của người dân chỉ quen trồng những giống ngơ
nếp địa phương, nhóm giống ngơ này có nhiều đặc điểm chất lượng tốt nhưng
năng suất thấp, thường bị lẫn tạp. Mặt khác giá ngô nếp lai giống khá cao do
bộ giống ngơ nếp lai cịn hạn chế nên việc mở rộng diện tích trồng để đáp ứng
nhu cầu thị trường cịn gặp nhiều khó khăn
Trong sản xuất nông nghiệp đối với địa bản tỉnh Gia Lai cây trồng chủ lực
là các cây lâu năm như cao su, cà phê, tiêu. Tuy nhiên, trong những năm gần
đây giá sản phẩm của những cây này liên tục giảm, đầu tư sản xuất lớn nhưng
hiệu quả kinh tế không cao cho nên người dân đã chuyển dịch sang trồng
những cây lương thực ngắn ngày nhự sắn, các loại đậu và đặc biệt là cây ngô.
Hiện nay các giống ngô đang dược trồng phổ biến ở tỉnh Gia Lai là ngô
lai, ngô tẻ chẳng hạn như: LVN98, LVN54, LSB4, một số giống do người địa
phương tự để giống.
Chính vì vậy để tuyển chọn các giống ngơ nếp có giá trị kinh tế cao,
thích hợp với vùng đất Chư Prơng nói riêng và tỉnh Gia Lai nói chung, chúng
tơi chọn đề tài: “Nghiên cứu so sánh một số chỉ tiêu hóa sinh, sinh trưởng,
năng suất và phẩm chất của 3 giống ngô nếp trồng trong vụ Thu đông tại
huyện ChưPrông, tỉnh Gia Lai”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

- Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển của 3 giống ngô nếp trong
điều kiện thổ nhưỡng và thời tiết ở Chưprông.


3

- Qua nghiên cứu chọn ra giống ngơ nếp có khá năng cho năng suất cao,
phẩm chất tốt thích hợp với điều kiện tự nhiên để đưa vào sản xuất
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Cung cấp thêm tư liệu về một số chỉ tiêu hóa sinh, sinh trưởng, phát
triển của một số giống ngô nếp.
- Kết quả nghiên cứu khuyến cáo cho người dân địa phương lựa chọn
giống ngô nếp phù hợp trồng trong vụ Thu Đông, góp phần làm tăng thu nhập
và nâng cao hiệu quả kinh tế.
4. Bố cục luận văn
Luận văn gồm các phần chính:
Mở đầu
Chương 1. Tổng quan tài liệu
Chương 2. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Kết quả nghiên cứu và bàn luận
Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo


4

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình sản xuất, tiêu thụ ngơ trên thế giới và Việt Nam
1.1.1. Tình hình sản xuất, tiêu thụ ngơ trên thế giới
Theo số liệu thống kê cho thấy ngành sản xuất ngô trên thế giới tăng liên

tục trên tất cả các chỉ tiêu như: diện tích, năng suất, sản lượng cũng như nhu
cầu tiêu thụ từ đầu thế kỷ 20 đến nay và đặc biệt là trong khoảng 40 năm trở lại
đây (1975 - 2015). Năm 2005, năng suất ngơ trung bình thế giới chỉ đạt khoảng
48,4 tạ/ha, đến năm 2015 năng suất đã đạt 57,3 tạ/ha trên diện tích 179.713
triệu ha với sản lượng đạt kỷ lục 1.030.278 triệu tấn theo [28]. Kết quả trên có
được trước hết là nhờ sự phát triển vượt bậc của Khoa học công nghệ và việc
ứng dụng những thành tựu mới trong sản xuất mà đặc biệt là trong lĩnh vực
chọn tạo giống, đồng thời việc đẩy mạnh cải tiến các biện pháp kỹ thuật canh
tác vào sản xuất rất được quan tâm. Với việc ứng dụng ưu thế lai và các giải
pháp khoa học kỹ thuật cho sản xuất ngơ đã góp phần nâng cao về năng suất
đạt tới mức cao nhất của cây ngô so với các cây lương thực chủ yếu (ngô, lúa
nước, lúa mì và mạch), đưa sản lượng ngơ thế giới năm 2015 đạt (1.030.278
triệu tấn) tiếp tục vượt trên lúa mì (704,08 triệu tấn) và lúa nước (722.76 triệu
tấn) theo [28].
Năm 2016 Trung Quốc nổi lên là nước đứng đầu thế giới về diện tích
(36 triệu ha) và sản lượng ngơ (216 triệu tấn). Tuy nhiên Mỹ là nước có diện
tích ngơ đưng thứ 2 của thế giới nhưng có năng suất và sản lượng ngô cao
nhất thế giới trong năm 2016, năng suất (11,01 tấn/ha) cao hơn Trung Quốc
5,01 tấn/ha, sản lượng 386,748 triệu tấn cao hơn Trung Quốc khoảng 170
triệu tấn. Braxin là nước đứng sau Trung Quốc, Mỹ về sản xuất ngơ với diện
tích 16,4 triệu/ha, năng suất 5,09 tấn/ha và sản lượng đạt 83,5 triệu tấn.


