Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Quan điểm lịch sử cụ thể và ý nghĩa của nó đối với quá trình đổi mới kinh tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 108 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
------------

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ - CỤ THỂ VÀ Ý NGHĨA CỦA NĨ
ĐỐI VỚI Q TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành

: Triết học

Mã số

: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Đức Luận

HÀ NỘI - 2016



2

Luận văn đã được chỉnh sửa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ.

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

TS. Trần Hải Minh


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng những nội dung trình bày trong luận văn này là
cơng trình nghiên cứu của tôi, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giảng viên:
TS. Nguyễn Đức Luận. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này
là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất cứ cơng trình nghiên cứu
nào trước đây. Ngồi ra, đề tài cịn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng
như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác, và đã được thể hiện trong
phần tài liệu tham khảo, trích dẫn rõ ràng tên tác giả, tên cơng trình, thời gian,
địa điểm cơng bố. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tơi xin hồn tồn
chịu trách nhiệm trước Hội đồng, cũng như kết quả luận văn của mình.
Hà Nội, ngày…... tháng…..năm 2016
Học viên

NGUYỄN THỊ THU HUYỀN


4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ - CỤ THỂ
VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM ............................... 8
1.1. Cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử - cụ thể .......................................... 8
1.2. Nội dung quan điểm lịch sử - cụ thể ..................................................... 34
1.3. Một số vấn đề lý luận về đổi mới kinh tế theo quan điểm lịch sử - cụ thể . 45
Chương 2:Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ THỂ ĐỐI VỚI
QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............... 48
2.1. Điều kiện lịch sử - cụ thể ảnh hưởng đến quá trình đổi mới kinh tế ở
Việt Nam ...................................................................................................... 48
2.2. Quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể trong quá trình đổi mới kinh tế ở
Việt Nam từ năm 1986 đến nay ................................................................... 58
2.3. Phương hướng và một số giải pháp phát huy quan điểm lịch sử - cụ thể
trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay ..................................... 80
KẾT LUẬN .................................................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 99
TÓM TẮT LUẬN VĂN .............................................................................. 104


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Các sự vật, hiện tượng trong thế giới tồn tại trong mối liên hệ tác động
lẫn nhau và trong sự vận động phát triển không ngừng, được chủ nghĩa Mác Lênin khái quát thành nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự
phát triển. Đây chính là cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử - cụ thể. Đây là
một quan điểm, một nguyên tắc rất quan trọng trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn. Quán triệt quan điểm này sẽ giúp chúng ta tránh được sai lầm chủ

quan duy ý chí, máy móc giáo điều.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là lãnh đạo q
trình cải tạo, xây dựng nền kinh tế, đã có lúc Đảng ta chưa thực sự quán triệt
quan điểm lịch sử - cụ thể và các nguyên tắc, quan điểm có ý nghĩa phương pháp
luận mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra. Tình trạng xa rời quan điểm lịch sử cụ thể và các nguyên tắc, quan điểm phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng đặc biệt thể hiện rõ nét trong thời kỳ trước đổi mới, khiến cho nền
kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng, trì trệ. Trước thực trạng đó, năm 1986, tại
Đại hội VI, Đảng ta đã đề ra chủ trương đổi mới toàn diện, lấy đổi mới kinh tế
làm trọng tâm. Nhìn chung, quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta từ năm 1986 trở
đi, đã thực sự xuất phát từ điều kiện lịch sử - cụ thể của đất nước, bám sát vào
các nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính vì vậy nước
ta đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử đúng khẳng định của Đảng ta
tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII năm 2016.
Hiện nay, Chủ nghĩa xã hội đang lâm vào thoái trào tạm thời, Chủ
nghĩa tư bản thì lại đang đạt được những thành tựu lớn về kinh tế, về khoa
học - công nghệ và có khả năng sẽ tiếp tục phát triển ổn định. Cuộc cách
mạng khoa học - cơng nghệ và q trình tồn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ,
mang đến cả thời cơ và thách thức cho tất cả các nước, nhất là các nước đang


2

phát triển, trong đó có Việt Nam. Q trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay
không thể không chú ý đến bối cảnh hiện thực này.
Sau 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
nền kinh tế nhìn chung tăng trưởng ổn định và ở mức cao so với nhiều nước
trong khu vực và thế giới, nước ta đã trở thành nước có thu nhập trung bình, đời
sống nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta vẫn còn nhiều hạn
chế: tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào khai thác và xuất khẩu tài nguyên thô
cùng với nguồn nhân lực giá rẻ, chưa thực sự dựa vào khoa học công nghệ hiện

đại và nguồn nhân lực chất lượng cao; tình trạng tham nhũng, lãng phí trong các
hoạt động kinh tế là tương đối phổ biến và ngày càng phức tạp; nền kinh tế phát
triển chưa thực sự bền vững, bất bình đẳng thu nhập có xu hướng tăng cao, ơ
nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng;...
Để phát huy những thành quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế và
giải quyết được các vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế, đòi hỏi
chúng ta phải tiếp tục vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, quán triệt
quan điểm lịch sử cụ thể, quá trình đổi mới kinh tế hiện nay phải tiếp tục bám
sát vào thực tiễn, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh của đất nước và thời đại.
Tình hình đó cho thấy, việc qn triệt quan điểm lịch sử - cụ thể có ý nghĩa
rất lớn đối với quá trình đổi mới ở nước ta nói chung, đổi mới kinh tế ở nước
ta nói riêng, chính vì vậy, tơi quyết định lựa chọn vấn đề: “Quan điểm lịch
sử - cụ thể và ý nghĩa của nó đối với q trình đổi mới kinh tế ở Việt nam
hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến điểm lịch sử - cụ thể
Quan điểm lịch sử - cụ thể là một trong số những nguyên tắc phương
pháp luận của phép biện chứng duy vật, nó đã trở thành cơ sở lý luận để các
nhà khoa học vận dụng vào quá trình nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Quan
điểm này đã được nhiều cơng trình đề cập đến với các mức độ khác nhau.
Điển hình là những cơng trình dưới đây:


