Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT
NAM TRONG ĐIỀU KIỆN GIA NHẬP CPTPP
OPPORTUNITIES AND CHALLENGES FOR VIETNAMESE ENTERPRISES IN
JOINING CPTPP
Nguyễn Thị Hường
Khoa Kinh tế - Du lịch. Trường Đại học Kiên Giang
TÓM TẮT
Hiệp định đối tác tiến bộ và tồn diện kinh tế chiến lược xun thái bình dương (CPTPP) được coi là hình
mẫu cho hợp tác kinh tế khu vực. CPTPP được đánh giá là hiệp định của thế kỷ XXI. CPTPP không chỉ đề
cập đến các lĩnh vực truyền thống như hàng hóa, dịch vụ, đầu tư mà còn cả các vấn đề mới như thương mại
điện tử, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng, doanh nghiệp nhà nước…Hiệp định này sẽ mở ra rất nhiều
cơ hội cũng như thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam. Bài viết này đưa ra một số cơ hội cũng như
thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm để có thể tận dụng được các cơ hội và né tránh
những thách thức khi CPTPP có hiệu lực.
Từ khóa: CPTPP, Doanh nghiệp, cơ hội, thách thức.
ABSTRACT
Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership (CPTPP) is regarded as a model
for regional economic cooperation. The TPP Agreement is considered as the “21st century trade
agreement”. The CPTPP is not only refers to the traditional areas such as goods , services and investment
but also current issues such as commercial electronic, facilitating the supply chain , state-owned enterprises
... This agreement opens a lot of opportunities as well as challenges for Vietnam enterprises . This article
provides a number of opportunities and challenges that Vietnam now can relate to utilize the opportunities
and challenges while dodging CPTPP effect.
Keywords: CPTPP, enterprises, opportunities, challenges.
1. Đặt vấn đề
Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), tiền thân là Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP) được khởi động từ năm 2005 và đến nay có 11 nước tham. Hiệp định CPTPP
đã được ký kết tại thành phố Santiago (Chile) vào ngày 08/03/2018. Đây là nỗ lực của 11 nền kinh tế do
Nhật Bản đề xuất khởi động lại một TPP “mới” sau sự rút lui của Mỹ. So với “TPP không Mỹ”, CPTPP
không đơn thuần chỉ là sự thay đổi tên gọi, hay sự khác biệt về số nước tham gia. Với “diện mạo” mới là
“toàn diện” và “tiến bộ”, CPTPP minh chứng cho sự nỗ lực, quyết tâm “hồi sinh” TPP của 11 nước thành
viên. Ðiểm mới và tích cực nhất của Hiệp định này chính là sự thống nhất tuyệt đối của các thành viên về
nhu cầu duy trì một hiệp định chất lượng cao và toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực, chứ không chỉ là vấn đề
mở cửa thị trường, thương mại và kinh tế.
CPTPP không chỉ đề cập tới các lĩnh vực truyền thống như cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở
cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại…, mà còn xử lý những
vấn đề mới, phi truyền thống như lao động, môi trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp nhà
nước…Đồng thời, CPTPP nhấn mạnh tính tồn diện và tiến bộ của phiên bản mới khi bảo đảm các lợi ích,
khơng chỉ thương mại, của tất cả các bên tham gia, bảo tồn các quyền kiểm sốt, tính linh hoạt khi đặt ra
225
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
các ưu tiên về mặt pháp lý và quản lý, cũng như bảo đảm quyền bảo vệ, phát triển và thực thi các chính sách
văn hóa riêng của từng thành viên. Điều đó thể hiện sự gắn kết của mối quan hệ đa quốc gia như thế này
khơng có bất kỳ trở ngại địa lý nào. CPTPP cũng được quy định có hiệu lực ngay sau khi có 6 quốc gia thành
viên đầu tiên phê chuẩn. Sự thay đổi này được giới quan sát đánh giá là “tích cực” so với quy định về hiệu
lực của TPP, khi đòi hỏi giá trị GDP của các quốc gia phê chuẩn phải đạt mức 85% tổng GDP của 12 thành
viên (Vy Hương, 2018).
Về mở cửa thị trường, các nước tham gia Hiệp định thống nhất xóa bỏ cho nhau gần như tồn bộ thuế
nhập khẩu theo lộ trình; Tự do hóa dịch vụ và đầu tư trên cơ sở tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bảo đảm
sự quản lý của Nhà nước. Theo đó, CPTPP vừa tạo sự gắn kết giữa các quốc gia vừa bảo đảm lợi ích của tất
cả các bên, bảo đảm quyền bảo vệ, phát triển và thực thi các chính sách văn hóa riêng của từng thành viên.
Với sự rút lui của Mỹ, quy mô thị trường của CPTPP bị thu hẹp đáng kể, từ chỗ chiếm 40% xuống cịn
13,5% GDP tồn cầu so với TPP. Dù vậy, giới chuyên gia cho rằng, đây vẫn là hiệp định hết sức quan trọng,
mở ra thị trường rộng lớn với tổng dân số 500 triệu người. CPTPP về cơ bản kế thừa toàn bộ nội dung của
Hiệp định TPP nhưng cho phép các nước thành viên tạm hoãn khoảng 20 nghĩa vụ so với TPP để bảo đảm sự
cân bằng trong bối cảnh mới. Trong đó, có 11/20 điều khoản liên quan đến sở hữu trí tuệ mà Mỹ là quốc gia
đề xuất trước đây. Trong số các nghĩa vụ được tạm hoãn, các nước đồng ý để Việt Nam miễn thực thi một số
cam kết liên quan đến sở hữu trí tuệ, đầu tư, mua sắm của Chính phủ, dịch vụ tài chính, viễn thơng... Hiệp
định này đặt ra các yêu cầu và tiêu chuẩn cao về minh bạch hóa cũng như đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp
có tính ràng buộc và chặt chẽ. Đối với cơ chế giải quyết tranh chấp giữa Chính phủ và nhà đầu tư (ISDS),
CPTPP đã thu hẹp phạm vi cho phép nhà đầu tư nước ngoài sử dụng cơ chế này để kiện Chính phủ nước
thành viên sở tại (nước tiếp nhận đầu tư). Theo đó, các cơng ty tư nhân có hợp đồng đầu tư với Chính phủ sẽ
không được phép sử dụng cơ chế ISDS nếu xảy ra tranh chấp về hợp đồng giữa hai bên. Các công ty trong
nước cũng không được sử dụng cơ chế ISDS để kiện Chính phủ nước đó, nhưng có thể sử dụng để khởi kiện
Chính phủ một nước thành viên khác trong khối. Ngoài ra, về việc thành lập Ban trọng tài của ISDS, CPTPP
quy định Ban trọng tài có ba thành viên, bao gồm một đại diện do Chính phủ cử ra, một đại diện do nguyên
đơn lựa chọn và một trọng tài chủ tọa cùng do Chính phủ và nguyên đơn cùng thống nhất lựa chọn. Hiệp
định còn bổ sung các quy định về quy trình rút lui, gia nhập, rà soát lại CPTPP trong tương lai, tạo tính linh
hoạt của Hiệp định và có thể sẵn sàng cho những đợt kết nạp thành viên mới (Trần Trang, 2018).