5

Bảng 1.6. Một số nƣớc sản xuất ngô trên thế giới năm 2016
Diện tích

Năng suất


Sản lƣợng

(triệu ha)

(tấn/ha)

(triệu tấn)

Mỹ

35,141

11,01

386,748

Trung Quốc

36,000

6,00

216,000

Brazil

16,400

5,09


83,500

Ấn Độ

9,500

2,58

24,500

Mexico

7,100

3,45

24,500

Argentina

4,500

8,11

36,500

Thế giới

179,713


5,73

1,030,278

Quốc gia

(Nguồn: FAOTASTAT, 2017)
Sự phát triển gia tăng về năng suất cũng như sản lượng là kết quả của
việc ứng dụng công nghệ, ứng dụng ưu thế lai vào sản xuất hạt giống ngô,
cùng với việc sử dụng những thành tựu mới của nhiều ngành khoa học đối với
nghiên cứu và sản xuất ngô như di truyền học, chọn giống, công nghệ sinh
học đặc biệt là công nghệ chuyển gen. Năm 2011, sản lượng ngô trên thế giới
là 883,46 triệu tấn sau 5 năm đến năm 2015 đã đạt tới 1.030,278 triệu tấn,
tăng hơn 23%. Trong khi đó, vào năm 2003 Viện nghiên cứu chương trình
lương thực thế giới (IFPRI) dự báo nhu cầu ngô thế giới vào năm 2020 chỉ
vào khoảng 852 triệu tấn [25]. Còn theo dự báo của Monsanto, vào năm 2030
nhu cầu ngô trên thế giới sẽ tăng 81% so với năm 2000 (từ 608 triệu tấn lên
1.098 triệu tấn). Như vậy cho đến nay sự tăng trưởng đã vượt khá xa so với
các dự báo.


6

Bảng 1.7. Sản xuất và tiêu thụ ngô trên thế giới năm 2016
Sản lƣợng

Tiêu thụ nội địa

Xuất khẩu


(triệu tấn)

(triệu tấn)

(triệu tấn)

Mỹ

386,8

314,6

56,5

Trung Quốc

216,0

226,0

0,2

Brazil

83,5

58,0

25,5


Argentina

36,5

10,5

25,0

Các nước khác

307,5

402,1

50,3

1.030,3

1.011,2

157,4

Chỉ tiêu

Tổng

(Nguồn: FAOTASTAT, 2017)
Theo ước tính của FAO, đến năm 2020 diện tích trồng ngơ được dự báo
tăng nhanh thêm khoảng 10 triệu ha. Tổng sản lượng ngô tiêu thụ nội địa trên
thế giới rất lớn, trung bình hàng năm từ 762,4 đến 838,6 triệu tấn, trong đó

nước Mỹ chiếm 34,12% và các nước khác chiếm 65,88%. Lượng ngơ xuất
khẩu trên thế giới trung bình hàng năm khoảng 90 triệu tấn. Trong đó, Mỹ
xuất khẩu 57,67% tổng sản lượng và các nước khác chiếm 42,33%. Tuy nhiên
đến năm 2016 có thể thấy sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu đã vượt xa so với dự
báo của FAO. Với mức tiêu thụ đạt 1.011,2 triệu tấn vượt 172,6 triệu tấn, xuất
khẩu đạt 157,4 triệu tấn vượt 67,4 triệu tấn. Mỹ vẫn là nước đứng đầu thế giới
về tiêu thụ nội địa cững như xuất khẩu.
Lượng ngô tiêu thụ thế giới năm 2016 đạt 1.168,6 triệu tấn, tăng 330
triệu tấn so với năm 2010 (838,6 triệu tấn). Nguyên nhân chủ yếu do nhu cầu
sử dụng ngô làm nguyên liệu trong ngành ethanol và ngành chế biến thức ăn
chăn nuôi cũng như chế biến thực phẩm tăng mạnh, đặc biệt là ngành chế biến
năng lượng sinh học đang dần thay thế nguồn năng lượng hóa thạch.


7

1.1.2.Tình hình sản xuất, tiêu thụ ngơ ở Việt Nam
Bảng 1.8. Tình hình sản xuất ngơ ở Việt Nam giai đoạn 1990 – 2017
Năm

Diện tích

Năng suất

Sản lƣợng

(1.000 ha)

(tấn/ha)


(1.000 tấn)

1990

432,0

1,55

671,0

1994

534,6

2,14

1.143,9

2000

730,2

2,75

2.005,9

2001

729,5


2,96

2.161,7

2002

816,0

3,08

2.511,2

2003

912,7

3,44

3.136,3

2004

991,1

3,46

3.430,9

2005


1052,6

3,60

3.787,1

2006

1031,6

3,70

3.819,4

2007

1072,8

3,96

4.250,9

2008

1125,9

4,02

4.531,2


2009

1086,8

4,03

4.381,8

2010

1126,4

4,09

4.666,8

2011

1081,0

4,33

4.684,3

2012

1118,2

4.30


4.800,0

2013

1.170,3

4,35

5.190,9

2014

1.177,5

4,41

5.191,7

2015

1.179,3

4,48

5.281,0

2016

1.152,7


4,55

5.246,5

2017

1.099,9 (sơ bộ)

4,67 (sơ bộ)

7.886 (sơ bộ)

(Nguồn: Tổng cục thống kê 2017)


