Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

TRÌNH BÀY CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG. LIÊN HỆ THỰC TẾ VIỆC THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH NÀY Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.94 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
VIỆN HỢP TÁC QUỐC TẾ


THẢO LUẬN
TRÌNH BÀY CÁC CƠNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN
HÀNG TRUNG ƯƠNG. LIÊN HỆ THỰC TẾ VIỆC THỰC HIỆN
CÁC CHÍNH SÁCH NÀY Ở VIỆT NAM

NHĨM:
LỚP:
MƠN:
GIẢNG VIÊN:

9
21208EFIN2811
NHẬP MƠN TÀI CHÍNH
TIỀN TỆ
LÊ HÀ TRANG

Mục lục
Các cơng cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương...............................................3
Hà Nội, tháng1 10 năm 2021


A.

Nhóm cơng cụ trực tiếp..............................................................................................3
Lãi suất tiền gửi:.............................................................................................................. 3
Khung lãi suất tiền gửi và cho vay hoặc lãi suất cơ bản..................................................3
Hạn mức tín dụng đối với các tổ chức tín dụng...............................................................4


Phát hành tiền trực tiếp cho Ngân sách và cho đầu tư.....................................................4

B.

Nhóm cơng cụ gián tiếp.............................................................................................4
Nghiệp vụ thị trưởng mở (Open market operation).........................................................5
Dự trữ bắt buộc (Reserve requirements)..........................................................................8
Chính sách chiết khấu (Discount policy).......................................................................10

Liên hệ thực tế việc thực hiện chính sách tiền tệ tại Việt Nam........................................11
A.

Dấu ấn điều hành chính sách tiền tệ.........................................................................11
Năm 2019......................................................................................................................11
Năm 2020......................................................................................................................15
Quý I, II năm 2021........................................................................................................16

B.

Khó khăn trong điều hành chính sách tiền tệ...........................................................19

C.

Định hướng điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng thời gian tới........................21

Kết luận................................................................................................................................ 22

Các cơng cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng trung ương
A. Nhóm cơng cụ trực tiếp
Cơng cụ trực tiếp là cơng cụ mà thơng qua chúng. NHTW có thể tác động trực tiếp đến

các mục tiêu mà không phải qua một biến số trung gian nào khác. Các công cụ trực tiếp mà
NHTW có thể sử dụng thường là
2


* Lãi suất tiền gửi:
- Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi, làm gia tăng nguồn vốn để cho
vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rộng cung cấp tín dụng của
các NHTM và các tổ chức tín dụng.
- Khi NHTW thay đổi các mức ấn định lãi suất tiền gửi, các NHTM và các tổ chức tín
dụng phải tuân thủ các mức lãi suất ấn định này, từ đó sẽ làm thay đổi khối lượng tiền tệ, tin
dụng trong nền kinh tế.
+ Ưu điểm: Việc thay đổi các mức ấn định lãi suất tiền gửi sẽ có tác động trực tiếp và
nhanh chóng đến khối lượng tiền tệ và tin dụng của nền kinh tế
+ Nhược điểm: làm cho các tổ chức tín dụng mất đi tính linh hoạt và quyền tự chủ kinh
doanh, giảm khả năng cạnh tranh giữa các ngân hàng, dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn nhất
thời ở ngân hàng nhưng lại thiếu vốn cho đầu tư hoặc có thể khuyến khích dân chúng dùng
tiến vào dự trữ ngoại tệ, bất động sản trong khi ngân hàng hụt hằng về tiền mặt cũng như
nguồn vốn cho vay.
* Khung lãi suất tiền gửi và cho vay hoặc lãi suất cơ bản
- NHTW có thể tác động tới khối lượng tiền cung ứng bằng cách quy định và điều chỉnh
khung lãi suất (giới hạn tối đa và tối thiểu) hoặc quy định điều chỉnh lãi suất cơ bản và biến
độ dao động.
+ Ưu điểm: Biện pháp này giúp ngân hàng thương mại được quyền lựa chọn mức lãi suất
tiền gửi hoặc lãi suất cho vay phù hợp với điều kiện cụ thể của mình trong giới hạn không lãi
suất hay biển độ giao động của lãi suất cho phép để kinh doanh, nâng cao được tính độc lập,
tự chủ của mỗi ngân hàng, mỗi tổ chức tín dụng.
+ Nhược điểm: Tuy nhiên, trong kinh tế thị trường, lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nên
nhiều khi khung lãi suất do NHTW quy định trở nên gị bó, cứng nhắc, khơng theo kịp
những diễn biến của thị trường.

* Hạn mức tín dụng đối với các tổ chức tín dụng
- Đây là biện pháp NHTW khống chế mức cho vay tối đa đối với NHTM và tổ chức tín
dụng. Trên cơ sở quy mơ, tình hình hoạt động cũng như khả năng huy động vốn của từng tổ
chức tín dụng. NHTW tiến hành phân chia hạn mức tín dụng cho từng tổ chức tín dụng, đó
chính là mức tối đa mà mỗi ngân hàng, mỗi tổ chức tín dụng được phép vay từ NHTW.

3


+ Ưu điểm: Việc sử dụng biện pháp này tạo cho NHTW dễ dàng đạt được mục tiêu kiểm
soát khối lượng tiền cung ứng.
+ Nhược điểm:Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường, với sự biến động thường xuyên
của cung và cầu tiền vay, biện pháp này tỏ ra không còn linh hoạt phù hợp với sự biến động
của nền kinh tế.
- Bên cạnh việc quy định hạn mức tín dụng đối với các tổ chức tín dụng. NHTW cịn quy
định hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong trường hợp này NHTW có thể quy định
giới hạn khối lượng tín dụng, giá các tổ chức tín dụng được cung cấp cho nền kinh tế. Công
cụ này được sử dụng để kiểm soát chặt chẽ sự mở rộng tín dụng khi mà NHTW thực hiện
chính sách thất chặt tiền tệ.
* Phát hành tiền trực tiếp cho Ngân sách và cho đầu tư
- Khi ngân sách Nhà nước bị thiểu hụt, NHTW phát hành tiền để bù đắp sự thiếu hụt ấy.
+ Ưu điểm:Biện pháp này làm gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông và hậu quả là gia
tăng lạm phát.Vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội có thể được thực hiện thơng qua con
đường tín dụng ngân hàng. Việc NHTW phát hành tiến trực tiếp cho đầu tư là một biện pháp
cần thiết trong điều kiện nền kinh tế suy thoái, dư thừa tiềm năng kinh tế và sẽ mang lại hiệu
quả tích cực nếu việc phát hành tiền được sử dụng để khai thác tiềm năng về tài nguyên và
con người.
+ Nhược điểm: gia tăng tỷ lệ lạm phát.

B. Nhóm cơng cụ gián tiếp

Công cụ gián tiếp là công cụ mà sự tác động của chúng đến các mục tiêu của chính sách
tiền tệ được thực hiện thông qua một biến số khác thuộc về sự kiểm soát của NHTW và qua
cơ chế tự điều tiết của các lục lượng thị trường.
* Nghiệp vụ thị trưởng mở (Open market operation)
Nghiệp vụ thị trường mở là cơng cụ chính sách tiền tệ quan trọng nhất, bởi vì chúng là
những nhân tố chủ yếu làm thay đổi lãi suất và khối lượng tiền cơ sở, là nguồn chủ yếu làm
thay đổi cung tiền. Như vậy, nghiệp vụ thị trưởng mở không tác động trực tiếp mà tác động
gián tiếp đến cung tiền và lãi suất thị trường thông qua lãi suất liên ngân hàng và tiền cơ sở
đến cung tiền và lãi suất thị trường. Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán các
chứng khoán ngắn hạn của NHTW trên thị trưởng mở.
Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở
4


