Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN (HL-L2) Học phần LỊCH SỬ TRIẾT HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.36 KB, 67 trang )

BỘ VĂN HÓA THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
--------------- o0o ---------------

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN (HL-L2)
Học phần: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Hội họa Sơn mài

Giảng viên phụ trách: Nguyễn Thị Huệ
Sinh viên: Nguyễn Trần Hoàng
Ngày sinh: 23-08-1998
Lớp: Hội họa K60B Sơn Mài

Hà Nội – 2021


Bài làm:
Câu 1 : Anh (chị) hãy phân tích những đặc trưng cơ bản của lịch sử tư tưởng
triết học Trung Quốc cổ trung đại. So sánh với triết học Ấn Độ để thấy được sự
giống nhau và khác nhau cơ bản của hai nền triết học đó.
Trả lời:
A. Đặc trưng cơ bản của lịch sử tư tưởng Triết học Trung Quốc cổ trung đại:
Triết học Trung Quốc cổ đại có sáu đặc điểm cơ bản như sau:
1. Triết học Trung Quốc cổ đại là một nền triết học xuất hiện rất sớm (khoảng
2000 năm TCN) đồng thời là một nền triết học đồ sộ, gồm nhiều trường phái
khác nhau như: Âm dương gia, Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Danh gia,
Tạp gia, Nơng gia, Tung hồnh gia.
2. Triết học Trung Quốc cổ đại phát triển mạnh vào thời kỳ tan rã của chế độ
chiếm hữu nô lệ và bắt đầu hình thành chế độ phong kiến.
3. Triết học Trung Quốc cổ đại đề cập nhiều đến vấn đề chính trị, xã hội, đạo
đức của con người mà ít chú ý nghiên cứu các vấn đề thuộc về bản thể luận,


nhận thức luận, lôgic học.
4. Triết học Trung Quốc cổ đại nhấn mạnh sự hài hoà thống nhất giữa tự nhiên
và xã hội. Hầu hết các trường phái đều phản đối cái thái quá, cái bất cập, mà
thường xuất hiện các phạm trù: “Thiên nhân hợp nhất”, “Tri hành hợp nhất”,
“Thể dụng như nhất”, “Tâm vật dung hợp”.
5. Triết học Trung Quốc cổ đại có lối tư duy trực giác tức là thông qua cảm nhận
và thể nghiệm lâu dài, bỗng chốc giác ngộ. Vì vậy, các nhà triết học thường coi
trọng cái Tâm, coi Tâm là gốc rễ của nhận thức, lấy “Tâm để bao quát vật”.
6. Trong triết học Trung Quốc cổ đại các yếu tố duy vật và duy tâm, vô thần và
hữu thần thường tồn tại đan xen vào nhau, nhiều khi rất khó nhận thấy.
Tơi muốn đi sâu hơn, mở rộng phân tích thêm về các đặc trưng của nền Triết
học phong phú này. Trung Hoa là một trong những nền văn minh xuất hiện đầu
tiên trên thế giới, nơi có thiên nhiên đa dạng và trù phú. Theo truyền thuyết, vào
1


khoảng từ 4.500 đến 5.000 năm trước đây, vùng phía Tây và Tây Bắc Trung
Quốc, dọc theo thượng nguồn của con sơng Hồng Hà có một quần thể dân cư
sinh sống và đã đạt được một trình độ văn hóa khá cao, Văn minh sơng Hồng
Hà hay văn minh Hoa Hạ. Những cư dân này sống định cư dưới chân núi Hoa
nên tiếng Trung Quốc gọi là Hoa Hạ (người sống dưới núi Hoa). Cũng theo
truyền thuyết, người Hoa Hạ đã có nhiều thành tựu trong các lĩnh vực văn hóa
và xã hội. Từ sớm, khoảng 2000 năm TCN, bắt đầu có sự xuất hiện của các tư
tưởng Triết học.
Nền Triết học ở Trung Hoa xuất hiện sớm và phát triển mạnh vào cuối thời
kì tan ra của chế độ chiếm hữu nơ lệ cổ đại và bắt đầu hình thành chế độ Phong
kiến. Khai sinh trong xã hội đang có những chuyển biến phức tạp, triết học
Trung Hoa khi đó cũng mang những tính nhất phức tạp, đa dạng của xã hội con
người.
Các tư tưởng Triết học thời gian đó thường xoay quanh cách lý giải sự vận

hành của vật chất, vũ trụ, lý giải nguồn gốc khởi nguyên của vũ trụ, con người.
Người Trung Quốc thường ứng dụng lý thuyết Âm Dương, Ngũ Hành để giải
thích minh họa cho tính chất đa chiều của Vũ trụ, Vơ Thường và ln ln biến
chuyển của sự vật hiện tượng. Có thể nói người Trung Quốc đã có tư duy Duy
Vật Biện Chứng từ xa xưa.
Đại biểu tiêu biểu của phái này là Trâu Diễn ở TK III TCN.
Người Trung Quốc cổ đại cho rằng khởi nguyên của thế giới là 2 yếu tố âm
và dương. Âm là bóng tối và tất cả những gì thuộc về bóng tối; Dương là ánh
sáng và tất cả những gì thuộc về ánh sáng. Âm – dương là 2 mặt đối lập nhưng
lại thống nhất với nhau, ràng buộc vào nhau, là cơ sở điều kiện tiền đề tồn tại
của nhau và của mọi sự vật đồng thời là nguyên nhân của mọi sự vật động và
phát triển.

2


Biểu hiện cụ thể của âm – dương là các mặt đối lập như: Mặt trời – mặt
trăng, sáng – tối, dài – ngắn, rộng – hẹp, nhanh – chậm, nóng – lạnh, quân tử –
tiểu nhân, nam – nữ, thơng minh – ngu đần… Trong đó mặt một thuộc về
dương, mặt 2 thuộc về âm. Mỗi sự vật, hiện tượng đều là thể thống nhất của âm
và dương, trong dương có âm, trong âm có dương, âm – dương ln ln
tương tác, chuyển hố lẫn nhau, khơng có gì là thuần âm hoặc thuần dương cả.
Phần sáng nhiều gọi là thái dương, phần sáng ít gọi là thiếu dương. Phần tối
nhiều gọi là thái âm, phần tối ít gọi là thiếu âm. Trong thái dương có thiếu âm
và trong thái âm có thiếu dương. Âm – dương xoay vần, đắp đổi không ngừng,
thiếu dương trong thái âm phát triển đến cùng thì có sự chuyển hố âm thành
dương và ngược lại. Trong mối quan hệ âm – dương thì dương được coi là mặt
năng động, tích cực cịn âm là mặt thụ động, tiêu cực. Nhưng khơng phải hồn
tồn như vậy mà phải xem xét chúng trong những mục đích, điều kiện, địa
điểm, thời gian cụ thể để chỉ ra cái gì mang tính tích cực hay tiêu cực.