8

Ngơ là cây trồng có từ lâu đời, theo nhà Bác học Lê Quý Đôn, cây ngô
được đưa vào Việt Nam từ thế kỷ 17. Nhờ những đặc điểm quý, cây ngô sớm
được người Việt Nam chấp nhận và mở rộng sản xuất.
Trước năm 1981 hầu hết diện tích ngơ được gieo trồng b ng các giống
địa phương, kỹ thuật lạc hậu, năng suất thấp, bình quân (dưới 1,1 tấn/ha). Giai
đoạn 1981 - 1990 diện tích trồng các giống thụ phấn tự do tăng dần và năng
suất cũng tăng lên (1,49 tấn/ha năm 1985); tuy nhiên tại thời điểm đó năng
suất ngơ ở nước ta vẫn cịn thấp hơn nhiều so với thế giới và diện mạo nghề
trồng ngô nước ta chỉ thay đổi một cách sâu sắc và mang tính tồn diện kể từ
khi ngơ lai được nghiên cứu và được áp dụng thành công.
Cây ngô lai bắt đầu được đưa vào sản xuất ở nước ta năm 1990 và đạt
được những tiến bộ vượt bậc với tốc độ nhanh hiếm thấy từ năm 2009. Diện
tích trồng ngơ lai tăng nhanh từ 0,1% năm 1990 lên trên 95% năm 2009. Tuy

nhiên từ năm 2009 đến năm 2015 thì diện tích ngơ Việt Nam tăng một cách
ổn định trung bình khoảng 13.214 ha/năm. Năng suất, sản lượng cũng luôn
giữ ở mức ổn định. Cho đến nay Việt Nam là một trong những nước sử dụng
giống ngô lai một cách phổ biến và có năng suất tương đối cao so với khu vực
Đơng Nam Châu Á.
Tuy vậy, nhìn vào thực trạng hiện nay năng suất ngô Việt Nam năm
2015 (4,48 tấn/ha) vẫn cịn thấp hơn năng suất trung bình thế giới (5,22
tấn/ha) là 1,25 tấn/ha. Sản lượng ngô sản xuất ra vẫn chưa đủ cung cấp cho
ngành thực phẩm và ngành chăn nuôi trong nước nước, hàng năm Việt Nam
vẫn phải nhập hàng triệu tấn ngô hạt để cung cấp nguyên liệu cho ngành chế
biến thức ăn chăn nuôi. Theo số liệu của Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt
Nam, ước tính tại thời điểm năm 2012, nước ta phải nhập khoảng 1.614.473
tấn ngơ (tăng hơn 350 nghìn tấn) so với năm 2009. Mới đây nhất, theo Báo
cáo của Bộ Công thương cho biết, do sản xuất trong nước chưa đáp ứng được


9

nhu cầu, nên hàng năm, Việt Nam phải nhập khẩu một lượng lớn thức ăn chăn
nuôi từ các thị trường lớn trên thế giới. Năm 2016 nhập khẩu 8.445.000 tấn,
kim ngạch nhập khẩu là 1,671 tỷ USD, tăng 10,9% so với 2015 [44 .
Từ năm 1980 đến nay, năng suất ngô nước ta tăng nhanh liên tục với
tốc độ cao hơn trung bình của thế giới. Năm 1979, chưa b ng 30% so với
trung bình thế giới; năm 1990 b ng 42% (15,5/37 tạ/ha); năm 2000 b ng
65,5% (27,5/42 tạ/ha); năm 2005 b ng 75% (36/48 tạ/ha); năm 2008 đạt 79%
(40,2/51,1 tạ/ha). Năng suất ngô Việt Nam vượt qua Thái Lan (nước có
chương trình ngơ lai rất sớm ở khu vực), vượt xa Philippin (26 tạ/ha), Ấn Độ
(23 tạ/ha)… Trong năm 2011, so với các nước trong khu vực Đông Nam
Châu Á, sản xuất ngô ở Việt Nam chỉ đứng sau Inđơnêxia và Philippin về
diện tích (diện tích 3,86 triệu ha và 2,5 triệu ha) nhưng về năng suất thì Việt

Nam đạt 43,3 tạ/ha, chỉ đứng sau Inđônêxia (45,7 tạ/ha)[27]. Đến năm 2016
theo ước tính năng suất ngơ Việt Nam đạt khoảng 4,6 tấn/ha tăng so với 2015
là 0,12 tấn/ha và dự báo năm 2017 năng suất có thể đạt 4,8 tấn/ha tăng so với
2016 là 0,2 tấn/ha [45].
Hiện nay, bộ giống ngô do các cơ quan nghiên cứu Việt Nam chọn tạo
chiếm khoảng 60% thị phần ngô giống cả nước, với giá giống chỉ b ng
khoảng 60% so với giống nhập từ nước ngồi. Vì vậy hàng năm đã tiết kiệm
khoảng trên 10 triệu USD (chiếm khoảng 12/18 nghìn tấn giống m i năm).
Nếu có đầu tư cải tiến kỹ thuật, áp dụng cơng nghệ cao đồng thời có cơ chế
cạnh tranh lành mạnh thì giống sản xuất trong nước có thể chiếm tỷ lệ lớn hơn
hiện nay.


10

1.1.3.Tình hình sản xuất, tiêu thụ ngơ ở Gia Lai
Bảng 1.9. Diện tích, năng suất và sản lƣợng ngơ tỉnh Gia Lai (2012- 2017)
Diện tích

Năng suất

Sản lƣợng

(ha)

(tạ/ha)

(tấn)

