Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

(Luận văn thạc sĩ) phân tích hiệu quả kinh doanh của công ty cổ phần sách và thiết bị bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 94 trang )

7

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ
KINH DOANH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢKINH
DOANH
1.1.1. Phân tích hiệu quả kinh doanh
Hoạt động của tất cả các loại hình doanh nghiệp đều được phân thành
ba loại: hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính.
• Hoạt động kinh doanh (Operating activities): là hoạt động chính,

thường xuyên của doanh nghiệp (có thể là hoạt động sản xuất, thương mại
hoặc dịch vụ).
• Hoạt động đầu tư (Investing activities): các hoạt động đầu tư mua sắm

tài sản, thiết bị và đầu tư tài sản tài chính.
• Hoạt động tài chính (Financing activities): liên quan trực tiếp đến việc

tài trợ của doanh nghiệp, đến việc thu tiền hay trả nợ của các nhà đầu tư và
các chủ nợ.
Ba hoạt động trên đều hướng tới một mục tiêu cuối cùng của doanh
nghiệp chính là đạt được lợi nhuận mong muốn. Do đó, tất cả các đối tượng
khi muốn tìm hiểu về một doanh nghiệp hoạt động như thế nào, nghĩa là
người ta mong muốn được trả lời các câu hỏi như:
Doanh nghiệp đang làm ăn như thế nào? Tình hình tài chính hiện tại
của doanh nghiệp ra sao?
Để trả lời được các câu hỏi trên, cơng việc thực hiện chính là tiến hành
phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy, phân tích hiệu quả
kinh doanh là gì?



8

Vấn đề hiệu quả kinh doanh từ lâu đã được các nhà kinh tế học trên thế
giới quan tâm và nghiên cứu. Điển hình như nhà kinh tế học Adam Smith cho
rằng hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu
thụ hàng hoá [5]. Như vậy, hiệu quả được đồng nghĩa với chỉ tiêu phản ánh
kết quả hoạt động kinh doanh, có thể do tăng chi phí mở rộng sử dụng nguồn
lực sản xuất. Nếu cùng một kết quả có hai mức chi phí khác nhau thì theo
quan điểm này doanh nghiệp cũng đạt hiệu quả.
Còn theo nhà kinh tế học P.Samuellson và W.Nordhaus hiệu quả sản
xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một cách hàng loạt hàng hóa
mà khơng cắt giảm một loạt hàng hóa khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm
trên giới hạn khả năng sản xuất của nó [22]. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ
tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh trình độ sử dụng các nguồn vật lực, tài chính
của doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao nhất [11].
Các nhà kinh tế học hiện đại thì cho rằng hiệu quả kinh doanh là một
phạm trù phản ánh trình độ và chất lượng sản xuất kinh doanh được xác định
bằng tổng quan giữa kết quả thu được và chi phí bỏ ra.
Hiệu quả kinh doanh là công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị doanh
nghiệp thực hiện nhiệm vụ quản trị kinh doanh. Khi tiến hành bất kì một hoạt
động sản xuất kinh doanh nào thì các doanh nghiệp đều phải huy động và sử
dụng các nguồn lực mà doanh nghiệp có khả năng để có thể tạo ra kết quả
nhất định mà doanh nghiệp đã đề ra. Thơng qua việc tính tốn và phân tích
các chỉ tiêu của hiệu quả kinh doanh, doanh nghiệp có thể đánh giá được các
nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của mình, dựa vào đó các nhà
quản trị có thể ra quyết định về tài chính, đầu tư và kinh doanh; xây dựng và
thực hiện các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Sự thành công hay
thất bại trong việc điều hành hoạt động doanh nghiệp được thể hiện trực tiếp
qua việc phân tích hiệu quả kinh doanh.