Nếu muốn gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông, mở rộng tín dụng. NHTW tiến hành
mua giấy tờ có giá trên thị trường. Ngược lại khi muốn giảm mức cung ứng tiền, thu hẹp tín
dụng. NHTW phát hành và bản các giấy tờ có giá.
Khi NHTW mua các giấy tờ có giá sẽ tạo ra các hiệu ứng
+ Lãi suất liên ngân hàng giảm ngay lập tức, qua đó tác động làm cho lãi suất thị trường
ngắn hạn giảm theo.
+ Dự trữ của hệ thống NHTM tăng ngay lập tức, qua đó làm tăng tiền cơ sở. Tiền cơ sở
tăng, thông qua cơ chế tạo tiền gửi, làm cho cung tiền tăng lên.
Ngược lại, khi NHTW bán chứng khoán sẽ tạo ra các hiệu ứng.
+ Lãi suất liên ngân hàng tăng ngay lập tức, qua đó tác động làm cho lãi suất thị trường
ngắn hạn tăng theo.
+ Dự trở của hệ thống NHTM giảm ngay lập tức, qua đó làm giảm khối lượng tiền cơ sở.
Tiền cơ sở giảm, thông qua cơ chế tạo tiền gửi, làm cho cung tiền giảm xuống.
Như vậy, thông qua các nghiệp vụ của thị trường mở, NHTW có thế kiểm sốt được
mức lãi suất thị trường ngắn hạn và mức cung tiền trong nền kinh tế.
Thông thường, nghiệp vụ thị trường mở bao gồm 2 loại:

+ Nghiệp vụ chủ động (dynamic open market operations): là nghiệp vụ được tiến hành
nhằm mục đích chủ động thay đổi mức dự trữ và tiến cơ sở. Chẳng hạn, NHTW thấy tổng
lượng tiền cung ứng vào lưu thơng khơng đủ để kích thích nền kinh tế phát triển nên quyết
định thực hiện nghiệp vụ thị trường mở để tăng lượng tiền đưa vào lưu thông.
+ Nghiệp vụ bị động (defensive open market operations); là nghiệp vụ được tiến hành
nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố ảnh hưởng một cách khơng có lợi đến tổng
lượng tiền trong lưu thông. Chẳng hạn, khi tiền gửi của Kho bạc và các NHTM và các tổ
chức tín dụng tại NHTW được dự đoán là giảm xuống, điều này đồng nghĩa với sự tăng lên
của tổng lượng tiền trong lưu thông, NHTW sẽ phải tiến hành bán chứng khoản trên thị
trường mở.
Ưu, nhược điểm của nghiệp vụ thị trường mở
- Ưu điểm:

5


Các cơng cụ của nghiệp vụ thị trường mở có những lợi thế nhất định so với các công cụ
khác trong chính sách của NHTW. Những lợi thế này bao gồm tính chính xác với tổng dự
trữ và cơ số tiền dự trữ và cơ số tiền tệ có thể bị ảnh hưởng bởi tính linh hoạt của nghiệp vụ
thị trường mở và thực tế là quyền lực đối với sự thay đổi hồn tồn trong tay của NHTW.
+ Tính chính xác: Hoạt động thị trường mở giúp cho NHTW quản lý chính xác tổng dự
trữ ngân hàng và cơ số tiền tệ, đặc biệt khi chúng được tính bình quân tuần hoặc tháng dựa
trên số liệu hàng ngày. Nếu NHTW muốn bơm bao nhiêu tiền dự trữ vào hệ thống ngân hàng
nó thực hiện đơn giản bằng cách mua bấy nhiêu tiền chứng khốn Chính phủ. Mức chính xác
cao này không thể đạt được khi sử dụng các công cụ lãi suất tái cấp vốn hoặc dự trữ bắt
buộc. Chẳng hạn, nếu NHTW muốn giảm dự trữ thông qua chính sách tái cấp vốn, tất cả
những gì nó có thể làm là tăng lãi suất tái cấp vốn và thậm chí có thể phát hành một thơng
báo khiển trách các ngân hàng không chịu vay với khối lượng lớn tại NHTW. Trong một
chừng mực nào đó, những hành động này sẽ tạo ra một sự suy giảm trong dự trữ và cơ số
tiền tệ không thể dự báo trước được.

Luận chứng tương tự được đưa ra với khía cạnh liên quan đến thay đổi trong dự trữ bắt
buộc. Trước hết, một sự thay đổi trong dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến cung tiền thông qua
số nhân tạo tiền hơn là thông qua dự trữ ngân hàng và cơ số tiền tệ. Mặt khác, ngay cả một
sự thay đổi nhỏ của tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng tạo ra sự thay đổi khá lớn trong dự trữ yêu cầu
và dự trữ vượt mức. Về nguyên tắc, NHTW có thể áp dụng những thay đổi thường xuyên và
nhỏ trong dự trữ bắt buộc. Tuy nhiên, cả NHTM và NHTW đều phản đối biện pháp như vậy
bởi nó khơng thực sự thuận lợi và có thể gây ra những xáo trộn đối với hoạt động của ngân
hàng.
+ Tính linh hoạt: NHTW có thể tham gia vào thị trường mở hàng ngày, mua và bán với
số lượng lớn chứng khốn Chính phủ thơng qua mạng lưới phân phối của nó. Vì lý do này
NHTW dễ dàng thay đổi cung bậc của chính sách tiền tệ và thậm chí đảo hướng của nó
thơng qua các hoạt động của thị trường mở (chỉ trong thời gian ngắn nếu muốn). Điều tương
tự không đúng với những thay đổi trong chính sách tái cấp vốn và dự trữ bắt buộc là những
thứ mà công chúng có thể nhận thức rõ ràng. Chẳng hạn, nếu NHTW tăng lãi suất tái cấp
vốn hoặc dự trữ bắt buộc thì đây là một hành động hạn chế cung tiền. Do vậy, hành động của
NHTW được xem như là dấu hiệu một nhu cầu về hạn chế tiền tệ. Hướng ngược lại của việc
giảm lãi suất tái cấp vốn hoặc dự trữ bắt buộc trong thời gian tiếp theo sẽ làm NHTW lúng
túng. Bằng cách như vậy, nó sẽ bị cơng chúng coi là sai lầm. Hậu quả là nó khơng đảo
ngược được hướng của cơng cụ chính sách tới tận khi có những bằng chứng tin cậy cho thấy
6


rằng một sự thay đổi trong chính sách là cơ bản. Vì lý do này mà cơng cụ nghiệp vụ thị
trường mở có thể được NHTW thực hiện nhiều lần mỗi ngày trong khi đó với hai cơng cụ
trên thì chỉ được sử dụng một vài lần trong năm.
+ Khả năng tiên liệu: Nếu NHTW phải tác động đến các hoạt động kinh tế thông qua dự
trữ bắt buộc, cơ số tiền tệ hoặc dự trữ vượt mức, sự thay đổi trong những biến số này nhất
định phải do các quyết định của NHTW thay vì bị áp đặt bởi các lực lượng bên ngoài. Tức
là, khả năng tiên liệu những thay đổi trong dự trữ, dự trữ vượt mức nằm trong sự kiểm soát
và quyết định của NHTW. Đây cũng là tình huống đối với hoạt động thị trường mở: bằng

cách tiên liệu các hoạt động như vậy NHTW có thể điều khiển ứng xử của tổng dự trữ ngân
hàng và cơ số tiền tệ. Một tình huống tương tự có thể được thực hiện đối với cơng cụ dự trữ
bắt buộc, nó cho phép NHTW có thể kiểm sốt dự trữ u cầu. Tuy nhiên, điều này khơng
đúng đối với công cụ lãi suất tái cấp vốn.
Nhờ những ưu điểm trên mà nghiệp vụ thị trưởng mở được coi là công cụ hữu hiệu nhất
trong các công cụ của chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, việc thực hiện cơng cụ này địi hỏi sự
phát triển của thị trường tài chính thứ cấp nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng. Ngồi ra
NHTW phải có khả năng dự đoán và kiểm soát sự biến động của lượng vốn khả dụng trong
hệ thống ngân hàng.
- Nhược điểm
Mặc dù là cơng cụ có nhiều ưu điểm song nó cũng cịn có những nhược điểm nhất định,
cụ thể là:
+ Các ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở đến cơ số tiền có thể bị triệt tiêu bởi các
tác động ngược chiều làm dự trữ của ngân hàng không tăng hoặc giảm tương ứng khi
NHTW tiến hành các nghiệp vụ mua bán chứng khốn. Chẳng hạn, do dịng chảy ngược
chiều của vốn, do mất cân đối trong cán cân thanh toán hoặc số dư tiền gửi của ngân sách ở
NHTW tăng lên làm cho việc mua chứng khoán nhằm tăng lượng tiền cung ứng của NHTW
có thể bị triệt tiêu một phần hay tồn bộ.
+ Các NHTW khơng nhất thiết phải tăng hoặc giảm lượng cung ứng tín dụng và đầu tư
khi dự trữ tăng lên hay giảm đi do tác động của các nghiệp vụ trên thị trường mở. Có một số
yếu tố ngăn cản các NHTM sử dụng tối đa số dự trữ dư thừa cho việc mở rộng tín dụng như:
nhu cầu trả nợ NHTW, nhu cầu sử dụng tiền mặt tăng lên,...