2012


53.320

39,07

208.313

2013

52.649

40,34

212.411

2014

52.563

41,20

216.637

2015

51.591

42,50

219.337


2016

52.013

41,90

217.912

2017

47.374

44,60

211.490

Năm

(Nguồn: Niên giám Thống kê Gia Lai 2018)
Tại Gia Lai tình hình sản xuất ngơ trong những năm qua cũng có những
biến động. Về diện tích sản xuất năm 2017 (47.374 ha) giảm so với 2012
(56.887 ha) là 9.513 ha và giảm so với 2106 (52.013 ha) là 4.639 ha. Tuy
nhiên về năng suất và sản lượng hàng năm luôn tăng. Năm 2017 năng suất
trung bình tồn tỉnh đạt 4,46 tấn/ha sản lượng đạt được 211.490 tấn tăng so
với 2012 (năng suất 3,907 tấn/ha, sản lượng 208.313tấn) là 0,553 tấn/ha và
3.177 tấn. So với 2016 (năng suất 41,90 tấn/ha) tăng là 0,27 tấn/ha. Mặc dù
diện tích giảm nhưng về năng suất và sản lượng ln tăng, có được thành quả
này là do việc đưa các giống ngô lai năng suất cao vào sản xuất theo chủ
trương của tỉnh ngày càng rộng rãi, các biện pháp kỹ thuật tiên tiến đã được

đưa vào áp dụng trong sản xuất ngày càng được quan tâm [15]


11

Bảng 1.10. Tình hình sản xuất ngơ ở huyện Chƣ Prơng (2012 - 2017)
Năm

Diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lƣợng (tấn)

2012

5.556

47,30

26.280

2013

5.630

46,00

25.898


2014

5.650

46,50

26.273

2015

5.570

47,00

26.179

2016

5.575

46,00

25.645

2017

5.400

46,70


25.218

(Nguồn: Niên giám Thống kê Gia Lai 2018)
Huyện Chư Prông là một huyện có diện tích trồng ngơ tương đối lớn so
với các huyện khác trong khu vực phía Tây Nam của tỉnh Gia Lai, chiếm
9,6% đến 10,8% diện tích ngơ tồn tỉnh và sản lượng ngơ thu hoạch chiếm
11,5% năm 2010 và 12% năm 2015 so với sản lượng ngô tồn tỉnh. Về năng
suất ln cao hơn so với năng suất trung bình tồn tỉnh từ 2,2 tạ đến 4,5 tạ/ha
tâm [15]. Tuy nhiên về chỉ tiêu năng suất huyện Chư Prơng cịn thấp hơn so
với các huyện khác trong khu vực. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên là do
Chư Prơng là một huyện có diện tích đất tự nhiên cũng như đất sản xuất tương
đối lớn, người dân tộc thiểu số tại ch chiếm tỷ lệ khá cao 49% dân số tồn
huyện, trình độ thâm canh cịn nhiều hạn chế. Do vậy việc đầu tư cho sản
xuất, sử dụng giống mới cũng như việc ứng áp dụng các biện pháp kỹ thuật
còn rất hạn chế dẫn đến năng suất cây trồng chưa cao trong đó có cây ngơ lai.
1.2. Ngơ nếp, nguồn gốc, phân loại và đặc tính

Ngơ nếp (Zea mays L.subsp. Ceratina Kulesh), là một trong những
loài phụ chính của lồi Zea mays L. Hạt ngơ nếp nhìn bề ngồi tương tự
với ngơ đá, nhưng bề mặt bóng hơn. Lớp ngồi cùng của mặt cắt nội nhũ
khơng có lớp sừng như ở ngơ tẻ, có tính chất quang học giống như lớp sáp.
Do vậy, ngơ nếp cịn có tên gọi khác là ngơ sáp. Ngơ nếp là dạng ngô tẻ do


12

biến đổi tinh bột mà thành. Đặc tính của ngơ nếp được quy định bởi đơn
gen lặn đó là gen wx. Gen wx là gen lấn át gen khác để tạo tinh bột dạng
nhỏ thì gen wx n m ở locus 5S-56 có biểu hiện của gen opaque, do vậy hạt
ngô nếp cũng giàu lysine, trypthophane và protein [26], [29], [30], [33].

Có giả thuyết cho r ng, ngơ nếp có nguồn gốc ở Đông Nam Á mà
Trung Quốc, Miến Điện, Philippin là quê hương đầu tiên của nó. Nhưng
sau đó người ta thấy r ng đó là kết quả của một đột biến thông thường của
các giống ngô răng ngựa biểu hiện gen Wx và gắn liền với các điều kiện
trồng trọt khơng bình thường đột biến thành gen lặn wx, chúng có thể xuất
hiện ở các vùng khác nhau của trái đất [10].
Theo James L. Brewbaker, quá trình chọn lọc tự nhiên đã tạo ra những
đột biến như Sugaryl (với phytoglycogen cao) ở dãy núi Andes và ở đông bắc
nước Mỹ, đột biến 2 là waxyl (tinh bột của hạt có cấu tạo bởi amylopectin) ở
châu Á với các giống được chọn lọc có vỏ mềm [31]. Những giống nếp lai và
các giống nếp thường, với đặc điểm dẻo, thơm ngon rất thông dụng ở châu Á
như : Hàn Quốc, Philippin, Thái Lan, Trung Quốc, Việt Nam và nhiều quốc
gia khác [35].
1.3. Giá trị dinh dƣỡng và giá trị kinh tế của ngô
1.3.1. Giá trị dinh dƣỡng và y học
Ngơ là một loại ngũ cốc rất có lợi cho sức khỏe. Đây không chỉ là một
nguồn thực phẩm giàu năng lượng, hàm lượng dinh dưỡng cao mà còn giúp
bạn tránh nguy cơ ung thư, các bệnh về tim hay chứng tăng huyết áp...


