1
B GIO DC V O TO
TRNG I HC VINH
------------------------
BI TH KHANH
GIO DC O C H CH MINH
CHO THANH NIấN HUYN THCH THNH,
TNH THANH HểA TRONG GIAI ON HIN NAY
Chuyên ngành: LL V PPDH B MễN GIO DC CHNH TR
Mã số: 60.14.10
Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. GVCC. Đoàn Minh Duệ
Nghệ An - 2013
2
LỜI CẢM ƠN
Bằng tất cả tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với :
Khoa giáo dục chính trị - Phòng Đào tạo Sau đại học, Trường Đại học
Vinh; các giảng viên đã trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình
học tập, cũng như hoàn thành cuốn luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS.GVCC Đoàn
Minh Duệ, đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Huyện đoàn Thạch Thành và một số
cơ sở đoàn xã Thạch Sơn, Thạch Đồng, Thành Mỹ, Thị trấn Kim Tân, Thành
Kim, Trường THPT Thạch Thành I, Trường THPT Thạch Thành II…, các
đồng chí Hiệu trưởng và Tổng phụ trách đoàn đội các trường Trung học phổ
thông, Trung học cơ sở huyện Thạch Thành, đã giúp tôi thực hiện khảo sát và
cung cấp số liệu để tôi thực hiện luận văn. Xin cảm ơn gia đình, bạn bè và các
đồng nghiệp đã hết sức động viên và khích lệ tôi trong suốt quá trình học tập.
Trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn này, bản thân tôi
cũng đã rất tâm huyết và cố gắng, song chắc chắn không tránh khỏi sai lầm và
khiếm khuyết. Tôi kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến, chỉ dẫn từ các
thầy cô giáo và bạn bè, đồng nghiệp để việc nghiên cứu đề tài được hoàn
thiện hơn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2013
Tác giả
Bùi Thị Khanh
3
MỤC LỤC
DANH MỤC MỘT SỐ TỪ VIẾT TẮT
HĐND
UBND
MTTQ
BTV
CNH, HĐH
TNCS
TW
BCH
NXB
THPT
CTQG
Hội đồng nhân dân
Uỷ ban nhân dân
Mặt trận tổ quốc
Ban thường vụ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thanh niên cộng sản
Trung ương
Ban chấp hành
Nhà xuất bản
Trung học phổ thông
Chính trị quốc gia
4
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, tư tưởng
của người mang tính dân tộc và tính thời đại sâu sắc, bao trùm mọi lĩnh vực
của của đời sống xã hội, trong đó có vấn đề thanh niên. Trong bản di chúc
năm 1969, Người đã viết "Đoàn viên thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc
đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần
chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người
kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "Hồng" vừa "Chuyên". Bồi dưỡng thế
hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết ".
Tuổi trẻ giống như mùa xuân của đất nước mà thanh niên là chủ nhân
tương lai, muốn trở thành chủ nhân tương lai, trong thư chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi các bạn thanh niên vào ngày 17/8/1945 người đã viết "Thanh niên phải
rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm ra việc để chuẩn bị cho
cái tương lai ấy". Xuất phát từ yêu cầu của thời đại, tình hình thực tiễn của
dân tộc, Hồ Chí Minh đã đề xướng và thực hiện cuộc cách mạng trên lĩnh vực
đạo đức ở nước ta. Người chính là tấm gương đạo đức tiêu biểu, sáng ngời
mẫu mực cho các giá trị truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Kế thừa truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và tư tưởng Hồ Chí
Minh, trong giai đoạn hiện nay Đảng ta đã phát động cuộc vận động học tập
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tháng 7 năm 2006, Bộ Chính trị quyết
định mở cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh" trong toàn đảng, toàn dân, toàn quân. Năm 2011, Ban chỉ đạo Trung
ương cuộc vận động đã tiến hành tổng kết 4 năm, cuộc vận động học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và tiếp tục ban hành chỉ thị số 03CT/TW về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
5
Hồ Chí Minh" cuộc vận động mang lại ý nghĩa to lớn trong giai đoạn phát
triển hiện nay của đất nước, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ.
Xã hội đang ngày càng biến đổi và phát triển không ngừng, con người
là động lực vừa là chủ thế sáng tạo trong xã hội, mà đặc biệt là thanh niên
những người trực tiếp tiếp thu, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ vào
trong đời sống sản xuất lao động, phải rèn luyện bản thân một cách toàn diện
cả về đức, trí, thể, mĩ. Thế hệ trẻ Việt Nam hội nhập với thế giới, chủ trương
của Đảng ta là hòa nhập không hòa tan, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của
nhân loại và giữ lại nét riêng, truyền thống bản sắc của dân tộc. Đối mặt với
những thách thức, ngày nay ta thấy nổi cộm lên những vấn đề như lối sống
thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, suy thoái đạo đức, tệ nạn xã hội ma túy, mại
dâm, cờ bạc, những thái độ ỷ lại, thiếu chí tiến thủ, thờ ơ vô cảm trước đồng
loại... Nhiều thanh niên đã tự đánh mất và hủy hoại tương lai của chính bản
thân mình và trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Thế hệ trẻ Thạch Thành ngày nay, đang cùng với thanh niên cả nước,
phấn đấu, chung sức, chung lòng, vượt qua mọi khó khăn thử thách, xây dựng
quê hương ngày càng giàu đẹp, xứng đáng là cánh tay phải đắc lực của Đảng.
Căn cứ vào thực tế và với mong muốn được góp sức của mình vào công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao hơn nữa phẩm chất năng lực,
trình độ của người lao động mới trong thời kỳ CNH,HĐH, chúng tôi chọn vấn
đề "Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho thanh niên huyện Thạch Thành,
tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay" làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Văn kiện Đại hội lần IX của Đảng đã khẳng định "Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
những giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân
loại... tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cách mạng nhân dân ta giành thắng
6
lợi, là tài sản to lớn của dân tộc ta". Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với
chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành kim chỉ nam chỉ đạo hoạt động của Đảng và
Nhà nước ta. Giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh là vấn đề quan tâm hàng đầu của
Đảng và Nhà nước ta hiện nay, xuất phát từ tình hình thực tiễn của đất nước và
những biến động đang diễn ra hàng ngày của thế giới, đặc biệt đối với sự
nghiệp đào tạo và giáo dục cho thế hệ trẻ trong giai đoạn hiện nay.