7


+ Khi sử dụng nghiệp vụ thị trường mở, NHTW thường mua bán với khối lượng chứng
khốn lớn nên có thể gây ra sự biến động về lãi suất trên thị trường. Trong trường hợp lãi
suất thị trường giảm xuống thì khối lượng tín dụng khơng nhất thiết tăng lên tương ứng bởi
lẽ điều này còn phụ thuộc vào khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, mức rủi ro và sự ổn

định của môi trường đầu tư.
* Dự trữ bắt buộc (Reserve requirements)
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải duy trì theo quy định của NHTW.
Nó được xác định bằng tỷ lệ % nhất định trên tổng số dư tiền gửi của các NHTM và các tổ
chức tín dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
Dự trữ bắt buộc được xác định theo công thức sau:
Tiền gửi dự trữ bắt buộc = Tổng số tiền gửi phải tính dự trữ bắt buộc x Tỷ lệ dự trữ bắt
buộc
Tuỳ theo điều kiện của từng nước, trong từng thời kỳ mà NHTW có những quy định về
việc xác định tỷ lệ dự trữ bắt buộc khác nhau. Dự trữ bắt buộc có thể quy định cho tất cả các
tổ chức tín dụng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể được quy định chung cho toàn bộ các nguồn
vốn huy động được của các tổ chức tín dụng, hoặc có thể chỉ được quy định đối với tiền gửi
không kỳ hạn và tiền gửi ngắn hạn dưới một năm.
Cơ chế tác động của dự trữ bắt buộc:
Việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm đảm bảo khả năng thanh toán cho các tổ chức
tín dụng và quan trọng hơn là để NHTW kiểm sốt q trình tạo tiền của hệ thống NHTM và
các tổ chức tín dụng khác. Sự thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến sự thay đổi số nhận
tiền và qua đó tác động tới mức cung tiền. Cụ thể:
+ Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng, các yếu tố khác không thay đổi, ngay lập tức dự trữ
vượt mức của hệ thống ngân hàng giảm, làm giảm khả năng cho vay và đầu tư của tổ chức
tín dụng, do đó làm giảm cung tiền trong ; lưu thông.
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là bộ phận cấu thành mẫu số của hệ số nhân tiền. Vì thế khi tỷ lệ
dự trữ bắt buộc tăng sẽ làm giảm hệ số nhân tiền, làm giảm khả năng tạo tiền và cung ứng
tiền của hệ thống ngân hàng.
+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng làm tăng cầu dự trữ của các NHTM trên thị trường liên ngân
hàng. Trong điều kiện cung dự trữ không đời, sự tăng cầu dự trữ làm tăng lãi suất liên ngân
hàng, từ đó dẫn đến tăng các mức lãi suất trên thị trường, giảm khối lượng cung tiền.
8



+ Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng sẽ làm tăng chi phi dầu vào cho các NHTM. Khi đó, để cho
vay có lãi, buộc các NHTM phải nâng lãi suất cho vay.
Ngược lại, nếu NHTW giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tạo điều kiện cho các tổ chức tín
dụng mở rộng, khả năng cho vay và đầu tư, dẫn đến khả năng tăng mức cung tiền trong nền
kinh tế.
Như vậy, thông qua công cụ dự trữ bắt buộc, NHTW tác động cả về khối lượng tín dụng
và giá cả tín dụng của các tổ chức tín dụng:
Về khối lượng tín dụng: việc tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc có nghĩa là thắt chặt hay nới
lỏng khả năng tạo tiền của NHTM và các tổ chức tín dụng khác.
Về chi phí: việc tăng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng có nghĩa là làm tăng hoặc giảm chi
phí tín dụng của các NHTM.
Do đó, dự trữ bắt buộc tạo ra tác động kép để buộc các tổ chức tín dụng có thể mở rộng
hay hạn chế khả năng cung ứng tiền tệ và tín dụng trong nền kinh tế.
Ưu, nhược điểm của công cụ dự trữ bắt buộc
+ Các khoản tiền gửi do các NHTM tạo ra đều được giữ lại trong hệ thống Ngân hàng.
Để khống chế hoặc mở rộng tín dụng cho nền kinh tế theo ý muốn, NHTW cần quy định
tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Khi tỷ lệ dự trữ pháp định tăng lên thì khả năng tín
dụng giảm và ngược lại.
+ Tuy nhiên, việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể gây nên lộn xộn khơng thể kiểm
sốt được của hệ thống NHTM như: NHTW muốn nhanh chóng giảm lượng tiền cung ứng
nên đã nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 5% lên 10% làm cho các NHTM nhận thấy rằng họ
khơng có đủ dự trữ để đáp ứng yêu cầu của NHTW đề ra và khơng có đủ dự trữ để đáp ứng
các hoạt động của họ. Vì thế lúc này NHTM sẽ tìm cách bán chứng khốn, thu hồi các món
vay, vay từ các Ngân hàng khác…
+ Nếu chỉ một Ngân hàng làm như vậy thì khơng sao nhưng nhiều Ngân hàng đều làm
như vậy thì hệ thống Ngân hàng sẽ khiến cho các ngân hàng rơi vào tình trạng bất ổn trong
việc quản lý và đảm bảo tính thanh khoản đổng thời gia tăng chi phí . Vì vậy, cơng cụ này
khơng được khuyến khích sử dụng thường xun, nếu có sử dụng thì thay đổi với tỷ lệ nhỏ.

9



* Chính sách chiết khấu (Discount policy)
Chính sách chiết khấu thể hiện bằng quy chế cho vay của NHTW đối với các NHTM vay
các tổ chức tín dụng phi ngân hàng. Quy chế này bao gồm những nội dung về điều kiện cho
vay ngắn hạn dưới hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá do các tổ chức tín dụng đưa đến.
Mục đích vay chiết khấu của các tổ chức tín dụng là để bù đắp thiếu hụt tạm thời nhu cầu
thanh toán hoặc thiếu hụt dự trữ bắt buộc. Những thay đổi trong chính sách chiết khấu của
NHTW sẽ tác động đến khối lượng vay chiết khẩu của các ngân hàng thương mại, từ đó ảnh
hưởng tới lượng tiền cung ứng và lãi suất thị trường.
Cơ chế tác động của chính sách chiết khấu
NHTW thay đổi lãi suất chiết khấu và hạn mức chiết khấu, ảnh hưởng đến hoạt động đi
vay của các tổ chức tín dụng như sau:
+ Hạn mức chiết khấu: Khối lượng dự trữ bổ sung cho các tổ chức tín dụng có thể bị thu
hẹp hoặc nới rộng phụ thuộc vào hạn mức chiết khẩu của NHTW, từ đó ảnh hưởng đến khả
năng tạo tiền của hệ thống NHTM và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng, làm thay đổi lượng
tiền cung ứng. Mặt khác, khi cung tiền thay đổi sẽ tác động làm cho lãi suất thị trường thay
đổi.
+ Lãi suất chiết khấu: Khi NHTW tăng lãi suất chiết khấu sẽ làm tăng chi phí đi vay của
các tổ chức tín dụng, để kinh doanh có lãi, các tổ chức tín dụng phải tăng lãi suất cho vay, từ
đó làm giảm nhu cầu tín dụng. Mặt khác, khi lãi suất chiết khẩu tăng, chi phí đi vay tăng
buộc các tổ chức tín dụng hạn chế vay NHTW. Để hồi phục dự trữ, các tổ chức tín dụng phải
giảm cung ứng tin dụng, khiến lãi suất thị trường tăng.
Ưu, nhược điểm của chính sách chiết khấu:
+ Ưu điểm của công cụ chiết khấu là các khoản vay chiết khấu đều được đảm bảo bằng
các giấy tờ có giá, nên NHTW chắc chắn thu hồi được nợ khi đến hạn.
Nhược điểm:
+ Tuy nhiên, tác dụng của chính sách chỉ có thể phát huy khi các tổ chức tín dụng có nhu
cầu vay từ NHTW với mức lãi suất hợp lý. Với sự phát triển của thị trưởng tài chính, các
ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng có thể tìm kiếm được các

nguồn cho vay thay thế làm cho sự phụ thuộc vào các khoản vay NHTW giảm đi, do đó làm
giảm mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này.