Hiệp định CPTPP chiếm 13,5% GDP toàn cầu và bao trùm thị trường gần 500 triệu người với tổng
kim ngạch thương mại vượt 10.000 tỷ USD. Dù khơng có quy mô bằng Hiệp định TPP cũ, nhưng Hiệp định
này cũng giúp nhiều nước tiếp cận được với các thị trường thương mại tự do mới. Đối với cam kết mở cửa
thị trường, các nước tham gia Hiệp định đồng ý xóa bỏ cho nhau gần như tồn bộ thuế nhập khẩu theo lộ
trình; tự do hóa dịch vụ và đầu tư trên cơ sở tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bảo đảm sự quản lý của Nhà
nước. Từ đó tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho doanh nghiệp và lợi ích mới cho người tiêu dùng của các nước
thành viên. Với việc tham gia CPTPP, GDP Việt Nam dự báo sẽ tăng thêm 1,3% và kim ngạch xuất khẩu
cũng tăng thêm 4%. Bên cạnh đó, Việt Nam sẽ tận dụng được lợi thế xâm nhập và tiếp cận sâu vào các thị
trường bên kia Thái Bình Dương gồm Canada, Mexico và Peru. Đây là những thị trường mà Việt Nam chưa
ký hiệp định thương mại. Hiệp định CPTPP (Văn Thọ, 2018).
Tập đồn truyền thơng Edelman đã thực hiện khảo sát khảo sát 1.000 doanh nghiệp và 1.000 người
tiêu dùng thuộc các quốc gia tham gia TPP (trừ Brunei và Peru) nay là CTPPP, để tìm hiểu nhận thức và
quan điểm xung quanh TPP. Theo đó, nếu như mức độ ủng hộ TPP của doanh nghiệp là 69% và của người
tiêu dùng là 67% trên tồn cầu thì Việt Nam lại là quốc gia có tỷ lệ cao nhất khi con số này lần lượt là 93%
và 96%. Như vậy hầu hết doanh nghiệp cũng như người tiêu dùng trong nước đều cho rằng TPP sẽ mang lại
lợi ích tích cực về mặt kinh tế. Bên cạnh đó có tới 83% doanh nghiệp và 86% người tiêu dùng nhận thức tích
cực về TPP, xếp thứ hai trong số các nước tham gia, với niềm tin rằng hiệp định này sẽ tạo ra bước ngoặt lớn
đối với nền kinh tế. Ngoài ra, mức độ chuẩn bị sẵn sàng để tận dụng lợi thế từ TPP của các doanh nghiệp
Việt Nam đang ở mức 76%, cao hơn hẳn so với tồn cầu là 52%. Ở khía cạnh khác, các doanh nghiệp trong
nước cũng tự tin về tác động tích cực của TPP trong vấn đề việc làm và lao động, chiếm tới 79% so với toàn
226
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
cầu là 53%. Phịng Cơng nghiệp và Thương mại Việt Nam (VCCI) cũng có cuộc điều tra gần 10.000 doanh
nghiệp, thực hiện năm 2014. Với TPP có tới 66% doanh nghiệp Việt Nam ủng hộ và tin vào những lợi ích
mà hiệp định này đem lại cho họ (trong khi tỷ lệ này ở các doanh nghiệp FDI khiêm tốn hơn, chưa tới 30%)
(Nguyễn Tuấn Quỳnh, 2015).
Đây là bước ngoặt lịch sử đối với các nước thành viên CPTPP, trong đó có Việt Nam. Điều đó cũng có
nghĩa CPTPP mở ra nhiều cơ hội lẫn thách thức với Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp Việt Nam nói
riêng.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Phương pháp tiếp cận
Nghiên cứu được tiến hành tiếp cận theo hệ thống các nghiên cứu trước theo hướng tổng quát để hỗ
trợ phân tích các vấn đề liên quan đến cơ hội và thách thức cho các DN khi Việt Nam gia nhập hiệp định đối
tác tiến bộ và toàn diện kinh tế chiến lược xuyên thái bình dương (CPTPP).
2.2. Phương pháp thu thập dữ liệu
Tác giả sử dụng dữ liệu thứ cấp được tổng hợp từ các trang tin điện tử; các báo tạp chí; các nghiên cứu
trước và từ báo cáo cục hải quan liên quan đến cơ hội và thách thức cho các DN Việt Nam trong điều kiện
gia nhập hiệp định CPTPP.
2.3. Phương pháp phân tích
Phương pháp phân tích cây vấn đề được sử dụng để phân tích các cơ hội và thách thức cho các DN
Việt Nam. Phương pháp này được sử dụng nhiều trong vấn đề lập nhánh về nguyên nhân và kết quả xung
quanh một vấn đề. Vấn đề có thể được chia thành các khối liên quan để phân tích để từ đó xác định rõ hơn
các yếu tố và mục tiêu. Với nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp phân tích cây vấn đề để đi phân
tích, nhận định và chỉ ra những cơ hội và thách thức mà các DN Việt Nam sẽ đối mặt khi hiệp định CPTPP
có hiệu lực.
3. Cơ hội và thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện gia nhập CPTPP
3.1. Cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam
CPTPP được coi là hình mẫu cho hợp tác kinh tế khu vực trong những năm đầu thế kỷ 21 đề cập
không chỉ các lĩnh vực truyền thống như hàng hóa, dịch vụ, đầu tư mà cịn cả các vấn đề mới như thương
mại điện tử, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng, doanh nghiệp nhà nước…Với các kết quả đàm phán đã
đạt được, CPTPP sẽ là một hiệp định toàn diện, chất lượng cao trên cơ sở cân bằng lợi ích và lưu ý tới trình
độ phát triển khác nhau giữa các nước tham gia Hiệp định, đồng thời kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
tại tất cả các nước CPTPP; tạo việc làm, giảm nghèo và nâng cao mức sống của người dân, thúc đẩy sáng
tạo, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh, thúc đẩy minh bạch hàng hóa, quản trị tốt, đồng thời
củng cố các tiêu chuẩn về lao động và môi trường.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, cũng như TPP, CPTPP được coi là một FTA
(Free trade agreement – Hiệp định thương mại tự do) tiêu chuẩn cao, không chỉ đề cập tới các lĩnh vực
truyền thống như: cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ, hàng rào
kỹ thuật liên quan đến thương mại... mà còn xử lý những vấn đề mới, phi truyền thống như lao động, mơi
trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp nhà nước (Linh Giang, 2019).
CPTPP sẽ có tác động lớn nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp (DN) trong
nước trong tương lai gần. Công cụ lớn nhất mà CPTPP sử dụng để thúc đẩy trao đổi hàng hóa là những ưu
đãi miễn giảm thuế mà các nước cam kết sẽ dành cho nhau. Bằng cách dỡ bỏ hoặc cắt giảm 18.000 hàng rào
thuế quan đối với các sản phẩm công nghiệp cũng như nông nghiệp, CPTPP sẽ giúp các DN Việt Nam tiếp
cận rộng hơn với các thị trường lớn, đặc biệt là Nhật Bản. Theo Bộ Tài chính, các nước tham gia CPTPP xóa
bỏ thuế nhập khẩu cho hàng hóa của của các thành viên. Đặc biệt, thị trường Nhật Bản cũng cam kết xóa bỏ
227
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
thuế nhập khẩu đối với 86% số dòng thuế, chiếm 93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản,
tương đương 10,5 tỷ USD (dựa trên số liệu kim ngạch thương mại năm 2014). Từ đó, sẽ đẩy mạnh xuất khẩu
một số nhóm sản phẩm lớn mà DN Việt Nam có lợi thế so sánh như dệt may và may mặc, thủy hải sản, nơng
sản và lâm sản. Nói một cách khác, lợi thế này khơng chỉ nhìn từ góc độ hiện tại mà cịn được nhìn thấy ở cả
tiềm năng trong tương lai.