Người Trung Quốc cho rằng tốt nhất là đạt được sự cân bằng âm – dương,
mọi sự thái quá về âm hoặc về dương đều là không tốt.
Biểu hiện cụ thể hơn nữa của âm – dương là ngũ hành – 5 yếu tố vật chất
đầu tiên của vũ trụ: kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ. Mỗi yếu tố có tính chất riêng biệt
chẳng hạn: thuỷ (nước) thì lạnh và ln ln chảy về chỗ thấp; hoả (lửa) thì
nóng và ln ln bốc lên cao; mộc (gỗ) có tính chất đàn hồi; kim (kim loại)
thì có tính chất phụ thuộc; thổ (đất) thì tiếp nhận hạt giống và làm mùa. 5 yếu
tố này ln ln vận động, biến đổi và chuyển hố khơng ngừng. Cơ chế của
sự chuyển hố là cái này thắng (khắc) cái kia gọi là quá trình tương khắc, cái
này sinh cái kia gọi là quá trình tương sinh.
Thổ sinh kim, kim sinh thuỷ, thuỷ sinh mộc, mộc sinh hoả, hoả sinh thổ rồi
lại thổ sinh kim.
Thổ khắc thuỷ, thuỷ khắc hoả, hoả khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ
rồi lại thổ khắc thuỷ. Đây là kết quả của quá trình quan sát trực quan và đúc kết
3


kinh nghiệm đời sống lâu dài của người Trung Quốc. VD: Thổ khắc thuỷ vì đất
thấm được nước và ngăn chặn dịng nước, thuỷ khắc hoả vì nước có thể dập tắt
lửa…
Những người theo thuyết Ngũ hành dùng 5 yếu tố này để giải thích nguồn
gốc, chủng loại của các hiện tượng tự nhiên.
Ngũ sắc: Vàng (do thổ sinh ra) – trắng (do kim) - đen (do thuỷ) – xanh (do
mộc) - đỏ (do hoả).
Ngũ vị: Ngọt (do thổ sinh ra) – cay (do kim) – mặn (do thuỷ) – chua (do mộc)
- đắng (do hoả).
Ngũ tạng: Tỳ vị (lá lách, dạ dày) – phế (phổi) – thận – can (gan) – tâm (tim).
4 mùa: Xuân (do mộc sinh ra) – hạ (do hoả) – thu (do kim) - đông (do thuỷ)
- điều hồ 4 mùa (do thổ).
4 phương: Đơng (do mộc sinh ra)– Tây (do kim)– Nam (do hoả)– Bắc (do

thuỷ) – ở giữa các phương (do thổ).
Tóm lại, thuyết âm - dương, ngũ hành đã giải thích nguồn gốc và sự vận
hành của thế giới trên lập trường duy vật, mặc dù đây chỉ là duy vật ngây thơ,
chất phác, giản đơn, mang tính chất máy móc nhưng nó có ý nghĩa thế giới
quan quan trọng chống lại quan điểm duy tâm tơn giáo và mục đích luận về tự
nhiên. Nó là cơ sở lý luận quan trọng cho những phát minh vĩ đại của khoa học
tự nhiên như Thiên văn, Lịch pháp, Y học…Tuy nhiên, khi vận dụng nó vào
các vấn đề lịch sử xã hội thì các nhà triết học đã làm mất đi tính duy vật, làm
nghèo nàn đi tính biện chứng ban đầu của nó.
Thời gian đầu cũng xảy ra nhiều mâu thuẫn giữa các luồng tư tưởng triết học,
do xã hội chưa có ổn định về chính trị.
Theo ghi chép trong văn hiến Trung Quốc cổ đại, trước khi Hạ hậu thị kiến
lập, xuất hiện chiến tranh thường xuyên giữa bộ tộc Hạ và các bộ tộc khác
xung quanh để tranh đoạt địa vị thủ lĩnh liên minh.
4


Triều Hạ, khoảng thế kỷ 21 TCN - khoảng thế kỷ 16 TCN, nằm trong
khoảng thời gian manh nha quá độ từ thị tộc bộ lạc đến quân chủ quốc gia.
Căn cứ theo ghi chép trong sử sách, Vũ truyền vị cho con là Khải, cải biến
thiện nhượng chế bộ lạc nguyên thủy, khởi đầu tiền lệ thế tập vương vị kéo dài
4000 năm trong lịch sử Trung Quốc. Triều Hạ tổng cộng truyền được 14 đời
với 17 vua, kế tục trong khoảng 471 năm, bị triều Thương tiêu diệt. Triều Hạ
được xem là vương triều đầu tiên theo lịch sử truyền thống Trung Quốc, có địa
vị lịch sử khá cao, người Hán đời sau thường tự xưng là "Hoa Hạ", trở thành
danh từ đại diện cho Trung Quốc.
Đến thời nhà Thương, mới đánh dấu sự xuất hiện đầu tiên của văn tự, chữ
viết ( Kim Đỉnh Văn, Giác Cốt Văn ). Loại chữ viết này được thể hiện trên
những phần xương phẳng của gia súc hay xương hươu, trên vỏ sị và mai rùa và
có lẽ trên cả gỗ. Chúng là những đoạn ghi chép liên quan đến việc bói tốn

tương lai. Bằng cách chọc một cái que nóng vào một cái xương hay vỏ sị, vật
đó sẽ nứt ra, và những đường nứt biểu tượng cho các chữ cái sẽ cho biết câu trả
lời cho rất nhiều câu hỏi: thời tiết sẽ thế nào, có xảy ra lũ lụt không, sẽ được
mùa hay mất mùa, khi nào là thời gian thích hợp nhất để săn bắn và đánh cá,
các câu hỏi về sức khoẻ hay thậm chí về thời điểm thích hợp để xuất hành.
Người dân dưới nền văn minh Thương dường như cùng có sự thúc đẩy tôn
giáo giống như những dân tộc khác. Họ coi các hiện tượng thiên nhiên là do
nhiều vị thần sử dụng ma lực tạo ra, các vị thần được gọi là quỷ thần (Kueishen), một từ miêu tả ma quỷ hay linh hồn. Họ có một vị thần mà họ cho rằng
làm ra mưa. Họ có một vị thần sấm và một vị thần cho mỗi quả núi, con sông
và cánh rừng. Họ có một vị nữ thần của Mặt Trời, một nữ thần Mặt Trăng và
một thần gió. Giống như các dân tộc trồng cấy khác, họ có một vị thần của sự
5


phì nhiêu, màu mỡ. Họ tin rằng một vị thần cao cấp nhất ngự trị ở trung tâm
thiên đường và trao thưởng cho những người có đạo đức tốt. Và các vị thần của
họ có những khn mặt giống người châu Á hơn người châu Âu.
Giống như các thầy tế ở Tây Á, các thầy tế của nhà Thương cũng hiến tế cho
các vị thần của họ, đút lót cho họ, tin rằng các vị thần sẽ tạo ra sự rộng lượng,
nhân từ hay cái xấu xa phép thuật. Việc lũ lụt xảy ra thường xuyên cũng như
những tai ương khác khiến người dân nhà Thương tin rằng một số vị thần là tốt
và một số khác làm điều xấu. Và họ tin rằng một vị thần xấu làm người ta đi sai
đường và ăn thịt người.
Người dân nhà Thương tin vào một thiên đường khơng nhìn thấy được mà
con người sẽ được lên đó sau khi họ chết. Nhà Thương nói với thần dân của họ
rằng thiên đường là nơi mà các vị vua triều đại trước của họ đang trú ngụ. Các
nhà quý tộc rất quan tâm đến địa vị của mình và thường kiêu hãnh về nguồn
gốc tổ tiên. Họ lưu giữ các bản gia phả dòng họ và coi tổ tiên là thần thánh có
nguồn gốc từ một lồi vật nào đó – các vị thần trở thành biểu tượng của dòng
họ như những vật tổ tương tự với các dân tộc ở châu Mỹ. Người dân thường,

trái lại, khơng có họ và phả hệ và không tham dự vào sự thờ phụng tổ tiên.
Vua thứ 30 nhà Thương là Trụ Vương hoang dâm vô đạo, bạo ngược tàn ác,
mất lòng nhân dân và các chư hầu.
Bộ tộc Chu ở sơng Vị có lãnh chúa là Tây Bá Cơ Xương tài đức vẹn tồn,
ngồi ra cịn có tiềm lực về quân sự và kinh tế hùng mạnh nhất trong các chư
hầu. Trụ Vương nhiều lần đã phái quân tướng triều đình tây chinh để trừ hậu
họa nhưng không thành. Tây Bá Cơ Xương dù biết Trụ Vương vơ đạo nhưng
vẫn một mực giữ lịng trung, khơng khởi binh tướng xâm phạm. Cơ Xương mất
truyền ngôi cho con trưởng, sau đó ngơi Vương được truyền lại cho người em
6