3

- Lịch sử phép biện chứng (6 tập) của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xơ
(Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998). Trong đó, tập V- Phép biện chứng
Mácxit (giai đoạn V.I.Lênin) có nêu quan điểm lịch sử - cụ thể của V.I.Lênin
trong việc nhận thức hiện thực trong thời kì sau Cách mạng tháng Mười
(1917), chỉ ra rằng, V.I.Lênin đã nghiên cứu và vận dụng quan điểm này ở tất

cả các giai đoạn quan trọng nhất của phong trào cách mạng, của sự chuẩn bị
và tiến hành Cách mạng tháng Mười và của thời kỳ quá độ, đấu tranh không
mệt mỏi chống lại mọi sự xa rời cách hiểu biện chứng về nó.
- Phép biện chứng duy vật (Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1962) cũng đề cập
đến quan điểm lịch sử - cụ thể trên cơ sở rút ra từ việc trình bày một cách hệ
thống nội dung của phép biện chứng duy vật, bao gồm: 2 nguyên lý, 3 quy
luật và 6 cặp phạm trù. Tuy nhiên, quan điểm lịch sử - cụ thể chỉ được đề cập
ngắn gọn, mang tính chất là ý nghĩa phương pháp luận.
- Vấn đề triết học trong tác phẩm của C.Mác - Ph.Ăngghen, V.I.Lênin,
(Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2003). Cơng trình này đã khái qt những nội
dung cơ bản của quan điểm lịch sử - cụ thể trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận của nó.
Nhìn chung, qua tham khảo những tài liệu trên thì thấy rằng những
cơng trình nghiên cứu lý luận đó đã đề cập đến nhiều vấn đề, trên nhiều phạm
vi tiếp cận khác nhau, tuy nhiên, quan điểm lịch sử - cụ thể chưa thực sự được
khai thác sâu mà chỉ được nêu ra một cách ngắn gọn, khái quát trong khuôn
khổ nghiên cứu về phép biện chứng duy vật.
2.2. Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến quá trình đổi mới kinh
tế ở Việt Nam hiện nay
Đổi mới kinh tế là một nội dung cơ bản nhất của quá trình đổi mới tồn
diện ở Việt Nam, vì vậy, vấn đề này đã được đề cập đến trong nhiều cơng trình
nghiên cứu khác nhau. Điển hình là những cơng trình nghiên cứu dưới đây:
- Tư duy kinh tế Việt Nam 1975 – 1989, của Đặng Phong (Nxb. Tri
Thức, Hà Nội, 2012).


4

- Kinh tế Việt Nam đổi mới, của tập thể tác giả Nguyễn Văn Chỉnh, Vũ
Quang Việt, Trần Vân, Lê Hoàng, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2002).
- Vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay,

của tác giả Nguyễn Đức Luận (Tạp chí Triết học, số 7, 2008).
- Mấy vấn đề về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta hiện nay,
của Lương Đình Hải (Tạp chí Triết học, số 7, 2010).
- Công cuộc đổi mới ở Việt Nam, đặc trưng và triển vọng, của Nguyễn
Hữu Đễ (Tạp chí Triết học, số 3, 2010).
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của lý luận đối với
thực tiễn và sự vận dụng quan điểm đó trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt
Nam hiện nay, của Đỗ Thu Hằng, luận văn Thạc sĩ Triết học, khoa Triết học,
Học viện Báo chí và tuyên truyền, 2014).
- 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam của Đinh Thế Huynh (Nxb.
Chính trị Quốc gia, 2015).
Những cơng trình trên đã dựa trên nhiều cơ sở phương pháp luận khác
nhau để làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những thành
tựu, hạn chế trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, chưa có
cơng trình nào thực sự tập trung làm rõ ý nghĩa của quan điểm lịch sử - cụ thể
trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay.
2.3. Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến ý nghĩa của quan điểm
lịch sử - cụ thể đối với quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Trong quá trình nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, tác giả nhận thấy đã có
nhiều cơng trình nghiên cứu liên quan đến ý nghĩa của quan điểm lịch sử - cụ
thể đối với quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay, như:
- Phép biện chứng duy vật và công cuộc đổi mới ở Việt Nam, của Ngô
Thành Dương (Nxb. Lí luận chính trị, Hà Nội, 2007). Cơng trình này tập
trung làm rõ phép biện chứng duy vật trong quan điểm của C.Mác,


5

Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh, lý do Đảng tiến hành công cuộc đổi
mới ở nước ta, giải quyết mối quan hệ biện chứng trong công cuộc đổi mới.