Trong CPTPP, các nước thành viên đã xóa gần như tồn bộ thuế nhập khẩu theo lộ trình, tự do hóa
dịch vụ và đầu tư trên cơ sở tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bảo đảm sự quản lý của Nhà nước. Điều này
sẽ tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho DN và lợi ích người tiêu dùng của các nước thành viên. Theo nhận định
của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, CPTPP sẽ giúp Việt Nam đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu cũng như thay
đổi cơ cấu thị trường xuất khẩu theo hướng cân bằng hơn. Khi dòng thuế suất bằng 0%, CPTPP sẽ giúp
ngành Dệt may Việt Nam mở rộng thị phần tại một số nước đang có thuế suất cao như: Canada, Newzeland,
Australia… Cũng như dệt may, CPTPP là cơ hội để các DN xuất khẩu da giày tăng tỷ trọng, tăng cơ hội xuất
khẩu sang các thị trường tiềm năng mà Việt Nam chưa có hiệp định thương mại như: Mexico, Canada,
Peru… Riêng Nhật Bản - một trong những thị trường chủ lực của ngành xuất khẩu da giày, túi xách Việt
Nam với mức tăng trưởng trung bình 20-35%/năm, nếu DN biết tận dụng chặt chẽ các điều khoản từ CPTPP,
mức tăng trưởng này sẽ còn cao hơn hiện tại. Hơn nữa, Hiệp định CPTPP sau khi được thông qua sẽ mở ra
nhiều cơ hội cho cộng đồng DN Việt Nam. Với việc giảm thuế sang các quốc gia nhập khẩu, các DN sẽ có
thêm cơ hội mới để mở rộng việc cung cấp các sản phẩm vào thị trường các quốc gia thành viên. Việc giảm
thuế nhập khẩu cho sản phẩm vào Việt Nam cũng sẽ giúp cho DN có thêm đối tác mới, đa dạng hóa các
chủng loại hàng hóa, mở rộng quy mơ hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, Hiệp định sẽ tạo ra một sân
chơi công bằng, minh bạch và là cơ sở, nền tảng để cho các DN có định hướng phát triển bền vững; nâng cao
năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng hàng hóa dịch vụ, khả năng sản xuất của nền kinh tế để bắt kịp xu
hướng phát triển của thế giới, từ đó tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu (Nguyễn Mạnh
Hùng, 2019).
Các nước CPTPP cam kết xóa bỏ hồn tồn từ 97% đến 100% số dịng thuế nhập khẩu đối với hàng
hóa có xuất xứ từ Việt Nam, tùy theo cam kết của từng nước. Gần như tồn bộ hàng hóa xuất khẩu của Việt
Nam vào các nước CPTPP khác sẽ được xóa bỏ thuế nhập khẩu hồn tồn ngay khi Hiệp định có hiệu lực
hoặc theo lộ trình. Một số cam kết thuế nhập khẩu của các đối tác CPTPP như sau: Canada cam kết xố bỏ
thuế nhập khẩu cho 95% số dịng thuế và 78% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Canada ngay khi
hiệp định có hiệu lực. Trong đó, 100% kim ngạch xuất khẩu thủy sản và 100% kim ngạch xuất khẩu gỗ được
xóa bỏ thuế quan ngay khi hiệp định có hiệu lực. Nhật Bản cam kết xóa bỏ thuế ngay khi hiệp định có hiệu
lực đối với 86% số dòng thuế (tương đương 93,6% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản), và
gần 90% số dòng thuế sau 5 năm. Trong Hiệp định CPTPP, Nhật Bản lần đầu tiên cam kết xóa bỏ hồn tồn
thuế nhập khẩu cho đại đa số nông, thủy sản xuất khẩu của ta. Perucam kết xóa bỏ 80,7% số dịng thuế ngay
khi hiệp định có hiệu lực, tương đương 62,1% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam và sẽ xóa bỏ thuế quan đối
với 99,4% số dòng thuế vào năm thứ 17 kể từ khi hiệp định có hiệu lực. Mehico cam kết xóa bỏ 77,2% số
dịng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, tương đương 36,5% kim ngạch nhập khẩu từ Việt Nam và sẽ xóa
bỏ thuế quan đối với 98% số dòng thuế vào năm thứ 10 kể từ khi hiệp định có hiệu lực. Chi lê cam kết xóa
bỏ 95,1% số dịng thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực, tương đương 60,2% kim ngạch nhập khẩu từ Việt
Nam và sẽ xóa bỏ thuế quan đối với 99,9% số dòng thuế vào năm thứ 8 kể từ khi hiệp định có hiệu lực.
Australia cam kết cắt giảm 93% số dòng thuế, tương đương 95,8% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
thị trường này (khoảng 2,9 tỷ USD) ngay khi thực hiện hiệp định. Các sản phẩm cịn lại sẽ được xóa bỏ thuế
với lộ trình cắt giảm cuối cùng tối đa vào năm thứ 4. Neuseelandcam kết xóa bỏ 94,6% số dịng thuế ngay
khi hiệp định có hiệu lực, tương đương 69% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này (khoảng
101 triệu USD). Vào năm thứ 7 kể từ khi thực hiện hiệp định, các dòng thuế còn lại sẽ dần được xóa bỏ hồn
tồn. Singaporecam kết xóa bỏ hồn tồn thuế quan đối với tất cả các mặt hàng ngay khi thực hiện hiệp định.
Malaysiacam kết xóa bỏ 84,7% số dịng thuế ngay khi hiệp định có hiệu lực và xóa bỏ dần có lộ trình đối với
các dịng thuế cịn lại. Vào năm thứ 11, số dòng thuế cam kết cắt giảm của Malaysia lên tới 99,9%. Brunei
228
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
cam kết xóa bỏ 92% số dịng thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam (tương đương 7.639 dịng) ngay
khi hiệp định có hiệu lực, xóa bỏ tới 99,9% vào năm thứ 7 và xóa bỏ hồn tồn thuế nhập khẩu vào năm thứ
11 (doanh nghiep.vn, 2019).
Việt Nam sẽ có thị trường rộng hơn; GDP có thể tăng thêm 8 đến 10% đến năm 2030, thậm chí cịn
nhiều hơn. Đây là cú hích lớn cho Việt Nam nhưng cũng đem lại áp lực cho nhà sản xuất trong nước. Họ
phải cạnh tranh quyết liệt hơn, nhưng điều này sẽ thúc đẩy năng suất lao động; rất tốt cho Việt Nam trong
tăng trưởng dài hạn. Nguyên tắc chung của CPTPP là đưa thuế nhập khẩu về 0% đối với tất cả dịng thuế.
Với một số ít dịng thuế nhạy cảm nhất, có thể áp dụng hạn ngạch thuế quan hoặc hình thức giảm thuế đáng
kể, với điều kiện là phải được cả 10 nước cịn lại chấp nhận. Điển hình là thị trường xuất khẩu sẽ có nhiều
thuận lợi hơn, khi nhiều thị trường lớn và quan trọng của Việt Nam như Canada, Nhật Bản... giảm thuế về
0%. Tuy nhiên, để thuận lợi hơn cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, cả cơ quan quản lý nhà
nước và doanh nghiệp cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại với các đối tác tiềm năng, đảm bảo sự cạnh tranh
công bằng giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước. Thủy sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn,
chiếm 4-5% GDP và 6-7% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia, đứng thứ 4 thế giới về xuất khẩu. Hiện nay,
thủy sản Việt Nam có mặt tại 165 thị trường và đặt mục tiêu đạt trên 7 tỷ USD trong năm 2016.
Theo VASEP, năm 2014 tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang 10 nước thành viên
CPTPP đạt 3,81 tỷ USD, tăng 13,14% so với năm 2013, chiếm gần 49% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn
ngành thủy sản của Việt Nam. Trong đó, thị trường Nhật Bản chiếm 31,77%, Canada chiếm 7,03%, Australia
chiếm 6,27%, Singapore chiếm 2,86%, Mexico chiếm 3,28%, Malaysia chiếm 1,86%, New Zealand chiếm
0,59%, Chile chiếm 0,34%, Peru chiếm 0,2% và cuối cùng Brunei chiếm 0,04% tổng kim ngạch xuất khẩu
thủy sản (XKTS) của Việt Nam vào 10 nước thành viên CPTPP. Như vậy nếu có là thành viên chính thức
của CPTPP xuất khẩu thủy sản của Việt Nam có tăng trưởng mạnh hay khơng cịn phụ thuộc rất lớn đến việc
tận dụng những cơ hội và tránh tối đa các thách thức khi tham gia vào khối CPTPP.
