Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Tổ chức thông tin đối ngoại trên các báo mạng điện tử của thông tấn xã việt nam (khảo sát các báotin tức, vietnam plus (bản tiếng việt) từ tháng 62012 đến 62013)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 144 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

LÊ THỊ THANH HUYỀN

TỔ CHỨC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
TRÊN CÁC BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
CỦA THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
(Khảo sát các báo: Tin tức, Vietnam Plus
(bản tiếng Việt) từ tháng 6/2012 đến 6/2013)
Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số

: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. Phạm Văn Linh

HÀ NỘI - 2013


2

LỜI CẢM ƠN


Trong thời gian thực hiện luận văn “Tổ chức thông tin đối ngoại trên
các báo mạng điện tử của Thông tấn xã Việt Nam”, em đã nhận được sự
hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của PGS.TS. Phạm Văn Linh, Phó Trưởng Ban
Tuyên giáo Trung ương. Em xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành tới thầy!
Trong q trình nghiên cứu luận văn, em cũng đã nhận được sự hướng
dẫn, góp ý rất thiết thực của các thầy cơ của mình tại Học viện Báo chí và
Tun truyền. Bên cạnh đó, em cịn được sự hỗ trợ nhiệt tình từ phía các đồng
chí lãnh đạo các đơn vị Báo chí, Thơng tin đối ngoại, báo điện tử tại Ban
Tun giáo Trung ương và Thông tấn xã Việt Nam về nguồn thông tin, tư
liệu. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cơ và lãnh đạo các đơn vị!
Em kính chúc thầy cơ, các đồng chí lãnh đạo sức khỏe và thành đạt!
Hà Nội, ngày 15/11/2013
Học viên

Lê Thị Thanh Huyền


3

LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Phạm Văn Linh. Các thông tin, số liệu được
sử dụng trong luận văn là rõ ràng và xác thực. Các kết quả nghiên cứu trong
luận văn chưa từng được cơng bố trong cơng trình khoa học nào trước đây.

Tác giả

Lê Thị Thanh Huyền



4

DANH MỤC
CÁC TỪ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

1. Thông tin đối ngoại: TTĐN
2. Thông tấn xã Việt Nam: TTXVN


5

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI TRÊN BÁO
MẠNG ĐIỆN TỬ ....................................................................................... 10
1.1. Một số vấn đề lý luận về Thông tin đối ngoại..................................... 10
1.2. Một số vấn đề lý luận về Thông tin đối ngoại trên báo mạng điện tử.. 19
Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI TRÊN
CÁC BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ CỦA THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Từ
6/2012 đến 6/2013) ........................................................................................ 33
2.1. Công tác tổ chức thông tin trên các báo mạng điện tử của Thông tấn xã
Việt Nam .................................................................................................. 33
2.2. Về nội dung thông tin đối ngoại và cách thức tổ chức, thực hiện (Từ
6/2012 đến 6/2013) ................................................................................... 36
2.3. Đánh giá về thực trạng tổ chức thông tin đối ngoại trên các báo mạng
điện tử của Thông tấn xã Việt Nam........................................................... 54
2.4. Nguyên nhân của thực trạng............................................................... 67
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC THÔNG
TIN ĐỐI NGOẠI TRÊN CÁC BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ CỦA THÔNG
TẤN XÃ VIỆT NAM ................................................................................. 71

3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả tổ chức Thông tin đối ngoại trên các
báo mạng điện tử của Thông tấn xã Việt Nam .......................................... 71
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức TTĐN trên
các báo mạng điện tử của TTXVN............................................................ 74
KẾT LUẬN................................................................................................. 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 95
PHỤ LỤC.................................................................................................... 99
TÓM TẮT LUẬN VĂN


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thơng tin đối ngoại (TTĐN) là một bộ phận rất quan trọng trong cơng
tác tư tưởng – văn hóa, đồng thời là bộ phận cấu thành hoạt động đối ngoại
của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta; là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài. Ngày
nay, với bất kì quốc gia nào, TTĐN đều góp phần khơng hề nhỏ cho sự lớn
mạnh và lan tỏa tầm ảnh hưởng của quốc gia ấy. Những nước lớn như Mỹ,
Nhật Bản, Anh,…được cả thế giới biết đến, nhưng vẫn không ngừng đẩy
mạnh hoạt động TTĐN nhằm quảng bá hình ảnh, sức mạnh, ảnh hưởng của
mình với những quốc gia khác. Các nước đang phát triển càng cần đẩy mạnh
thông tin đối ngoại để ngày một nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế,
đặc biệt đối với Việt Nam, một đất nước đang trong những bước chuyển mình
mạnh mẽ của đổi mới, hội nhập và phát triển.
Bước sang thế kỷ XXI, chúng ta tự tin và chủ động hội nhập quốc tế,
khẳng định tinh thần “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước
trong khu vực và trên thế giới” [15]. Khi cánh cửa hội nhập đang rộng mở,
chúng ta ý thức được về những cơ hội đang chờ đón, nhưng đồng thời cũng
nhìn thấy nhiều nguy cơ, nhiều thử thách trên tất cả các “mặt trận”, như: sự

tác động và cạnh tranh khốc liệt của kinh tế thế giới, sự phụ thuộc hay bất ổn
về chính trị, sự mai một bản sắc văn hóa dân tộc,… Trước những thuận lợi và
khó khăn đó, TTĐN góp phần quan trọng giúp chúng ta tận dụng được thời
cơ, vượt qua được thách thức, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc
chủ quyền, lãnh thổ, từng bước làm thất bại âm mưu phá hoại của các thế lực
thù địch, củng cố và mở rộng quan hệ quốc tế, đẩy mạnh hợp tác kinh tế, phát
triển văn hóa – xã hội.
Đóng góp vào những kết quả đó của hoạt động TTĐN phải nói đến vai
trị của hệ thống thơng tấn báo chí. Đây là công cụ, là phương tiện quan trọng