10


+ Ngồi ra, NHTW khó có thể kiểm sốt được hồn tồn những tác động của cơng cụ
này bởi vì NHTW chỉ có thể thay đổi được lãi suất chiếu khấu và các điều kiện cho vay mà
khơng kiểm sốt được việc các tổ chức tín dụng quyết định vay từ mình bao nhiêu.
+ Cơng cụ này cũng khơng dễ khắc phục được sai sót như nghiệp vụ thị trường mở.
Chẳng hạn, nó cũng có thể gây ra những biến động lãi suất trên thị trường,...
Nhìn chung, thơng qua các cơng cụ gián tiếp, cho phép NHTW điều hành chính sách tiền
tệ một cách mềm dẻo, linh hoạt để đối phó với những đột biến của nền kinh tế. Tuy nhiên,
việc sử dụng các cơng cụ này địi hỏi các nhà quản lý phải nắm bắt chính xác những tín hiệu
của thị trưởng, có được những dự bảo, tiên đốn chính xác những biến động của nền kinh tế.
Vì vậy, trong điều kiện nền kinh tế chưa phát triển, trình độ quản lý và điều hành chính sách
tiền tệ cịn hạn chế thì việc sử dụng các cơng cụ gián tiếp khó có khả năng mang lại kết quả
như mong muốn.

Liên hệ thực tế việc thực hiện chính sách tiền tệ tại Việt Nam
A. Dấu ấn điều hành chính sách tiền tệ
* Năm 2019
Điều hành công cụ lãi suất
Với Việt Nam, xu hướng suy giảm kinh tế toàn cầu sẽ ảnh hưởng đáng kể đến kinh tế
trong nước, do Việt Nam là nước có độ mở lớn trên thế giới (tổng kim ngạch xuất khẩu năm
2019 ước tính tương đương 200% GDP). Do đó, hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế
nói chung sẽ chịu rủi ro nhất định dưới tác động kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại. Theo
đó, khơng nằm ngồi xu hướng, trong năm 2019, NHNN Việt Nam công bố giảm một loạt
các loại lãi suất điều hành.
Cụ thể, ngày 16/9/2019, NHNN quyết định giảm 0,25 điểm phần trăm đối với một loạt

lãi suất điều hành, bao gồm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu; lãi suất cho vay qua
đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh
toán bù trừ của NHNN Việt Nam đối với các ngân hàng và lãi suất chào mua giấy tờ có giá
qua nghiệp vụ thị trường mở (OMO). Đây là lần đầu tiên NHNN điều chỉnh lãi suất điều
hành kể từ tháng 10/2017.
Hai tháng sau, ngày 19/11/2019, NHNN tiếp tục ban hành 2 quyết định điều chỉnh giảm
lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND và lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND của TCTD
đối với một số lĩnh vực, ngành kinh tế, cũng như giảm thêm lãi suất OMO. Cùng đó, kể từ
11


trung tuần tháng 7 đến hết năm 2019, NHNN đã có tới 3 lần điều chỉnh lãi suất tín phiếu,
theo mức giảm dần từ 3% xuống chỉ còn 2,25%/năm.
Trong năm 2019, NHNN điều hành lãi suất theo hướng giảm mạnh cả lãi suất tiền gửi và
lãi suất cho vay. Trong đó, quy định về việc giảm lãi suất tiền gửi đối với một số kỳ hạn
ngắn và lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên có hiệu lực từ tháng 11/2019. Kết quả
sau các động thái điều hành của NHNN, mặt bằng lãi suất thị trường có xu hướng giảm. Lãi
suất huy động các kỳ hạn dưới 6 tháng giảm 0,2-0,5%/năm và lãi suất cho vay các lĩnh vực
ưu tiên giảm 0,5%/năm. Các TCTD có thị phần lớn chủ động giảm lãi suất cho vay đối với
lĩnh vực ưu tiên, áp dụng chương trình cho vay ưu đãi đối với doanh nghiệp với nhiều đợt
cắt giảm trong năm 2019.
Tuy nhiên, nhìn chung, các NHTM đều chịu ảnh hưởng nhẹ hơn hoặc có thể được lợi khi
tác động của việc giảm lãi suất đầu vào có thể bù trừ thậm chí mạnh hơn tác động của việc
giảm lãi suất đầu ra. Mặc dù vậy về lâu dài, theo mục tiêu giảm mặt bằng lãi suất của Chính
phủ cũng như các nỗ lực trong năm 2019 của NHNN để đạt mục tiêu này, khả năng mở rộng
lợi tức tài sản của các NHTM trở nên hạn chế hơn.
Trong khi đó, các u cầu về an tồn vốn mới, theo Thông tư 41/2016-TT-NHNN hoặc
Thông tư 22/2019-TT-NHNN, quy định về việc giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung, dài
hạn tại Thông tư 22/2019-TT- NHNN, đặt ra yêu cầu chặt chẽ hơn về vốn và huy động.
Điều hành công cụ tỷ giá và chống đơ la hóa nền kinh tế

Ngày 29/5/2019, Bộ Tài chính Mỹ cơng bố báo cáo chính sách kinh tế vĩ mô, thương mại
và tỷ giá với các nước là đối tác thương mại lớn của Mỹ. Tại báo cáo này, Bộ Tài chính Mỹ
đưa ra danh sách 9 nước cần theo dõi, giám sát, trong đó có Việt Nam. Trong ba tiêu chí để
Bộ Tài chính Mỹ đưa các nước vào báo cáo này, Việt Nam thỏa mãn 2 tiêu chí về thặng dư
thương mại và cán cân vãng lai, cịn tiêu chí về can thiệp ngoại hối 1 chiều thấp hơn ngưỡng
Mỹ đưa ra. Việc bị đưa vào danh sách trên được cho là một điểm áp lực đối với việc điều
hành chính sách tiền tệ, trực tiếp là chính sách tỷ giá của Việt Nam, khi căn theo các tiêu chí
Bộ Tài chính Mỹ đưa ra, đặc biệt trong bối cảnh các xung đột thương mại trên thế giới diễn
ra căng thẳng trong năm 2019, cũng như chủ nghĩa bảo hộ nổi lên trước đó.
Kiên định với mục tiêu điều hành ổn định tỷ giá gắn với chống đơ là hóa nền kinh tế
được đưa từ đầu năm, NHNN đã chủ động, linh hoạt điều hành, tác động tích cực đến xuất
khẩu, nhập khẩu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế, cũng như chống các tác
động đột xuất từ thị trường quốc tế. Sau đợt biến động mạnh cuối quý II/2019, về cơ bản tỷ
12


giá USD/VND đi ngang trong năm 2019, trên thị trường tự do, tỷ giá cuối tháng 12/2019
giảm 0,5% so với cuối năm 2018. Sự ổn định này đặt trong bối cảnh Nhân dân tệ có nhiều
đợt biến động mạnh. Điểm nhấn của 2019 nằm ở tỷ giá trung tâm do NHNN công bố, với
mức tăng gần 1,5% so với cuối 2018. Hướng tăng này được cho là sự chủ động của NHNN
để đưa tỷ giá trung tâm trở nên cân bằng hơn so với các mức tỷ giá giao dịch trên các thị
trường. Năm 2019, NHNN có thời điểm giảm khá mạnh giá mua vào USD, từ 23.200 VND
xuống 23.175 VND vào cuối tháng 11/2019. Cùng đó, NHNN đã mua ròng lượng lớn ngoại
tệ, nâng kỷ lục dự trữ ngoại hối quốc gia lên trên 79 tỷ USD đến hết năm 2019. 
Điều hành công cụ dự trữ bắt buộc
Trong năm 2019, NHNN tiếp tục giữ ổn định tỷ lệ dự trữ bắt buộc (DTBB) và duy trì
khoảng cách giữa tỷ lệ DTBB tiền gửi nội tệ, nhằm chống đô la hóa nền kinh tế, tuy nhiên
lần đầu tiên điều chỉnh lãi suất tiền gửi DTBB. Từ ngày 1/12/2019,  lãi suất đối với tiền gửi
DTBB bằng VND của các TCTD giảm về mức 0,8%/năm và tiếp tục không trả lãi đối với
khoản tiền gửi vượt DTBB bằng VND. Điều này có ảnh hưởng, nhưng không đáng kể tới lợi