- Triết học với sự nghiệp đổi mới, của tập thể tác giả Phạm Thành, Lê Hữu
Tầng, Hồ Văn Thông (Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990). Cơng trình này tập trung
làm rõ vai trò của triết học Mác - Lênin trong quá trình đổi mới cũng như tính
triết học thể hiện trong các chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng ta.
- Phép biện chứng duy vật với việc khắc phục những sai lầm trong tư
duy ở nước ta, của tác giả Đinh Cảnh Nhạc (Tạp chí Triết học, 1999). Cơng
trình này tập trung làm rõ vai trò của phép biện chứng duy vật trong việc khắc
phục những sai lầm, đặc biệt là tính chất siêu hình, máy móc, giáo điều trong
tư duy ở nước ta nói chung, trong đó có tư duy kinh tế.
- Vai trò của phép biện chứng duy vật trong việc tổ chức, thực hiện
đường lối, nghị quyết của Đảng, của tác giả Đinh Cảnh Nhạc (Tạp chí Giáo dục
lí luận, 2001). Cơng trình này khơng đề cập nhiều đến vai trò của phép biện
chứng duy vật trong quá trình xây dựng đường lối, nghị quyết của Đảng mà chỉ
tập trung làm rõ vai trò của phép biện chứng duy vật trong quá trình tổ chức,
thực hiện đường lối, nghị quyết đó. Với cơng trình này, tác giả Đinh Cảnh Nhạc
muốn nhấn mạnh rằng, các chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng chỉ thực sự
đi vào cuộc sống, có tác dụng thúc đẩy tồn bộ đời sống xã hội nói chung, lĩnh
vực kinh tế nói riêng, nếu chúng ta quán triệt tốt phép biện chứng duy vật trong
quá trình tổ chức, thực hiện các chủ trương, đường lối đó.
Các cơng trình trên chủ yếu đề cập đến vai trò của phép biện chứng duy
vật đối với quá trình đổi mới nói chung, đổi mới kinh tế nói riêng, chưa có
cơng trình nào tập trung làm rõ ý nghĩa của quan điểm lịch sử - cụ thể đối với
quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay. Do vậy, chúng tôi nhận thấy việc
nghiên cứu quan điểm lịch sử - cụ thể và ý nghĩa của nó đối với q trình đổi
mới kinh tế ở nước ta hiện nay là rất cần thiết, thực sự có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn.


6


3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận về
quan điểm lịch sử - cụ thể và ý nghĩa của quan điểm đó đối với quá trình đổi
mới kinh tế ở nước ta, đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm vận
dụng hiệu quả hơn nữa quan điểm đó trong q trình đổi mới kinh tế ở nước
ta hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu sau:
Một là, làm rõ nội dung và cơ sở của quan điểm lịch sử - cụ thể.
Hai là, làm rõ ý nghĩa của quan điểm lịch sử - cụ thể trong quá trình đổi
mới kinh tế ở nước ta từ năm 1986 đến nay.
Ba là, đề xuất phương hướng và một số giải pháp nhằm vận dụng quan
điểm lịch sử - cụ thể trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan điểm lịch sử - cụ thể và ý
nghĩa của nó trong q trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là quan điểm lịch sử - cụ thể và ý nghĩa
của nó trong q trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam và các tài liệu, sách báo, tạp chí
liên quan đến quan điểm lịch sử - cụ thể và ý nghĩa của quan điểm lịch sử - cụ
thể trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay.
Luận văn sử dụng tổng hợp các nguyên tắc, quan điểm của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là quan điểm lịch sử
- cụ thể; đồng thời, sử dụng phương pháp so sánh, phân tích – tổng hợp, kết
hợp lịch sử - lơgic,...


7


6. Cái mới của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ ý nghĩa của quan điểm lịch sử - cụ thể trong
quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hóa quan điểm lịch sử - cụ thể;
- Luận văn góp phần làm rõ ý nghĩa của quan điểm lịch sử - cụ thể
trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam hiện nay;
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
những vấn đề có liên quan.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 02 chương, 06 tiết.


8

Chương 1
MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ - CỤ THỂ
VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1.1. Cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử - cụ thể
Bản chất thế giới là vật chất, các sự vật hiện tượng trong thế giới tồn tại
trong mối liên hệ tác động lẫn nhau và luôn vận động, phát triển khơng
ngừng. Trạng thái tồn tại đó của thế giới được các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin khái quát thành nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và
nguyên lý về sự phát triển. Đây chính là cơ sở lý luận để khái quát nên quan
điểm lịch sử - cụ thể.
1.1.1. Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật
Trên cơ sở kế thừa các giá trị về tư tưởng biện chứng trong kho tàng
của lý luận nhân loại, đồng thời, khái khát những thành tựu mới nhất của khoa

học tự nhiên thế kỉ XIX (khoa học về các quá trình, về nguồn gốc, về mối liên
hệ và sự phát triển), phép biện chứng duy vật đã phát hiện ra nguyên lí về mối
liên hệ phổ biến của các sự vật về hiện tượng trong thế giới, coi đây là đặc
trưng cơ bản của phép biện chứng duy vật. Ph.Ăngghen viết: “Phép biện
chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” [35; tr.201]
1.1.1.1. Khái niệm mối liên hệ
Các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có
mối hệ, ảnh hưởng, tác động qua lại với nhau hay chúng tồn tại biệt lập, tách
rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó?
Trong lịch sử triết học, để trả lời những câu hỏi đó ta thấy có nhiều quan điểm
khác nhau.
Trả lời câu hỏi thứ nhất, những người theo quan điểm siêu hình cho
rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên
cạnh cái kia. Chúng không có sự ràng buộc, khơng có sự phụ thuộc và quy