2

của TTĐN, là kênh chủ yếu cung cấp thông tin nhanh nhạy, phong phú trên
phạm vi rộng lớn ở các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới nhằm làm cho
các nước, người nước ngoài (bao gồm cả người nước ngoài đang sinh sống,
làm việc tại Việt Nam), người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước
ngoài hiểu về đất nước, con người Việt Nam; đường lối, chủ trương, chính
sách và thành tựu đổi mới của ta.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của hệ thống các cơ quan thơng tấn, báo
chí trong hoạt động TTĐN, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều văn bản quan
trọng để định hướng phát triển lĩnh vực này. Thông báo ý kiến thường vụ Bộ
Chính trị (khóa VIII) về cơng tác TTĐN trong tình hình mới, ngày 29 tháng
12 năm 1998 đã yêu cầu: “Tiếp tục đầu tư và nâng cao chất lượng hệ thống
thơng tấn báo chí, xuất bản quốc gia như Thơng tấn xã Việt Nam, Đài Truyền
hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, một số báo và nhà xuất bản lớn để
làm nịng cốt cho cơng tác TTĐN”. Trong đó cũng nhấn mạnh “từng bước và
tổ chức chặt chẽ việc đưa các bộ phận chính của hệ thống này chuyển ngữ lên
mạng Internet…” [14]. Bởi trong các loại hình báo chí, báo điện tử hiện nay
được xem là công cụ mạnh nhất, phục vụ hiệu quả công tác TTĐN, đặc biệt

dành cho nhóm đối tượng người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài
quan tâm đến Việt Nam. Chúng ta chính thức tham gia mạng Internet toàn cầu
vào ngày 19 tháng 11 năm 1997, đến tháng 2 năm 1998 tờ báo điện tử đầu
tiên ở nước ta ra đời, đó là tạp chí “Q hương” online thuộc Ủy ban người
Việt Nam ở nước ngoài. Cho đến nay đã có hơn 70 tờ báo điện tử được cấp
phép chính thức hoạt động. Hệ thống này đã khẳng định được tính hiệu quả về
mặt kết nối thơng tin, khả năng ảnh hưởng vào đời sống xã hội. TTĐN trên
báo điện tử cũng qua đó mà đạt được hiệu quả cao.
Trong hệ thống các cơ quan thông tấn, báo chí, Thơng tấn xã Việt Nam
(TTXVN) hiện là một trong những cơ quan báo chí chủ lực về TTĐN. Từ khi


3

ra đời đến nay, TTXVN đã không ngừng phát triển cả về quy mơ, loại hình, phạm
vi thơng tin, thực sự trở thành cơ quan thông tin chiến lược của đất nước nói
chung và trong hoạt động TTĐN nói riêng. Trong các loại hình thơng tin của
TTXVN, các trang báo điện tử với nội dung phản ánh đa dạng, phong phú, thơng
tin uy tín, chính thống, hình thức thể hiện sinh động, đặc biệt là được chuyển tải
bằng nhiều thứ tiếng (Anh, Pháp, Tây Ban Nha,…) đã trở thành thế mạnh riêng
của TTXVN mà ít có cơ quan báo chí nào hiện nay ở nước ta có được.
Tuy nhiên, trước những yêu cầu mới, các sản phẩm báo điện tử của
TTXVN cũng còn một số hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng và nhiệm vụ
thông tin đối ngoại của một cơ quan báo chí hàng đầu quốc gia, tính thuyết phục
chưa cao, nội dung thông tin chưa phù hợp với các đối tượng. Trong đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch vẫn cịn thiếu tính sắc bén, kịp thời.
Phương pháp tiếp cận, hình thức thể hiện các sản phẩm báo chí trong nhiều
trường hợp cịn đơn giản, phạm vi tác động tới các đối tượng còn hạn chế,…
Với riêng cá nhân tác giả, trong quá trình công tác tại bộ phận phụ trách
TTĐN của Ban Tuyên giáo Trung ương đã luôn quan tâm sâu sắc đến thơng

tin đối ngoại của các cơ quan báo chí chủ lực.
Vì tất cả những lí do trên, tác giả chọn “Tổ chức Thông tin đối ngoại
trên các báo mạng điện tử của TTXVN” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn
của mình. Thơng qua việc phân tích, tổng hợp, đánh giá về các sản phẩm báo
điện tử của TTXVN, chỉ ra những thành tựu và hạn chế về tổ chức thông tin
đối ngoại, đề xuất kiến nghị và giải pháp, tác giả mong muốn đề tài sẽ góp
một phần nhỏ vào sự phát triển của TTXVN nói riêng và hoạt động TTĐN
của đất nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Trên thế giới, TTĐN là một lĩnh vực có lịch sử ra đời và phát triển
từ rất sớm, hoạt động này thực sự được chú trọng và đầu tư rất mạnh mẽ ở


4

nhiều quốc gia, nhất là ở các nước phát triển. TTĐN trở thành một phần
quan trọng trong chiến lược quảng bá hình ảnh, nâng tầm ảnh hưởng của
các quốc gia.
Ở Việt Nam, ngày 10/05/1962, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 45-CT/TW Về
công tác tuyên truyền đối ngoại, đánh giá thực trạng công tác tuyên truyền đối
ngoại kể từ khi hịa bình lập lại, đồng thời đề ra mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ,
nội dung, cũng như đề ra sách lược, phương châm của tuyên truyền đối ngoại.
Tiếp theo, ngày 06/06/1966, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 128-CT/TW Về việc tăng
cường công tác tuyên truyền đối ngoại. Chỉ thị đã nêu rõ phương thức công tác
tuyên truyền đối ngoại, phương hướng giải quyết vấn đề cán bộ, phương tiện và
thống nhất chỉ đạo nhằm tăng cường công tác tuyên truyền đối ngoại.
Kể từ khi đất nước tiến hành công cuộc Đổi mới năm 1986, công tác
TTĐN càng được chú trọng và đạt được nhiều thành tựu mới. Bộ Chính trị,
Ban Bí thư,…thường xuyên đưa ra các văn bản mới chỉ đạo việc đẩy mạnh và
nâng cao chất lượng của cơng tác này. Ngày 13/06/1992, Ban Bí thư (khố