nhuận của các NHTM bởi vì tỷ lệ DTBB của các ngân hàng hiện nay ở mức thấp, chỉ 3%.
Với tiền gửi ngoại tệ, NHNN tiếp tục khơng tính lãi đối với khoản DTBB, còn lãi suất tiền
gửi vượt DTBB giảm từ 0,5% xuống cịn 0,05%/năm.
NHNN ban hành Thơng tư số 30/2019/TT-NHNN, quy định về thực hiện DTBB của các
TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngồi. Thơng tư này quy định cụ thể cơ chế cho phép
những trường hợp TCTD không phải thực hiện DTBB, hoặc được giảm tỷ lệ thực hiện. Tại
Điều 3 Thơng tư 30 quy định rõ ba nhóm các TCTD không thực hiện DTBB. Một là, các
TCTD được kiểm soát đặc biệt. Hai là, TCTD chưa khai trương hoạt động. Ba là, TCTD
được chấp thuận giải thể hoặc có quyết định mở thủ tục phá sản hoặc có quyết định thu hồi
giấy phép. 
Hồn thiện cơng cụ cho vay tái cấp vốn đối với các tổ chức tín dụng
Để nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ theo xu hướng hội nhập và thúc đẩy
tái cơ cấu TCTD, NHNN cũng khơng ngừng hồn thiện  cơng cụ cho vay tái cấp vốn. Theo
đó, NHNN đã ban hành Thơng tư số 24/2019/TT-NHNN quy định về tái cấp vốn dưới hình
thức cho vay lại theo hồ sơ tín dụng đối với TCTD. Với Thơng tư này, các TCTD có thêm
một kênh khá thuận lợi, với các điều kiện và cơ chế rõ ràng, có điều kiện và cơ sở thuận lợi
để tái tạo nguồn vốn. Bởi vì, từ trước đến nay, các TCTD thường tiếp cận nguồn vốn của
NHNN qua kênh tái cấp vốn trên cơ sở giấy tờ có giá, hoặc qua trái phiếu đặc biệt của Công
13


ty Quản lý tài sản các TCTD Việt Nam (VAMC), hoặc trường hợp đặc biệt theo dự án
chương trình được Chính phủ chỉ định… Tuy nhiên, trên thực tế, khơng phải TCTD nào
cũng có nhiều giấy tờ có giá để có thể tiếp cận nguồn tái cấp vốn từ NHNN, cũng như qua
kênh thị trường mở (OMO) một cách thuận lợi. Với Thơng tư 24, quy định hình thức cho
vay lại theo hồ sơ tín dụng, đây là cơ sở và nền tảng mà các TCTD ln sẵn có. 
Linh hoạt điều hành công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Trong năm 2019, NHNN tiếp tục chủ động điều hành hiệu quả hoạt động của thị trường
mở (OMO), phát hành giấy tờ có giá nhằm thu hút tiền về do cung ra để mua ngoại tệ, tăng
quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia lên mức kỷ lục, kiểm soát lạm phát theo mục tiêu, nhưng đồng

thời cũng chủ động mua vào giấy tờ có giá, bao gồm cả tín phiếu NHNN và trái phiếu Chính
phủ, nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản, ổn định lãi suất thị trường tiền tệ. Trong năm 2019,
NHNN đã có quy mơ giao dịch trên thị trường mở lớn nhất từ trước đến nay, ước tính tăng
khoảng 8% so với năm 2018. Tính chung trong năm 2019, NHNN đã mua thêm gần 20 tỷ
USD, tương ứng cung ra thị trường trên 465.000 tỷ đồng, với nghiệp vụ OMO, NHNN đã
trung hịa lượng tiền lớn đó trong lưu thông, đảm bảo thanh khoản của các NHTM và kiềm
chế lạm phát.
Thay đổi tiền gửi Kho bạc nhà nước tại hệ thống ngân hàng 
Theo quy định tại Thông tư số 58/2019/TT-BTC, từ tháng 11/2019, nguồn tiền gửi thanh
toán của Kho bạc Nhà nước được kết chuyển về NHNN, thay vì đọng lại ở các NHTM.
Nguồn tiền gửi có kỳ hạn của Kho bạc Nhà nước bắt đầu được cơ cấu lại, về số lượng, kỳ
hạn và lãi suất, gửi tại các NHTM thông qua đấu thầu. Mức độ thay đổi, biến động lãi suất
cùng kết quả các cuộc đấu thầu có tác động tích cực đến lãi suất trên thị trường tiền tệ.
Chính sách tín dụng hỗ trợ phịng, chống dịch viêm phổi cấp
Do ảnh hưởng của dịch COVID 19 diễn biến phức tạp, tác động lớn đến hoạt động sản
xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân. Để kịp thời hỗ trợ người dân, doanh nghiệp vượt
qua khó khăn, ổn định sản xuất kinh doanh, ngày 4/2/2020, NHNN đã có văn bản số 541
541/NHNN-TD yêu cầu các TCTD, cân đối nguồn vốn để đáp ứng đầy đủ nhu cầu vốn phục
vụ sản xuất, kinh doanh theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày
01/01/2020 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và
Dự toán ngân sách Nhà nước năm 2020 và chỉ đạo của Thống đốc NHNN tại Chỉ thị 01/CTNHNN ngày 03/01/2019 về tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành
Ngân hàng trong năm 2020. Các TCTD chỉ đạo các chi nhánh, phòng giao dịch, chủ động
14


nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh, mức độ thiệt hại của khách hàng đang vay vốn do
ảnh hưởng của dịch nCoV, nhất là những ngành, lĩnh vực có thể bị ảnh hưởng nhiều như du
lịch, nông nghiệp, xuất khẩu,... để kịp thời áp dụng các biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn
cho khách hàng như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét miễn giảm lãi vay,… theo quy định
pháp luật hiện hành. Chủ động hướng dẫn, hỗ trợ người dân trong quá trình xử lý các đề

nghị tháo gỡ khó khăn về hoạt động vay vốn. 
* Năm 2020
NHNN điều hành đồng bộ, linh hoạt các cơng cụ CSTT để ổn định thị trường, kiểm sốt
lạm phát và hỗ trợ kinh tế ứng phó với tác động bất lợi của các cú sốc. Nghiệp vụ thị trường
mở (mua/bán tín phiếu) được điều hành linh hoạt để chủ động kiểm soát tiền tệ, lạm phát, hỗ
trợ giảm mặt bằng lãi suất, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, đảm bảo thanh khoản hệ thống.
Đồng thời, phối hợp đồng bộ với việc ổn định tỉ lệ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn cho các tổ
chức tín dụng (TCTD) theo các chương trình được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt… đã góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực của CSTT trong kiểm sốt tiền tệ, khơng
tạo ra áp lực gia tăng lạm phát, hỗ trợ ổn định tỉ giá và lãi suất thị trường.
Nhờ đó, dù Dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng cao kỷ lục nhưng lạm phát được kiểm sốt
chặt chẽ, bình qn 11 tháng năm 2020 đạt 3,51%, dưới mục tiêu 4% của Quốc hội; lạm
phát cơ bản bình quân đạt 2,43%, cho thấy hiệu quả điều hành CSTT linh hoạt, đóng góp
tích cực vào việc giảm áp lực lên lạm phát bình quân chung trong khi vẫn có dư địa hỗ trợ
nền kinh tế. Lạm phát ổn định đã tạo lập nền tảng vững chắc duy trì niềm tin của cộng đồng
đầu tư đối với môi trường kinh doanh Việt Nam, thu hút FDI.
Năm 2020, NHNN đã điều chỉnh giảm 1,5-2,0%/năm lãi suất điều hành, sẵn sàng hỗ trợ
thanh khoản, tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận nguồn vốn chi phí thấp từ NHNN; giảm 0,61,0%/năm trần lãi suất tiền gửi VND các kỳ hạn dưới 6 tháng, giảm 1,5%/năm trần lãi suất
cho vay ngắn hạn VND đối với các lĩnh vực ưu tiên để hỗ trợ giảm chi phí vay vốn của
doanh nghiệp, người dân.
Đồng thời, chỉ đạo TCTD chủ động cân đối khả năng tài chính để áp dụng lãi suất cho
vay hợp lý; triệt để tiết giảm chi phí hoạt động, tập trung mọi nguồn lực để giảm lãi suất huy
động và lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua
khó khăn. So với các nước trong khu vực, Việt Nam là một trong những nước có mức giảm
lãi suất điều hành mạnh nhất (Philipines: -2%; Thái Lan: -0,75%; Malaysia: -1,25%;
Indonesia: -1,25%; Ấn Độ: -1,15%; Trung Quốc: -0,3%)
15