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hệ thống tư
tưởng của Hồ Chí Minh, tiêu biểu như Giáo trình "Tư tưởng Hồ Chí Minh" do
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa
học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia; Giáo trình
"Đạo đức học Mác - Lênin" do GS, TS Nguyễn Ngọc Long và PGS, TS
Nguyễn Thế Kiệt (Đồng chủ biên) Viện triết học, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh; "Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa" do GS, TS Phạm Minh Hạc chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội;
"Giới thiệu một số tác phẩm, bài nói, bài viết, của chủ tịch Hồ Chí Minh" Ban
tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa, Thanh Hóa, tháng 6 năm 2012.
Đồng thời gần đây xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về thanh niên
cũng như phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên "Nhiệm vụ cơ bản
của thanh niên Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước", Nxb Thanh
niên, Hà Nội, 2002; C.Mác, Ph. Ăngghen, Bàn về thanh niên, Nxb Thanh
niên, Hà Nội 1982; TS. Trần Quy Nhơn "Tư tưởng Hồ Chí Minh về bồi
dưỡng thế hệ cách mạng đời sau” Nxb Giáo dục, 2006; Hồ Chí Minh với sự
nghiệp giáo dục Đoàn thanh niên - Báo thanh niên 27/10/1995; “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về giáo dục thanh niên” Nxb Thanh niên, Hà Nội. 1999; "Khái quát
tình hình một số đối tượng thanh niên hiện nay" [6; 25], Tạp chí báo cáo viên,
Ban Tuyên giáo Trung ương - Trung tâm thông tin công tác tuyên giáo,
5/2008; Thạc sỹ Thái Bình Dương với đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên trường Đại học Vinh hiện
nay”; “Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức lối sống
7
cho học sinh Trung học phổ thông Phan Bội Châu tỉnh Nghệ An trong giai
đoạn hiện nay” của Nguyễn Thị Hồng Oanh, Luận văn Thạc sỹ khoa học giáo
dục, Vinh, năm 2009; “Vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh để nâng cao
hiệu quả giáo dục đạo đức cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay”,
Nguyễn Thị Ngọc Anh, Luận văn Thạc sỹ khoa học giáo dục, Đại học Vinh,
năm 2012; “Nâng cao hiệu quả thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, ở Đảng bộ Gò Vấp, thành phố Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay” của Trần Văn Khuyên, Luận văn Thạc sỹ
khoa học giáo dục, Đại học Vinh, năm 2012.
Các công trình đã nêu trên là nguồn tư liệu quý, bổ ích để tôi tham khảo
trong quá trình viết luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh cho
thanh niên huyện Thạch Thành trong giai đoạn hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, của công tác giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh
cho thanh niên nói chung.
Khảo sát thực trạng công tác giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho thanh
niên huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa, từ đó tìm ra mặt mạnh, mặt hạn
chế, nguyên nhân và giải pháp khắc phục.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức
Hồ Chí Minh cho thanh niên Thạch Thành tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn
hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho đối tượng
thanh niên huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa.
8
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi chỉ tập chung khảo sát ở một số địa bàn tiêu biểu, điển hình
như xã Thạch Sơn, xã Thạch Đồng, xã Thành Mỹ, Thị trấn Kim Tân, xã
Thành Kim, Trường THPT Thạch Thành I, Trường THPT Thạch Thành II.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài, ngoài hệ thống phương pháp luận Mác - Lênin còn sử
dụng các phương pháp sau đây:
Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp điều tra, phỏng vấn
Phương pháp thống kê
Phương pháp quan sát thu thập thông tin
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên chuyên nghành, các
bạn cao học và đặc biệt là cán bộ làm công tác đoàn ở huyện Thạch Thành
trong giai đoạn hiện nay.
7. Giả thuyết khoa học
Giáo dục đạo đức cho thanh niên tại huyện Thạch Thành trong giai đoạn
hiện nay chưa đạt được kết quả cao, tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống
của một bộ phận thanh niên gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của xã hội. Vì
vậy, phải tìm ra những phương hướng giải pháp phù hợp, đồng thời tăng cường
giáo dục tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
8. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của đề tài gồm các chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc giáo dục đạo đức Hồ chí Minh cho
thanh niên.
Chương 2: Thực trạng công tác giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh cho
thanh niên huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa.
9
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp giáo dục đạo đức Hồ Chí
Minh cho thanh niên huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay.
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH CHO THANH NIÊN
1.1. Một số khái niệm
1.1.1. Đạo đức
Đạo đức là sản phẩm của xã hội con người, được phát triển qua các giai
đoạn lịch sử, đạo đức được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Đại từ điển
tiếng việt định nghĩa về đạo đức như sau “Đạo đức là phép tắc về mối quan hệ
giữa người với người, giữa cá nhân với tập thể, với xã hội” [7; 595]. Đạo đức
là sản phẩm của các mối quan hệ xã hội và trong mỗi quốc gia dân tộc là sản
phẩm của pháp luật và chính quyền. GS.TS Phạm Minh Hạc đã viết “Đạo đức
theo nghĩa hẹp là luân lý, là những quy định và chuẩn mực ứng xử trong mối
quan hệ con người… Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản ánh
toàn bộ mặt nhân cách đã bị xã hội hóa”.
Việt Nam là quốc gia phương Đông có nền văn minh lâu đời, nền văn
hóa của Việt Nam là sự kết hợp và đặc trưng của dân tộc Việt và sự giao thoa
với các nền văn hóa khác trên toàn thế giới, nền văn hóa dân tộc Việt được
hình thành từ trong bản chất của con người Việt Nam. Văn hóa tạo nên truyền
thống đạo đức dân tộc, truyền thống đạo đức được bắt nguồn từ trong đời
sống lao động sản xuất và sinh hoạt của người dân bản xứ của dân tộc Việt.