13

Bảng 1.6 Giá trị dinh dƣỡng (100g ngô tƣơi)
Năng lượng

96 kcal

Niacin (B3)

11%


Cacbohydrat

21 g

Folate (B9)

6%

Đường

4,5 g

Vitamin C

6%

Chất xơ thực phẩm

2,4 g

Sắt

6%

Chất béo

1,5 g

Magiê


7%

Chất đạm

3,4 g

Kali

5%

Vitamin A

1%

Nước

73%

Thiamine (B1)

8%
(Nguồn: CAROTY, 2017)

Ngô là loại thực phẩm giàu calo: Nếu trẻ bị suy dinh dưỡng hoặc
người đang cần tăng cân gấp, ngơ có thể cải thiện tình trạng suy dinh dưỡng,
giúp tăng cân, 100g ngơ tươi sẽ cung cấp khoảng 86 kcal. Do đó, ngơ là
nguồn cung cấp năng lượng dồi dào cho sức khỏe của người sử dụng.
Ngơ có nguồn vitamin dồi dào: Thiamine và niacin là những thành
phần chính của vitamin B – có rất nhiều trong ngơ. Chúng giúp cải thiện hệ

thần kinh và giảm các triệu chứng về trí nhớ do tuổi tác gây nên.
Ngơ giàu khống chất: Ngơ chứa rất nhiều loại khoáng chất cần thiết
cho cơ thể, như sắt, magie, kali, kẽm, đồng, mangan.
Ngơ giàu chất chống oxy hóa: Các nhà nghiên cứu gần đây đã chứng
minh ngô rất giàu chất chống oxy hóa, bảo vệ hàng tỷ tế bào trong cơ thể khỏi
các gốc tự do, giúp phòng chống ung thư.
Ngơ có thể phịng ngừa bệnh trĩ và ung thƣ: Ngơ là loại thực phẩm
giàu chất xơ, vì vậy nó rất có lợi cho tiêu hóa.
Ngơ có thể bảo vệ tim: Chúng ta có thể sử dụng dầu ngô trong nấu
nướng để tăng cường sức khỏe cho tim.


14

Ngơ giúp cải thiện tình trạng thiếu máu: Vitamin B12 và axit folic
cao trong ngơ rất có lợi để cải thiện tình trạng thiếu máu.
Ngơ giúp giảm mức cholesterol: Một vài thành phần trong ngơ cho
thấy có thể làm giảm lượng cholesterol một cách hữu hiệu. Đặc biệt, dầu ngô
cũng có tác dụng cân b ng mức cholesterol trong cơ thể.
Ngô giúp giảm đau khớp, xƣơng: Lượng magie, sắt, vitamin B và
protein mà ngô cung cấp cho cơ thể sẽ giúp tăng cường các mơ liên kết trong
cơ thể.
Ngơ có tác dụng tốt cho bệnh nhân Alzheimer: Một trong những lý
do dẫn đến mắc bệnh Alzheimer là do thiếu Thymine. Lời khuyên cho các
bệnh nhân Alzheimer đó là nên dùng ngơ tươi hàng ngày như một món ăn
chính.
1.3.2. Giá trị kinh tế
Làm lƣơng thực cho con ngƣời: Ngô là một trong những loại cây
lương thực quan trọng góp phần ni sống gần 1/3 dân số thế giới. Tất cả các
nước trồng ngơ nói chung đều ăn ngơ ở mức độ khác nhau, 21% sản lượng

ngô thế giới (hơn 100 triệu tấn) được sử dụng làm lương thực cho con người.
Các nước Trung Mỹ, Nam Á và Châu Phi sử dụng ngơ làm lương thực chính.
Các nước Đơng Nam Phi sử dụng 72% sản lượng ngô làm lương thực, Tây
Trung Phi: 66%, Bắc Phi: 45%, Tây Á: 23 %, Nam Á 75%, Đơng Nam Á và
Thái Bình Dương 43%, Đơng Á 12 %, Trung Mỹ và Caribê: 56%, Nam Mỹ:
9%, Đông Âu và Liên Xô cũ: 7%, Tây Âu, Bắc Mỹ và các nước phát triển
khác: 4% [23 . Ở Việt Nam tỷ lệ ngô làm lương thực chiếm 15 - 20%.
Làm thức ăn cho chăn ni: Có thể nói ngơ là cây thức ăn chăn nuôi
quan trọng nhất hiện nay. Ngồi việc cung cấp chất tinh, cây ngơ cịn là thức
ăn xanh và ủ chua lí tưởng cho đại gia súc, đặc biệt là bò sữa.


15

Ngô làm thực phẩm và thuốc chữa bệnh: Những năm gần đây cây
ngơ cịn là cây thực phẩm, người ta dùng bắp bao tử làm rau cao cấp. Theo
Đông y, các bộ phận của cây ngô đều được dùng làm thuốc với cơng dụng
chính là lợi thuỷ, tiêu thũng, trừ thấp, góp phần trừ một số bệnh như: bướu cổ,
sốt rét.
Ngơ dùng cho mục đích khác: Ngồi các mục đích trên, ngơ cịn được
dùng làm ngun liệu cho các nhà máy sản xuất rượu, cồn, tinh bột, dầu ngô,
bánh kẹo,... Từ ngô, người ta đã sản xuất ra khoảng 670 mặt hàng khác nhau
của các ngành công nghiệp, lương thực, thực phẩm, cơng nghiệp dược, cơng
nghiệp nhẹ [23].
1.4 Tình hình nghiên cứu và sử dụng ngô nếp trên thế giới và ở Việt Nam