Cơ Phát. Sau nhiều lần dẹp tan quân xâm lược, Cơ Phát đã tập hợp chư hầu đi
đánh Trụ Vương, cứu muôn dân khỏi cảnh lầm than.
Sau khi lấy được 5 ải biên thùy của nhà Thương, vào khoảng năm 1122 TCN,
hai bên quyết chiến ở trận Mục Dã. Quân Trụ Vương tuy đơng nhưng binh lính
khơng có tinh thần chiến đấu cho bạo chúa nên nhanh chóng tan rã. Trụ Vương
co cụm về hồng cung, sau đó một mình lên Lộc Đài tự thiêu mà chết. Nhà
Thương diệt vong.
Bắt đầu từ thời các vua nhà Chu, các vị thủ lĩnh địa phương nhận được
quyền hành động như các thầy tế: để thực hiện hiến tế, để cho phép hát một số
loại bài hát và một số điệu nhảy, quyền cúng tế các vị thần núi sông ở địa
phương, các dòng suối và đất và mùa màng. Tuy nhiên, các quý tộc địa phương
tiếp tục đi theo di sản của ông cha để lại. Họ lấy vợ bằng những nghi thức tôn
giáo và sự ghi chép gia phả, trong khi dân thường vẫn tiếp tục kiểu lấy vợ thời
cổ, không có họ hay có gia phả. Họ chỉ đơn giản sống với nhau và được công
nhận là một cặp bởi những người hàng xóm.
Giống như ở Ấn Độ và Tây Á, cùng với thời gian có một sự pha trộn giữa
các tôn giáo của kẻ chinh phục và kẻ bị chinh phục. Những vị cai trị nhà Chu
chấp nhận vào danh sách thần thánh của mình một số vị thần của nền văn minh

Thương. Sự cúng tế nhiều vị thần từ thời nhà Thương vẫn được tiếp tục, gồm
cả vị thần mùa màng, mưa và nông nghiệp - một trong những vị thần này được
tin rằng được sinh ra từ một bà mẹ trinh trắng. Trong số các vị thần đó có vị
thần sơng Hồng Hà, người có thân cá nhưng có mặt người. Trong nền văn
minh Chu, con người tiếp tục cố gắng làm dịu các vị thần bằng cách cúng tế.
Những người có khả năng thì hiến tế bằng gia súc, cừu, lợn hay ngựa.

7


Việc hiến tế bằng người giảm bớt so với thời nhà Thương, nhưng nhà Chu
có cả vợ và bạn bè ở trong mộ, và mỗi năm một cô gái trẻ bị cúng làm cô dâu
cho thần sông. Việc hiến tế này bắt đầu bằng việc những bà đồng cốt lựa chọn
một cơ gái đẹp nhất có thể. Mặc cho cơ ta đồ satin, tơ và đeo trang sức và đặt
lên một cái giường cưới trên một cái bè. Họ tống cái bè xuống sơng. Cái bè sẽ
chìm và cơ gái chết đuối, coi như là một đồ hiến tế cho thế giới vơ hình của vị
thần sơng.
Năm 771 TCN, khi Chu U Vương phế truất Thân hậu để đưa Bao Tự lên
thay thế, kinh đô nhà Chu đã bị các lực lượng du mục phía đơng bắc tràn vào
cướp phá do sự xúi giục của Thân Hầu (cha Thân hậu). U vương bị giết và con
cả là thái tử Nghi Cữu được các quý tộc chư hầu Trịnh, Tấn, Tần đưa lên làm
vua, tức là Chu Bình Vương, dời đơ về phía đơng năm 771 TCN tới Lạc
Dương, tỉnh Hà Nam hiện nay. Từ đây bắt đầu giai đoạn Đông Chu, và chỉ kết
thúc khi bị nhà Tần lật đổ vào năm 256 trước Công Nguyên; trong lịch sử
Trung Quốc, giai đoạn này được gọi là "Thời Xuân Thu" (771-403 TCN) và
"Thời chiến quốc" (403-256 TCN)
Ở giai đoạn Xuân Thu (771-403 TCN), Trung Quốc dần bị chia cắt thành
một loạt các tiểu vương quốc do các vua chư hầu tự cai trị.
Thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc, quá nhiều mẫu thuẫn khiến cho xã hội loạn
lạc, thời kỳ chiến tranh liên miên, nhân dân bá tính vơ cùng khổ cực, họ chỉ

mong chờ một tư tưởng có thể làm bình ổn chiến sự. ( thời kỳ “Bách Gia Tranh
Minh” )
Từ điều kiện đó, một trong những đặc điểm cơ bản của Triết học Trung
Quốc ấy là triết học về chính trị-xã hội, về làm sao để bình ổn xã tắc, bảo vệ
lâu dài cho giai cấp thống trị. Đồng thời, các tư tưởng Triết học ẩn bên trong
các học thuyết chính trị, giáo dục.
8


Từ đó, ta có thể thấy, Triết học Trung Quốc mang tính chất Nhập thế.
Triết gia nổi tiếng của Trung Hoa là Khổng Tử, người sáng lập Nho Giáo,
một trong 3 tư tưởng Triết học quan trọng, mang tính định hình văn hóa, xã hội,
chính trị của Trung Quốc. Tới gần cuối đời Xuân Thu, Khổng Tử là người đầu
tiên mở trường tư thục để dạy trẻ em và thanh niên bất kỳ thuộc giai cấp nào.
Có thể ơng cũng dạy lục nghệ, nhưng ông chú trọng nhất tới sự đào tạo một số
thanh niên ưu tú, dạy họ Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc (có thể cả
Kinh Dịch nữa), để họ thành những người tài đức thay giai cấp quý tộc mà giúp
vua chúa. Một số môn sinh của ông đã giúp các vua và đại phu đương thời,
thành những kẻ sĩ có danh vọng.
Sau ơng, mơn đệ của ơng gần thì như Tăng Tử, xa thì như Mạnh Tử (học trị
của cháu nội ơng, Tử Tư), Tuân Tử và nhiều nhà khác như Mặc Tử... noi
gương ông mở trường dạy học, đào tạo được giai cấp kẻ sĩ; giai cấp này càng
ngày càng đơng, uy tín càng tăng, chiếm được những địa vị cao trong chính
quyền, qua đời Hán thì gần như thay thế hẳn giai cấp quý tộc ở triều đình, trong
dân gian.
Vì vậy chế độ huyết thống sớm chuyển qua quý tộc trí thức 2.000 năm trước
phương Tây, khiến người phương Tây rất ngạc nhiên và rất phục, khen văn
minh Trung Hoa là vô cùng độc sáng. Người có cơng đầu là Khổng Tử; ông
được xưng tụng danh hiệu Vạn thế Sư biểu.
Sau này, đạo Nho hay đạo Khổng (Nhơn đạo) là một hệ thống đạo đức, triết

học xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và
được các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội hài hịa,
9


trong đó con người biết ứng xử theo lẽ phải và đạo đức, đất nước thái bình,
thịnh vượng.
Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước Đơng Á là Trung Quốc, Đài Loan,
Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người thực hành
theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà Nho, Nho sĩ hay Nho sinh.
Nho giáo là một học thuyết chính trị, xã hội được Khổng Tử (551- 479 TCN)
sáng lập vào khoảng thế kỷ VI TCN. Đây là một học thuyết chính trị xã hội có
ảnh hưởng rất sâu rộng trong xã hội Trung Hoa cổ đại cũng như sau này, nó
được phát triển qua 4 thời kỳ:
Nho giáo sơ kỳ với các đại biểu: Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân Tử bàn về
các vấn đề Nhân, Lễ, Chính danh, về bản tính con người, về Thiên mệnh.
Hán Nho (Thế kỷ II TCN) với các đại biểu: Đổng Trọng Thư, Lưu Hướng,
Lưu Hâm. Ở thời kỳ này Nho giáo bị đẩy tới mức cực đoan theo hướng duy
tâm, xuất hiện các khái niệm “Tam cương, Ngũ thường”, “Thiên nhân tương
cảm” nhằm củng cố vai trò của chế độ phong kiến trung ương tập quyền.
Tống Nho (Thế kỷ X) với các đại biểu: Chu Đơn Di, Trình Hạo, Trình Di,
Trương Tải, Chu Hy bàn về vấn đề bản thể thế giới, vũ trụ. Khái niệm chủ yếu
của Tống Nho là “Khí” và “Lý”. Đây là thời kỳ Nho học được phát triển theo
hướng duy tâm.
Minh Nho (Thế kỷ XV) với các đại biểu: Vương Dương Minh phái “Tâm
học”, “Bạch Sa phái”, “Hà Đông phái”… Đây là thời kỳ phát triển Nho học
theo hướng duy tâm chủ quan.
*Khổng Tử: đề ra đường lối “đức trị”.Nội dung tư tưởng đức trị của Khổng
Tử được thể hiện trong học thuyết : “ Nhân, Lễ và Chính danh”


10


- Phạm trù “nhân”. Khổng Tử đề cao Nhân (đức nhân – là phẩm chất đạo
đức cao quý). Nhân là phạm trù trung tâm trong học thuyết chính trị - xã hội
của Khổng Tử. Trong Luận Ngữ đã nhiều lần ông nói về điều nhân. Nhưng
quan niệm của ông về nhân không nhất quán. Tuỳ theo năng lực, phẩm hạnh
của học trị mà ơng giảng giải về nhân khác nhau. Nhưng tựu chung lại nhân
được hiểu với 3 nội dung sau đây:
Trước hết nhân được hiểu là yêu người, thương người. Khi học trị Phàn Trì
hỏi về nhân ơng trả lời: “ái nhân”. Theo ơng người có nhân thì ln yêu người,
yêu vật, muốn cho vạn vật tốt tươi, lòng mong muốn ấy là hồn tồn tự nhiên,
khơng miễn cưỡng, khơng điều kiện; tinh thần sáng láng, trong lịng an lặng,
ứng xử ra ngồi thì chí thiện, chí cơng. Cịn người bất nhân thì tâm trí ln vì
mình, tinh thần mờ tối, hành vi độc ác, yêu ghét bất minh…
Khi học trị Trọng Cung hỏi về nhân, ơng trả lời: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư
nhân” (điều gì mình khơng muốn thì đừng làm cho người khác), “Kỷ dục đạt
nhi đạt nhân” (mình muốn thành đạt thì cũng giúp người thành đạt). “Kỷ dục
lập nhi, lập nhân” (mình muốn lập thân thì cũng giúp người lập thân). Nhưng
tư tưởng này lại gắn liền với sự phân biệt trên, dưới, thân sơ, q tiện.
Nhân cịn là sự tơn trọng các nguyên tắc kỷ cương xã hội một cách tự giác.
Khi học trị Nhan Un hỏi về nhân, ơng trả lời: “Khắc kỷ phục lễ vi nhân”
(sửa mình trở lại theo lễ là nhân). Với mỗi người nhân là cái gốc để phân biệt
phải trái, hay dở (phù hợp với đạo nhân là phải, là hay, trái với đạo nhân là xấu,
là dở).
Đạt đến điều nhân là đạt đến đạo người qn tử. Chỉ có người qn tử mới
có nhân, cịn kẻ tiểu nhân (nhân dân lao động) thì khơng có nhân. Ông cho rằng
người quân tử phạm vào điều nhân thì có thể có, chứ chưa có kẻ tiểu nhân làm
được điều nhân.
-Phạm trù “lễ”. Ban đầu “Lễ” tức là tế lễ (lễ thần). Là điều cần thiết trong lúc

tế thần thánh, nó có từ thời nhà Hạ, Thương, Ân, Chu;
11


Lễ là nguyên tắc tổ chức hoạt động của nhà nước và xã hội thể hiện “Vi
quốc dĩ lễ” (Làm việc nước lấy lễ làm căn bản), “tề chi dĩ lễ” (làm việc xã hội
lấy lễ làm căn bản).
Lễ là trật tự kỷ cương, phép nước quy định hành vi của mỗi người. Theo ông
nguyên nhân của xã hội loạn, vơ đạo là khơng giữ được lễ. Vì vậy muốn cho xã
hội bình n, thịnh trị phải khơi phục lễ. Người có lễ “khơng nhìn, khơng nghe,
khơng nói, khơng làm điều khơng hợp lễ”.
Lễ cịn là nếp sống có văn hố. Khổng Tử nói: “Chiếu trải khơng ngay ngắn
khơng ngồi”, “Thịt thái không vuông không ăn”.
Lễ được hiểu là những nghi lễ, những quy phạm đạo đức quy định quan hệ
giữa người với người theo một trật tự danh vị xã hội chặt chẽ thời nhà Chu. Lễ
còn là quy định về quyền và nghĩa vụ tương xứng với danh phận. Như vậy lễ là
lẽ phải, là bổn phận mà mọi người có nghĩa vụ phải tuân theo: Hiếu thảo với
cha mẹ, hoà thuận anh em, thuỷ chung vợ chồng, tín nghĩa bạn bè. Khổng Tử
nói: “Qn sử thần dĩ lễ, thần sự quân dĩ trung” (Vua sai bề tôi bằng lễ, bề tơi
có nghĩa vụ trung với vua).
Lễ cịn là nguyên tắc chỉ chế độ đẳng cấp tông pháp trong xã hội lúc bấy giờ
thể hiện trong tư tưởng “Chính danh”: “Danh bất chính tắc ngơn bất thuận,
ngơn bất thuận tắc sự bất thành”.
Như vậy, lễ là chuẩn mực điều chỉnh bản tính tự nhiên thường thái quá của
con người. Nhờ nó mà con người nhận rõ danh vị, bổn phận của mình. Từ đó
điều tiết và phân biệt được các quan hệ cha con, anh em, bạn bè, vua tôi.
Theo Khổng Tử xã hội loạn lạc do không chính danh. Do vậy, để làm cho xã
hội trật tự thì trên phải ra trên, dưới ra dưới, trật tự phân minh, vua có phận vua,
tơi có phận tơi. Danh phận đã định rõ, ai cũng có địa vị chính đáng của người
ấy. Một nước trật tự là nước “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” (vua ra vua,

tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con).