VII) ra Chỉ thị số 11-CT/TW Về đổi mới và tăng cường cơng tác TTĐN. Ngày
29/12/1998, Thường vụ Bộ Chính trị (khố VIII) ra Thơng báo ý kiến thường
vụ Bộ Chính trị số 188-TB/TW Về công tác thông tin đối ngoại trong tình
hình mới. Mới đây, ngày 10 tháng 9 năm 2008, Ban Bí thư (khố X) ra Chỉ thị
số 26-CT/TW, Về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại
trong tình hình mới. Hàng năm đều có các Hội nghị sơ kết, tổng kết, tập huấn
về TTĐN được tổ chức. Các Bộ, Ban, Ngành đều chú trọng tổ chức bộ phận
chuyên trách TTĐN, thường xuyên tổng kết, đánh giá và báo cáo về việc thực
hiện công tác này.
Tuy nhiên, vẫn phải thừa nhận một thực tế rằng chưa có thực sự nhiều
những cơng trình nghiên cứu quy mơ, chun sâu về TTĐN nói chung, TTĐN


5

trên báo điện tử nói riêng. Trong q trình thực hiện đề tài này, tác giả đã tiếp
cận được một số cơng trình tiêu biểu như:
- “Chiến lược phát triển Thông tin đối ngoại giai đoạn 2011 – 2020”,
đây là Đề án do Bộ Chính trị (Khóa X) giao Ban Tuyên giáo Trung ương chủ
trì, phối hợp với các cơ quan chủ lực về Thông tin đối ngoại xây dựng. Chiến
lược được hồn thành năm 2011; là cơng trình lớn, mang ý nghĩa cả về lý luận
và thực tiễn; nêu rõ Quan điểm chỉ đạo, Mục tiêu tổng quát và Mục tiêu cụ
thể, Nhiệm vụ và những giải pháp chủ yếu, Tổ chức thực hiện công tác
TTĐN, trở thành căn cứ quan trọng để triển khai công tác TTĐN trong tồn
hệ thống chính trị. Chiến lược được qn triệt đến các cấp ủy, tổ chức Đảng
từ Trung ương đến địa phương và Chính phủ căn cứ vào Chiến lược để xây
dựng Chương trình hành động, triển khai trong cả nước.
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
TTĐN của một số cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực ở nước ta hiện nay: thực
trạng và giải pháp”, PGS. TS Phạm Văn Linh – Ban Tuyên giáo Trung ương

(năm 2011). Đề tài đã đi sâu làm rõ cở sở lý luận về vị trí, vai trị, các tiêu chí
đánh giá hiệu quả của các cơ quan thơng tấn, báo chí chủ lực trong hoạt động
TTĐN, làm rõ các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động TTĐN của các cơ quan
thơng tấn, báo chí chủ lực; làm rõ thực trạng, những vấn đề đặt ra trong hoạt
động TTĐN của các cơ quan thông tấn, báo chí chủ lực thời gian qua. Trên cơ
sở đó, đề tài đã nêu những yêu cầu mới là cơ sở để xác định phương hướng cơ
bản và các giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả hoạt động TTĐN của các
cơ quan thơng tấn, báo chí chủ lực trong thời gian tới.
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Hoạt động truyền thông đại chúng trong
công tác TTĐN của Việt Nam hiện nay”, TS. Phạm Minh Sơn – Trưởng khoa
Quan hệ Quốc tế, Học viên Báo chí và Tuyên truyền làm chủ nhiệm. Cơng
trình đã nghiên cứu thực trạng hoạt động của một số báo tiểu biểu, từ đó đưa


6

ra cái nhìn tổng quan cho việc thực hiện cơng tác TTĐN của hệ thông truyền
thông đại chúng ở Việt Nam hiện nay.
- TS. Phạm Minh Sơn - TS. Nguyễn Thị Quế (2009), Truyền thông
đại chúng trong công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam hiện nay, NXB
Chính trị - Hành chính, Hà Nội. Cuốn sách đã nghiên cứu thực trạng hoạt
động của một số báo tiểu biểu, từ đó đưa ra cái nhìn tổng quan cho việc
thực hiện công tác TTĐN của hệ thống truyền thông đại chúng ở Việt Nam
hiện nay.
- Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học của tác giả Bùi Thị Vân,
Học viện Báo chí và tun truyền, Tổ chức thơng tin cho Việt kiều trên kênh
VTV4, Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Oanh (2011). Luận văn
đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về công tác TTĐN; nghiên cứu, khảo sát cụ thể,
tổng kết thực tiễn các chương trình dành cho Việt kiều trên VTV4; những ưu
nhược điểm của các chương trình; đưa ra nhận xét đánh giá mang tính lý luận;