9

định lẫn nhau. Nếu giữa chúng có sự quy định lẫn nhau thì cũng chỉ là những
quy định bề ngồi, mang tính ngẫu nhiên.
Tuy vậy, trong số những người theo quan điểm siêu hình cũng có 1 số
người cho rằng, các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ với nhau và mối liên hệ
rất đa dạng, phong phú, song các hình thức liên hệ khác nhau khơng có khả
năng chuyển hóa lẫn nhau. Chẳng hạn, họ cho rằng, giới vơ cơ và giới hữu cơ
khơng có liên hệ gì với nhau. Thậm chí, họ cịn cho rằng, tổng số đơn giản
của những con người đơn lẻ tạo thành xã hội,…
Trái lại, những người theo quan điểm biện chứng cho rằng, các sự vật
hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc lập, vừa quy định, tác
động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau
Trả lời câu hỏi thứ hai, những người theo chủ nghĩa duy tâm chủ quan

và chủ nghĩa duy tâm khách quan trả lời rằng, cái quyết định mối liên hệ, sự
chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự
nhiên hay ở ý thức, cảm giác của con người.
Những người theo quan điểm duy vật biện chứng khẳng định tính thống
nhất vật chất của thế giới là cơ sở của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng.
Các sự vật, hiện tượng tạo thành thế giới, dù có đa dạng, phong phú, có khác
nhau bao nhiêu, song chúng đều chỉ là những dạng khác nhau của một thế giới
duy nhất, thống nhất - thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất đó, chúng khơng
thể tồn tại biệt lập, tách rời nhau, mà tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển
hóa lẫn nhau theo những quan hệ xác định. Chính trên cơ sở đó, triết học duy vật
biện chứng đi đến khẳng định: Liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy
định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng
hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
Mối liên hệ trong thế giới rất phong phú, đa dạng. Phép biện chứng duy
vật chỉ tập trung làm rõ những mối liên hệ phổ biến, tồn tại ở mọi sự vật, hiện
tượng của thế giới. Đó chính là mối liên hệ giữa cái chung – cái riêng, nguyên


10

nhân – kết quả, tất nhiên – ngẫu nhiên, nội dung – hình thức, bản chất - hiện
tượng, khả năng – hiện thực.
Những mối liên hệ riêng biệt, đặc thù, tồn tại ở trong các bộ phận, các
lĩnh vực khác nhau của thế giới, là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa
học khác. Chẳng hạn, mối liên hệ giữa đồng hóa - dị hóa, di truyền - biến dị là
đối tượng nghiên cứu của sinh học; mối liên hệ giữa các con số là đối tượng
nghiên cứu của toán học; mối liên hệ giữa các nguyên tố hóa học là đối tượng
nghiên cứu của Hóa học;...
Các mối liên hệ có vai trị rất quan trọng, thơng qua những mối liên hệ
mà sự vật vận động, phát triển; thông qua các mối liên hệ mà sự vật bộc lộ

bản chất để chúng ta nhận thức. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu mối
liên hệ có ý nghĩa rất lớn, giúp chúng ta thấy được sự vận động, phát triển
cũng như bản chất của các sự vật, hiện tượng.
1.1.1.2. Các mối liên hệ phổ biến
- Mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng:
Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng hay một quá
trình riêng lẻ nhất định. Cái chung là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những
thuộc tính chung khơng chỉ có ở một kết cấu vật chất nào đó, mà cịn được lặp
đi lặp lại, ở trong nhiều sự vật, quá trình riêng lẻ hay trong nhiều hiện tượng.
Cái chung và cái riêng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó
cái riêng bao hàm cái chung, phong phú hơn cái chung và là cái để phân biệt
giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác, còn cái chung là
một bộ phận của cái riêng, tồn tại thông qua cái riêng, sâu sắc hơn cái
riêng, quy định bản chất của sự vật, hiện tượng. Khi phân tích về mối liên
hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, V.I.Lênin viết: “… Cái riêng
chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong
cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng (nào cũng) là cái chung.


11

Bất cứ cái chung nào cũng là một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản
chất của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại
khái tất cả mọi mọi sự vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia
nhập đầy đủ vào cái chung… Bất cứ cái riêng nào cũng thông qua hàng
nghìn sự chuyển hóa mà liên hệ với những cái riêng thuộc loại khác (sự
vật, hiện tượng, quá trình)” [30; tr.381].
- Mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả:
Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một
sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau từ đó tạo ra sự biến

đổi nhất định. Kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn
nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra.
Mối liên hệ nhân quả là một bộ phận của mối liên hệ phổ biến, nhưng
không phải mối liên hệ chủ quan mà là mối liên hệ của hiện thực khách quan.
V.I.Lênin viết: “Nguyên nhân và kết quả… chỉ là những vòng khâu của sự
phụ thuộc lẫn nhau phổ biến, của liên hệ (phổ biến), của sự liên kết lẫn nhau
của những sự biến, chỉ là những mắt khâu trong sợ dây chuyền phát triển của
vật chất” [30; tr.168].
Nguyên nhân và kết quả có mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác
động lẫn nhau, trong đó, nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng kết quả khơng
thụ động mà có tác động trở lại ngun nhân.
Khơng có hiện tượng nào khơng có ngun nhân. Bất cứ hiện tượng
nào của tự nhiên hay xã hội cũng đều bị ràng buộc bởi một hay những nguyên
nhân nhất định, cũng đều là kết quả của nguyên nhân này hay nguyên nhân
khác. Nguyên nhân có trước kết quả, nguyên nhân bao giờ cũng sản sinh ra
một kết quả nhất định. Sự phụ thuộc nhân quả là mối liên hệ tất nhiên.
Nguyên nhân sinh ra kết quả bao giờ cũng thông qua những điều kiện,
hồn cảnh cụ thể. Điều kiện khơng trực tiếp sinh ra kết quả, nhưng là cái tất