Bên cạnh đó, NHNN thể hiện điều hành tín dụng linh hoạt, an toàn, hiệu quả, tập trung

vào SXKD, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận
vốn tín dụng đối với doanh nghiệp, người dân, góp phần đẩy lùi tín dụng đen; kiểm sốt chặt
chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro... từ đó kiểm sốt tiền tệ và lạm phát, hỗ trợ
tăng trưởng bền vững. Các chương trình, chính sách tín dụng khuyến khích phát triển nông
nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, cho vay giảm tổn thất trong nông nghiệp, cho vay
hỗ trợ nhà ở... đạt kết quả khả quan, góp phần phục hồi tăng trưởng bền vững và an sinh xã
hội.
Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, hàng loạt giải pháp hỗ trợ khách hàng, chương trình
tín dụng chính sách tại NHCSXH, cho vay hỗ trợ người dân, doanh nghiệp nhằm giảm thiểu
tác động tiêu cực từ dịch bệnh đã được NHNN chỉ đạo triển khai kịp thời. Nhờ đó, mặc dù
cầu tín dụng suy giảm nghiêm trọng do tác động của dịch COVID-19, nhưng từ tháng
9.2020 tín dụng tăng trở lại, đến ngày Đến ngày 21/12/2020, tín dụng tăng 10,14% so với
cuối năm 2019.
NHNN cũng điều hành, công bố tỉ giá trung tâm biến động linh hoạt hằng ngày, phù hợp
với thị trường trong và ngồi nước, cân đối kinh tế vĩ mơ, tiền tệ và mục tiêu CSTT; góp
phần hạn chế tình trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ và hấp thu các cú sốc đối với nền kinh tế.
Đồng thời, kết hợp với các giải pháp điều tiết thanh khoản hợp lý, chủ động truyền thông,
điều chỉnh tỉ giá mua/bán và sẵn sàng mua/bán ngoại tệ với TCTD để bình ổn thị trường và
kinh tế vĩ mơ.
Những kết quả tích cực trên đây về giữ vững ổn định vĩ mô, thị trường tài chính tiền tệ,
tạo lập mơi trường kinh doanh thuận lợi, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn... đã cho thấy các giải pháp
ngành Ngân hàng là đúng hướng, tác dụng thiết thực đối với doanh nghiệp và người dân,
góp phần thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép” và thành tựu của đất nước.
* Quý I, II năm 2021
Trong 6 tháng đầu năm 2021, là thời điểm Tết Nguyên đán Tân Sửu 2021, nhu cầu tiêu
dùng, thanh toán của người dân tăng cao, mặc dù bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, nhưng
dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều hành chính sách tiền
tệ (CSTT) chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa (CSTK) và các
chính sách kinh tế vĩ mơ khác nhằm kiểm soát lạm phát theo mục tiêu, hỗ trợ ổn định kinh tế
vĩ mơ (KTVM), góp phần phục hồi tăng trưởng kinh tế, duy trì ổn định thị trường tiền tệ

(TTTT) và ngoại hối, cụ thể:
16


Đảm bảo thanh khoản của hệ thống: Trong 6 tháng đầu năm 2021, chính sách tiền tệ
tiếp tục phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác để điều hành
chủ động, đồng bộ, linh hoạt các cơng cụ chính sách tiền tệ, đảm bảo thanh khoản thông suốt
cho hệ thống, ổn định thị trường tiền tệ, tạo điều kiện giảm chi phí đầu vào cho tổ chức tín
dụng (TCTD), qua đó giảm áp lực lên lãi suất huy động và cho vay. Đến ngày 16/4/2021,
tổng phương tiện thanh toán M2 tăng 2,90% so với cuối năm 2020 và tăng 15,66% so với
cùng kỳ 2020. Thanh khoản hệ thống được đảm bảo, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu chi trả cho
nền kinh tế.
Điều hành lãi suất: Từ đầu năm đến nay, NHNN vẫn giữ nguyên các mức lãi suất điều
hành, tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận ngồn vốn từ NHNN với chi phí thấp, qua đó có điều
kiện giảm lãi suất cho vay. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay tháng 4/2021 giảm
khoảng 0,3%/năm so với tháng 12/2020. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND thuộc
một số ngành, lĩnh vực ưu tiên ở mức 4,5%/năm. Lãi suất cho vay USD bình quân ở mức
3,0-6,0%/năm.
Lãi suất là một trong những chỉ số quan trọng và được triển khai quyết liệt để thay đổi
trong nhiệm kỳ của Chính phủ năm 2016-2021. So mặt bằng năm 2015-2016 thì lãi suất huy
động đã giảm 2,3% và lãi suất cho vay đã giảm khoảng 3,6%. Đến nay, lãi suất cho vay lĩnh
vực ưu tiên vào khoảng 4 - 5%. Mức lãi suất cho vay của Việt Nam đang thấp hơn mức bình
quân của các nước trong khối ASEAN.
Tỷ lệ lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng đều ở mức thấp, nhưng tín dụng tăng chưa như kỳ
vọng (dù mức tăng 2,4% của 3 tháng đầu năm 2021 là tích cực hơn so con số 1,3% của cùng
kỳ năm 2020). Từ thực tế đó, việc điều hành lãi suất trước hết là phải ổn định và sẽ tiếp tục
duy trì sự ổn định này kể cả với lãi suất huy động và lãi suất cho vay. 
Theo NHNN, lãi suất thị trường liên ngân hàng và lãi suất tiền gửi cá nhân tăng trở lại.
Tại nhiều ngân hàng, từ đầu tháng 3/2021 đến nay, lãi suất huy đồng VND ở các kỳ hạn đã
được điều chỉnh theo hướng tăng. Có ngân hàng, lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng lên đến

hơn 6%/năm. Vì thế, nhiều chuyên gia dự báo lãi suất có khả năng sẽ thiết lập mặt bằng mới
vào quý II/2021.
Điều hành tín dụng: Trên cơ sở mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2021 và lạm phát
được Quốc hội và Chính phủ đặt ra từ đầu năm, NHNN đã xây dựng chỉ tiêu định hướng tín
dụng cả năm 2021 đạt khoảng 12% và sẽ được điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình
thực tế, có thể lên đến 14-15%. Cụ thể: NHNN đã chỉ đạo các TCTD tiếp tục triển khai
17