đề xuất, kiến nghị giải pháp về nội dung, hình thức thể hiện nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả chương trình truyền hình phù hợp với đối tượng cơng
chúng là Việt kiều.
Trong các cơng trình nghiên cứu trên, có một số đã đi vào tìm hiểu,
đánh giá về TTĐN trên truyền thơng đại chúng, trong đó có TTĐN trên báo
điện tử. Tuy nhiên, với các sản phẩm báo điện tử của TTXVN, ngoài các báo
cáo sơ kết, tổng kết hàng năm của TTXVN, chưa có cơng trình nào đi riêng
và đi sâu vào nghiên cứu một cách hệ thống, bài bản. Những nội dung đã
được nghiên cứu cũng không còn thực sự phù hợp với những yêu cầu của tình
hình mới. Thực hiện đề tài nghiên cứu “Tổ chức TTĐN trên các báo mạng
điện tử của TTXVN”, tác giả sẽ sẽ kế thừa và phát huy các luận điểm đã được
nghiên cứu của các tác giả và trên cơ sở đó, nghiên cứu đánh giá thực trạng


7

TTĐN trên các báo điện tử của TTXVN và đề ra các giải pháp, kiến nghị để
giải quyết những hạn chế cịn tồn tại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn những vấn đề chủ yếu liên
quan đến TTĐN và TTĐN trên báo điện tử, đề tài sẽ phân tích và làm rõ
thực trạng tổ chức TTĐN trên các báo điện tử của TTXVN, đưa ra các
phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
thông tin trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Tổng hợp cơ sở lý luận về TTĐN và TTĐN trên hệ thống thông tấn,
báo chí nói chung, báo điện tử nói riêng.
- Khảo sát và phân tích thực trạng tổ chức TTĐN trên các báo điện tử

của TTXVN - những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
TTĐN trên các báo điện tử của TTXVN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài xác định đối tượng nghiên cứu là công tác tổ chức TTĐN trên
các báo điện tử của TTXVN.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu: các chuyên mục nội dung, một số tin, bài cụ thể
cũng như hình thức thể hiện tác phẩm, giao diện, hình thức trình bày, phạm vi
tác động chủ yếu của hai báo điện tử Tin tức và Vietnam Plus (bản tiếng Việt)
do TTXVN chủ quản;
- Thời gian khảo sát: Từ 6/2012 đến 6/2013.


8

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên nền tảng khoa học của tư tưởng Hồ
Chí Minh về đối ngoại, các quan điểm chỉ đạo, đường lối của Đảng, chính
sách của Nhà nước ta về cơng tác thơng tin đối ngoại.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn này bao
gồm: Phương pháp thống kê nhằm thống kê tài liệu liên quan đến đề tài và
lượng tin, bài khảo sát,…; Phương pháp đối, chiếu so sánh khi muốn đánh giá
chất lượng, hiệu quả tổ chức thông tin đối ngoại trên các báo điện tử của
TTXVN trong tương quan với các báo điện tử hàng đầu Việt Nam hiện nay,
khi đánh giá chất lượng một số tin, bài cụ thể, hay đối chiếu, so sánh để thấy
được những đổi mới về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối

với cơng tác TTĐN, đổi mới của các báo điện tử thuộc TTXVN trong cơng
tác này…; Khảo sát thực tế để tìm hiểu về cách thức tổ chức, hoạt động của
các báo điện tử thuộc TTXVN; Phương pháp phân tích - tổng hợp (tài liệu,
tin, bài, ý kiến của độc giả…); Phỏng vấn sâu một số lãnh đạo, chuyên gia
trong lĩnh vực thông tin đối ngoại; và một số phương pháp nghiên cứu khoa
học khác... Các phương pháp được sử dụng đồng thời, đan xen và bổ trợ cho
nhau trong quá trình nghiên cứu.
6. Cái mới của luận văn
- Đề tài góp phần hệ thống hóa và làm sáng tỏ những lý luận về TTĐN
trên báo điện tử.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng TTĐN trên các báo điện tử của TTXVN
một cách tồn diện, có hệ thống.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả TTĐN trên các báo điện tử của TTXVN.


9

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Rút ra những kinh nghiệm thực tiễn về TTĐN của các báo điện tử nói
chung, báo điện tử của TTXVN nói riêng.
- Đề tài có thể là cơ sở nghiên cứu của các đề tài với quy mô và mức độ
cao hơn, dùng làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lí, cán bộ, phóng viên
của các báo điện tử có nhiệm vụ làm cơng tác TTĐN nói chung, và báo điện
tử của TTXVN nói riêng.
- Làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu của sinh
viên chuyên ngành TTĐN, các chuyên ngành báo chí, truyền thơng và những
ai quan tâm.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Lý luận về TTĐN trên báo mạng điện tử
Chương 2: Thực trạng tổ chức thông tin đối ngoại trên các báo mạng điện tử
của Thông tấn xã Việt Nam (Từ 6/2012 đến 6/2013)
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thông tin đối ngoại trên
các báo mạng điện tử của Thông tấn xã Việt Nam


10

Chương 1
LÝ LUẬN VỀ THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI TRÊN
BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
1.1. Một số vấn đề lý luận về Thông tin đối ngoại
1.1.1. Khái niệm về Thông tin đối ngoại
Trước đây, khi đề cập đến hoạt động cung cấp thông tin ra bên ngoài,
chúng ta thường dùng khái niệm “tuyên truyền đối ngoại”. Về sau, khái niệm
“thông tin đối ngoại”, “hoạt động thông tin đối ngoại”, “công tác thông tin
đối ngoại” được sử dụng phổ biến và thường xuyên hơn trong các văn kiện,
các tài liệu về chính sách đối ngoại, trên các phương tiện thơng tin đại chúng.
Đã có một số tài liệu nghiên cứu đưa ra khái niệm về thông tin đối
ngoại: thông tin đối ngoại là hoạt động truyền tin ra bên ngoài, ra nước ngoài
của Nhà nước hay của một tổ chức” [32, tr.12], hay tiếp cận một cách đầy đủ
hơn : “Thông tin đối ngoại có thể được hiểu là những tin tức, thơng báo, tri
thức về một sự vật, hiện tượng được con người tiếp nhận và chọn lựa một
cách có chủ đích để sử dụng trong hoạt động truyền tải thông điệp ra bên
ngoài lãnh thổ một quốc gia hay cho các đối tượng là người nước ngồi nhằm
mục đích cung cấp thơng tin chính thống, xác thực và tích cực nhằm nâng cao
hình ảnh quốc gia đó trong mắt bạn bè quốc tế, để họ hiểu rõ, ủng hộ, giúp
đỡ, hợp tác cùng phát triển” [18].