12


Như vậy, trong đường lối trị nước KT đề cao “đức trị” thể hiện trong họa
thuyết “Nhân, lễ, chính danh”. Trong đó, nhân là nội dung, lễ là hình thức thể
hiện nhân;chính danh là con đường thực hiện nhân.
*Mạnh Tử phát triển đường lối đức trị của Khổng Tử và xây dựng đường lối
“Nhân chính” với nội dung cụ thể: Bảo đảm ruộng đất cho người dân; giảm nhẹ
tô thuế; bớt hình phạt; mở trường dạy lễ, nghĩa cho dân.
Mạnh Tử bảo vệ quan điểm của Khổng Tử, tuyên truyền cho đường lối Đức
trị, ủng hộ Vương đạo, chống lại Bá đạo.
Ông phát triển phạm trù nhân của Khổng Tử thành học thuyết nhân chính.
Yêu cầu nhà cầm quyền (gctt) phải giảm thuế khóa cho dân, giảm hình
phạt...làm cho dân “hữu hẳng sản, hữu hằng tâm” khơng có hằng sản, khơng có
hằng tâm. “người cầm quyền chế định sản nghiệp cho dân để họ trơng lên thì
phụng dưỡng được cha mẹ, nhìn xuống ni đủ vợ con, được mùa thì no ấm
quanh năm, mất mùa thì khơng đến nỗi chết đói, có như vậy mới bảo dân làm
điều nhân nghĩa. Hữu hằng sản, hữu hằng tâm”
Để thực hiện được điều đó, MT yêu cầu nhà cầm quyền phải thực hiện chính
sách “bảo dân” trong nội dung đường lối trị nước, cụ thể 3 chương trình lớn:
dân sinh, kinh tế và giáo hóa (tơn trọng tình thần của KT: Thứ chi- phú chigiáo chi). Giá trị của MT là đã diễn giải rõ rệt gốc của chính trị là điều hịa nền
kinh tế, sx dồi dào, quân bình bằng cách nhấn mạnh luận điểm thực tế “Dan dĩ
thực vi tiên” (Dân lấy ăn làm đầu) chư skhoong phải thuyết nhân nghĩa một
cách không tưởng. MT lấy đời sống kinh tế của dân làm cơ bản trong việc thi
hành chính sách “bảo dân”=> chia ruộng đất theo phép “Tỉnh Điền” (thời Tây
Chu).
Trong đường lối chính trị, Mạnh Tử đã mạnh dạn đề cao “chủ nghĩa nhân
dân bản”: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là quý, thứ là đến

xã tắc, cịn ngơi vua là thường) .

13


Đồng thời, Mạnh Tử có tinh thần cách mệnh. Theo ông, Dân có quyền lật đổ
nhà cầm quyền: (cách mệnh:thay một ông vua độc ác nằng một ông vua đức
độ);ông cho rằng nhân dân có quyền nổi lên phế truất ông vua không có hiền
đức xứng đáng làm một ông vua. “Qn bất qn” thì thần(bề tơi) có quyền
giết “vua không ra vua”
*Tuân Tử là người đầu tiên chủ trương kết hợp Nho gia với Pháp gia, kết
hợp Vương đạo với Bá đạo. Ông cho rằng con người khác con vật ở chỗ sống
tập thể, có tổ chức, có trật tự, có lễ nghĩa trên dưới, nhưng đó cũng chính là căn
nguyên dẫn đến xã hội loạn vì trong xã hội, mọi người sống hợp quần, khơng
có sự phân cơng lao động xã hội mà sản vật tự nhiên và của cải làm ra thì ít
nhưng nhu cầu lại nhiều vì vậy muốn giữ được trật tự xã hội phải: Tăng cường
sản xuất, thực hành tiết kiệm, phân công rõ ràng ngành nghề theo thứ bậc: sĩ,
nông, công, thương. Trong đó nơng nghiệp là cơ bản; Hạn chế nhu cầu, dục
vọng lấy lễ nghĩa làm cơ sở, làm chuẩn mực đạo đức.
Ơng chủ trương lễ trị và chính danh nhưng khác nhiều so với lễ trị của
Khổng Tử. Nếu Khổng Tử yêu cầu lễ được thực hiện một cách tự giác, từ tâm
thì lễ của Tn Tử mang tính pháp trị nhiều hơn là lễ trị.
Tuân Tử quan niệm luật pháp là cái gốc của thiên hạ để ngăn cấm những
điều bạo ngược, để răn đe những điều chưa xảy ra. Vì bản tính con người là ác:
“nhân chi sơ, tính bản ác”, là ham muốn dục vọng, là ích kỷ và phải dùng luật
pháp thì cái ác mới có thể thay đổi được.
* Đổng Trọng Thư: đường lối trị nước mang tính thần quyền. Ơng cho rằng
vua(thiên tử) là con trời do vậy sẽ là người thay trời thi hành đạo trời.Vua phải
theo ý trời, thuận mệnh trời để cai trị muôn dân.
Vua chỉ được thay đổi thể thức chứ không được thay đổi đạo trời. Bởi lẽ:

“thiên bất biến đạo diệc bất biến”. Nếu vua làm trái mệnh trời thì trời sẽ mang
tai ương đến trách bảo. Đã trách bảo mà khơng biết thì trời sẽ mang bại vong

14


đến. Ông viết “thịnh suy trị loạn là do người chứ khơng do trời, tn theo mệnh
trời thì thịnh trị, khơng tn theo mẹnh trời thì hỗn loạn suy sụp”
Từ đây, ông nêu ra tư tưởng ‘thiên nhân tương cảm” (trời và người có thể
cảm thơng nhau, hiểu nhau): trời có 4 mùa: Xn – Hạ - Thu – Đơng, người có
4 cách cai trị là: khoan dung – thưởng – phạt -hình
NG coi trọng và đề cao vị trí con người, coi: “con người là quyết định nhất”.
Bởi lẽ,
NG minh chứng rằng con người có những phẩm chất ưu việt hơn muôn vật.
Do vậy các nhà kinh điển NG đẫ đặt con người sánh ngang với trời, đất, cùng
với trời đất, con người là têu biểu cho tất cả mọi cái trong vũ trụ.Kinh Dịch viết
“trời đất, người là tam tài”. Thiên thời, địa lợi, nhân hòa là ba yếu tố căn bản
quyết định sự thành bại của mọi việc trong xã hội. MT viết “mn vật đều có
sẵn ở ta rồi” (coi con người là chúa tể muôn loài, là anh minh của mọi vật.
Nguồn gốc con người. Mặc dù đề cao con người nhưng các nhà kinh điển
NG lại hầu như khơng nói gì đến q trình vận động làm xuất hiện con người
trong trời đất. Nghĩa là họ khơng tìm hiểu nguồn gốc con người mà coi sự tồn
tại của con nguười là tất yếu.
Khổng Tử: khơng nói về Nguồn gốc con người
Mạnh Tử: trời sinh ra con người
Tuân Tử: con người sinh ra từ khí
Đổng Trọng Thư: trời sinh ra
Tính người: là một vấn đề lớn trong lịch sử triết học Phương Đông. Trong
khi các triết gia phương tây mải mê đi tìm hiểu BTL, NTL, MQH con người
với thế giới xung quanh... thì PĐ lại chú trọng đến một vấn đề hết sức then chốt

là tìm hiểu bản thể của tính người. XP từ quan niệm: bất kỳ một sự cải cách cơ
bản nào trong xh cũng đều bắt nguồn từ sự thay đổi cơ bản trong bản tính con
nguời.