nhiều giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi dịch
bệnh Covid-19 trên tinh thần đồng hành và chia sẻ. Đến ngày 15/6/2021, tín dụng tồn nền
kinh tế tăng 5,1% so với cuối năm 2020 (cùng kỳ năm 2020 tăng 2,26%). Các TCTD đã
quyết liệt triển khai các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp khắc phục khó khăn do
ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19. Tính đến ngày 31/5/2021, các TCTD đã thực hiện: Cơ
cấu lại thời hạn trả nợ cho 257.602 khách hàng với dư nợ 336.663 tỷ đồng; Miễn, giảm, hạ
lãi suất cho 676.690 khách hàng với dư nợ 1.277.831 tỷ đồng; Cho vay mới lãi suất thấp hơn
so với trước dịch với doanh số lũy kế từ 23/01/2020 đến nay đạt 3.508.415 tỷ đồng cho
480.839 khách hàng. Ngoài ra, Ngân hàng Chính sách xã hội (đến 31/5/2021) đã thực hiện
gia hạn nợ cho 174.871 khách hàng với dư nợ 4.363 tỷ đồng, cho vay mới đối với 3.052.262
khách hàng với số tiền 111.256 tỷ đồng.
Hoạt động thanh toán trong nền kinh tế diễn ra an tồn, hiệu quả, thơng suốt. Khn khổ
pháp lý cho hoạt động thanh tốn tiếp tục được hồn thiện. Hạ tầng kỹ thuật và cơng nghệ
phục vụ thanh tốn khơng dùng tiền mặt (TTKDTM), nhất là thanh toán điện tử tiếp tục
được chú trọng đầu tư, mở rộng. Thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công đã mở
rộng về số lượng dịch vụ triển khai, về quy mô xử lý và chất lượng dịch vụ. Hoạt động
TTKDTM trong những tháng đầu năm 2021 tiếp tục tăng trưởng khá. Tính đến cuối tháng
3/2021 đã có trên 79 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán triển khai thanh toán qua internet
và 44 tổ chức thanh toán qua điện thoại di động. So với cùng kỳ 3 tháng đầu năm 2020, giao
dịch qua kênh internet tăng tương ứng 55,9% về số lượng và 28,4% về giá trị; giao dịch qua
kênh điện thoại di động tăng tương ứng 78% về số lượng và  103% về giá trị; giao dịch qua

kênh QR code tăng tương ứng 83% về số lượng và 146% về giá trị.
NHNN điều hành cơ cấu tín dụng tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, tập trung vốn
cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên, hỗ trợ tích cực q trình tái cơ
cấu ngành Nơng nghiệp, phát triển thủy sản, công nghiệp hỗ trợ, hỗ trợ cho doanh nghiệp.
Số liệu thống kê cho thấy, đến tháng 3/2021, dư nợ đối với 5 lĩnh vực ưu tiên trong, trong đó
có tín dụng phục vụ phát triển nơng nghiệp, nông thôn đạt 2.327.762 tỷ đồng, tăng 2,4% so
với năm 2020 và chiếm tỷ nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp ứng
dụng công nghệ cao, chiếm khoảng 24,6% tổng dư nợ toàn nền kinh tế (cuối năm 2020 tăng
11,52%, chiếm 24,78%). Ước cuối tháng 4/2020, dư nợ lĩnh vực này khoảng 2.287.000 tỷ
đồng, tăng khoảng 3% so với cuối năm 2020. Đây là lĩnh vực có dư nợ lớn nhất trong 5 lĩnh
vực ưu tiên. 

18


Công tác tái cơ cấu hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu tiếp tục được triển khai
quyết liệt. Năng lực tài chính của các TCTD được củng cố. Chất lượng quản trị, điều hành
của các TCTD từng bước được nâng cao để tiệm cận với thông lệ quốc tế. Đến nay, hầu hết
các TCTD đã áp dụng tỷ lệ an tồn vốn theo Thơng tư số 41/2016/TT-NHNN. Trước tình
hình phức tạp của đại dịch Covid-19, NHNN đã chỉ đạo các TCTD rà soát nợ xấu, kế hoạch
xử lý nợ xấu để bảo đảm phù hợp với diễn biến dịch  bệnh Covid-19; Tích cực nâng cao chất
lượng tài sản, kiểm sốt chất lượng tín dụng, hạn chế phát sinh nợ xấu mới; Xử lý nợ xấu
bằng các biện pháp đôn đốc khách hàng trả nợ; Bán, phát mại tài sản bảo đảm của khoản nợ;
Bán nợ theo cơ chế thị trường; Sử dụng dự phịng rủi ro...

B. Khó khăn trong điều hành chính sách tiền tệ
Các cơng cụ CSTT chưa thật sự hoàn chỉnh.
NHNN vẫn sử dụng các biện pháp hành chính thơng qua việc quy định trần lãi suất huy
động, cho vay; chưa lựa chọn được lãi suất chính sách, chưa xây dựng được cơ chế điều
hành và phương pháp xác định lãi suất của NHNN để đảm bảo quan hệ chặt chẽ giữa các

loại lãi suất này và với lãi suất tín phiếu kho bạc và lãi suất thị trường. Khả năng điều tiết
bằng nghiệp vụ TTM đơi khi bị hạn chế do hàng hóa trên thị trường chưa đa dạng, các mức
lãi suất ở các phiên đấu thầu khơng hồn tồn theo quan hệ cung cầu. Dự trữ bắt buộc chưa
bao trùm toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế nên hạn chế khả năng kiểm sốt cung tiền
của NHNN qua cơng cụ này.
Việc truyền dẫn CSTT qua kênh lãi suất, tỷ giá và giá tài sản đã mạnh dần lên nhưng
chưa có những phân tích lượng hố cụ thể mức độ tác động của khối lượng tiền cung ứng
đến mục tiêu cuối cùng của CSTT, đến tín dụng nền kinh tế, đến M2, lãi suất hay tỷ giá, từ
đó hạn chế phần nào hiệu quả các quyết định của NHNN khi thị trường có những biến động.
Khả năng dự báo lạm phát ở Việt Nam chưa tốt dẫn đến có những thời điểm lạm phát
vượt mục tiêu đề ra. Việc tính tốn chỉ số giá tiêu dùng cũng còn nhiều hạn chế do tỷ trọng
các hàng hố trong rổ hàng tính CPI khơng được cập nhật thường xuyên (5 năm điều tra một
lần) và phương pháp điều tra, thống kê cịn thơ sơ. Mơ hình dự báo lạm phát trong trung hạn
cịn thiếu. Mơ hình ARIMA dự báo lạm phát ngắn hạn chỉ sử dụng số liệu trong quá khứ để
dự báo lạm phát trong tương lai, do đó khi thị trường có biến động bất thường thì mơ hình sẽ
dự báo khơng chính xác. Việc lập các mơ hình dự báo cịn gặp khó khăn do cần một khối
lượng lớn thơng tin về nhiều biến số khác nhau nhưng việc thu thập thơng tin cịn chưa đầy
đủ, chính xác, kịp thời.
19


Chính sách tỷ giá (CSTG) và CSTK của Việt Nam chưa được thực thi theo hướng hỗ trợ
cho CSTT, tức là tỷ giá linh hoạt và tình hình tài khố phải vững mạnh. CSTK luôn ổn định
“chi” ngay cả trong thời điểm CSTT được thắt chặt để kiềm chế lạm phát. Việc ổn định tỷ
giá vẫn được duy trì do lạm phát dai dẳng và tình trạng đơ la hóa gia tăng.
Vào thời điểm áp dụng CSMTLP các nước hầu như đều có mức lạm phát thấp (bình qn
vào thời điểm áp dụng là 5,86%/năm). Khi đối chiếu với kết quả này, Việt Nam đang thuận
lợi trong việc đáp ứng điều kiện này.
Về cơ sở kinh tế, Việt Nam có nhiều mặt hàng thiết yếu ảnh hưởng trực tiếp đến chỉ số
giá tiêu dùng bị quản lý hành chính trực tiếp và gián tiếp về giá như điện, xăng dầu, gas,