Mở lại từng trang sử, từ thời Âu Cơ và Lạc Long Quân sinh ra trăm trứng nở
trăm con, lên rừng xuống biển mở mang khai hoang lãnh thổ, đến thời các
Vua Hùng xây dựng đất nước nên nước Văn lang - Âu lạc. Dân tộc ta đã trải
qua các triều đại phong kiến Triệu, Đinh, Lý, Trần, bao đời xây dựng nghiệp
10
lớn đất nước ngày càng đi lên, để giữ yên được bờ cõi chúng ta đã phải trải
qua hàng nghìn năm bắc thuộc, đấu tranh chống lại quân Nguyên Mông, đạp
tan ách thống trị của bọn đế quốc, chống lại mọi âm mưu thủ đoạn của các thế
lực thù địch trong cả thời chiến và thời bình, xây dựng kinh tế, ổn định chính
trị, quốc phòng an ninh luôn được tăng cường và giữ vững.
Đạo đức dân tộc Việt Nam đề cao tính nhân văn, gắn liền với tư tưởng
Nho giáo thống trị suốt thời kỳ phong kiến, tinh thần từ bi của đạo Phật, đề
cao tính cộng đồng, tạo nên sức mạnh tổng hợp “Một cây làm chẳng nên non,
ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn”.
Một dân tộc luôn đề cao tính nhân văn là một dân tộc luôn hướng về cái
mới, cái tiến bộ, luôn hướng về con người.
Ngày nay, thế giới đã và đang có nhiều biến động, con người đang
đứng trong guồng xoay mới của vật chất, đôi khi chúng ta đang lãng quên
những giá trị tinh thần mà chính nó tạo nên một đời sống cân bằng trong xã
hội. Nhận thức được những biến động của tình hình thế giới, nắm vững quy
luật hoạt động trong đời sống xã hội, Đảng và Nhà nước ta đưa ra chính sách
định hướng kịp thời mang tính thời đại, tăng cường giữ gìn và phát huy bản
sắc của dân tộc Việt Nam, chủ trương hòa nhập chứ không hòa tan.
Đi từ những giá trị truyền thống của dân tộc, chúng ta tìm hiểu về sự
vận động của phạm trù đạo đức xung quanh và sự xây dựng trên các giá trị
của đạo đức, có tác động và ảnh hưởng như thế nào đối với Việt Nam.
Phương Đông là cuội nguồn văn hóa đạo đức của Việt Nam, là cái nôi của
nền văn hóa của nhân loại, với hai nền văn hóa lớn là Trung quốc và Ấn Độ,
nơi mà tư tưởng Nho giáo gần như thống trị hoàn toàn trong suốt thời kỳ
phong kiến, cùng với đạo Phật cả hai luồng tư tưởng có ảnh hưởng sâu sắc
đến các nước trong khu vực, có nét chung, tương đồng là cả hai tư tưởng đều
đề cao các giá trị đạo đức và coi đạo đức là cái gốc xã hội.
11
Nho giáo là học thuyết chính trị do Khổng Tử sáng lập, có nguồn gốc từ
xã hội chiếm hữu nô lệ và phát triển đỉnh cao trong xã hội phong kiến, Nho
giáo đề cao tư tưởng đức trị, coi đạo đức là cộng cụ và phương tiện chủ yếu
nhất của giai cấp phong kiến trong việc cai trị và quản lý xã hội. Đạo trong
Nho gia là quy luật biến chuyển trời đất, muôn vật “Lập đạo của đất, nói nhu
và cương”, “Lập đạo của người, nói nhân và nghĩa”, mọi đức của con người
đều từ nhân nghĩa mà ra, cũng như muôn loài trên trời dưới đất đều do âm
dương, nhu cương mà thành. Trong giáo dục đạo đức Nho gia đề cao nhân
nghĩa, đức được xét trong mối quan hệ nhân nghĩa và từ nhân nghĩa mà ra.
Nhân là lòng thương người, nghĩa là dạ thủy chung, bất nhân là ác, bất
nghĩa là bạc. Khổng Tử cho rằng, tính cách của con người là do trời phú cho
vì vậy không được phép buông lỏng mà phải giáo hóa. Đức phải gắn liền với
đạo. Đức trong Nho gia thể hiện phẩm chất tốt đẹp của con người trong tâm
hồn ý thức cũng như hình thức, dáng điệu. Trong giáo trình triết học Mác –
Lênin viết về mối quan hệ đạo đức trong Nho gia đối với cuộc sống con người
nhấn mạnh “Đường đi lối lại đúng đắn phải tuân theo để xây dựng mối quan
hệ lành mạnh, tốt đẹp là đạo; noi theo đạo một cách nghiêm chỉnh, đúng đắn
trong cuộc sống thì có được đức trong sáng quý báu ở trong tâm” [12; 42].
Đạo Khổng Tử đề cao chữ luân trong luân thường, nói lên các mối quan hệ xã
hội, trong đó có đề cao tam cương (Vua – tôi, cha – con, chồng – vợ), ngũ
thường (Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín), đứng đầu ngũ thường là nhân nghĩa, đạo
nhân là đứng đầu trong đạo của Khổng Tử.
Trong quá trình khẳng định và phát triển của nó, Nho giáo trở thành
công cụ hữu hiệu của giai cấp phong kiến và chế độ gia trưởng trọng nam
khinh nữ, tự nó trở thành khuôn mẫu ràng buộc sự phát triển của xã hội. Tư
tưởng Nho giáo ăn sâu vào đời sống nhân dân từ chế độ này sang chế độ khác,
dẫn đến sự lỗi thời và không còn phù hợp, tự phủ định, kìm hãm sự phát triển
của con người, tất yếu dẫn đến sự biến đổi và thay thế của hệ tư tưởng tiến bộ
12
hơn. Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển, con người không thể phủ định các
giá trị tốt đẹp mà Nho giáo mang lại.
Đạo Phật ra đời từ thế kỷ VI trước công nguyên, do Siddharta (Tất Đạt
Ma) sáng lập, Phật giáo hướng vào mọi đối tượng nhằm giải thoát con người
thoát khổi khổ ải đến cõi Niết bàn, tìm đường giải thoát con người khỏi kiếp
luân hồi, Phật giáo nhìn nhận giới tự nhiên cũng như nhân sinh bằng sự phân
tích quy luật nhân - quả, từ sự phân tích luật nhân quả, trong giới tự nhiên
phật giáo đề cao tư tưởng “Vô ngã, vô thường”, Phật giáo cho rằng không thể
tìm ra được nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ và vạn vật trong vũ trụ chỉ là sự
giả hợp do hội đủ nhân duyên mà có, vạn vật biến đổi vô thường theo quy
trình sinh - trụ - dị - diệt.