15


Khổng Tử: người đầu tiên bàn đến tính người, ít nói cho học trị. Chỉ có hai
chỗ trong LN bàn đến tính người
“Thiên mệnh chi vị tính”; “tính tương cận dã; Tập tương viễn dã”(Người ta
thảy đều gần giống nhau, vì ai nấy đều có bản tính lành. Nhưng bơi nhiễm thói
quen nên họ thành ra xa nhau).
Ơng khơng nói rõ thiện hay ác nhưng khẳng định là “gần nhau” -. Có điểm
chung nào đó – điểm chung đó là cái bản tính lành, ngay thật của con người
(mộc mạc,nguyên thủy, tự nhiên như khi trời sinh ra vậy). Nếu không bị ảnh
hưởng của tập tục làm cho thay đổi thậm chí là đối lập nhau đi thì bản tính ban
đầu của con người là gần nhau.(tính khơng bị hoen ố bởi vật dục và ngoại
cảnh).
KT coi tính người(bản chất) là do trời phú, lúc đầu thì gần nhau, khơng khác
nhau. Về sau chịu sự tác động của hoàn cảnh xh làm cho tính người bị phân
hóa theo những thái cực khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Hạn chế của KT,
ơng nghiên cứu tính người trong phạm vi đạo đức, chính trị. Vì vậy quan niệm
của ơng khơng có cơ sở thực tế, mang màu sắc duy tâm.
4.2.Mạnh Tử: Tính con người vốn “thiện”
Tuy nhiên khi nói tính “thiện” của MT, chúng ta phải nói đến quan niệm
“tính người” của Cáo Tử. Bởi lẽ quan niệm tính người của MT đưa ra trong
cuộc tranh luận với Cáo Tử.
+ Theo Cáo Tử tính của con người khơng thiện, khơng ác, giống như dòng
nước chẳng nhất định chảy về đâu, hễ phía nào thơng thì chảy về phía đó”.
+ Bác lại điều này, MT nói tính người ta vốn “thiện” giống như tính của

nước nhất định là chảy xuống chỗ thấp. MT viết: “cái bản tính của người ta vốn
thiện, ấy cũng như cái bản tính của nước là dồn xuống phía dưới thấp vậy.
Khơng một người nào sinh ra mà tự nhiên bất thiện, cũng như thế, không một
thứ nước nào mà chẳng chảy xuống thấp”.

16


MT khẳng định, tính thiện là cái bản chất cố hữu, vốn có của con người,
những nó khơng phải là bất biến, không thay đổi. Tác động của ngoại cảnh có
thể làm cho con người đánh mất tính thiện của mình, và đó chính là mầm mống
nảy sinh điều bất thiện. Nhưng xu hướng của con người là luôn vươn tới điều
thiện, từ bỏ điều bất thiện, cũng giống như dòng nước bị chặn lại phải dâng lên
cao, nhưng xu hướng là vẫn chảy xuống thấp. Trong xã hội cũng vậy, nếu nhà
cầm quyền thi hành một đường lối chính trị bạo ngươc, hà khắc, dồn người dân
đến cảnh cùng quẫn thì ở họ có thể nảy sinh tính bất thiện. Để tìm lại tính thiện
của mình họ phải đấu tranh lật đổ sự thống trị ấy.
+ Cáo Tử khẳng định tiếp: tính người như cây mây, cây liễu
+ MT phản bác lại:
+ MT cho rằng tính thiện của con người xuất phát từ 4 đầu mối của thiện
đoan: nhân, nghĩa, lễ, trí, 4 đức này như 4 đầu mối của tâm, do trời phú cho,
con người sinh ra đã có giống như mầm cây trong hạt giống, như tứ chi của cơ
thể:
Trắc ẩn chi tâm (nhân)
Tu ố chi tâm (nghĩa)
Từ nhượng chi tâm (lễ)
Thị phi chi tâm(trí)
Nhân, nghĩa, lễ, trí khơng phải từ bên ngồi nung đúc vào ta mà có sẵn cả ở
trong tâm, nếu cầu thì được mà bỏ thì mất, điều đó thể hiện ở việc làm thiện
hay bất thiện ở việc có biết tồn tâm dưỡng tính hay khơng.

4.3. Tn Tử: đối lập MT, CT khẳng định bản tính người là Ác
4.4. Đổng Trọng Thư
*Mối quan hệ con người: trong xh, con người có mn vàn các mối quan hệ
xh giữa người với người, rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Song NG chỉ chú
ý tới các mqh về chính trị và đạo đức, trong đó có các mqh cơ bản như “ngũ
luân”=> các mqh này tồn tại khách quan trong xh, nó được các nhà nho coi là
17


giềng mối, những nút buộc gắn bó con người lại với nhau bằng những yêu cầu
cụ thể về đạo đức khi ứng xử.
KT: con người ứng xử với nhau theo nguyên tắc “ngũ luân” và những phẩm
chất cần có của con nười là Nhân, trí, Dũng
Nối tiếp KT là MT, luận giải: làm người ai cũng sống theo đạo lý. Nếu sống
khơng có đạo lý, khơng được giáo dục thì con người khơng hơn gì thú vật. Sự
khác nhau giữa con người với thú vật chỉ ở chỗ con người có lý trí, biết ăn ở
theo “nhân ln”:
“Qn thần hữu nghĩa – vua và bề tôi phải sống theo nghĩa
Phụ tử hữu thân – cha và con phải có tình thân ái ruột thịt
Phu phụ hữu biệt – đề cao vai trò nguời chống, hạ thấp vai trò của nguời vợ địa vị phụ thuộc (dù qh này là trung tâm các qh khác).
Trưởng ấu hữu tự- anh em phải có thứ tự trên dưới
Bằng hữu hữu tín – bạn bè phải có tín”
Đến Đổng Trọng Thư đã hệ thống hóa các phạm trù đạo đức của NG
truwocs đó, xay dựng hệ thống chuẩn mực đạo đức cho nền giáo dục đạo đức
PK. “Tam cương, ngũ thường”. Theo ông đây là những tri thức có tính “tiên
thiên” trời sinh ra, vốn có sẵn trong con người. Cương nghĩa đen là dây, dây
chính của lưới, từ đó mọi dây khác kết vào.
“Quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương”=> Vua, cha, chồng
có quyền uy tuyệt đối với bề tơi, con và vợ. Đó là ý trời quy đinh, con người
tn theo.