Theo Quy chế quản lý nhà nước về thơng tin đối ngoại do Chính phủ
ban hành, hoạt động thông tin đối ngoại “là hoạt động đưa thông tin đến với
tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngồi và phối hợp đưa
thơng tin quốc tế đến nhân dân trong nước” [27]. Trên thế giới, người ta sử
dụng một thuật ngữ tương đương với “hoạt động thơng tin đối ngoại” đó là
“public diplomacy”. Theo Từ điển Thuật ngữ Quan hệ quốc tế của Uỷ ban
Quốc gia Mỹ, ““Public diplomacy” chỉ những chương trình thuộc bảo trợ của


11

Chính phủ nhằm thơng tin hoặc tác động lên quan điểm của nhân dân của
nước khác, mà cơng cụ chính là thông qua các ấn phẩm, phim ảnh, giao lưu
văn hố, phát thanh, truyền hình” [33].
Có nhiều quan điểm khác nhau nhưng nhìn chung qua đó đều thấy rằng
hoạt động thông tin đối ngoại ở bất cứ quốc gia nào cũng chính là việc tuyên
truyền, quảng bá các chính sách chính trị, các giá trị văn hố của nước mình
ra bên ngoài lãnh thổ quốc gia nhằm mục tiêu tranh thủ sự đồng tình ủng hộ
của nhân dân thế giới và từ đó tăng cường lợi ích của đất nước mình.
Như vậy, đối với chúng ta “thơng tin đối ngoại” được hiểu là: Thơng tin
đối ngoại là hoạt động có mục đích của chủ thể đưa thơng tin (có thể là Nhà
nước, tổ chức hay cá nhân) tới đối tượng tiếp nhận thơng tin ở bên ngồi (là
các quốc gia, vùng lãnh thổ, ngườì nước ngồi đang ở đất nước mình, người
Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài) hiểu về đất nước, con
người Việt Nam, đường lối, chính sách và thành tựu đổi mới của ta, trên cơ sở
tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp xây dựng vào bảo vệ Tổ quốc. Thông
tin đối ngoại đồng thời cũng phối hợp đưa thông tin quốc tế đến nhân dân
trong nước, “giúp nhân dân trong nước tiếp thu có chọn lọc những kinh
nghiệm, tinh hoa văn hóa của nhân dân thế giới, góp phần cùng nhân dân thế

giới đấu tranh vì hịa bình, hợp tác và phát triển”[2, tr.1].
Chỉ thị số 10/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ Về tăng cường
quản lý và đẩy mạnh công tác TTĐN đã nêu những nội dung chủ yếu của
TTĐN, đó là:
“1- TTĐN có nhiệm vụ phổ biến rộng rãi đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta, những chủ trương quan trọng trên mọi
lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng...;
bác bỏ những thơng tin sai lệch, xun tạc về Việt Nam.


12

2- Đường lối và chính sách đối ngoại, bao gồm cả chính sách kinh
tế đối ngoại; chủ trương nhất quán Việt Nam “sẵn sàng là bạn của
tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hịa bình, độc
lập và phát triển”; yêu cầu và tiềm năng của Việt Nam trong quan
hệ hợp tác với các nước trên ngun tắc cùng có lợi, tơn trọng độc
lập, chủ quyền và tự quyết của nhau.
3- Giới thiệu đất nước, con người, lịch sử và nền văn hóa lâu đời,
phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc của Việt Nam.” [25]
Theo tinh thần của Chiến lược phát triển Thông tin đối ngoại giai đoạn
2011 – 2020, chúng ta một lần nữa đã xác định rõ Nội dung thông tin đối
ngoại, đó là:
- Thơng tin về đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
quan điểm và lập trường của Việt Nam trong các vấn đề quốc tế và khu vực;
- Giới thiệu, quảng bá đất nước, con người, lịch sử, văn hóa, truyền
thống tốt đẹp, những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc Việt Nam; những
thành tựu công cuộc đổi mới đất nước; tiềm năng và hiệu quả trong hợp tác
quốc tế về mọi mặt giữa Việt Nam với các đối tác;
- Thông tin có định hướng về tình hình quốc tế cho nhân dân trong

nước; chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới;
- Đấu tranh phản bác những thông tin sai trái, xuyên tạc đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phá hoại sự nghiệp đổi mới, độc
lập, thống nhất, ổn định, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Chiến lược đồng thời cũng đã chỉ ra Đối tượng thơng tin đối ngoại:
- Ở nước ngồi: Các tổ chức, định chế quốc tế, chính giới, học giả, báo
chí, nhà kinh doanh, bạn bè quốc tế, nhân dân các nước và người Việt Nam
đang sinh sống, học tập, lao động và cơng tác ở nước ngồi, nhất là giới trẻ.