12

yếu không thể thiếu để biến những khả năng được chứa đựng trong nguyên
nhân thành kết quả hiện thực.
Trong mối liên hệ nhân quả, nguyên nhân sinh ra kết quả. Song, khơng
phải chỉ có sự tác động một chiều từ ngun nhân đến kết quả, mà kết quả cịn
có sự tác động trở lại nguyên nhân, làm cho nguyên nhân đã sinh ra nó cũng
biến đổi. Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân thường ít bộc lộ
ra bên ngồi nên khó thấy, khó nhận ra. Trong sự tác động lẫn nhau phổ biến
trong sợi dây chuyền phát triển của sự vật, nguyên nhân và kết quả thay đổi vị

trí cho nhau, chuyển hóa lẫn nhau, cái là kết quả trong thời gian này hoặc
trong mối liên hệ này lại có thể là nguyên nhân trong thời gian khác hoặc
trong mối liên hệ khác. Ph.Ăngghen viết: “Ngun nhân và kết quả ln thay
đổi vị trí cho nhau, cái ở đây hay bây giờ là kết quả thì ở chỗ khác hay lúc
khác lại trở thành nguyên nhân và ngược lại” [35; tr.22].
Ph.Ăngghen kết luận: “Muốn hiểu được những hiện tượng riêng biệt,
chúng ta phải tách chúng ra khỏi mối liên hệ phổ biến và nghiên cứu chúng
một cách riêng rẽ, và như thế thì những vận động nối tiếp nhau sẽ biểu hiện
ra, cái là nguyên nhân, cái là kết quả” [35; tr.712].
- Mối liên hệ giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:
Tất nhiên là phạm trù chỉ cái do những nguyên nhân cơ bản bên trong
của kết cấu vật chất quyết định và trong những điều kiện nhất định nó phải
xảy ra như thế chứ khơng thể khác được.
- Ngẫu nhiên là phạm trù chỉ cái do các nguyên nhân bên ngoài, do sự
ngẫu hợp của nhiều hồn cảnh bên ngồi quyết định. Do đó, nó có thể xuất
hiện hoăc khơng xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế khác.
Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà
nước, Ph.Ăngghen viết rằng: “Ngẫu nhiên chỉ là một cực của sự phụ thuộc
lẫn nhau, mà cực kia của nó là tất yếu. Trong giới tự nhiên - ở đấy tựa hồ như
tính ngẫu nhiên cũng ngự trị - thì trong mỗi lĩnh vực riêng biệt, chúng ta đã


13

từ lâu chỉ ra tính tất yếu nội tại và tính quy luật nội tại, chúng tự khẳng định
trong tính ngẫu nhiên ấy” [35; tr.719] .
Chủ nghĩa duy vật biện chứng chỉ ra rằng tất nhiên và ngẫu nhiên là
những phạm trù triết học phản ánh mối liên hệ của các sự vật, tồn tại khách
quan không phụ thuộc vào ý thức con người. Tất nhiên và ngẫu nhiên là sự
thống nhất biện chứng của những mặt đối lập. Ph.Ăngghen viết: “Cái mà

người ta quả quyết cho là tất yếu, thì lại hồn tồn do những cái ngẫu nhiên
thuần túy cấu thành. Và được coi là ngẫu nhiên lại là hình thức trong đó ẩn
nấp cái tất nhiên” [36; tr.471].
Tất nhiên và ngẫu nhiên không tồn tại cô lập mà chúng tồn tại trong sự
thống nhất hữu cơ với nhau. Khơng có tất nhiên thuần túy hây ngẫu nhiên
thuần túy. Bất cứ hiện tượng, quá trình nào cũng là sự thống nhất giữa tất
nhiên và ngẫu nhiên. Ph.Ăngghen còn chỉ ra rằng, ngẫu nhiên không những
thống nhất biện chứng với tất nhiên, là hình thức biểu hiện của tất nhiên, mà
còn là cái bổ sung cho tất nhiên, làm cho quá trình phát triển của sự vật thêm
phong phú, đa dạng.
Sự phân biệt tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có ý nghĩa tương đối. Mối
quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên còn thể hiện ở sự chuyển hóa
lẫn nhau trong những điều kiện nhất định: cái ngẫu nhiên trở thành cái tất
nhiên, hoặc cái tất nhiên trở thành cái ngẫu nhiên.
- Mối liên hệ giữa nội dung và hình thức:
Nội dung là phạm trù chỉ tồn bộ những yếu tố, những mặt, những mối
liên hệ và những quá trình tạo nên sự vật, hiện tượng. Hình thức là phạm trù
chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là cách thức tổ chức, kết cấu
của nội dung.
Ở mỗi sự vật, hiện tượng, nội dung và hình thức liên hệ chặt chẽ với
nhau, tác động lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau. Khơng có nội dung nào là
khơng có hình thức, khơng có hình thức nào là khơng có nội dung. Khơng có


14

nội dung trừu tượng, chung chung mà chỉ có nội dung của sự vật, hiện tượng,
quá trình cụ thể. Nội dung và hình thức thống nhất hữu cơ với nhau.
Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức, nội dung đóng vai trị quyết
định. Hình thức tuy phụ thuộc vào nội dung, song hình thức có tính độc lập tương

đối, tác động trở lại nội dung. Khi hình thức phù hợp với nội dung, nó thúc đẩy
nội dung phát triển mạnh mẽ, khi khơng phù hợp, nó kìm hãm nội dung.
Một đặc điểm nữa là cùng một nội dung có thể có nhiều hình thức, hoặc
ngược lại, một hình thức có thể có nhiều nội dung khác nhau. Mặc dù như
vậy, nhưng vẫn cần tuân theo quy luật: nội dung quyết định hình thức.
- Mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng:
Bản chất và hiện tượng là cặp phạm trù phản ánh những mặt khác nhau
của sự vật và những bậc thang, những trình độ khác nhau của nhận thức con
người đối với khách thể. Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm bản chất và
hiện tượng là những mặt khách quan phổ biến của các sự vật.
Bản chất là phạm trù chỉ tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ
tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát
triển của sự vật. Hiện tượng là phạm trù chỉ sự biểu hiện của những mặt,
những mối liên hệ ấy ra bên ngồi.
Nói đến bản chất là nói đến những mối liên hệ tất yếu, những mặt
tương đối ổn định, những mâu thuẫn nội tại vốn có của sự vật, nhất là mâu
thuẫn cơ bản và những thuộc tính quy định sự vật, những quy luật vận động
của sự vật. Bản chất là điểm nút của của mối liên hệ nội tại của những yếu tố,
những mặt cơ bản của sự vật. Còn hiện tượng là mặt biểu hiện ra bên ngoài
của bản chất. Khác với bản chất là cái nằm sâu kín bên trong và tương đối ổn
định, hiện tượng là cái nằm trên bề mặt của sự vật, thường xuyên biến đổi.
Phạm trù hiện tượng phản ánh sự biểu hiện của bản chất thông qua số đông
những thuộc tính và những mối liên hệ ngẫu nhiên, đơn nhất được bộc lộ ra
do kết quả sự tác động qua lại của sự vật ấy với những sự vật khác.