Bề tơi phụ thuộc hồn tồn vào vua, con phụ thuộc vào cha, dựa vào cha, cha
bảo gì con cũng phải nghe theo, làm theo, khơng theo là bất hiếu. Và người ta
khen: “kẻ thờ cha mẹ ở địa vị cao không kiêu căng, ở địa vị thấp không làm
loạn, ở chỗ xấu xa không tranh giành”

18


Ba giềng mối đó khơng thể thay đổi: Vua là dương, tôi là âm, cha là dương,
con là âm.... Học thuyết NG của ông đã khẳng định 4 loại quyền lực để duy trì
trong xhpk là: thần quyền, chính quyền, tộc quyền, phu quyền.
Ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín là năm đức cơ bản của con người.
Thường – bất biến, vĩnh hằng=> tc+nt => đạo cương thường,bất biến, vĩnh
hằng của NG.
“Cương Thường” là nguyên tắc chi phối suy nghĩ à hành động của con người
trong XHPK. Nó đã tở thành khuân vàng thước ngọc để đánh giá phẩm hạnh
của con người. Đạo “cương – thường” có tính hai mặt. Một mặt, nó góp phần
điều chỉnh hành vi của con người, đưa con người vào khuân phép của lễ pháp
được đặt ra trong xã hội (từ nhà Chu đến của nó, đó là nó trở thành sợi dây trói
buộc con người, làm mất tính sáng tạo trong suy nghĩ, hành động của con
người, làm cho con người trở nên thụ động, thậm chí bắt con người chấp hành
vơ điều kiện những chuẩn mực đạo đức nghiệt ngã đó.
Tiếp theo, cũng là một trong hai tư tưởng lớn của Trung Hoa bên cạnh Nho
chính là Đạo Giáo, vốn đã ln tồn tại, hình thành qua một quá trình dài, thâu
nhập nhiều trào lưu thượng cổ khác. Đạo giáo thâu nhập nhiều tư tưởng đã phổ
biến từ thời Nhà Chu (1040-256 trước CN). Thuộc về những tư tưởng này là vũ
trụ luận về thiên địa, ngũ hành, bát quái, tứ tượng, thuyết về năng lượng, chân
khí), thuyết âm dương và Kinh Dịch. Nhưng, ngoài chúng ra, những truyền
thống tu luyện thân tâm như điều hồ hơi thở, Thái cực quyền, Khí cơng, Thiền
định, thiết tưởng linh ảnh, thuật luyện kim và những huyền thuật cũng được

hấp thụ với mục đích đạt trường sinh bất tử. Việc tu luyện đạt trường sinh có
bắt nguồn có lẽ từ những khái niệm rất cổ xưa, bởi vì trong Nam Hoa chân
kinh của Trang Tử, một tác phẩm trứ danh của Đạo giáo thế kỉ thứ 4 trước CN
thì các vị tiên trường sinh bất tử đã được nhắc đến, và đại diện tiêu biểu cho họ

19


chính là Hồng Đế và Tây Vương Mẫu, những hình tượng đã có trong thời nhà
Thương, thiên niên kỉ 2 trước CN.
Đạo giáo thờ "Đạo" và tôn Lão Tử làm giáo chủ, gọi là "Thái Thượng Lão
Quân", coi ông là hóa thân của "Đạo" giáng sinh xuống cõi trần. Nếu mục đích
của việc tu theo Phật giáo là thốt khổ thì mục đích của việc tu theo Đạo giáo
là sống lâu. Đạo giáo có hai phái: Đạo giáo phù thủy dùng các pháp thuật trừ tà
trị bệnh, chủ yếu giúp cho dân thường khỏe mạnh; Đạo giáo thần tiên dạy tu
luyện, luyện đan, dành cho các quý tộc cầu trường sinh bất tử. Kinh điển của
Đạo giáo gọi là Đạo tạng kinh; ngoài sách về nghi lễ, giáo lý, Đạo tạng cịn bao
gồm cả các sách thuốc, dưỡng sinh bói toán, tướng số, coi đất, thơ văn, bút
ký… tổng cộng lên đến trên 50 vạn quyển.
Đạo giáo thần tiên hướng tới việc tu luyện thành thần tiên trường sinh bất tử.
Tu tiên có hai cách: nội tu và ngoại dưỡng. Ngoại dưỡng là dùng thuốc trường
sinh, gọi là kim đan (hay linh đan, thu được trong lò bằng cách luyện từ một số
khống chất như thần sa, hùng hồng, từ thạch, vàng). Nội tu là rèn luyện thân
thể, dùng các phép tịch cốc (nhịn ăn), dưỡng sinh, khí cơng… lấy thân mình
làm lị luyện, luyện tinh thành khí, luyện khí thành thần, luyện thần trở về hư
vô (Đạo). Con người cũng như vạn vật là từ "Đạo" mà sinh ra; cho nên tu luyện
là trở về với "Đạo".
Trong tín ngưỡng Đạo Giáo cũng thường hay nhắc tới các vị Tiên và việc
thờ cúng các vị Tiên là thể hiện sự kính trọng với họ. Tuy nhiên, ở trong lý
luận triết học Đạo giáo thì lại khơng quan trọng về vấn đề này.

Tác phẩm đầu tiên có giá trị đúc kết các tư tưởng của Đạo giáo ra đờivào
thế kỉ thứ 4 trước CN, tác phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử xuất hiện. Từ đó,
các tên gọi khác của Đạo giáo còn được biết đến với cái tên là Lão giáo, Đạo
Lão, Đạo Hoàng Lão, hay Đạo gia, Tiên Giáo.

20


Đạo trong sự trình bày của Lão Tử (609 trước CN) là một khái niệm trừu
tượng chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một cách tự nhiên: "Người thuận Đất, Đất
thuận Trời, Trời thuận Đạo, Đạo thuận Tự nhiên". Nó là nguồn gốc của vạn vật.
Đức là biểu hiện cụ thể của Đạo trong từng sự vật. Đạo sinh ra vạn vật, nhưng
làm cho vật nào hình thành ra vật ấy và tồn tại được trong vũ trụ là do Đức.
Nếu Đạo là cái Tĩnh vơ hình thì Đức là cái Động hữu hình của Đạo. Nếu Đạo
là bản chất của vũ trụ thì Đức là sự cấu tạo và tồn tại của vũ trụ
Sự sinh hóa từ Đạo ra Đức, từ Đức trở về Đạo ở Lão Tử thấm nhuần sâu sắc
tinh thần biện chứng âm dương. Được chi phối bởi luật quân bình âm dương,
vạn vật tồn tại theo lẽ tự nhiên một cách rất hợp lý, công bằng, chu đáo, và do
vậy mà mầu nhiệm. Hợp lý, vì theo Lão Tử, lẽ tự nhiên giống như việc giương
cung, cao thì ghìm xuống, thấp thì nâng lên. Cơng bằng, vì nó ln bớt chỗ
thừa mà bù vào chỗ thiếu. Chu đáo, vì nó như cái lưới trời lồng lộng, tuy thưa
mà khó lọt. Bởi vậy mà nó mầu nhiệm tới mức không cần tranh mà chiến thẳng,
không cần nói mà ứng nghiệm. Mọi sự bất cập hay thái quá đều trái với lẽ tự
nhiên, và do vậy sẽ tự điều chỉnh theo luật âm dương chuyển hóa: "vật hễ bớt
thì nó thêm, thêm thì nó bớt".
Từ đây, Lão Tử suy ra triết lý sống tối ưu là muốn làm việc gì, phải đi từ
điểm đối lập, phải vơ vi (khơng làm). Vơ vi khơng có nghĩa là hồn tồn khơng
làm gì, mà là hịa nhập với tự nhiên, đừng làm gì thái quá. Vì làm thái quá thì
theo luật âm dương "vật cực tắc phản", kết quả thu được cịn tệ hại hơn là hồn
tồn khơng làm gì. Triết lý vô vi áp dụng vào đời sống cá nhân là "chỉ vì khơng

tranh nên thiên hạ khơng ai tranh nổi với mình". Áp dụng vào đời sống xã hội,
Lão Tử không tán thành lối cai trị cưỡng chế, áp đặt đương thời, ơng nói muốn
dân n ổn thì cai trị một nước phải "giống như kho một nồi cá nhỏ": cá nhỏ
nên để yên, không cạo vẩy, không cắt bỏ ruột, khi kho không quấy đảo – cạo,
21