1.4.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng ngô nếp trên thế giới
Theo Tomob, để chọn giống ngô nếp người ta dùng vật liệu ban đầu từ
các giống ngô nếp địa phương của Trung Quốc, ngô nếp Cracnoda hoặc
nguồn ngô nếp đột biến tự nhiên hay đột biến nhân tạo như là donor. Từ

nguồn vật liệu chọn lọc ban đầu, thông qua tự phối và chọn lọc cá thể dựa vào
nội nhũ nếp và các đặc tính nơng học khác để tạo dịng nếp thuần. Cịn tạo các
đồng đẳng ngơ nếp từ nguồn ngơ thường thì người ta cho lai ngô nếp và ngô
thường với nhau sau đó tiến hành lai lại và kiểm tra b ng phân tích hạt phấn
qua phản ứng với dung kịch KI. B ng cách này người ta đã tạo ra khá nhiều

dịng và giống ngơ nếp lai mới, chúng được trồng cách ly với các loại ngô
khác [37].
Ngô nếp được trồng nhiều nhất ở Mỹ. Diện tích trồng ngơ nếp hàng năm
của Mỹ khoảng 290.000 ha. Hầu hết diện tích này được trồng là nếp vàng,
nhưng gần đây có một số diện tích nhỏ được trồng b ng nếp trắng. Theo
Creech, mặc dầu đã trải qua một thời gian khá dài nhưng vẫn gặp rất nhiều
vấn đề trong việc tạo các dịng ngơ nếp thương mại [29 . Ở bang Ohio việc


16

chọn lọc giống lai của những dạng ngô đặc biệt rất phức tạp vì thiếu những
dạng ngơ làm đối chứng. Cả 2 dạng giống lai có hàm lượng lysine cao và ngô
nếp đã được đưa ra sản. Tiềm năng năng suất hạt của những giống lai đặc biệt
này nhìn chung là thấp hơn so với ngô tẻ. Những giống nếp lai mới đã được
báo cáo là có khả năng cạnh tranh hơn với giống răng ngựa về năng suất.
Theo Thompson, năng suất của ngơ có hàm lượng amylose cao biến động tuỳ
thuộc vào đất trồng, nhưng trung bình cũng đạt từ 65 – 75% so với ngô tẻ
thường [33 . Ngơ nếp có thể cho năng suất thấp hơn ở điều kiện thời tiết bất
lợi. Theo thông báo của trường Đại học Illinois, gần đây đã có một số giống
nếp lai điển hình cho năng suất cao hơn những giống ngô lai thông thường.

Theo thông tin từ hội nghị ngô châu Á lần thứ 9 tại Bắc Kinh –
T9/2005, Trung Quốc đã tạo ra khá nhiều giống ngô nếp lai cho năng suất

cao và chất lượng tốt. Ví dụ : Giống nếp lai đơn màu trắng JYF 101, cho
năng suất trung bình 150 tạ bắp tươi/ha ; giống nếp lai đơn màu tím
Jingkenou 218, năng suất khoảng 120 tạ bắp tươi/ha ; giống ngô nếp trắng
Jingkenou 2000 năng suất trung bình trên 130 tạ bắp tươi/ha ; giống ngơ
nếp lai đơn tím trắng Jingtianzihuanuo và giống ngơ nếp trắng lai đơn
Yahejin 2006, cho năng suất đến 200 tạ bắp tươi/ha.
Ngô nếp được sử dụng làm lương thực và thức ăn chăn ni gia súc,
gia cầm. Khi nấu chín có độ dẻo, mùi vị thơm ngon. Nó có giá trị dinh
dưỡng cao, bởi tinh bột của nó có cấu trúc đặc biệt, dễ hấp thụ hơn so với
tinh bột của ngô tẻ. Có khá nhiều báo cáo về những kết quả đạt được trong
chăn nuôi cho cả động vật thường và động vật nhai lại [26 . Một số thử
nghiệm ở Mỹ đã chỉ ra r ng, bò đực non lớn nhanh hơn khi được nuôi b ng
ngô nếp [36 . Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả trên là do


17

trong ngơ nếp có hàm lượng các acid amin khơng thay thế như lysine và
trypthophane cao [29], [31].
Ngô nếp được dùng vào các mục đích khác nhau như ăn tươi, đóng hộp,
chế biến tinh bột v.v...Nhìn chung, có 2 cách sử dụng chính : Làm thực phẩm
và chế biến tinh bột.

Người ta chế biến tinh bột ngô nếp b ng cách xay ướt để dùng trong
công nghiệp chế biến thực phẩm, keo dán, chất hồ dính, cơng nghiệp dệt,
cơng nghiệp giấy, lên men sản xuất cồn và chuyển thành đường fructose,
chế sirơ v.v... Tinh bột ngơ nếp cịn được sử dụng như một dạng sữa ngô
làm đồ gia vị cho món salad. Phạm vi sử dụng tinh bột ngơ nếp ngày một
phát triển, nhờ những tính chất đặc biệt của nó.
1.4.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng ngơ nếp ở Việt Nam

Theo các nghiên cứu phân loại ngô địa phương ở Việt Nam từ những
năm 1960 cho thấy, ngô Việt Nam tập trung chủ yếu vào 2 loại phụ chính
là đá rắn và nếp [21 . Ngơ nếp được phân bố ở khắp các vùng, miền trong
cả nước, với nhiều dạng mày hạt khác nhau : Trắng, vàng, tím, nâu, đỏ...Hiện
nay ở Viện nghiên cứu Ngô, đã thu thập và lưu giữ 148 mẫu ngơ nếp địa
phương, trong đó có : 111 nguồn nếp trắng, 15 nguồn nếp vàng và 22 nguồn
nếp tím, nâu đỏ. Theo điều tra của Trung tâm Khảo nghiệm giống cây trồng
Trung ương trong 2 năm 2003 và 2004 thì diện tích ngơ nếp ở nước ta chiếm
gần 10% diện tích trồng ngơ [18 . Diện tích trồng ngơ nếp khơng ngừng tăng
nhanh trong thời gian qua, đặc biệt là ở vùng đồng b ng ven đơ thị. Ngun
nhân chính trước hết do các giống ngô nếp đáp ứng được nhu cầu luân canh
tăng vụ trong cơ cấu nông nghiệp hiện nay, nhưng quan trọng hơn là do nhu
cầu của xã hội ngày một tăng đối với sản phẩm này.