13

Ở trong nước: Người nước ngoài sinh sống, học tập, làm việc tại Việt
Nam, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế, các hãng thơng tấn
báo chí, các nhà đầu tư, khách du lịch nước ngoài và thông tin cho các tầng
lớp nhân dân trong nước về tình hình thế giới và hoạt động thơng tin đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Như vậy đối tượng của TTĐN là rất rộng, bao gồm 4 nhóm đối tượng chính:
Nhóm đối tượng thứ nhất là chính phủ và nhân dân các nước trên thế
giới sống bên ngoài Việt Nam. Trong nhóm đối tượng này, hướng ưu tiên là
các nước trong khu vực, các nước lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị - xã
hội lớn và bạn bè truyền thống. Mặc dù vậy, TTĐN hướng tới nhóm đối
tượng này cũng không thể dàn trải, do chúng ta cũng khơng có đủ lực lượng
và khả năng. Do đó, TTĐN cho nhóm đối tượng này cần tập trung thơng tin
kịp thời, chính xác, thuyết phục hướng vào chính giới, các nhà kinh doanh, trí
thức, đội ngũ những người làm báo chí, các nhà Việt Nam học và những bạn
bè có thiện chí với Việt Nam. Bởi họ sẽ là những người có tiếng nói, có tác
động to lớn đến mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước.
Nhóm đối tượng thứ hai là người nước ngoài đến sinh sống, học tập,
làm việc và du lịch ở Việt Nam. Nhóm đối tượng này tiếp cận trực tiếp thông

tin, tận mắt chứng kiến những gì đang đổi thay, đang diễn ra trên đất nước ta.
Thơng qua nhóm đối tượng này, thơng tin được truyền lại ra bên ngoài. Và
những đối tượng ở bên ngồi thường tin tưởng vào nguồn thơng tin từ nhóm
đối tượng này hơn nguồn thơng tin của chúng ta truyền đi. Do đó, cần hết sức
chú ý thơng tin kịp thời, chính xác, đầy đủ cho nhóm đối tượng thứ hai này.
Nhóm đối tượng thứ ba là cộng đồng gần 4 triệu người người Việt Nam
ở nước ngồi. Đó là những người Việt Nam đang sinh sống, làm việc, học tập
và du lịch ở nước ngoài. “Kiều bào là bộ phận không thể tách rời của dân tộc
Việt Nam” [26]. Cơng tác TTĐN hướng tới nhóm đối tượng này vừa để đáp


14

ứng nhu cầu thông tin của bà con, vừa để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc,
vận động bà con hướng về Tổ quốc, đóng góp sức mình cho sự nghiệp cách
mạng chung của dân tộc. Đồng thời người Việt Nam ở nước ngồi cũng là một
lực lượng thơng tin quan trọng, góp phần chuyển tải thơng tin mọi mặt của đất
nước, quảng bá bản sắc văn hóa dân tộc tới nhân dân các nước trên thế giới.
Nhóm đối tượng thứ tư là nhân dân trong nước.
1.1.2. Vị trí, vai trị của Thơng tin đối ngoại đối với sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước
Trong thời kì Đảng và nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước, công tác TTĐN được đánh giá là “đã thu được một số kết quả
tốt trong việc giới thiệu nước ta ra nước ngồi, tranh thủ sự đồng tình và sự
ủng hộ của nhân dân thế giới đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và
đấu tranh thực hiện thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta, góp phần tăng
cường sự đồn kết nhất trí của phe xã hội chủ nghĩa và của phong trào cộng
sản quốc tế, nâng cao địa vị quốc tế của nước ta trong sự nghiệp đấu tranh
chung cho hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH”. [9]
Bước vào những năm 90 của thế kỉ trước, mơ hình chủ nghĩa xã hội sụp

đổ tại Đông Âu và Liên Xô, cuộc cách mạng của các lực lượng tiến bộ trên
thế giới lâm vào giai đoạn khó khăn. Chúng ta đứng trước nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa, khi khơng cịn chỗ dựa về vật chất và tinh thần và
cũng đang đứng trước rất nhiều khó khăn của tình hình kinh tế- xã hội trong
nước. Nhưng nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn, cùng với việc Đảng và
nhân dân ta xác định kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, những khó khăn
đã dần dần được giải quyết, Việt Nam vẫn đứng vững trước sự sụp đổ của hệ
thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới và phát triển đi lên. Công tác TTĐN trong


15

thời kì này được đánh giá là “đã thu được một số kết quả tốt trong việc giới
thiệu nước Việt Nam đổi mới ra nước ngồi, góp phần phân hóa những lực
lượng đối địch, từng bước phá thế bao vây, cấm vận và mở rộng quan hệ với
các nước trong khu vực Đơng Nam Á, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, tranh thủ
được sự đồng tình và hợp tác của nhiều nước, nhiều lực lượng trên thế giới,
cả giới kinh doanh và chính giới”. [11]
Trong thời kì tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, cơng tác
TTĐN càng có vai trị đặc biệt quan trọng. Việc làm chủ, chiếm được lợi thế
về thơng tin có thể tác động rất lớn đến sự thành công hay thất bại của một
quốc gia trên con đường phát triển, thông tin nói chung và TTĐN nói riêng
được xem là nguồn lực phát triển quan trọng của từng quốc gia.
Sau hơn 20 năm thực hiện Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 13/6/1992 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) về “Đổi mới và tăng cường cơng tác
thơng tin đối ngoại trong tình hình mới”, thơng tin đối ngoại đã có bước phát
triển mạnh mẽ, đóng góp tích cực vào thành tựu đối ngoại nói riêng và cơng
cuộc đổi mới của đất nước nói chung, nâng cao vị thế của nước ta trên trường

quốc tế. Hình ảnh của Việt Nam, từ một đất nước lạc hậu, khó khăn với
những hậu quả nặng nề của chiến tranh, đã dần được thế giới biết đến như
một quốc gia năng động, đang vươn lên mạnh mẽ, có chính sách đối ngoại
hịa bình, hữu nghị, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm
trong cộng đồng quốc tế.
Trong những năm gần đây, công tác TTĐN đã được chúng ta đẩy mạnh
và thực hiện có hiệu quả đã quảng bá một đất nước Việt Nam đổi mới và phát
triển, là điểm đến hấp dẫn với bạn bè quốc tế. Đồng thời TTĐN cũng là chiếc
cầu nối tình hữu nghị giữa Việt Nam và các dân tộc trên thế giới, giữa Đảng
và nhân dân với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, tạo nên một khối
đại đoàn kết, một sức mạnh tổng lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Bên