15

Hai phạm trù bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, không phụ
thuộc vào ý thức con người và có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Mối liên hệ đó

là mối liên hệ biện chứng của hai mặt đối lập trong một thể thống nhất, trong
đó, bản chất là cái tương đối ổn định, cái sâu sắc bên trong quy định sự tồn tại
và phát triển của sự vật, cịn hiện tượng là biểu hiện bên ngồi của bản chất,
cái biến động thường xun và có tính phong phú, đa dạng.
Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. V.I.Lênin
cho rằng bản chất hiện ra hiện tượng có tính bản chất. Bản chất nào thì hiện
tượng ấy. Bản chất bị thủ tiêu thì hiện tượng cũng bị thủ tiêu theo. Bản chất
mới xuất hiện thì hiện tượng mới cũng xuất hiện. Chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa bị thủ tiêu thì hiện tượng người bóc lột người, cạnh tranh khốc liệt,
khủng hoảng kinh tế,… cũng sẽ khơng cịn. Chủ nghĩa xã hội được thiết lập
với bản chất mới tốt đẹp, ưu việt thì cùng với nó các hiện tượng mới cũng sẽ
xuất hiện như sự cơng bằng xã hội, sự bình đẳng, sự hợp tác nhân ái giữa
những người lao động…
Chính vì có sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng trong hiện thực
khách quan nên con người có khả năng nhận thức được bản chất sâu xa, phát
hiện ra quy luật phát triển của sự vật thông qua việc nhận thức các hiện tượng
của nó. Nhận thức, theo V.I.Lênin, là quá trình “đi từ hiện tượng đến bản
chất, từ bản chất ít sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn” [30; tr.268]. Do đó nếu
tách rời hiện tượng khỏi bản chất, phủ nhận sự thống nhất của chúng, cho
rằng giữa chúng có ranh giới tuyệt đối khơng thể bỏ qua thì sẽ rơi vào sai lầm
của thuyết bất khả tri, phủ nhận khả năng nhận thức được bản chất sự vật của
con người.
Bản chất và hiện tượng vừa thống nhất, vừa đối lập với nhau. Sự đối
lập giữa bản chất và hiện tượng biểu hiện ở những khía cạnh sau:


16

(1) Sự đối lập giữa cái bên trong và cái bên ngoài.
Bản chất là cái bên trong được biểu hiện ra qua các hiện tượng bên

ngoài. Nhưng biểu hiện một cách khác nhau. Do sự tác động qua lại với nhau
giữa các sự vật và do mơi trường, hồn cảnh bên ngồi mà có hiện tượng biểu
hiện bản chất một cách trực tiếp đúng đắn, có hiện tượng biểu hiện bản chất
một cách gián tiếp, thậm chí có hiện tượng biểu hiện tựa hồ như sai lệch,
xuyên tạc bản chất. Do đó, muốn nhận thức đúng đắn, khoa học về sự vật thì
khơng được dừng lại ở một vài hiện tượng riêng lẻ mà mà cần phân tích tổng
hợp các hiện tượng, đi sâu tìm ra bản chất thực của nó, khơng được đơn giản
đồng nhất hiện tượng với bản chất. Mác viết: “Nếu hiện tượng và bản chất
của sự vật là nhất trí với nhau, thì tất thẩy khoa học sẽ trở nên thừa” [34;
tr.281]. Nếu hiện tượng nào cũng bộc lộ hồn tồn rõ rệt bản chất thì con
người chỉ dùng các giác quan là có thể nhận thức ngay được bản chất của sự
vật mà không cần đến các ngành khoa học đi sâu nghiên cứu tìm ra những
quy luật của sự vật.
(2) Sự đối lập giữa cái tương đối ổn định với cái thường xuyên biến đổi.
Bản chất của sự vật tồn tại trong suốt quá trình sự vật tồn tại. Chỉ khi
nào sự vật mất đi bản chất của nó mới thật sự thay đổi. Nhưng trong quá trình
tồn tại và phát triển của sự vật, tùy theo điều kiện khách quan mà bản chất của
nó được biểu hiện ra một cách khác nhau. Cịn hiện tượng thì ln thay đổi.
V.I.Lênin viết: “Cái khơng bản chất, cái bề ngồi, cái trên mặt thường biến
mất, khơng bám “chắc”, “ngồi vững” bằng “bản chất”. Đại để sự vận động
của một con sông, bọt ở bên trên và luồng nước sâu ở dưới. Nhưng bọt cũng
là biểu hiện của bản chất!” [30; tr.288].
Tuy nhiên, khi nói về tính ổn định, tính bền vững của bản chất thì
khơng nên xem tính ổn định ấy là sự bất biến tuyệt đối. Bản chất cũng biến
đổi nhưng sự biến đổi của nó chậm hơn so với sự biến đổi của hiện tượng.