Ở các vùng núi cao và vùng sâu, ngô nếp được người dân sử dụng
làm lương thực chính, dưới dạng xơi ngơ hoặc dùng tươi dưới dạng nướng,


18

luộc, còn ở hầu hết các địa phương khác trong nước thì ngơ nếp được xem
như là loại thực phẩm ăn quà và chế biến đơn giản.
Những năm gần đây, đời sống kinh tế của đại bộ phận các tầng lớp
nhân dân đang được cải thiện, nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng trở
nên đa dạng hơn. Các loại ngô thực phẩm được sử dụng ngày một nhiều,
không những được dùng làm lương thực, làm quà ăn tươi (nướng, luộc),
mà cịn được chế biến thành các món ăn được nhiều người ưa chuộng như
ngô chiên, súp ngô, snack ngô, ngơ rau bao tử, chế biến tinh bột...
Cũng như tình trạng chung trên thế giới, các nghiên cứu về ngô ở
Việt Nam tập trung chủ yếu vào ngơ tẻ. Cịn với ngơ nếp thì đến nay chỉ có

một số cơng trình được cơng bố.
Các tác giả Nguyễn Thị Lâm và Trần Hồng Uy (1997) đã tiến hành
phân loài phụ cho 72 giống ngô nếp địa phương. Trong số 72 mẫu giống
mà các tác giả nghiên cứu thuộc về 3 biến chủng : nếp trắng 48 mẫu, nếp
vàng 8 mẫu, nếp tím 16 mẫu. Kết quả cho thấy, biến chủng nếp tím có thời
gian sinh trưởng, chiều cao cây, chiều cao đóng bắp và số lá lớn hơn cả
[10].
Tác giả Ngơ Hữu Tình và Nguyễn Thị Lưu đã chọn tạo thành công
giống ngô nếp trắng tổng hợp, được công nhận giống quốc gia năm 1989.
Từ vốn gen tổng hợp các dòng thuần nếp trắng (làm nền) được bổ sung
thêm 12 nguồn gen của các giống nếp địa phương và chọn lọc b ng phương
pháp bắp trên hàng cải tiến. Kết quả việc đưa thêm nguyên liệu mới vào
nguồn nền nh m làm tăng độ thích ứng nhưng khơng làm giảm năng suất
của vốn gen. Nếp Tổng hợp là giống nếp ngắn ngày, có thời gian sinh
trưởng vụ Xuân 110 - 120 ngày, vụ Hè Thu 95 - 100 ngày, Đông 105 - 115


19

ngày, năng suất trung bình 25 - 30 tạ/ha, có khả năng thích ứng rộng, được
trồng khá phổ biến ở miền Bắc [20] .
Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam dùng phương pháp
chọn lọc chu kỳ từ tổ hợp lai giữa giống ngô nếp tổng hợp Glut - 22 và
Glut - 41 nhập nội từ Philippin để tạo ra giống nếp trắng S-2 . Đây là giống
nếp ngắn ngày, vụ Xuân 90 - 95 ngày, vụ Hè Thu 80 - 90 ngày, vụ Đông 95
- 100 ngày, năng suất trung bình 20 - 25 tạ/ha, được cơng nhận năm 1989
[23] .
Từ các giống ngô nếp trắng ngắn ngày, năng suất khá, chất lượng tốt,
có nguồn gốc khác nhau : Nếp Tây Ninh, Nếp Quảng Nam – Đà Nẵng, nếp
Thanh Sơn, Phú Thọ và nếp S-2 từ Philippin, Phan Xuân Hào và cộng sự

đã chọn tạo thành công giống ngô nếp trắng VN2 và được công nhận giống
quốc gia năm 1997. Đây là giống nếp trắng ngắn ngày, có thời gian sinh
trưởng vụ Xuân 100 - 105 ngày, vụ Hè 80 - 85 ngày. Năng suất bình quân
30 tạ/ha, thâm canh tốt có thể đạt 40tạ/ha. Ngơ nếp VN2 cũng là giống có
chất lượng dinh dưỡng cao. Qua phân tích 43 giống ngơ, trong đó có 24
giống ngơ nếp tại Viện Công nghệ sau thu hoạch cho thấy, VN2 có hàm
lượng protein rất cao, trên 10%, đặc biệt là hàm lượng lysine đến 4,86%,
chỉ đứng sau 2 giống opaque là sữa Dĩ An và sữa Phát Ngân [5]. VN2 là
một trong những giống có khả năng thích ứng rộng, trồng được nhiều vùng
trong cả nước [18].
Phạm Thị Rịnh và cộng sự (2004) đã tạo được giống ngô nếp dạng
nù TPTD cải tiến N-1 từ 2 quần thể ngô nếp nù địa phương ở Đồng Nai và
An Giang, b ng phương pháp chọn lọc bắp trên hàng cải tiến. N-1 đã được
công nhận giống quốc gia năm 2004. Đây là giống ngơ nếp ngắn ngày, ở
phía Nam từ gieo đến thu bắp tươi là 60 đến 65 ngày còn thu hạt khô là 83