Trong quan niệm nhân sinh quan của đạo Phật về con người, nó đề cao
việc giải thoát con người khỏi vòng luân hồi, nghiệp báo. Đạo Phật tập trung
ở triết học nhân sinh quan trong thuyết “Tứ diệu đế” bao gồm :
Khổ đế: sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly (Thương yêu nhau mà phải xa
nhau), oán tăng hội (Oán gét nhau mà phải sống gần nhau), sở cầu bất đắc
(Mong muốn nhưng không làm được), ngũ thụ uẩn (Năm yếu tố uẩn tụ lại
nung nấu làm nên khổ sở).
Nhân đế: thuyết “Thập nhị nhân duyên” mười hai nguyên nhân và kết
quả nối đuôi nhau dẫn đến cái khổ của con người, vô minh, hành, thức, danh
sắc, lục thập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão – Tử.
Diệt đế: mọi nỗi đau khổ đều có thể tiêu diệt khi con người đạt tới cõi
Niết bàn.
Đạo đế: để tiêu diệt nỗi đau khổ con người phải tu đạo, hoàn thành đạo
đức cá nhân gồm 8 nguyên tắc gồm chính kiến (Hiểu biết đúng tứ đế), chính
tư (Suy nghĩ đúng đắn), chính ngữ (Lời nói đúng đắn), chính nghiệp (Giữ
nghiệp không tác động xấu), chính mệnh (Ngăn giữ dục vọng), chính tịnh tiến
13
(Rèn luyện tu lập không mệt mỏi), chính niệm (Có niềm tin vững bền vào giải
thoát), chính định (Tập trung tư tưởng cao độ).
Tám nguyên tắc trong đạo đế, cũng chính là những nguyên tắc để tu
dưỡng đạo đức của con người trong cuộc sống. Đạo Phật khuyên bảo các tăng
ni, phật tử sống đúng, sống hợp với lẽ đời đó chính là giải thoát cho linh hồn
con người khỏi khổ ải, đè nặng của cuộc sống trầm luân và giải thoát đến cõi
Niết bàn. Tuy nhiên, ta thấy tư tưởng của đạo Phật đi từ ngọn chưa bắt đầu từ
gốc, không lý giải được nguồn gốc, bản chất từ những quy luật hình thành của
các vấn đề trong cuộc sống trong đó bao gồm cả vấn đề về đạo đức, rời xa
cuộc sống thực tiễn của con người và mang tính chất giả tưởng, hướng con
người tới thế giới thứ hai không có thực. Dù vậy, xét đến cùng ta không thể
phủ nhận những giá trị tốt đẹp mà đạo Phật mang lại cho con người, mà nét
ưu điểm nhất là giá trị nhân đạo, mang lại những giá trị xã hội cũng như ước
mơ giải phóng con người và xây dựng xã hội ngày càng tốt đẹp hơn.
Đạo đức là sản phẩm của con người, trong mỗi xã hội và điều kiện lịch
sử các giá trị đạo đức được biểu hiện khác nhau, điều đó là tất yếu và phù hợp
với quy luật khách quan của cuộc sống. Nói chung từ xã hội cổ đại đến xã hội
hiện đại, đạo đức mang tính giai cấp xét về bản chất, các giá trị tư tưởng đạo
đức ở các nước phương Tây mang tính hướng ngoại, giải quyết vấn đề chung
trong xã hội, đi từ các triết gia lớn như Arixtot, Socrat, Lútvích Phoiơbắc. Từ
những luận điểm mang tính chân lý của Hêracrít “Chúng ta không thể tắm hai
lần trên một dòng sông”, đến luận điểm bàn luận về các vấn đề trong cuộc
sống của Arixtốt về vấn đề đức hạnh của con người, phẩm hạnh là cái tốt đẹp
nhất, là lợi ích tối cao mà mọi công dân phải có, thể hiện trong quan niệm về
hạnh phúc. Xã hội có nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức nhưng theo
Arixtốt, đạo đức phải gắn liền với các hoạt động của nhận thức, với ước vọng
là điều thiện. Như vậy Arixtốt là người đầu tiên khẳng định các giá trị đạo
14
đức và chính các giá trị đó có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động thực tiễn của
con người.
Socrat nhà tư tưởng lỗi lạc người Hy Lạp, đã có những nghiên cứu sâu
sắc về đạo đức. Theo Ông cơ sở của đạo đức là cái thiện, đạo đức và tri thức
của con người thống nhất với nhau. Đồng thời Ông cũng nhấn mạnh vai trò
của tri thức đối với đạo đức, Ông cho rằng tri thức như thế nào thể hiện ra đạo
đức và phẩm hạnh của con người như vậy, con người mà không có hiểu biết,
dốt nát là những kẻ không có đạo đức, sự hiểu biết làm con người trở nên có
đạo đức ngày càng cao đẹp hơn.
Từ thực tiễn của cuộc sống, sự phát triển của các vấn đề lý luận, hình
thành các quan điểm duy tâm và duy vật trong các vấn đề của triết học và
đồng thời vấn đề đạo đức cũng được lý giải theo những xu hướng trên. Các
nhà triết học phương Tây đã tìm ra nguồn gốc và vai trò của đạo đức trong
cuộc sống, theo hai quan điểm duy vật và duy tâm. Các nhà duy tâm và thần
học coi đạo đức là hoạt động của ý thức mang tính “Tiên thiên”, là cái trời
phú và có trước kinh nghiệm, đạo đức mang tính chất tập quyền, đẳng cấp,
bảo vệ lợi ích của tầng lớp trên trong xã hội, bất bình đẳng đối với các tầng
lớp nhân dân khác nhau.