16

cạnh đó, TTĐN cũng là vũ khí đấu tranh sắc bén, giúp vạch rõ bản chất và các thủ
đoạn của các lực lượng chống phá cách mạng, chống phá chế độ, làm cho nhân
dân trong nước và bạn bè quốc tế hiểu và tin tưởng vào con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội và sự lãnh đạo đúng đắn, cần thiết của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Có thể nói, ở bất cứ thời kì nào, TTĐN cũng có một vai trò quan trọng
đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, là một nội dung quan trọng
trong hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, đồng thời
cũng góp phần vào sự thắng lợi của con đường đi lên xã hội chủ nghĩa mà
Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về Thông tin đối ngoại
Đảng và Nhà nước ta ln nhìn rõ tầm quan trọng của cơng tác TTĐN
đối với sự thắng lợi của cách mạng, đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước. Chính vì vậy mà cơng tác TTĐN ngày càng được chú trọng đầu tư
về con người, về vật chất-kỹ thuật, thường xuyên nhận được sự quan tâm chỉ
đạo sát sao của các cơ quan Đảng và Nhà nước. Cùng với việc đề ra đường lối

đối ngoại đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc đề ra các chủ
trương, chính sách phát triển cơng tác TTĐN.
Nghị quyết Đại hội VI của Đảng (1986) đề cập đến việc cần chú trọng
thực hiện công tác tuyên truyền đối ngoại, chú trọng việc quản lý chặt chẽ
công tác xuất bản, thông tin, báo chí và phim ảnh. Đây là thời kỳ đất nước tuy
đã ra khỏi chiến tranh sau khoảng 10 năm. Do đặc điểm của mơ hình kinh tế
XHCN tập trung kiểu cũ đang tồn tại ở nhiều nước, cho đến thời điểm đó,
nhiều nước XHCN đã lâm vào khó khăn, tiền khủng hoảng, cơng tác tun
truyền đối ngoại vẫn cịn hướng chủ yếu vào khu vực các nước XHCN, chưa
mở rộng được ra các địa bàn, quốc gia có ý thức hệ khác nhau, tình hình đó
vẫn diễn ra cho đến khi bắt đầu xuất hiện các chủ trưởng cải cách, mở cửa và
đổi mới ở một số nước.


17

Càng phát triển và được đẩy mạnh vào các thời kì sau, cơng tác TTĐN
càng được các cơ quan Đảng và Nhà nước phối hợp thực hiện và hoạch định
sự phát triển cũng như sự phân công nhiệm vụ một cách có hệ thống, quy củ
và quy mơ hơn.
Chỉ thị số 11-CT/TW, ngày 13/06/1992 Về đổi mới và tăng cường công
tác TTĐN đã đưa ra cơ chế tổ chức chỉ đạo thực hiện cơng tác TTĐN, đó là:
“1- Ban Bí thư phối hợp với Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo và quản lý
thống nhất cơng tác TTĐN.
Về phía Đảng, Ban Bí thư giao cho Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung
ương chủ trì phối hợp với Ban Đối ngoại Trung ương và các cơ quan hữu
quan để định hướng về nội dung, đôn đốc, kiểm tra và theo dõi về bố trí, quản
lý, bồi dưỡng cán bộ hoạt động trong lĩnh vực cơng tác TTĐN.
Về phía Nhà nước, đề nghị Hội đồng Bộ trưởng giao cho Bộ Văn hóa,
thơng tin và thể thao phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ và các cơ quan

hữu quan thể chế hóa việc thực hiện công tác TTĐN của các ngành.
2- Cuối mỗi năm, Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương phối hợp với
Bộ Văn hóa, thơng tin và thể thao báo cáo cơng tác này với Ban Bí thư và Hội
đồng Bộ trưởng, đề xuất phương hướng công tác tới.
3- Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương có trách nhiệm phổ biến,
hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện chỉ thị này đến các ngành, theo dõi và
báo cáo kết quả với Ban Bí thư.” [11]
Trong nhiệm kỳ Đại hội VIII, Thường vụ Bộ Chính trị ra Thơng báo số
188/TB-TW ngày 29 tháng 12 năm 1998 nhằm bổ sung, nhấn mạnh những đối
tượng, địa bàn ưu tiên và trọng điểm tổ chức lực lượng của công tác TTĐN.
Tháng 4 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 10/2000 CT-TTg về
tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác TTĐN.


18

Nghị quyết Đại hội IX của Đảng (2001) nhấn mạnh nhiệm vụ tăng
cường cơng tác TTĐN, trên bình diện chung và đối với các cơ quan thơng tấn,
báo chí nói riêng. Chủ trương là tăng cường và nâng cao hiệu quả của cơng
tác TTĐN và văn hóa đối ngoại, sử dụng các phương tiện thông tin hiện đại,
nhất là internet trong công tác TTĐN. Đồng thời, ngăn chặn và đẩy lùi những
nội dung tiêu cực của các thế lực cơ hội và thù địch lợi dụng mạng internet để
chống phá Đảng và Nhà nước; khắc phục xu hướng “ thương mại hóa” trong
hoạt động báo chí, xuất bản; khơng ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tư
tưởng, trình độ văn hóa, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ làm cơng tác
báo chí, xuất bản; phát triển đi đơi với quản lý tốt hệ thống thông tin đại
chúng. Báo chí chủ lực, và các cơ quan thơng tin đại chúng cần làm tốt chức
năng tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối
với độc giả cả ở trong và ngoài nước, đấu tranh phản bác các luận điêu sai
trái, thù địch.