20

- 85 ngày. N-1 có tiềm năng năng suất khá cao 40 – 50 tạ hạt khô/ha [19].
Cùng với giống N-1, hiện nay các giống nếp dạng nù đang được trồng phổ
biến khơng chỉ ở các tỉnh phía nam mà cả ở các tỉnh phía [18].
Các tác giả Nguyễn Hữu Đống, Phan Đức Trực, Nguyễn Văn Cương
và cộng sự ở Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam và Ngô Hữu Tình
cùng cộng sự ở Viện Nghiên cứu Ngơ đã nghiên cứu gây tạo đột biến b ng
tia gamma kết hợp xử lý Diethylsulphat ở ngô nếp đã thu được một số
dịng biến dị có các đặc tính nơng học q so với giống ban đầu [4].
Thời gian gần đây, các nhà tạo giống Việt Nam đã bắt đầu chuyển
sang hướng tạo giống nếp lai và đã tạo được một vài giống nếp lai khơng
quy ước có triển vọng như các giống lai MX2, MX4 của Công ty Cổ phần

Giống cây trồng miền Nam, Bạch ngọc của công ty Lương Nông. Từ vài
năm nay, một số giống ngô nếp lai quy ước từ các cơng ty giống nước
ngồi đã được trồng ở Việt Nam, chủ yếu là các tỉnh phía nam. Nguồn
giống nếp này phần lớn là các giống lai từ Đài Loan, Thái Lan thông qua
một số công ty giống như Nơng Hữu, Thần Nơng, Lương Nơng, Trang
Nơng, Long Hồng Gia, An Điền, Thuận Điền... Có điều những giống từ
các công ty này bán ra với giá rất cao, chẳng hạn giống lai đơn của Cơng ty
Đơng Tây có giá bán là 140.000đ/kg, giống Wax – 44 của Syngenta Thái
Lan là 160.000đ/kg...
1.3.4. Nghiên cứu kỹ thuật canh tác cây ngô ở Việt Nam
1.3.4.1. Nghiên cứu về mật độ - khoảng cách trồng ngô
Các nghiên cứu về mật độ và khoảng cách gieo trồng ngô ở nước ta đã
được nghiên cứu cách đây khá lâu. Chúng ta ln có quan niệm: Mật độ trồng
gắn liền với đặc điểm của giống, điều kiện sinh thái và mùa vụ, khả năng đầu
tư của nông dân ở từng vùng cụ thể. Những năm 1984-1986, Trung tâm


21

Nghiên cứu Ngô sông Bôi đã trồng giống ngô MSB49 ở các mật độ 9,52 vạn
cây/ha (70 x 15 cm), 7,14 vạn cây/ha (70 x 20 cm) và 5,7 vạn cây/ha (70 x 25
cm), với 3 mức phân bón khác nhau.
Kết quả cho thấy ở mật độ 9,52 vạn cây/ha với mức phân bón 120 N:
80 P205: 40 K2O kg/ha cho năng suất cao nhất (55,30 tạ/ha) và ở mật độ 5,7
vạn cây/ha cho năng suất thấp nhất. Tuy nhiên, sự sai khác về năng suất giữa
các công thức không đáng kể [19]. Đến năm 2005, Bộ Nông nghiệp và phát
triển nơng thơn đã ban hành Hướng dẫn quy trình kỹ thuật thâm canh ngô lai
đạt năng suất trên 7 tấn/ha ở các tỉnh miền Bắc [3]. Trong đó khuyến cáo, với
các giống dài ngày nên trồng với mật độ từ 5,5 - 5,7 vạn cây/ha, các giống
ngắn và trung ngày trồng 6,0 - 7,0 vạn cây/ha với khoảng cách giữa các hàng

là 60 cm - 70 cm. Tuy vậy, nhiều nơi bà con nông dân chưa trồng đạt mật độ
khuyến cáo, có nơi chỉ đạt khoảng 3 vạn cây/ha (một sào Bắc bộ chỉ đạt
1.200 - 1.300 cây). Đây là ngun nhân chính dẫn đến năng suất ngơ của
nước ta chỉ mới đạt 30 - 40% so với tiềm năng trong thí nghiệm (trong điều
kiện thí nghiệm nhiều giống đã đạt năng suất 12 - 13 tấn/ha [6].
Kết quả thí ngơ theo vùng đặc thù của Viện dinh dưỡng cây trồng quốc
tế, Viện Thổ nhưỡng Nơng hố Việt Nam, Viện Lúa đồng b ng sông Cửu
Long, Trường Đại học Cần Thơ và một số Viện khác thực hiện từ năm 2005
cho thấy cùng một mật độ 6,7 vạn cây/ha nhưng ở khoảng cách 50 x 30 cm
cho năng suất cao hơn ở khoảng cách 75 x 20 cm.
1.3.4.2. Nghiên cứu về phân bón cho cây ngơ
Nghiên cứu ảnh hưởng của một số liều lượng đạm (nền thí nghiệm là 10
tấn phân chuồng + 80 P2O5 + 80 K2O) với 5 cơng thức thí nghiệm là 0, 60,
120, 180, 240 N); lân (nền thí nghiệm là 10 tấn phân chuồng + 120 N + 80
K2O) với 5 cơng thức thí nghiệm là 0, 40, 80, 120, 160 P2O5; kali (với nền thí
nghiệm là 10 tấn phân chuồng + 120 N + 80 P2O5 với 5 cơng thức thí nghiệm


×