Chủ nghĩa duy vật mà đại diện tiêu biểu là C. Mác và Ph. Ăngghen, hai
nhà triết học tiêu biểu của nền triết học hiện đại, học thuyết Mác – Ăngghen
đi từ những vấn đề thực tiễn của xã hội, thành tựu của khoa học tự nhiên và
sự kế thừa của các nền triết học trước đó, mục đích vì con người, lý giải các
vấn đề xảy ra trong đời sống tự nhiên – tư duy – xã hội. Bản chất của con
người là tổng hòa các mối quan hệ trong xã hội, con người là chủ thể và là sản
phẩm của lịch sử, trong những điều kiện nhất định con người lao động và
sáng tạo để tồn tại và phát triển từ đó làm nên những giá trị về vật chất và tinh
thần, đồng thời hình thành nên các mối quan hệ đa dạng và phức tạp về các
lĩnh vực kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội. Các mối quan hệ xã hội này tạo
15
động lực cho con người đấu tranh và phát triển, hoàn thiện nhân cách và bản
tính của mình. Cần nhận thức con người trong xã hội có hai mối quan hệ
chính là con người với tự nhiên và con người với xã hội. Hai mối quan hệ này
được giải quyết trong mẫu số chung là lao động; lao động khiến cho con
người cải biến giới tự nhiên và tái sản xuất hoàn toàn ra thế giới của tự nhiên;
lao động tạo nên mối quan hệ cộng đồng gắn kết giữa con người và con người
trong xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế xã hội khác nhau thì sự biểu hiện
các mối quan hệ này cũng khác nhau; ví như trong xã hội công xã nguyên
thủy, khi mà con người sống hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên và bị tự nhiên
chi phối thì các hoạt động nhận thức, lối sống, cách sinh hoạt của con người
mang tính nguyên sơ, bắt đầu xuất hiện cái được gọi là ý thức nguyên thủy.
Trong chế độ này, ý thức đạo đức được gắn với các hoạt động tinh thần như
thờ cúng thần sông, thần núi, thờ cúng tổ tiên, thờ các loài vật linh thiêng; các
mối quan hệ trong xã hội nguyên thủy mang tính huyết thống, ý thức đạo đức
còn mang tính chất kinh nghiệm truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Trải qua các thời kỳ khác nhau của xã hội từ chiếm hữu nô lệ, phong
kiến, tư bản chủ nghĩa, sự phân chia đẳng cấp cũng như các mối quan hệ của
con người mang đậm tính giai cấp. Xã hội xuất hiện mẫu thuẫn không thể điều
hòa được, bất công trở nên như là điều tất yếu, từ đó dẫn đến đấu tranh và pháp
luật được ra đời tồn tại song song cùng đạo đức. Pháp luật thay đổi qua mỗi chế
độ xã hội, cũng như đạo đức biến đổi theo nhận thức của con người.
Các giá trị và phạm trù đạo đức được nâng lên thành lý luận và thể hiện
mục tiêu mà con người muốn hướng tới, để xây dựng xã hội ngày càng tốt
đẹp hơn. Bởi mục tiêu cho toàn nhân loại xóa bỏ chế độ người bóc lột người,
giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu,
đó cũng chính là sứ mệnh của chủ nghĩa Mác.
Các nhà triết học Mác tìm đến nguồn gốc cái thiện và cái ác trong bản
tính trừu tượng của con người. Khát vọng con người là hướng tới bình đẳng
16
và hạnh phúc, con người ngoài tính lịch sử, còn mang tính giai cấp, vì vậy
việc luận chứng về thiện và ác, thực chất mỗi nhà tư tưởng đều bảo vệ quan
điểm đạo đức của giai cấp của mình. Cái thiện và cái ác được luận giải một
cách khoa học trong đạo đức học Mác – xít, đó là “Những phạm trù của đạo
đức, trong đó thể hiện sự đánh giá về mặt đạo đức hành vi của con người (Của
các tập đoàn, của các giai cấp) cũng như những hiện tượng xã hội theo quan
điểm giai cấp nhất định. Thiện được hiểu là cái (Một giai cấp nhất định) coi là
hợp đạo đức và đáng noi theo, ác là ý nghĩa ngược lại: phi đạo đức và đáng
lên án” [32; 545].
Quan điểm về đạo đức, hay quan niệm về cái thiện và cái ác không
tương đồng ở các dân tộc, cũng như chế độ xã hội khác nhau trong nhận thức
cũng như trong thực hiện. Xã hội này sang xã hội được thay đổi mạnh mẽ từ
dân tộc này sang đến dân tộc khác. Tiếp tục sự phát triển các quan niệm về
đạo đức trong triết học Mác, V.I. Lênin kế thừa và áp dụng trong điều kiện và
hoàn cảnh thực tiễn của nước Nga, người đã nêu giá trị đạo đức. Đạo đức giúp
cho xã hội loài người tiến cao hơn, thoát khỏi ách lao động bóc lột. Đồng thời
chỉ ra cái đích của đạo đức cộng sản chủ nghĩa, góp phần phá hủy xã hội cũ
của bọn bóc lột, xây dựng xã hội mới - Xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh tấm gương tiêu biểu đạo đức của dân tộc Việt Nam, nhân
cách của người là sự hội tụ văn hóa, truyền thống dân tộc Việt và tinh hoa văn
hóa của thế giới. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong thời đại mới, đại diện
cho trí tuệ và ước mơ của thế hệ trẻ Việt Nam trong thời đại ngày nay. Tuổi
nhỏ Người chịu ảnh hưởng lớn của nền giáo dục Nho giáo, lớn lên với tư
tưởng ham học hỏi và khám phá tri thức và khát vọng mãnh liệt về giải phóng
dân tộc khỏi áp bức bóc lột bất công, Người đã đi khắp các quốc gia trên thế
giới để tìm ra con đường chân chính giải phóng dân tộc và tiếp thu văn hóa
phương Tây. Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã tìm thấy chủ nghĩa Mác –
Lênin, ngọn lửa soi đường, lý luận khoa học, giải phóng nhân dân lao động,
17
các dân tộc thuộc địa thoát khỏi vòng nô lệ. Người đã đứng lên đấu tranh
không chỉ vì quyền lợi của dân tộc mà còn vì quyền lợi của tất cả nhân dân
các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Năm 1930, Người đã về nước trong cương
vị là người đại diện cho Quốc tế cộng sản thành lập nên Đảng Cộng sản Đông
Dương. Năm 1945, Người đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa, cùng với dân tộc trải qua 2 cuộc kháng chiến giữ
nước vĩ đại. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vô
cùng vĩ đại, kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990), tổ
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã phong
tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh danh hiệu “Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn
hóa kiệt xuất”.
Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền đạo đức mới ở Việt Nam, nền
đạo đức từng bước đưa người lao động lên địa vị làm chủ, phát huy được
quyền làm chủ của mình, nền đạo đức vì con người và đấu tranh cho quyền
sống của con người trong xã hội. Đạo đức dân tộc Việt Nam là sự kết tinh của
lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước, nền đạo đức của chế độ xã hội chủ
nghĩa.
Đạo đức mang tính triết lý nhân văn sâu sắc và được biểu hiện khác
nhau trong mỗi xã hội. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp
các nguyên tắc quy tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó con người tự giác điều
chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và nghĩa vụ của con
người, với tiến bộ của xã hội, trong quan hệ cá nhân – cá nhân, quan hệ cá
nhân – xã hội.
1.1.2. Giáo dục đạo đức
1.1.2.1. Giáo dục đạo đức là gì?
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, được tổ chức có hệ thống
thông qua hoạt động giữa nhà giáo dục và người được giáo dục, dưới sự tác
động của môi trường tự nhiên và xã hội, nhằm chiếm lĩnh những tri thức và
18
kinh nghiệm của xã hội loài người, đảm bảo việc hình thành và phát triển tinh
thần và thể chất của con người.
Đạo đức trong xã hội được xem là hệ thống các quy tắc chuẩn mực xã
hội, thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người, phản ánh mặt nhân
cách của con người đã được xã hội hóa. Đạo đức được biến đổi và phát triển
qua các chế độ xã hội.
Giáo dục đạo đức là quá trình chuyển hóa những chuẩn mực, nguyên
tắc đạo đức của xã hội thành đạo đức và nhân cách của mỗi cá nhân, được thể
hiện trong giao tiếp, ý thức tự giác và các hoạt động thực tiễn diễn ra hàng
ngày trong xã hội. Hoạt động giáo dục đạo đức được thực hiện trong những
môi trường khác nhau từ nhà trường, gia đình và xã hội.
1.1.2.2. Vai trò và chức năng của giáo dục đạo đức cho thanh niên
trong giai đoạn hiện nay
Vai trò của giáo dục đạo đức
- Góp phần hình thành và phát triển nhân cách con người
Con người từ lúc sinh ra đã nhận được sự giáo dục từ gia đình, nhà
trường và xã hội, chính từ đó nhân cách con người dần được hình thành và
phát triển theo. Sự giáo dục và tự giáo dục tạo ra cho mỗi cá thể một nhân
cách riêng biệt và trong mỗi xã hội vấn đề giáo dục lại được tổ chức và rèn
luyện theo phương pháp và cách thức khác nhau, từ đó tạo nên lối sống, văn
hóa cách ứng xử về các vấn đề khác nhau trong mỗi xã hội, giai cấp tầng lớp,
trong đó có vấn đề về đạo đức.
Giáo dục đạo đức là vấn đề được đề cập đến trong mọi thời đại, tại sao
chúng ta phải giáo dục đạo đức, giáo dục đạo đức như thế nào, sản phẩm của
giáo dục đạo đức là gì?
Đạo đức có vai trò quan trọng không thể phủ nhận đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội, đối với mỗi cá nhân, gia đình. Những quy tắc chuẩn
mực đạo đức bất thành văn trong xã hội góp phần duy trì trật tự một xã hội ổn
19
định ở mức gần như toàn diện trên tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống. Mỗi cá
nhân đều sự chịu sự quy định và giáo dục của đạo đức của tất cả các thành
viên trong xã hội, từ vấn đề nhỏ nhất, ăn uống, đi lại, nói năng, hay nói một
cách trừu tượng hơn là trong lối văn hóa ứng xử, văn hóa giáo tiếp đều chịu
sự chi phối của đạo đức, đạo đức được đón nhận trong cộng đồng xã hội như
truyền thống và thói quen bất thành văn, nếu vi phạm con người xẽ bị tòa án
lương tâm, xã hội phán xét.
Thế hệ trẻ ngày nay tiếp cận vấn đề đạo đức
Đạo đức là cái nôi để nhân cách mỗi con người phát triển, trong đó cá
thể bằng cách tiếp nhận khác nhau và tùy vào năng lực thực tế của bản thân,
khả năng rèn luyện tự hoàn thiện mình, từ đó hình thành nên nhân cách con
người. Đầu tiên ta xét yếu tố gia đình, môi trường trực tiếp tác động vào quá
trình hình thành và phát triển của nhân cách, văn hóa ở đây mang tính chất tập
thể nhóm hay cá nhân đặc trưng, mang tính dòng họ, thôn xóm hoặc là vị trí
địa lý vùng lãnh thổ cư trú. Có những quan niệm trong cuộc sống tạo thành
thói quen trong tầng lớp dân cư “Con nhà tông không giống lông cũng giống
cánh”, “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”, “Con người có tổ có tông, như cây có
cuội như sông có nguồn”, điều đó chứng tỏ rằng môi trường đầu tiên là gia
đình, ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi cá nhân, xây dựng văn hóa đạo đức đầu tiên
phải xây dựng từ cái nôi cơ bản này. Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ
trương và biện pháp rất hợp lý trong các chủ trương và chính sách trong cuộc
sống như xây dựng “Gia đình văn hóa” phát động xây dựng nền đạo đức mới
đạo đức xã hội chủ nghĩa, tiêu biểu là cuộc vận động “ Tiếp tục đẩy mạnh việc
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Trung ương Đảng
phát động, được mọi tầng lớp nhân dân ủng hộ, đặc biệt là giới trẻ ngày nay.
Đạo đức trong cuộc sống, hay nói cách khác văn hóa lối sống được biểu
hiện hàng ngày thông qua cuộc sống thường nhật của chúng ta, đó là lời nói
giao tiếp kính trên nhường dưới, thái độ cách ứng xử với mọi người xung
20
quanh, quan tâm đến mọi người, thái độ và hành động chia sẻ những khó khăn
trong cuộc sống cá nhân đối với bản thân và xã hội … hàng năm, ta thấy nêu
gương những tấm gương tốt người tốt trên mọi lĩnh vực để mọi người cùng học
hỏi và làm theo, đó là những biện pháp do xã hội tự giáo dục thành viên mình.