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, kim ngạch nhập khẩu thủy sản của Việt Nam
trong năm 2018 đạt 1,72 tỷ USD, tăng mạnh 19,6% so với năm 2017. Nhật Bản với trị giá nhập khẩu thủy
sản là 108 triệu USD, tăng 29,3% so với năm trước đó. Đáng chú ý, nhập khẩu thủy sản từ Malaysia có mức
tăng trưởng cao nhất trong năm 2018 với 94,6%, trị giá 7,6 triệu USD. Tăng mạnh thứ hai là Canada với mức
tăng gần 70% so với năm 2017, đạt 42,4 triệu USD (Duyên Duyên, 2019).
Nếu thuế xuất nhập khẩu về 0% sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất
khẩu của Việt Nam nhập khẩu chế biến rồi tái xuất ra thị trường các nước thành viên CPTPP và các thị
trường khác không phải là thành viên CPTPP, đặc biệt là thị trường EU. Tuy nhiên, việc tạm nhập tái xuất
chỉ được hưởng thuế suất 0% khi nhập nguyên liệu từ các nước thành viên CTTPP và phải chứng minh được
nguồn gốc nhập từ các nước thành viên CPTPP, trong khi đó 83% ngun liệu thủy sản cịn lại của Việt Nam
chủ yếu được nhập từ các nước không phải là thành viên CPTPP vì vậy cơ hội cũng khơng phải nhiều, vì nếu
nhập từ các nước khơng phải là thành viên CPTPP sau đó chế biến rồi tái xuất sang thị trường các nước
thành viên CPTPP vẫn phải chịu thuế suất theo qui định.
Cơ hội đối xuất nhập khẩu thủy sản Việt Nam có được từ việc cắt giảm thuế quan khi xuất khẩu thủy
sản sang các nước thành viên CPTPP nhờ được giảm ngay 90% các loại thuế xuất nhập khẩu hàng hóa và cắt
giảm bằng 0% từ năm 2015. Đây sẽ là cơ hội rất tốt cho ngành thủy sản của Việt Nam phát triển trong thời
gian tới nếu biết tận dụng tối đa các cơ hội và tránh tối đa các thách thức khi tham gia vào CTTPP; nhờ thuế
suất 0% các doanh nghiệp chế biến thủy sản trong nước tận dụng được tối đa công suất dư thừa nhờ nhập
khẩu nguyên liệu thủy sản từ các nước thành viên CPTPP, sau đó chế biến và tái xuất sang thị trường các
nước thành viên CPTPP và thị trường các nước không phải là thành viên CPTPP, đặc biệt là thị trường EU,
và cần phải chú ý rằng chỉ có nguyên liệu nhập từ các nước thành viên CPTPP mới được hưởng thuế suất
0%, còn lại nhập từ các nước không phải thành viên CPTPP vẫn phải chịu thuế suất theo qui định. Bên cạnh
đó cũng có những khó khăn như khi càng hội nhập sâu và rộng đi kèm theo luôn là các rảo cản kỹ thuật
thương mại (Technical Barriers to Trade-TBT) và biện pháp vệ sinh dịch tế (Sanitary and Phytosanitary
229
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
Measures-SPS) để bảo hộ sản xuất thủy sản trong nước của các nước thành viên CPTPP, bởi dù thuế nhập
khẩu vào các nước có được cắt giảm hết về 0% nhưng việc kiểm dịch, kiểm tra dự lượng kháng sinh, các địi
hỏi về nhãn mác hàng hóa, truy nguồn gốc, trách nhiệm xã hội... sẽ được kiểm soát chặt chẽ với tần suất
nhiều hơn để hạn chế xuất khẩu thủy sản của các nước, điều này thậm chí cịn có thể rủi ro hơn nhiều so với
thuế quan.
Theo Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(NN&PTNT), kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản tháng 2 năm 2019 ước đạt 1,93 tỷ USD đưa tổng giá
trị xuất khẩu 2 tháng đầu năm 2019 đạt 5,5 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó, giá trị
xuất khẩu các mặt hàng nơng sản chính ước đạt 2,71 tỷ USD, giảm 10,1%; Giá trị xuất khẩu thuỷ sản ước đạt
1,11 tỷ USD, tăng 4,4%; Giá trị xuất khẩu chăn nuôi ước đạt 77 triệu USD, giảm 7%; Giá trị xuất khẩu các
mặt hàng lâm sản chính ước đạt 1,5 tỷ USD, tăng 12,8%. Giá trị xuất khẩu thủy sản tháng 2 năm 2019 ước
đạt 372 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu thủy sản 2 tháng đầu năm 2019 đạt 1,11 tỷ USD, tăng 4,4% so với
cùng kỳ năm 2018. Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc và Hàn Quốc là 4 thị trường nhập khẩu hàng đầu của
thủy sản Việt Nam trong tháng 1 năm 2019, chiếm 53% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản. Trong tháng 1 năm
2019, các thị trường có giá trị xuất khẩu thủy sản tăng mạnh là Mehico (+32,4%), Canada (+27,8%), Nhật
Bản (+17,7%) và Anh (+16,5%) (NN, 2019).
Hiệp định sẽ góp phần vào việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa nói chung và mặt hàng thủy sản sang các
thị trường lớn như Nhật Bản, Australia; Canada, Mexico, đây cũng là một trong những đối tác thương mại
chính của xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Các nước CPTPP hàng năm nhập khẩu khoảng gần 2 tỷ USD hàng
hóa, tương đương 23% tổng kim ngạch. Trong đó, riêng thị trường Nhật chiếm trên 15%. Với thị trường này,
các doanh nghiệp xuất khẩu tôm, bạch tuộc, cá ngừ sẽ được hưởng lợi nhiều nhất. Bên cạnh
đó, NewZealand và Australia được nhận định là 2 thị trường mới có sức tiêu thụ sản phẩm thủy sản lớn cũng
là cơ hội để sản phẩm thủy sản Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu sang các thị trường này. Ngoài ra, việc Việt
Nam là thành viên của Hiệp định CPTPP sẽ có lợi thế hơn so với các đối thủ trong cạnh tranh xuất khẩu
sang thị trường các nước thành viên, từ đó sẽ có cơ hội tăng thị phần xuất khẩu (Văn Thọ, 2018).
Trong CPTPP, các nước thành viên đã xóa gần như tồn bộ thuế nhập khẩu theo lộ trình, tự do hóa
dịch vụ và đầu tư trên cơ sở tuân thủ pháp luật của nước sở tại, bảo đảm sự quản lý của Nhà nước. Điều này
sẽ tạo ra cơ hội kinh doanh mới cho DN và lợi ích người tiêu dùng của các nước thành viên. Theo nhận định
của Hiệp hội Dệt may Việt Nam, CPTPP sẽ giúp Việt Nam đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu cũng như thay
đổi cơ cấu thị trường xuất khẩu theo hướng cân bằng hơn. Khi dòng thuế suất bằng 0%, CPTPP sẽ giúp
ngành Dệt may Việt Nam mở rộng thị phần tại một số nước đang có thuế suất cao như: Canada, Newzeland,
Australia… Cũng như dệt may, CPTPP là cơ hội để các DN xuất khẩu da giày tăng tỷ trọng, tăng cơ hội xuất
khẩu sang các thị trường tiềm năng mà Việt Nam chưa có hiệp định thương mại như: Mexico, Canada,
Peru… Riêng Nhật Bản - một trong những thị trường chủ lực của ngành xuất khẩu da giày, túi xách Việt
Nam với mức tăng trưởng trung bình 20-35%/năm, nếu DN biết tận dụng chặt chẽ các điều khoản từ CPTPP,
mức tăng trưởng này sẽ còn cao hơn hiện tại.