nước, thóc gạo, sắt thép, xi măng... Thêm vào đó, nền kinh tế rất nhạy cảm với các thay đổi
về giá cả hàng hóa, tỷ giá và vẫn bị đơ la hóa cao.
Sự vững mạnh của hệ thống tài chính trong nước
Hệ thống tài chính Việt Nam đã có những bước phát triển nhất định song vẫn còn sơ khai
và nhiều bất ổn như:
Một là, thị trường tiền tệ chưa phát triển mạnh, cơng cụ cịn nghèo nàn, giao dịch chủ
yếu là giao ngay, các thành viên tham gia vào thị trường cịn chưa đa dạng.
Hai là, thị trường chứng khốn (TTCK) tuy đã có bước nhảy vọt vào năm 2006 - 2007
nhưng vẫn còn rất nhỏ bé so với các nước khác trong khu vực như Thái Lan, Singapore.
TTCK còn mang nặng tính đầu cơ, bầy đàn; hàng hóa cịn kém đa dạng; cơ sở hạ tầng kỹ
thuật còn chưa phát triển; cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động trên thị trường là Luật Chứng
khoán cần được tiếp tục sửa đổi nhằm thống nhất với luật khác (Luật Doanh nghiệp 2014 và
Luật Đầu tư 2014). Đặc biệt, TTCK còn phụ thuộc nhiều vào nhà đầu tư nước ngoài nên dễ
tổn thương, do đó từ năm 2008 trở lại đây, có nhiều diễn biến bất thường và phát triển èo
uột.
Ba là, thị trường trái phiếu quy mô nhỏ, thanh khoản thấp, hiện nay ở mức 15,1% GDP
trong khi tỷ lệ này ở các nước mới nổi Đơng Á trung bình là 51,43%; trái phiếu Chính phủ
thống lĩnh thị trường, trong khi trái phiếu doanh nghiệp rất hạn chế nhưng lãi suất trái phiếu
Chính phủ lại chưa định hướng được thị trường; sự tham gia của các nhà đầu tư tổ chức,
định chế trung gian như các quỹ đầu tư tương hỗ, quỹ đầu tư mạo hiểm, cơng ty định mức
tín nhiệm cịn hạn chế; khả năng tập trung phân bổ nguồn lực tài chính qua thị trường chưa
thực sự hiệu quả.
20


Hiện nay, có khoảng 100 ngân hàng thương mại hoạt động với dịch vụ tương tự nhau làm
phát sinh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, bất chấp rủi ro. Các ngân hàng có quy mơ
vốn điều lệ thấp và có hiện tượng đầu tư chéo. Cơng nghệ ngân hàng Việt Nam còn kém
nhiều so với thế giới. Tỷ lệ nợ xấu mặc dù đã được cải thiện giảm từ 10% tổng dư nợ năm
2012 xuống 3,3% năm 2014 nhưng luôn lớn hơn các nước trong khu vực (năm 2010, tỷ lệ nợ

xấu của Việt Nam là 3,9%, Thái Lan là 1,8% và Trung Quốc là 1,1%). Nguồn vốn huy động
ngắn hạn chiếm tới 60-70% tổng vốn huy động, trong khi vay trung, dài hạn chiếm 30-40%
tổng dư nợ. Tỷ lệ an tồn vốn tối thiểu ln đạt mức cao hơn mức quy định của pháp luật,
12,8% cuối tháng 12/2014, giảm nhẹ so với mức 13,3% cuối năm 2013 (NHNN, 2014).
Như vậy, có thể thấy hệ thống tài chính Việt Nam ưu tiên phát triển về chiều rộng để
tăng quy mô và bắt đầu tập trung vào chiều sâu, tuy nhiên vẫn chưa đảm bảo được tính ổn
định và lớn mạnh cần thiết để đáp ứng cho việc thực hiện CSMTLP.

C. Định hướng điều hành CSTT và hoạt động ngân hàng thời gian tới
Trên cơ sở mục tiêu của Quốc hội, Chính phủ về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm
2021, NHNN sẽ tiếp tục điều hành CSTT chủ động, linh hoạt phối hợp chặt chẽ với chính
sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mơ khác nhằm kiểm sốt lạm phát; duy trì ổn định
vĩ mô, thị trường, hỗ trợ phục hồi nhanh kinh tế.
- Điều hành lãi suất phù hợp với điều hành cân đối vĩ mô, lạm phát, diễn biến thị trường
và mục tiêu chính sách tiền tệ tạo điều kiện giảm chi phí vốn cho người dân, doanh nghiệp
và nền kinh tế. Điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt phù hợp với diễn biến thị trường, các
cân đối vĩ mô, tiền tệ và mục tiêu chính sách tiền tệ.
- Bám sát diễn biến kinh tế vĩ mơ, tiền tệ, tình hình dịch bệnh trong nước và quốc tế để
điều hành tín dụng phù hợp theo hướng mở rộng tín dụng, tập trung vốn cho vay đối với các
lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực sản xuất kinh doanh; định hướng cơ cấu tín dụng phù hợp với
chuyển dịch nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
Trong đó, tập trung một số nội dung trọng điểm: Đẩy mạnh triển khai đồng bộ các giải pháp
tháo gỡ khó khăn cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 phục hồi sản xuất kinh
doanh; Tiếp tục phối hợp với bộ ngành liên quan đề xuất, triển khai chính sách cho vay hỗ
trợ trả lương cho người lao động do bị ngừng việc, gián đoạn sản xuất cho ảnh hưởng Covid19; Tiếp tục kiểm sốt chặt tín dụng trong lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như bất động sản, các dự
án BOT, BT giao thơng, chứng khốn; Chỉ đạo các TCTD tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi

21



cho người dân, doanh nghiệp trong việc tiếp cận tín dụng, đáp ứng nhu cầu hợp pháp của
người dân, góp phần hạn chế “tín dụng đen”...
- Tiếp tục hồn thiện khuôn khổ pháp lý đáp ứng yêu cầu đối với các mơ hình kinh doanh
và sản phẩm dịch vụ mới trên nền tảng cơng nghệ, trong đó, tập trung triển khai Nghị định
mới về TTKDTM và xây dựng Nghị định về cơ chế thử nghiệm có kiểm sốt hoạt động cơng
nghệ tài chính (Fintech) trong lĩnh vực ngân hàng; Trình Thủ tướng ban hành Đề án phát
triển TTKDTM giai đoạn 2021-2025 và phối hợp triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp
nêu tại Đề án; Phối hợp với các bộ ngành liên quan triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn
thơng thanh tốn cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (Mobile-Money); Triển khai thực
hiện Kế hoạch chuyển đổi số ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030
nhằm giúp các ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán cung ứng các sản phẩm, dịch vụ
thanh tốn an tồn, bảo mật, tiện ích, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng
trong kỷ nguyên số; Tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống công nghệ thông tin
trong ngành ngân hàng; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng; Đẩy mạnh truyền thơng,
giáo dục tài chính nhằm nâng cao kiến thức, kỹ năng, khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính
ngân hàng đối với cơng chúng, góp phần thúc đẩy TTKDTM, tài chính tồn diện.
- Tiếp tục theo dõi, đánh giá tác động của dịch Covid-19 đến khả năng hoàn thành các
mục tiêu tại Phương án cơ cấu lại của các TCTD cũng như đến an toàn hệ thống để đề xuất
các giải pháp chỉ đạo, xử lý phù hợp; Chỉ đạo TCTD tăng cường kiểm sốt chất lượng tín
dụng, trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ theo quy định pháp luật, tích cực triển khai các biện
pháp kiểm sốt và hạn chế nợ xấu phát sinh nhằm đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng về mức an toàn;
Tiếp tục triển khai các giải pháp nhằm khuyến khích các TCTD phát triển mạng lưới chi
nhánh và phòng giao dịch ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, góp phần hạn chế tín dụng đen;
Tiếp tục chỉ đạo Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) triển khai có
hiệu quả Chiến lược phát triển VAMC đến năm 2025, định hướng đến năm 2030…

Kết luận
Cơ chế điều hành chính sách tiền tệ đã có sự đổi mới mạnh mẽ theo hướng chủ động, dẫn dắt
thị trường, từng bước chuyển từ cơ chế điều tiết theo khối lượng sang điều hành theo lãi

suất. NHNN đã thực hiện công bố định hướng điều hành lãi suất và triển khai đồng bộ các
biện pháp để đạt mục tiêu là giảm dần mặt bằng lãi suất, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
và hộ dân; tiến hành điều chỉnh linh hoạt các mức lãi suất điều hành, kết hợp với áp dụng
biện pháp hành chính phù hợp theo diễn biến thị trường.
22


Tóm lại, trong thời đại đổi mới và hội nhập, mặc dù vẫn cịn một số khó khăn và hạn chế,
song ngành Ngân hàng đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, đã có những đóng góp rất
lớn cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. 

23



×