Ngày nay chúng ta đang trong quá trình hội nhập, nền văn hóa mà
chúng ta tiếp thu mang tính đa chiều, ảnh hưởng đến mọi tầng lớp nhân dân
và đặc biệt giới trẻ trong đó có đội ngũ tri thức trẻ. Những lớp người chịu ảnh
hưởng và có cái nhìn nhạy cảm đối với vấn đề này, vì vậy mà lúc nào công
tác giáo dục đều phải mang tính định hướng trước, trong đó vấn để đạo đức
đặc biệt phải được chú trọng và phải có sự quan tâm đầu tư và chỉ đạo định
hướng của Đảng và Nhà nước thường xuyên, cụ thể, tránh các quan điểm chủ
quan nóng vội duy ý. Xây dựng một nền văn hóa mang đậm đà bản sắc, trong
thời đại hiện nay, chính là giữ lại nguồn gốc, giá trị đích thực của dân tộc
khẳng định cái tôi của Việt Nam với bạn bè trên thế giới.
Xã hội mà trong đó con người là chủ thể, và chính con người tạo nên sự
vận động và biến đổi của xã hội đó. Trong mỗi xã hội, cái cũ và cái mới luôn
đan xen nhau, cái mới xuất hiện trên nền tảng của cái cũ, cái mới có lúc là cái
tiến bộ nhưng đồng thời nếu không phù hợp tạo nên phản ứng ngược lại cản
trở sự phát triển của chính con người và xã hội đó. Vì vậy bàn về vấn đề đạo
đức xã hội trong sự phát triển nhân cách của con người, ta phải bàn đến vấn
đề mang tính chất cộng đồng, đi từ cái chung đến cái riêng và từ cái riêng
nằm trong chính bản chất của cái chung đó.
Từ xưa đến nay “Con ngoan, trò giỏi” luôn là là niềm tự hào của người
thầy và các bậc cha mẹ, bên cạnh những tấm gương sáng đó còn tồn tại rất lối
sống buông thả cực đoan, thực dụng mà cả xã hội phải lên án như trẻ em vị
thành niên là những tú ông tú bà buôn bán người để kiếm tiền ăn chơi, từ vụ
đánh ghen rồi dẫn đến giết bạn, hay vì không có tiền chơi game nên giết chết
cụ già để cướp vàng, những vụ hiếp dâm tập thể… ẩn giấu sau những sự kiện
21
đau lòng này là do đâu? Tại sao sống trong điều kiện tốt hơn, xã hội phát triển
mà đạo đức lại xuống cấp và nhân cách của giới trẻ lại xuống dốc? phải chăng
là do nền giáo dục của chúng ta kém hiệu quả, hay các chính sách định hướng
về phát con người của chúng ta còn thiếu và yếu không bắt nhịp được với sự
phát triển của xã hội? vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội nằm ở đâu trong
những vấn đề đó?
Câu hỏi đặt ra và câu trả lời nằm ở đâu? Đó chắc chắn phải là những
giải pháp mang tính đồng bộ của toàn xã hội, Nhà nước, nhà giáo dục, gia
đình và mỗi cá nhân con người, chủ thể hoạt động giáo dục và tự giáo dục.
Tăng cường giáo dục đạo đức và xây dựng một nền đạo đức mới, là con
đường đúng đắn và toàn diện nhất xây dựng con người với nhân cách phát
triển toàn diện.
- Góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, hình thành nên
những người con người mới, con người xã hội chủ nghĩa vừa “Hồng” vừa
“Chuyên”. Đạo đức dân tộc là cái cốt lõi tạo nên hồn của một dân tộc, đạo
đức dân tộc Việt Nam được xây dựng và phát triển cùng sự hình thành, phát
triển của dân tộc Việt. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng
chính là giữ gìn đạo đức cách mạng Việt Nam.
Đạo đức là vấn đề được bàn luận từ xưa đến nay “Ôn cố nhi tri tân”,
các cụ thường nói ví von như vậy, thực ra đó là kinh nghiệm sống truyền cho
con cháu, đạo đức ông cha, nhiều khi trở thành quy tắc bất thành văn “Phép
vua thua lệ làng”, trở thành cái cố hữu và ăn sâu vào tiềm thức con người.
Nền đạo đức mới phải được xây dựng và kế thừa những cái tốt đẹp, tinh hoa,
tiến bộ của nền đạo đức cũ, đồng thời loại bỏ những cái hạn chế không phù
hợp, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại xây dựng một nền đạo đức mới, đạo
đức Xã hội chủ nghĩa. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là
một xã hội vì con người, nền đạo đức mới là nền đạo đức vì con người, vì vậy
nó có nền tảng từ chính con người mà ra, nó được xây dựng trên cơ sở lý luận
22
của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng lý luận
tiến bộ nhất của thời đại.
Nền đạo đức mới là nền đạo đức xây dựng những con người mới, con
người của chế độ Xã hội chủ nghĩa. Thế hệ trẻ Việt nam cũng như các quốc
gia trên thế giới ngày nay, sống và đối đầu với rất nhiều các vấn đề xã hội,
một bộ phận trong đó tự tha hóa bản thân mình, trở thành gánh nặng, tiềm ẩn
những nguy cơ gây hại cho loài người. Tuy nhiên, đại bộ phận giới trẻ luôn
biết tự mình phấn đấu rèn luyện vươn lên, vượt qua giới hạn của bản thân để
được sống, lao động và sáng tạo, chiến đấu bảo vệ lẽ phải.
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã minh chứng cho điều đó một cách rõ ràng
nhất, một dân tộc nằm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, một
dân tộc đứng dậy đấu tranh bằng chính ý chí sắt đá của mình để giành quyền
sống, điều tất nhiên dân tộc đó phải sống, đấu tranh và phát triển đi lên bằng
chính nội lực của bản thân mình, dân tộc đó sinh ra những người con ưu tú
được thế giới công nhận như chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp... họ là sản phẩm của dân tộc và là sản phẩm của thời đại huy
hoàng dân tộc Việt, những con người người sinh ra từ cách mạng và được
cách mạng rèn luyện, đồng thời trưởng thành cùng với lý luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin.