Hơn nữa, Hiệp định CPTPP sau khi được thông qua sẽ mở ra nhiều cơ hội cho cộng đồng DN Việt
Nam. Với việc giảm thuế sang các quốc gia nhập khẩu, các DN sẽ có thêm cơ hội mới để mở rộng việc cung
cấp các sản phẩm vào thị trường các quốc gia thành viên. Việc giảm thuế nhập khẩu cho sản phẩm vào Việt
Nam cũng sẽ giúp cho DN có thêm đối tác mới, đa dạng hóa các chủng loại hàng hóa, mở rộng quy mơ hoạt
động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, Hiệp định sẽ tạo ra một sân chơi công bằng, minh bạch và là cơ sở, nền
tảng để cho các DN có định hướng phát triển bền vững; nâng cao năng lực cạnh tranh, cải thiện chất lượng
hàng hóa dịch vụ, khả năng sản xuất của nền kinh tế để bắt kịp xu hướng phát triển của thế giới, từ đó tham
gia hiệu quả hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Cùng với các cơ hội trên, việc thực thi các quy định của
CPTTP cũng sẽ giúp Việt Nam trở thành một trong những địa chỉ hấp dẫn về đầu tư tạo ra các cơ hội cho các
DN Việt Nam thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngồi cũng như khả năng tiếp cận cơng nghệ hiện đại..
230
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
Điều quan trọng nhất là, thuế nhập khẩu nhiều loại hàng hóa sẽ được giảm xuống 0%, là cú huých
mạnh cho xuất khẩu, tác động tích cực đến thu nhập của người dân, cải thiện sức cạnh tranh của hàng hóa
xuất khẩu, nâng cao kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, mặc dù xuất khẩu tăng trưởng nhanh nhưng cơ cấu
hàng xuất khẩu chưa mang tính hiệu quả, chủ yếu xuất khẩu hàng có cơng nghệ thấp, sử dụng lao động nhiều
như hàng may mặc, giày dép, đồ nội thất...
CPTPP dự kiến giúp kim ngạch xuất khẩu may mặc và giày dép của Việt Nam đạt 16,5 tỷ USD trước
năm 2025. Việt Nam tham gia CPTPP, xuất khẩu và GDP có thể tăng thêm tương ứng 68 tỷ USD và 36 tỷ
USD, hay 28,4% và 10,5% vào năm 2025 so với kịch bản nếu không tham gia CPTPP. Việt Nam là nước có
thế mạnh trong nơng nghiệp với điều kiện thiên nhiên thuận lợi. CPTPP được ký kết sẽ giúp Việt Nam thúc
đẩy FDI của các nước trong khối, tạo cơ hội cho Việt Nam khai thác lợi thế, tiềm năng về nông nghiệp, nhất
là thủy sản.
Năm 2018 là một năm thành công đối với hoạt động xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam với tổng
kim ngạch xuất khẩu đạt trên 36 tỷ USD, tăng 16,01% so với năm 2017. Ông Lê Tiến Trường, Tổng Giám
đốc Tập đoàn Dệt May Việt Nam nhấn mạnh, nhìn lại một số năm gần đây, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
năm nay của ngành dệt may đạt mức tăng cao nhất đạt 16,01% (năm 2015 tăng 12,1%, năm 2016 tăng
4,07%, năm 2017 tăng 10,8%). Cụ thể, năm 2018, kim ngach xuất khẩu hàng may mặc đạt 28,78 tỷ USD,
tăng 14,45%; xuất khẩu vải đạt 1,66 tỷ USD, tăng 25,5%; xuất khẩu xơ sợi đạt 3,95 tỷ USD, tăng 9,9%; xuất
khẩu vải không dệt đạt 528 triệu USD, tăng 15,54%; xuất khẩu nguyên phụ liệu dệt may đạt 1,23 tỷ USD,
tăng 14,59%. Giá trị thặng dư ngành dệt may năm 2018 ước đạt 17,86 tỷ USD, tăng 14,39 %. Tỷ lệ giá trị
tăng thêm đạt 49,4%, giảm 0,7 điểm phần trăm so với năm 2017 (Theo Vietnamplus, 2018).
Trong báo cáo tại Hội nghị tổng kết ngành da giày túi xách năm 2018, bà Phan Thị Thanh Xuân, Tổng
Thư ký Hiệp hội Da - Giày - Túi xách Việt Nam (Lefaso) cho biết, 11 tháng năm 2018, ngành da giày đã đạt
17,68 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu, tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2017. Dự kiến cả năm 2018, xuất khẩu
của ngành sẽ đạt mục tiêu đề ra là 19,5 tỷ USD. Năm 2018, cơ cấu thị trường xuất khẩu của ngành có sự
thay đổi rõ rệt. Hiện Việt Nam đã xuất khẩu sản phẩm giày dép tới trên 100 nước, trong đó có 72 nước có
kim ngạch xuất khẩu trên 1 triệu USD. 5 thị trường có kim ngạch lớn nhất, chiếm trên 82,3% tổng kim ngạch
xuất khẩu bao gồm: Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Hiện nay, Việt Nam chỉ đứng sau Trung
Quốc về sản lượng xuất khẩu giày dép ra thị trường thế giới với khoảng hơn 1 tỷ đôi các loại mỗi năm. Đáng
lưu ý, giá xuất khẩu trung bình của thế giới là 9,81 USD/đơi, trong khi đó giá của Việt Nam là 15 USD/đơi,
cao gấp 1,6 lần so với giá trung bình của thế giới. Như vậy, chất lượng sản phẩm giày dép của Việt Nam đã
được cải thiện và ghi nhận. Tuy nhiên, theo bà Xuân, mặc dù tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 19,5 tỷ
USD, song đóng góp chủ yếu cho kim ngạch xuất khẩu là khối doanh nghiệp FDI, với kim ngạch 13,97 tỷ
USD, chiếm 78,8%. Tổng các doanh nghiệp hoạt động trong ngành là gần 3.000. Cơ cấu đầu tư nước ngoài
thay đổi, trước đây chiếm 30% nhưng nay đã chiếm 40% số lượng doanh nghiệp... cho thấy mức độ đầu tư
của FDI vào ngành da giày rất nhanh. "Khoảng cách của doanh nghiệp FDI và trong nước đã thu hẹp, khi
231
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
doanh nghiệp Việt Nam chiếm tỷ trọng 21,2% so với năm 2017 là 19,4%. Đây là dấu hiệu tốt, khẳng định sự
phục hồi của các doanh nghiệp da giày trong nước", bà Xuân nhận định. Từ những tín hiệu tích cực trên,
Lefaso dự báo nhu cầu tiêu dùng tại các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam năm 2019 vẫn tốt. Trung
Quốc tiếp tục chủ trương giảm ưu đãi đầu tư trong các lĩnh vực dệt may, da giày để tập trung sản xuất cơng
nghệ cao. Do đó, các đơn hàng gia công giầy dép, túi sách sẽ tiếp tục xu hướng chuyển dịch từ Trung Quốc
sang Việt Nam, chờ cơ hội Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP) có hiệu
lực từ ngày 31/12/2018 và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) dự kiến ký kết và có hiệu
lực trong năm 2019. Theo đó, Lefaso dự báo sản xuất ngành da giày năm 2019 sẽ tăng trên 10% so với năm
2018, với tổng kim ngạch đạt khoảng 21,5 tỷ USD. Xuất khẩu da giày chiếm khoảng 9% tổng kim ngạch cả
nước, với tỷ lệ nội địa hóa đạt 60%. xuất khẩu giày dép đứng thứ 4 và túi - cặp đứng thứ 10 trong 10 Top 10
mặt hàng chủ lực của Việt Nam (Vũ Khuê, 2019).