17

V.I.Lênin viết: “Không phải chỉ riêng hiện tượng là tạm thời, chuyển động…

mà bản chất của sự vật cũng như thế” [30; tr.288].
(3) Sự đối lập giữa bản chất là cái sâu sắc hơn và hiện tượng là cái
phong phú hơn.
Chính vì vậy, nếu dừng lại ở hiện tượng bên ngồi thì khơng nhận thức
được sâu sắc sự vật mà phải tìm ra bản chất, quy luật bên trong của nó, từ đó
mới có cơ sở để giải thích mọi hiện tượng của sự vật đó.
Tóm lại, bản chất và hiện tượng vừa thống nhất vừa đối lập biện chứng
với nhau. Bản chất quy định hiện tượng, còn hiện tượng là biểu hiện của bản
chất. Nếu bản chất là các bậc thang thì hiện tượng là cái bên ngồi, phong
phú, “sặc sỡ” hơn. Nếu bản chất là cái ổn định tương đối, cái tất nhiên thì
hiện tượng là cái biến đổi, cái linh động hơn, cái ngẫu nhiên. Do đó, không
thể nắm bản chất nếu không nhận thức và phân tích các hiện tượng khác nhau
của nó; đồng thời, khơng thể hiểu đúng các hiện tượng của bản chất nếu
không đi sâu nghiên cứu bản chất, nắm vững bản chất, phải luôn xuất phát từ
bản chất để nhận thức, cải tạo sự vật; chống những biểu hiện siêu hình, tuyệt
đối hóa mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng.
- Mối liên hệ giữa khả năng và hiện thực:
Khả năng là phạm trù dùng để chỉ những gì hiện chưa có, nhưng sẽ có,
sẽ tới khi có các điều kiện tương ứng. Hiện thực là phạm trù dùng để chỉ
những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.
Khả năng là cái đang còn là mầm mống trong lòng sự vật, là cái chưa
hiện hữu, nhưng không phải là bất kì cái chưa hiện hữu nào, mà đó là cái ở
vào thời điểm đang xét thì chưa có, chưa tồn tại nhưng nhất định sẽ là cái hiện
thực trong tương lai khi có điều kiện tương ứng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong quá trình phát triển của
sự vật, khả năng trở thành hiện thực, còn hiện thực đó dưới tác động của


18


những nguyên nhân khác nhau lại sản sinh ra những khả năng mới; những khả
năng này trong những điều kiện thích hợp được thực hiện thì trở thành hiện
thực; khả năng biến thành hiện thực và hiện thực mới lại bao hàm khả năng
mới của sự phát triển. Đó là q trình phát triển vơ cùng vơ tận của thế giới
vật chất.
Khả năng và hiện thực chuyển hóa cho nhau, vì vậy khơng thể đối lập
khả năng và hiện thực song cũng không được nhầm lẫn giữa khả năng và hiện
thực. V.I.Lênin nhiều lần nhấn mạnh: “Chủ nghĩa Mác căn cứ vào những sự
thật chứ không phải dựa vào những khả năng”, “Chủ nghĩa Mác dựa vào
hiện thực chứ không phải dựa vào khả năng để vạch ra đường lối chính trị
của mình” [29; tr.472].
Mỗi sự vật trong cùng một lúc bao giờ cũng chứa đựng trong lịng nó
khơng phải một khả năng mà nhiều khả năng. Nếu khơng tính đến những khả
năng đó thì khó đề ra được phương án hành động đúng, do đó hoạt động thực
tiễn sẽ kém hiệu quả, thậm chí có thể bị thất bại.
Sự chuyển hóa khả năng thành hiện thực phải thơng qua những điểu
kiện khách quan, chủ quan nhất định. Trong tự nhiên, nhiều khả năng trở
thành hiện thực một cách tự phát, khơng cần có sự tham gia của con người.
Trái lại, trong xã hội thì khơng một khả năng nào biến thành hiện thực mà
không thông qua hoạt động tổ chức và cải tạo thực tiễn con người bởi chính
con người làm ra lịch sử. Kết hợp một cách đúng đắn điều kiện khách quan và
chủ quan là yếu tố đảm bảo thành công trong việc biến khả năng thành hiện
thực trong hoạt động thực tiễn.
Vì các mối liên hệ là sự tác động qua lại, chuyển hóa, quy định lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng nên trong nhận thức hoạt động thực tiễn, để
nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng thì địi hỏi chúng ta nhận thức về sự vật
trong mối liên hệ qua lại giữa các yếu tố, giữa các bộ phận, giữa các mặt của


19


chính sự vật và trong sự tác động qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác,
kể cả mối liên hệ trực tiếp và mối liên hệ gián tiếp.
1.1.1.3. Các tính chất của mối liên hệ
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, mối liên hệ có ba
tính chất cơ bản: Tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
- Tính khách quan của mối liên hệ
Các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng; nó khơng phụ
thuộc vào ý thức con người. Sự liên hệ phổ biến là một tính chất khách quan,
chung nhất của thế giới. Mỗi sự vật hiện tượng trên thế giới không tồn tại một
cách cô lập mà tồn tại và phát triển trong mối quan hệ không thể tách rời với
sự vật hiện tượng khác. Hêghen đã nhận ra điều này, ông đã nêu hai yêu cầu
cơ bản đối với các hình thức của tư duy là “tính tất yếu liên hệ” và “nguồn
gốc nội tại của những sự khác nhau”. Điều này được Lênin nhận xét: “Rất
quan trọng! Theo tơi, điều đó có nghĩa như sau: Mối liên hệ tất yếu, mối liên
hệ khách quan của tất cả các mặt, các lực lượng, các xu hướng...” [30; tr.106]
- Tính phổ biến của mối liên hệ.
Bất kì một sự vật, hiện tượng nào; ở bất kì khơng gian nào và ở bất kì
thời gian nào cũng có mối liên hệ với những sự vật, hiện tượng khác. Ngay
trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kì một thành phần nào, một yếu tố
nào, cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố khác. Khơng có
bất cứ sự vật, hiện tượng hay quá trình nào tồn tại một cách riêng lẻ, cô lập
tuyệt đối với các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác mà trái lại chúng tồn
tại trong sự liên hệ, ràng buộc, phụ thuộc, tác động, chuyển hóa lẫn nhau.
Khơng có bất cứ sự vật, hiện tượng nào không phải là một cấu trúc hệ thống,
bao gồm các yếu tố cấu thành với những mối liên hệ bên trong của nó, tức là
bất cứ một tồn tại nào cũng là một hệ thống mở tồn tại trong mối liên hệ với
hệ thống khác, tương tác và làm biến đổi lẫn nhau. Không chỉ trong tự nhiên,