cắt, khuấy đảo chỉ tổ làm cho cá nát. Đạo chẳng phải cái gì khác ngồi sự phạm
trù hóa triết lý tơn trọng tự nhiên; cịn Đức chính là sự phạm trù hóa luật âm
dương biến đổi. Khổng thì "nhập thế", "hữu vi", cịn Lão thì "xuất thế", "vơ vi".
Hegel từng nhận xét rằng tư tưởng của đạo Khổng thì nghèo nàn, còn Lão Tử
mới xứng đáng là người đại diện cho tinh thần phương Đông cổ đại.[1]
Trong khi đạo của Khổng Tử hết sức thực tế vẫn không được dùng thì dễ
hiểu là triết lý của Lão Tử càng khơng thể được sử dụng. Lão Tử phàn nàn:
"Lời nói của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm, thế mà thiên hạ không ai hiểu, không ai
làm".
Mãi đến Trang Tử (khoảng 369 – 286 tr.CN), học thuyết của Lão Tử mới lại
được người đời chú ý.
Trong lĩnh vực nhận thức, phát triển tư tưởng biện chứng của Lão Tử, Trang
Tử đã tuyệt đối hóa sự vận động, xóa nhịa mọi ranh giới giữa con người với
thiên nhiên, giữa phải và trái, giữa tồn tại và hư vô, đẩy phép biện chứng tới
mức cực đoan thành một thứ tương đối luận.
Trong lĩnh vực xã hội, nếu như Lão Tử chỉ dừng ở mức khơng tán thành
cách cai trị hữu vi, thì Trang Tử căm ghét kẻ thống trị đến cực độ; ông không
chỉ bất hợp tác với họ mà còn nguyền rủa, châm biếm họ là bọn đại đạo (kẻ
trộm lớn).
Nhưng Trang Tử đẩy phép vô vi với chủ trương sống hịa mình với tự nhiên
của Lão Tử tới mức cực đoan thành chủ yếm thoát thế tục, trở về xã hội nguyên
thủy: "Núi không đường đi, đầm không cầu thuyền, mn vật sống chung, làng
xóm liên tiếp cùng ở với cầm thú".


22


Trong cảnh loạn li cuối thời Đông Hán (thế kỷ thứ 2), tư tưởng của Lão Tử
cộng với chất duy tâm mà Trang Tử đưa vào đã trở thành cơ sở cho việc thần
bí hóa đạo gia thành Đạo giáo. Chủ trương vô vi cùng với thái độ phản ứng của
Lão – Trang đối với chính sách áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị khiến cho
Đạo giáo rất thích hợp để dùng vũ khí tinh thần tập hợp nông dân khởi nghĩa.
Sau này, Đạo giáo đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực chính trị, kinh tế, triết học,
văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, dưỡng sinh, y khoa, hoá học, vũ thuật và địa
lý.
Tiếp đến, ta nói về một tư Tưởng lớn đến từ Ấn Độ, mặc dù không được
phát triển ở nơi tư tưởng ấy khởi sinh, nhưng lại phát triển vô cùng mạnh tại
Trung Hoa, Phật Giáo.
Ba truyền thống tư tưởng nội sinh (Nho-Lão) và ngoại nhập (Phật) này đã
ảnh hưởng rất lớn đến nền tảng văn hố Trung Quốc. Mặc dù có rất nhiều quan
điểm khác biệt nhưng cả ba giáo lý này đã hoà hợp thành một truyền thống.
Ảnh hưởng của Tam giáo trong lĩnh vực tơn giáo và văn hố vượt khỏi biên
giới Trung Quốc, được truyền đến các nước lân cận như Việt Nam, Triều Tiên,
Đài Loan và Nhật Bản.
Những tư tưởng của Đức Phật về sự giải thốt khi đó được số đơng dân
chúng Trung hoa tiếp nhận. Trong hồn cảnh binh đao liên miên, tinh thần từ bi
của Phật đà thực sự là những gì bá tánh cần, rất nhanh chóng, Phật giáo chiếm
được tình yêu của nhân dân Trung Hoa. Hơn nữa, sự giải thoát của Đức Phật
khác sự giải thoát xuất thế gian của giáo lý Vệ Đà của người Ấn Độ mà chúng
ta sẽ bàn ở phần sau. Đức Phật chủ trương nhập thế, Bồ Tát giáo hóa chúng
sinh ngay trong cảnh đời nghiệt ngã, người tu tại gia cũng tu được mà tu xuất
thế gian cũng được. Nói chung, Đạo Phật dung hịa được các tư tưởng Trung
Hoa, chủ trương giải quyết các vấn đề rất thật của sự sống. Đức Phật cũng

23


thuyết về pháp Duyên Khởi, vạn pháp từ duyên sinh, vạn pháp từ duyên diệt, rẩ
hòa hợp với thuyết Âm Dương, Ngũ Hành của người Trung Hoa. Thật bất ngờ
rằng ba con người Khổng Tử, Lão Tử, Tất Đạt Đa Cồ Đàm sinh ra trong cùng
một thời. Không gặp nhau, nhưng giáo lý của họ lại dung hòa với nhau đến lạ.
Có lẽ vì họ đều chủ trương tìm ra câu trả lời chung cho vấn đề chung của nhân
dân.Sự dung hợp và kéo dài từ thế kỷ I đến thế kỷ XIII, khi Tam giáo đã làm
xong quá trình thấm quyện vào nhau, tự điều chỉnh, hình thành các xu hướng
mới – và ba phái đều xác định được vai trị xã hội của mình, phân cơng phân
vùng với nhau trong đời sống văn hóa xã hội. Nho giáo chi phối cách tổ chức
nhà nước và xã hội, giáo dục thi cử, có tác dụng quyết định đến luân lý. Phật
giáo và Đạo giáo chi phối trong đời sống hàng ngày và sinh hoạt kinh tế nông
nghiệp của người dân. Người dân tin ở Trời, bái Thần linh và thờ cúng tổ tiên,
Đức Phật cùng với những bậc thánh hiền của Nho giáo.
Trong một cuốn sách của Nho giáo thời Chiến Quốc tên Đại học, có một
đoạn cũng rất giống pháp môn tu hành sử dụng Giới Định Tuệ của Đức Phật.
Đại Học nguyên là một chương trong Lễ Ký được viết thành sách trong khoảng
thời gian từ thời chiến quốc đến thời Tần Hán, được xem là một trong những
sách chủ yếu của Nho gia. Tác giả của Đại Học là ai hiện nay vẫn chưa xác
định rõ, có người cho là của Tử Tư viết, nhưng Chu Hy đời Tống lại cho là của
Tăng Tử viết. Bởi Chu Hy cho rằng Tăng Tử là học trò của Khổng Tử nên
Tăng Tử ghi chép lại lời của Khổng Tử là hợp đạo lý. Và đa số người ta tin vào
giả thiết này hơn.
“Đạo học lớn cốt để phát huy đức sáng, đức tốt đẹp của con người, đổi mới
khiến lòng dân bỏ cũ theo mới, bỏ ác theo thiện, khiến mọi người đạt đến mức
độ đạo đức hoàn thiện nhất. Có hiểu được phải đạt đến mức độ đạo đức hồn
thiện nhất thì mới kiên định chí hướng. Chí hướng kiên định rồi, tâm mới yên
tĩnh. Tâm yên tĩnh rồi, lòng mới ổn định. Lòng ổn định rồi, suy nghĩ sự việc

24


×