Bảng 1: Giá trị xuất khẩu giày dép theo thị trường giai đoạn 2013 – 2018
Đơn vị: Triệu USD
Thị trường nhập Năm 2013
khẩu
Năm
2014
Năm
2015
Năm
2016
Năm 2017
(Sơ bộ)
2 tháng Năm 2018
(Sơ bộ)
Hoa Kỳ
2.627,0
3.328,4
4.076,5
4.483,7
5.113,1
8.00,2
Trung Quốc
354,6
504,8
754,1
904,9
1.140,6
226,5
Bỉ
516,5
659,0
723,5
825,4
907,5
125,5
Đức
457,3
600,1
705,3
764,7
992,6
126,1
Nhật Bản
388,3
519,0
597,6
674,9
751,0
160,9
Anh
543,2
572,4
693,5
618,4
688,8
97,2
Hà Lan
359,2
469,9
533,7
595,2
582,8
82,9
Pháp
228,0
253,4
417,2
449,9
511,6
75,8
Hàn Quốc
231,3
294,5
302,2
345,0
402,7
83,1
Italia
240,5
313,9
346,2
335,7
306,9
45,5
Tây Ban Nha
296,8
382,5
281,9
266,8
258,2
36,7
Mêxico
228,5
227,8
229,5
256,9
288,6
34,2
Canada
160,4
188,3
216,8
252,9
292,5
35,7
Nguồn: Tổng cục hải quan
Tham gia CPTPP sẽ giúp Việt Nam hội nhập sâu hơn vào thị trường tài chính thế giới. Các luồng vốn
đầu tư quốc tế vào Việt Nam cũng sẽ tăng mạnh, tạo thuận lợi cho hệ thống ngân hàng tăng cường thanh
khoản và tiếp cận các nguồn vốn quốc tế với chi phí thấp hơn. Tham gia CPTPP chắc chắn thúc đẩy đầu tư
của các nước vào Việt Nam. Tính đến nay, đầu tư trực tiếp của các nước CPTPP vào Việt Nam đạt hơn 100
tỷ USD vốn đăng ký của những dự án còn hiệu lực, chiếm gần 40% tổng lượng vốn FDI của Việt Nam. Dịng
vốn từ nhiều nước thành viên CPTPP có trình độ phát triển cao có thể mang lại những lợi ích lan tỏa đáng kể
về cơng nghệ và kỹ năng quản lý, hay các lĩnh vực dịch vụ có giá trị gia tăng cao hơn. Mức tăng đầu tư sẽ
giúp thúc đẩy sự hình thành vốn cố định và tạo cơ hội cho Việt Nam khai thác các lợi thế tiềm năng về nông
232
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
nghiệp. Các cơng ty dệt may nội địa và nước ngồi sẽ đẩy mạnh đầu tư tại Việt Nam để tận dụng cơ hội
hưởng thuế xuất khẩu thấp vào CPTPP.
Việt Nam sẽ có cơ hội được tham vấn giữa chính phủ với chính phủ các nước đối tác về các vụ kiện
chống bán phá giá và chống trợ cấp. Việt Nam cũng có thể có được cam kết của các thành viên không sử
dụng hoặc hạn chế các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp. Ngoài ra, Việt Nam có thể có cơ hội sử
dụng các cam kết của CPTPP về hàng rào kỹ thuật và các biện pháp vệ sinh dịch tễ để tránh các tranh chấp.
Các nước tham gia CPTPP xóa bỏ thuế nhập khẩu cho hàng hóa của của các thành viên. Đặc biệt, thị trường
Nhật Bản cũng cam kết xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 86% số dòng thuế, chiếm 93,6% kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam sang Nhật Bản, tương đương 10,5 tỷ USD (dựa trên số liệu kim ngạch thương mại năm 2014).
Đối với nông sản từ Việt Nam, Nhật Bản không cam kết mặt hàng gạo và áp dụng hạn ngạch thuế quan hoặc
cắt giảm một phần hoặc cam kết kèm theo các biện pháp phòng vệ thương mại đối với một số mặt hàng nhạy
cảm như thịt trâu bò, thịt lợn, sữa, sản phẩm sữa, lúa mỳ, lúa gạo và các chế phẩm phẩm của chúng. Nhiều
mặt hàng ưu tiên của Việt Nam được rút ngắn đáng kể lộ trình so với cam kết tại Hiệp định FTA Việt Nam –
Nhật Bản như đa số mặt hàng thủy sản có thế mạnh của VN được hưởng thuế suất 0% ngay sau khi Hiệp
định có hiệu lực như các mặt hàng cá ngừ vây vàng, cá ngừ sọc dưa, cá kiếm, một số lồi cá tuyết, surimi,
tơm, cua ghẹ... Tồn bộ các dịng hàng thủy sản khơng cam kết xóa bỏ thuế trong FTA Việt Nam – Nhật Bản
sẽ được xóa bỏ trong CPTPP với lộ trình xóa bỏ vào năm thứ 6, năm thứ 11 hoặc năm thứ 16 kể từ khi Hiệp
định có hiệu lực. Đối với mặt hàng rau quả, Nhật Bản cam kết mức thuế 0% vào năm thứ 3 hoặc năm thứ 5
kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Mặt hàng mật ong sẽ được xóa bỏ thuế vào năm thứ 8. Trong khi đó, đối với
mặt hàng giày dép thì 79,5 % kim ngạch các xóa bỏ thuế vào năm thứ 10 và các mặt hàng cịn lại (giày da) sẽ
xóa bỏ thuế suất vào năm thứ 16. Mặt hàng vali, túi xách bằng da sẽ được xóa bỏ thuế vào năm thứ 16. Bên
cạnh đó, đối với mặt hàng dệt may thì 98,8% số dịng thuế sẽ xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực,
tương đương 97,2% kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam sang Nhật Bản.
3.2. Thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam
Bên cạnh những thuận lợi lớn, CPTPP cũng đặt ra nhiều thách thức lớn, đó là, mặc dù xuất khẩu tăng
trưởng nhanh nhưng cơ cấu hàng xuất khẩu chưa mang tính hiệu quả, chủ yếu xuất khẩu hàng có cơng nghệ
thấp, thâm dụng lao động như hàng may mặc, giày dép, đồ nội thất... Xuất khẩu chủ yếu nguyên liệu thô,
chưa qua sơ chế hoặc gia công đã khiến việc cạnh tranh về giá cả, chất lượng, giá trị tăng thêm của hàng
hóa… trở nên yếu. Quy mô doanh nghiệp (DN) xuất khẩu nhỏ, khơng thâm nhập được vào hệ thống phân
phối chính khiến các DN xuất khẩu trở nên không bền vững, không chi phối được thị trường. Tham gia
CPTPP sẽ tạo ra sức ép về mở cửa thị trường, cạnh tranh đối với các DN Việt Nam. Nếu khơng có sự chuẩn
bị tốt, nhiều ngành sản xuất và dịch vụ có thể sẽ gặp khó khăn. Ngành chăn ni sẽ đối mặt sự cạnh tranh
quyết liệt.