20

mà cả trong xã hội, lẫn trong trong tư duy, các sự vật hiện tượng cũng liên hệ
tác động qua lại lẫn nhau. Khơng thể tìm bất cứ ở đâu, khi nào các sự vật,
hiện tượng lại tồn tại một cách cô lập tách rời. Chẳng hạn, trong tự nhiên cây
xanh có mối liên hệ với mơi trường (khơng khí, nhiệt độ…), cịn có mối liên
hệ với con người (con người chăm sóc cây xanh, chặt phá rừng…); trong xã
hội, khơng có người nào mà khơng có các mối quan hệ xã hội như: quan hệ
hàng xóm, gia đình, bạn bè, đồng nghiệp…, các hình thái kinh tế - xã hội
cũng có mối liên hệ với nhau, hình thái kinh tế - xã hội sau ra đời từ hình thái
kinh tế - xã hội trước (công xã nguyên thủy - chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư
bản chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa); trong tư duy, có mối liên hệ giữa các suy
đốn, các tâm tư, tình cảm, các cách suy nghĩ khác nhau;... Trong thời đại
ngày nay, không một quốc gia nào khơng có quan hệ, khơng có liên hệ với
các quốc gia khác về mọi mặt của đời sống xã hội. Chính vì thế, hiện nay, trên
thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng tồn cầu hố, khu vực hố mọi mặt
đời sống xã hội.
Nói về tính phổ biến của mối liên hệ, V.I.Lênin khẳng định: “Mọi cái
đều... làm trung gian cho nhau, liên hệ thành một thể thống nhất, liên hệ với
nhau bởi những sự chuyển hóa” [30; tr.110].
- Tính đa dạng, phong phú của mối liên hệ.
Các sự vật, hiện tượng hay quá trình khác nhau đều có những mối liên
hệ cụ thể khác nhau, giữ vị trí, vai trị khác nhau đối với sự tồn tại và phát
triển của nó. Cùng một mối liên hệ nhất định của sự vật nhưng trong những
điều kiện cụ thể khác nhau, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận
động, phát triển của sự vật thì cũng có tính chất và vai trị khác nhau. Do đó,
khơng thể đồng nhất tính chất, vị trí vai trị cụ thể của các mối liên hệ khác
nhau đối với mỗi sự vật nhất định. Dựa vào các tiêu chí khác nhau, mối liên
hệ được phân chia thành nhiều loại khác nhau: mối liên hệ bên trong - mối



21

liên hệ bên ngoài; mối liên hệ chủ yếu - mối liên hệ thứ yếu; mối liên hệ cơ
bản – không cơ bản; mối liên hệ bản chất – không bản chất;… Các mối liên
hệ này có vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động của các sự vật,
hiện tượng. Trong đó, các mối liên hệ cơ bản, bên trong, bản chất,... đóng vai
trị quyết định, chi phối sự vận động, phát triển của sự vật.
Nói về tính phong phú, đa dạng và tính phổ biến của mối liên hệ,
V.I.Lênin khẳng định: “Liên hệ của các sự vật trong thế giới là muôn vẻ, phổ
biến, tồn diện, mỗi sự vật hiện tượng, q trình đều liên hệ với mỗi sự vật
khác” [30; tr.239].
Chính tính đa dạng trong quá trình tồn tại, vận động và phát triển của
bản thân sự vật và hiện tượng quy định tính đa dạng của mối liên hệ. Vì vậy,
trong một sự vật có thể bao gồm rất nhiều loại mối liên hệ chứ khơng phải chỉ
có một cặp mối liên hệ xác định. Mỗi cặp mối liên hệ có những đặc trưng
riêng. Trong các cặp mối liên hệ đó, nói chung, mối liên hệ bản chất, mối liên
hệ tất nhiên, mối liên hệ chủ yếu giữ vai trò quyết định. Song, tuỳ theo những
điều kiện hoàn cảnh cụ thể, các mối liên hệ tương ứng với chúng có thể giữ
vai trị quyết định. Nói cách khác, vai trị quyết định của các mối liên hệ trong
từng cặp một phụ thuộc vào quan hệ hiện thực xác định.
Sự phân chia từng cặp mối liên hệ chỉ mang tính tương đối, vì mỗi loại
mối liên hệ chỉ là một hình thức, một bộ phận, một mắt xích của mối liên hệ phổ
biến. Mỗi loại mối liên hệ trong từng cặp có thể chuyển hóa lẫn nhau tùy theo
phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận động và phát triển của
chính các sự vật. Tuy sự phân chia thành các loại mối liên hệ chỉ mang tính chất
tương đối, nhưng sự phân chia đó lại rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hệ có
vị trí và vai trò xác định trong sự vận động và phát triển của các sự vật, hiện
tượng. Con người phải nắm vững các mối liên hệ đó để có sự tác động cho phù
hợp nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động của mình.



×