Các cụ xưa đã nói “Thời thế tạo anh hùng, anh hùng tạo thời thế” khẳng
định vai trò của cá nhân đối với lịch sử và vai trò của lịch sử đối với cá nhân.
Con người trong thời chiến, đạo đức của người chiến sĩ đề cao, chiến đấu hy
sinh bảo vệ độc lập trong dân tộc, hình ảnh họ trở thành tượng đài bất hủ
trong mọi thời đại, các tấm gương anh dũng hy sinh và chiến đấu như Lý Tự
Trọng, Võ Thị Sáu, Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Văn Trỗi …
thế hệ được rèn luyện và chiến đấu trong biển lửa của tinh thần mác xít, với ý
chí và lý tưởng cách mạng, hình ảnh của họ được xây dựng thành hình tượng
vượt thời đại trong các tác phẩm văn học, phim truyện như anh hùng Núp, chị
23
Nguyễn Thị Sáu, hình ảnh của những thiếu niên trong tác phẩm tuổi thơ dữ
dội. Đất nước độc lập, một thời kỳ mới được mở ra, con người trong xã hội
mới đó phải tự làm mới lại mình để đưa đất nước bước vào trang sử mới. Tinh
thần thanh niên trong thời đại mới, sống lao động và chiến đấu. Đất nước ta
bước vào thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa quá độ lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội, muốn làm được điều đó thì cần hội tụ nhiều yếu
tố, trong đó con người đóng vai trò quyết định, con người cụ thể ở đây được
nhắc đến chính là thế hệ trẻ, với tiềm năng sức lao động và trí tuệ. Đảng ta, từ
lúc mới ra đời đã đánh giá được đúng vai trò và tiềm lực của thanh niên, từ
chỗ là những thanh niên yêu nước, được soi sáng bởi lý tưởng cách mạng và
tập hợp lại thành những tổ chức cách mạng tiêu biểu, được đào tạo trở thành
những người chiến sĩ chân chính, đến những thế hệ sau này ngày càng vươn
cao, vươn xa hơn với tầm trí tuệ thế giới.
Đại hội X của Đảng, tiếp tục khẳng định quan điểm và vai trò của thế
hệ trẻ như sau “Đối với thế hệ trẻ phải thường xuyên giáo dục chính trị,
truyền thống, lý tưởng, đạo đức, lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải
trí, phát triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Khuyến
khích thanh niên tự học, tự nâng cao tay nghề, tự tạo việc làm. Chú trọng bồi
dưỡng nguồn cán bộ, đào tạo thanh niên trong lực lượng vũ trang có nghề khi
hết nghĩa vụ quân sự. Tạo điều kiện cho thanh niên có tài đi học ở nước ngoài
về phục vụ đất nước. Thu hút rộng rãi thanh niên, thiếu niên và nhi đồng vào
các tổ chức do Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh làm nòng cốt và phụ
trách”. Đảng ta luôn quan tâm bồi dưỡng và phát triển thế hệ đoàn viên thanh
niên, từ các em là thiếu niên nhi đồng, đền lớp thanh thiếu niên, nguồn kế cận
của Đảng và là tương lai của dân tộc.
Ngoài hai vai trò chính trên, giáo dục đạo đức còn có vai trò rất quan
trọng, định hướng thế giới quan, nhân sinh quan cho con người trong hoạt
động sống hàng ngày và sự phát triển. Đạo đức lúc này đóng vai trò như nền
24
tảng, để con người nhận thức và hành động, vì vậy mới xuất hiện các cụm từ
“Có đạo đức”, “Vô đạo đức”, sự đánh giá có hay không này là phụ thuộc vào
mỗi con người, mỗi thế hệ, đồng thời là trong những giai đoạn lịch sử khác
nhau. Giáo dục đạo đức phải mang tính thời đại, một nền đạo đức mới là nền
đạo đức vì con người, được xây dựng vì cuộc sống của người lao động trong
xã hội. Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã luôn rất quan tâm đến vấn đề đạo đức,
trong con người của Người là sự kết tinh nền đạo đức của toàn nhân loại mà
nền tảng của nó là đạo đức của dân tộc Việt Nam. Trong xã hội, đạo đức là
các quy tắc chuẩn mực thành văn hoặc là bất thành văn, nhưng dù tồn tại ở
hình thức nào thì đạo đức đã và đang chi phối cuộc sống của con người. Mỗi
xã hội, những thời đại khác nhau thì giá trị đạo đức của cũng được biểu hiện
khác nhau và sự biến đối đó là điều tất yếu.
1.2. Đạo đức Hồ Chí Minh và giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh
1.2.1. Khái niệm tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng, tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
– Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, về độc lập gắn liền
với chủ nghĩa xã hội…”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những quan điểm, quan niệm đường
lối cách mạng của Việt Nam, được hình thành trên nền tảng tư tưởng của chủ
nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn đấu tranh giai cấp và giành độc lập ở Việt
Nam cũng như các dân tộc trên thế giới.
Như vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh, hội tụ của các giá trị tinh
hoa dân tộc và toàn nhân loại, trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác –
25
Lênin, soi sáng và dẫn đường cho cách mạng Việt Nam giải phóng khỏi ách
nô lệ, giành độc lập và đang từng bước hoàn thành công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận bao gồm nhiều lĩnh vực,
trong đó có các nội dung chủ yếu sau:
Tư tưởng về Đảng cộng sản Việt Nam
Tư tưởng về giải phóng dân tộc
Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân
Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng về quân sự
Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
Tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh…
Ngoài những nội dung cơ bản tư tưởng nêu trên, tư tưởng Hồ Chí Minh
còn bao hàm nhiều các lĩnh vực và nội dung khác như kinh tế, triết học … tư
tưởng của Người đã và đang soi sáng cho dân tộc ta trên con đường, phát triển
quá độ lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là vấn đề được Đảng và Nhà nước ta đặt
lên hàng đầu trong giai đoạn hiện nay, do sự thay đổi và biến động của thế giới
và quá trình hội nhập của dân tộc, đạo đức của Người là tấm gương để cho thế
hệ sau noi gương và học tập, đặc biệt là lớp thế hệ trẻ ngày nay, đang tiếp bước
cha ông học tập, rèn luyện, phấn đấu trở thành những chủ nhân của đất nước.
1.2.2. Nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
1.2.2.1. Trung với nước hiếu với dân