Việc giảm thuế chắc chắn sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng luồng hàng nhập khẩu từ các nước
CPTPP vào Việt Nam với giá cả cạnh tranh. Nhiều sản phẩm hàng hóa nơng nghiệp, do quy mơ sản xuất nhỏ
lẻ, năng suất lao động cịn thấp, áp dụng tiến bộ khoa học hạn chế nên giá thành sản phẩm cịn cao. Vì vậy,
việc mở cửa thị trường ít nhiều sẽ tác động đến những sản phẩm hàng hóa này. Hệ quả tất yếu là doanh
nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, thị phần hàng hóa của Việt Nam sẽ bị thu hẹp, thậm chí là
nguy cơ mất thị phần nội địa. Nguy cơ này đặc biệt nguy hiểm đối với nhóm hàng nơng sản, trong đó có gạo,
vốn gắn liền với đối tượng dễ bị tổn thương trong hội nhập là nông dân. Khi Việt Nam phải mở cửa thị
trường, tức phải loại bỏ 100% dòng thuế (thuế nhập khẩu) đối với các sản phẩm nông nghiệp, trong khi rào
cản kỹ thuật chưa có hoặc khơng cao, nên mặt hàng gạo trên thị trường nội địa cũng sẽ gặp bất lợi. Trên thị
trường Việt Nam hiện đã có nhiều loại gạo chất lượng cao của Thái Lan, Nhật Bản đi theo đường tiểu ngạch.
Như vậy, khi CPTPP có hiệu lực, gạo của Việt Nam sẽ bị cạnh tranh ngay trên sân nhà.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ gặp phải thách thức cạnh tranh, có thể dẫn tới phá sản và tình
trạng thất nghiệp ở các DN có năng lực cạnh tranh yếu, không được chuẩn bị kỹ cho hội nhập; việc giảm thu
ngân sách từ giảm thuế nhập khẩu sau khi thực hiện CPTPP. Hơn nữa, việc giảm thuế quan có thể khiến
233
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
luồng hàng nhập khẩu từ các nước CPTPP vào Việt Nam gia tăng, với giá cả cạnh tranh hơn. Thị phần hàng
hóa liên quan tại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng và cạnh tranh sẽ gay gắt hơn. Sản phẩm nông nghiệp, doanh
nghiệp và nông dân Việt Nam đứng trước sự cạnh tranh gay gắt, nhất là các hàng nông sản và nông dân là
những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong hội nhập.
Các nước tham gia CPTPP có xu hướng đàm phán nhằm giữ bảo hộ đối với nông sản nội địa. Khi đó,
hàng rào phi thuế quan sẽ trở nên phổ biến hơn với yêu cầu cao hơn về chất lượng sản phẩm, trong khi đây là
điểm yếu của sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Hàng nhập khẩu tăng, xuất khẩu khơng tìm được đường vào
thị trường các nước sẽ khiến nơng nghiệp đứng trước những khó khăn. Để bảo hộ hàng hóa trong nước, Việt
Nam tất yếu cũng sẽ áp dụng các hàng rào phi thuế quan. Nếu rào cản kỹ thuật chưa có hoặc kém, các biện
pháp vệ sinh dịch tễ không hiệu quả sẽ khiến Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ các sản phẩm chất lượng
thấp.
Một điểm nữa là, quy tắc xuất xứ hàng hóa trong CPTPP yêu cầu các sản phẩm xuất khẩu từ một
thành viên của CPTPP sang các thành viên khác phải có xuất xứ nội khối, khơng sử dụng các nguyên liệu
của nước thứ ba ngoài thành viên CPTPP mới được hưởng ưu đãi thuế suất 0%. Đây là khó khăn đối với DN
sản xuất của Việt Nam, nhất là ngành xuất khẩu hàng may mặc và da giày. Việt Nam phải có hướng dẫn
cung cấp thơng tin đầy đủ cho DN trong việc tiếp cận được những cơ hội của thị trường mới mà trong đó
những thơng tin mang tính đặc thù liên quan đến tập quán, văn hóa, những yếu tố thị trường, và cả những
thơng tin về chính sách vĩ mơ, phải có cơ chế thơng tin xuyên suốt, vận dụng một cách linh hoạt và nhanh
nhạy để bảo đảm cho khả năng tiếp cận thị trường của DN Việt Nam mà chúng ta đều hiểu cịn hạn chế rất
nhiều về nguồn thơng tin khi tiếp cận thị trường đó. Mặc dù hiệp định là CPTPP sẽ tạo nên "cú hích" lớn cho
xuất khẩu Việt Nam cũng như cơ hội mở rộng thị trường cho doanh nghiệp, nhưng các đơn vị sản xuất, kinh
doanh cũng nhấn mạnh về các thách thức trong hội nhập.
Doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực chuyển mình, thay đổi để đáp ứng những quy định ngày càng cao
của thị trường xuất khẩu như an toàn vệ sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc hàng hóa, trách nhiệm mơi
trường và bảo vệ nguồn lợi... Cụ thể, những quy định của CPTPP về quy tắc xuất xứ đòi hỏi một số ngành
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam phải có nguồn nguyên liệu ổn định, chất lượng tốt, mới có thể tận dụng
được sự ưu đãi về thuế quan. Để được hưởng ưu đãi thuế quan trong CPTPP, hàng hóa sản xuất phải đáp ứng
các quy tắc về xuất xứ. Vì vậy, yêu cầu đặt ra cho các DN Việt Nam là phải thiết lập được nguồn cung
nguyên liệu mới, điều chỉnh dây chuyền sản xuất để đáp ứng yêu cầu quy tắc cũng như tìm kiếm khách hàng
tại hiệp định CPTPP.
Ngành dệt may được đánh giá là ngành hưởng lợi nhiều nhất khi tham gia vào CPTPP. Hiệp định được
ký kết sẽ có thị trường rộng hơn và mức độ giảm thuế về 0% nhanh hơn. Đây là cơ hội lớn để ngành dệt may
đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, năng lực tự sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu còn hạn chế, ngành xuất
khẩu hàng may mặc và da giầy của DN Việt Nam đang phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, chủ yếu từ
Trung Quốc (nước không tham gia CPTPP). Vì thế, Việt Nam khó có thể đáp ứng được yêu cầu quy tắc xuất
xứ hàng hóa trong CPTPP. Nếu vượt qua và đáp ứng được quy tắc, các DN Việt Nam sẽ sớm thoát khỏi thực
trạng là DN gia công đơn giản, đồng thời thúc đẩy các DN của ngành cơng nghiệp phụ trợ phát triển. Vì vậy,
các DN cần tự chủ về nguồn nguyên liệu, phụ liệu nhằm tăng dần tỷ lệ nội địa hóa, đáp ứng các yêu cầu về
quy tắc xuất xứ đầu vào.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm đang là vấn đề được các DN quan tâm, khi Việt Nam tham gia CPTPP sẽ
tạo điều kiện để các DN mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa. Ngồi ra, xuất khẩu chủ yếu nguyên liệu
thô, chưa qua sơ chế hoặc gia công đã khiến việc cạnh tranh về giá cả, chất lượng, giá trị tăng thêm của hàng
hóa… trở nên yếu. Nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực từ mở cửa thị trường và sức ép của hàng nhập khẩu,
các DN Việt Nam, trước tiên cần chủ động tìm hiểu các thơng tin liên quan về hiệp định thơng qua việc tích
cực tham gia hơn nữa vào q trình tham vấn với đồn đàm phán thơng qua Phịng Thương mại và Cơng
nghiệp Việt Nam (VCCI), các nhà đàm phán, các học giả để có thể nắm bắt thơng tin về Hiệp định, về các
234
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
cam kết cụ thể trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của mình, từ đó có những biện pháp tận dụng các cơ hội
do Hiệp định CPTPP mang lại.