Q trình thực hiện cơng tác TTĐN, Đảng và Nhà nước ta nhìn thấy
yêu cầu của việc thống nhất chỉ đạo thực hiện công tác này. Ngày 27/12/2001,
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Quyết định số 16QĐ/TW Về việc thành lập Ban chỉ đạo công tác TTĐN, với việc quy định rất
rõ về thành phần và cơ chế hoạt động của Ban chỉ đạo, kèm theo đó là ban
hành Quy chế phối hợp chỉ đạo hoạt động TTĐN.
Ngày 10 tháng 9 năm 2008, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) đã ra
Chỉ thị số 26/CT-TW về “tiếp tục đổi mới và tăng cường cơng tác TTĐN trong
tình hình mới” nhằm khẳng định rõ hơn nội dung, phương thức, đối tượng, địa
bàn hoạt động TTĐN ở nước ta, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Đến năm 2011, Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn
2011 – 2020 được ban hành. Chiến lược ra đời là kết quả của quá trình phối
hợp nghiên cứu và xây dựng của rất nhiều cơ quan chủ lực về TTĐN, đây là


19

căn cứ quan trọng để chỉ đạo thực hiện công tác TTĐN trong những năm tới.
Ngay sau khi Chiến lược được ban hành, Chính phủ cũng đã xây dựng
Chương trình hành động của Chính phủ về thơng tin đối ngoại giai đoạn
2013 - 2020 để hiện thực hóa Chiến lược. Chương trình hành động được quán
triệt đến tất cả các tỉnh, thành và các cơ quan chủ lực về TTĐN từ Trung
ương đến địa phương.
Như vậy có thể thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức được sự cần
thiết phải tăng cường chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả cơng tác TTĐN, thấy
được vai trị của TTĐN đối với sự phát triển của đất nước. Đảng và Nhà nước
ta đã hoạch định chiến lược dài hạn cho sự phát triển của công tác này, tăng
cường và bồi dưỡng nguồn nhân lực, giao cho Học viện Báo chí và Tuyên
truyền đào tạo cử nhân chuyên ngành TTĐN, tới đây sẽ có thêm những
trường Đại học khác trên cả nước được mở chuyên ngành đào tạo này, nhiều
cán bộ được cử đi học ở nước ngoài, chuyên tu đào tạo nâng cao trình độ

ngoại ngữ và nghiệp vụ Báo chí, Ngoại giao. Nhà nước cũng tăng cường đầu
tư vật chất – kỹ thuật cho hoạt động TTĐN. Có thể nói công tác TTĐN đã
thực sự trở thành một nội dung trọng tâm trong công tác đối ngoại của Đảng
và Nhà nước.
1.2. Một số vấn đề lý luận về Thông tin đối ngoại trên báo mạng
điện tử
1.2.1. Ưu thế và vai trị của hệ thống thơng tấn báo chí nói chung,
của báo mạng điện tử nói riêng đối với cơng tác Thông tin đối ngoại
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc từ khi có Đảng lãnh đạo, lập
nên Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, và sau này khi đất nước
hồ bình, thống nhất, tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển, công tác TTĐN
luôn được xác định là nhiệm vụ quan trọng, có sự tham gia của cả hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xuất phát từ đặc điểm, lĩnh vực thông tin


20

và đối tượng tiếp nhận nội dung của hoạt động TTĐN mà mỗi binh chủng, lực
lượng tham gia có vị trí, vai trị khác nhau. Ở tầm vĩ mơ là các cơ quan
chuyên trách làm nhiệm vụ chỉ đạo, định hướng TTĐN, tiếp đó là các cơ
quan, đơn vị tổ chức thực hiện ở trung ương và địa phương, và cuối cùng là
từng người dân với nhiều hình thức hoạt động khác nhau tham gia. Sự phát
triển mạnh mẽ với nhiều lực lượng tham gia càng thể hiện rõ nét hơn khi tính
chất và phạm vi hội nhập, mở cửa của đất nước ngày càng sâu rộng. Trong
các binh chủng, lực lượng đó, các cơ quan thơng tấn, báo chí có vị trí, vai trị
quan trọng hàng đầu trong hoạt động TTĐN ở nước ta.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định bốn nội dung cơ bản của Thông tin
đối ngoại, đó là:
“- Thơng tin về đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
quan điểm và lập trường của Việt Nam trong các vấn đề quốc tế và khu vực;

- Giới thiệu, quảng bá đất nước, con người, lịch sử, văn hóa, truyền
thống tốt đẹp, những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc Việt Nam;
những thành tựu công cuộc đổi mới đất nước; tiềm năng và hiệu quả trong
hợp tác quốc tế về mọi mặt giữa Việt Nam với các đối tác;
- Thông tin có định hướng về tình hình quốc tế cho nhân dân trong
nước; chọn lọc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới;
- Đấu tranh phản bác những thông tin sai trái, xuyên tạc đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phá hoại sự nghiệp đổi mới, độc
lập, thống nhất, ổn định, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.”[7]
Căn cứ vào những nội dung cơ bản đó, rõ ràng các cơ quan thơng tấn,
báo chí phải là lực lượng nòng cốt, gánh vác nhiệm vụ to lớn nhất trong hoạt
động thông tin đối ngoại của nước nhà. Bởi các hoạt động giao lưu văn hóa,
ngoại giao nhân dân, xúc tiến du lịch và đầu tư hay ngoại giao nhà nước,…chỉ
có thể thực hiện được một phần trong các nội dung của thông tin đối ngoại;


×