Bên cạnh đó, các DN cần củng cố, đào tạo, nâng cao trình độ và tay nghề đội ngũ nhân lực, đề ra các
mục tiêu và phương thức hướng hoạt động của DN phù hợp với các địi hỏi của q trình hội nhập kinh tế
quốc tế. Đồng thời, các DN cũng cần tận dụng cơ hội hợp tác với các DN nước ngoài nhằm tranh thủ lợi thế
về vốn, nhân lực và kỹ thuật của các đối tác. Báo cáo tác động của CPTPP do Viện Nghiên cứu Chính sách
và Kinh tế (VEPR) công bố mới đây đánh giá rằng khi tham gia và CPTPP, đầu tư nước ngồi được dự đốn
sẽ tăng khoảng 13 tỷ USD, mức tăng gần bằng thu hút FDI vào Nhật Bản, gấp đôi mức tăng FDI vào
Australia, Malaysia… Tính đến nay, đầu tư trực tiếp của các nước CPTPP vào Việt Nam đạt hơn 100 tỷ USD
vốn đăng ký của những dự án còn hiệu lực, chiếm gần 40% tổng lượng vốn FDI của Việt Nam. Mức tăng
đầu tư sẽ giúp thúc đẩy sự hình thành vốn cố định và tạo cơ hội cho DN Việt Nam khai thác các lợi thế tiềm
năng về nông nghiệp. Điều này thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cũng như mở rộng quy mô sản
xuất của các DN Việt Nam.
4. Kết luận và kiến nghị
CPTPP là một hiệp định toàn diện, tiến bộ và chất lượng cao trên cơ sở cân bằng lợi ích và lưu ý tới
trình độ phát triển khác nhau giữa các nước tham gia Hiệp định, đồng thời kỳ vọng sẽ thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế tại tất cả các nước CPTPP; tạo việc làm, giảm nghèo và nâng cao mức sống của người dân, thúc đẩy
sáng tạo, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh, thúc đẩy minh bạch hàng hóa, quản trị tốt, đồng
thời củng cố các tiêu chuẩn về lao động và môi trường. Gia nhập CTTPP mở ra cơ hội thu hút đầu tư, hợp tác
với các nước nhằm giúp DN hiện đại hóa sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tham gia sâu hơn vào
chuỗi sản xuất tồn cầu. CPTPP quy định các hàng hóa Việt Nam phải sử dụng nguyên liệu tự sản xuất trong
nước hoặc nhập khẩu từ các thành viên CPTPP. Để hội nhập CPTPP phải nắm vững thông tin, yêu cầu từ
hiệp định, từ đó phân tích những tác động đối với DN nhằm đưa ra giải pháp phát triển hợp lý. CPTPP có
những điều kiện tiêu chuẩn cao về mặt thể chế, chất lượng quản lý nhà nước cũng như khuôn khổ pháp luật.
Việc tham gia Hiệp định này sẽ góp phần cải cách mơi trường thể chế, hướng tới các “luật chơi” quốc tế.
Đây là điều kiện cần thiết cho tăng trưởng, mang lại động lực tích cực để phát triển đất nước. Cải cách thể
chế sẽ giúp cho toàn xã hội thúc đẩy được khả năng cạnh tranh, huy động và sử dụng tốt nhất những nguồn
lực sẵn có ở trong nước và tận dụng tốt hơn các nguồn lực bên ngồi. CPTPP sẽ giúp khuyến khích và thúc
đẩy cải cách trong nước ở nhiều lĩnh vực như dịch vụ, hải quan, thương mại điện tử, mua sắm chính phủ, sở
hữu trí tuệ, đầu tư, các vấn đề pháp lý, tiếp cận thị trường cho hàng hóa, quy tắc xuất xứ, các biện pháp phi
thuế quan… Thời gian tới, Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh việc cải cách thể chế, giúp DN nâng cao năng
lực cạnh tranh.
Về phía các DN Việt Nam, trước tiên cần chủ động tìm hiểu các thơng tin liên quan về hiệp định
thơng qua việc tích cực tham gia hơn nữa vào quá trình tham vấn với Đồn đàm phán thơng qua Phịng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), các nhà đàm phán, các học giả để có thể nắm bắt thơng tin
về Hiệp định, về các cam kết cụ thể trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của mình, từ đó có những biện pháp
tận dụng các cơ hội do Hiệp định CPTPP mang lại. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần củng cố, đào tạo,
nâng cao trình độ và tay nghề đội ngũ nhân lực, đề ra các mục tiêu và phương thức hướng hoạt động của
doanh nghiệp phù hợp với các địi hỏi của q trình Hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, các doanh nghiệp
cũng cần tận dụng cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài nhằm tranh thủ lợi thế về vốn, nhân lực
và kỹ thuật của các đối tác. Về dài hạn, các doanh nghiệp trong nước cần bám sát lộ trình và các quy định về
mở cửa thị trường của Hiệp định CPTPP nhằm xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất hiệu quả, nâng cao năng
lực cạnh tranh của mình, tận dụng được cơ hội tham gia chuỗi cung ứng trong khu vực.
Về phía Bộ Cơng Thương cần phổ biến đến doanh nghiệp nhiều hơn về chính sách quy định và hàng
rào kỹ thuật thương mại (TBT – Technical Barriers to Trade) và biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS – Sanitary
and Phytosanitary Measure) của các nước CPTPP.
235
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
Có thể thấy trong thời gian qua, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại những kết quả tích cực
và có những tác động sâu đến kinh tế và xã hội Việt Nam. Quá trình này giúp cho các doanh nghiệp tiếp cận
thị trường xuất nhập khẩu dễ dàng hơn, dịng vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi tăng nhanh, môi trường kinh
doanh được cải thiện và minh bạch hơn, thế và lực của Việt Nam trên trường thế giới ngày càng được nâng
cao. Bên cạnh những cơ hội mở ra cho Việt Nam, quá trình này cũng dẫn đến nhiều thách thức to lớn, đó là
khả năng cạnh tranh quốc tế khá hạn chế của hàng hóa, dịch vụ, doanh nghiệp Việt Nam và khả năng cạnh
tranh thấp của quốc gia, nguy cơ bị phá sản của các doanh nghiệp và mất thị trường trong nước cho các đối
thủ nước ngồi, suy thối tài ngun, tác động xấu về văn hóa, an ninh. Để phát huy tối đa các cơ hội, giảm
thiểu các tác động không mong muốn trong khi hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn, Chính phủ đang tiếp
tục cải cách hành chính theo chiều sâu, xây dựng, ban hành tiêu chuẩn hàng hóa xuất khẩu và lộ trình hạn
chế xuất khẩu sản phẩm thơ. Bên cạnh đó, thúc đẩy hình thành mối liên kết giữa người sản xuất nguyên liệu
với doanh nghiệp xuất khẩu, phát triển cơ sở bảo quản chế biến.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Duyên Duyên (2019). Việt Nam chi 1,72 tỷ USD nhập khẩu thủy sản trong năm 2018.
[2] />[3] Linh Giang (2019). Các nước khẳng định quyết tâm thực thi đầy đủ thỏa thuận CPTPP.
[4] />[5] Nguyễn Mạnh Hùng (2019). Cơ hội và thách thức với Việt Nam sau khi Hiệp định CPTPP có hiệu lực.
[6] />[7] Vy Hương (2018). CPTPP và kỳ vọng của Việt Nam.
[8] />[9] Vũ Khuê (2019). Việt Nam đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu giày dép.
[10] />[11] NN (2019). Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản 2 tháng đầu năm 2019 đạt 5,5 tỷ USD.
[12] />[13] Doanh nghiep.vn (2019). Hàng hóa xuất, nhập khẩu của Việt Nam vào các nước CPTPP gần như xóa bỏ
thuế.
[14] />[15] Văn Thọ (2018). Mặt hàng thủy sản đứng trước cơ hội thúc đẩy xuất khẩu khi Hiệp định Đối tác Toàn
diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) được ký kết.
[16] />[17] Trần Trang (2018). CPTPP – Những nội dung của một Hiệp định tiêu chuẩn cao?
/>[18] Vietnamplus (2018). Kim ngạch xuất khẩu dệt may đạt mức tăng cao nhất kể từ 3 năm gần đây (2018).
236
Trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng
[19] />[20] Nguyễn Tuấn Quỳnh (2015). Doanh nghiệp Việt Nam và những thách thức từ hiệp định TPP.
[21] Khai thác từ: />
237