9

Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng hiệu quả kinh doanh là một
phạm trù kinh tế được đo lường bằng các chỉ tiêu tài chính nhằm phản ánh
trình độ quản lý và năng lực kinh doanh của doanh nghiệp nhằm đảm bảo thu
được kết quả cao nhất theo những mục tiêu đã đặt ra với chi phí thấp nhất. Để
thu được hiệu quả kinh doanh cao, doanh nghiệp phải thơng qua việc phân
tích tình hình sử dụng vốn, tình hình sử dụng tài sản và phân tích khả năng
sinh lợi của doanh thu để có thể đánh giá được thực trạng hiệu quả kinh doanh
của mình; từ đó xây dựng các chiến lược, giải pháp khắc phục và phát triển
cho doanh nghiệp mình.
1.1.2.Tầm quan trọng của việc phân tích hiệu quảkinh doanh
Khi sản xuất ngày càng phát triển thì nhu cầu thơng tin của các nhà
quản trị càng nhiều, đa dạng và phức tạp. Phân tích hiệu quả kinh doanh phát
triển như một môn khoa học độc lập để đáp ứng nhu cầu thông tin cho các nhà
quản trị.
Phân tích hiệu quả kinh doanh giúp nhà lãnh đạo có được các thơng tin
cần thiết để nhìn nhận đúng đắn về khả năng, sức mạnh cũng như những hạn
chế của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó xác định đúng đắn mục tiêu và đề ra
quyết định kinh doanh có hiệu quả.
Phân tích hiệu quả kinh doanh là q trình nghiên cứu để đánh giá kết
quả kinh doanh ở doanh nghiệp nhằm làm rõ hiệu quả kinh doanh và các tiềm
năng cần được khai thác để đề ra phương án và giải pháp nâng cao hiệu
quảkinh doanh.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
1.1.3.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp
- Trình độ quản lý: Trong mơi trường kinh doanh ngày càng biến động
không ngừng, việc xác định mục tiêu dài hạn và ngắn hạn, xây dựng chiến

lược trong từng thời kỳ một cách đúng đắn là một nhiệm vụ vô cùng quan


10

trọng của nhà quản lý doanh nghiệp. Nhiệm vụ đó bao gồm việc xây dựng cho
doanh nghiệp một chiến lược kinh doanh và phát triển hợp lý - đó là nhân tố
đầu tiên và quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của doanh
nghiệp, thiết lập một quy trình bao gồm các bước để thực hiện chiến lược
kinh doanh đã xây dựng một cách hiệu quả nhất. Xây dựng các kế hoạch kinh
doanh, các phương án kinh doanh dựa trên chiến lược đã đề ra; tổ chức thực
hiện các kế hoạch; tổ chức kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh các quy trình trên.
u cầu này địi hỏi nhà quản lý khơng phải chỉ có trình độ chun mơn, có
khả năng quản trị doanh nghiệp tốt, mà cịn địi hỏi họ phải có khả năng
nhanh nhạy, nắm bắt kịp thời sự thay đổi liên tục của thị trường. Một nhà
quản lý có năng lực, tinh thần trách nhiệm cao sẽ đảm bảo cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả và ngược lại.
- Lực lượng lao động: Quá trình sản xuất muốn hoạt động được cần phải
có ba yếu tố: sức lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Lao động
là một trong ba yếu tố của quá trình sản xuất và là yếu tố quan trọng nhất, vì
khơng có yếu tố lao động của con người thì tư liệu lao động và đối tượng lao
động là những vật vơ dụng, vì con người là chủ thể của quá trình sản xuất
kinh doanh.
Trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp, việc phối hợp hoạt
động giữa con người với nhau tạo nên một quy trình làm việc mà kết quả
chính là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, đem lại lợi ích cho tất cả mọi
người. Nhà quản lý vạch ra chiến lược hoạt động, nhà phát minh tìm tịi phát
minh ra những sản phẩm mới và người cơng nhân lao động có ảnh hưởng
không nhỏ tới kết quả tạo ra sản phẩm đó. Lao động có tay nghề cao, có tinh
thần trách nhiệm sẽ làm ra những sản phẩm đạt chất lượng cao, tiết kiệm thời

gian và nguyên vật liệu, làm tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Vì vậy, nhân tố con người với trình độ chun mơn có ý nghĩa quyết


11

định tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó địi hỏi doanh nghiệp
phải có kế hoạch tỉ mỉ từ khâu tuyển dụng đến việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng
cao trình độ chun mơn cho người lao động lẫn cán bộ quản lý của doanh
nghiệp mình và quan trọng là xây dựng một chính sách ưu đãi để thu hút nhân
tài về cho doanh nghiệp của mình.
- Chính sách bán hàng: Để tăng doanh thu bán hàng thì mỗi doanh
nghiệp phải quan tâm đến các chính sách như: chính sách tiêu thụ, chính sách
sản xuất ,chính sách tài chính. Tuy nhiên, mỗi chính sách đều cần phải có một
khoản chi phí nhất định. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải cân nhắc giữa chi
phí bỏ ra và lợi ích đạt được từ đó tìm mọi biện pháp hữu hiệu nhất nhằm làm
giảm chi phí đến mức có thể mà vẫn tăng lượng hàng tiêu thụ, điều này ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tình hình tài chính: Trong mơi trường cạnh tranh gay gắt trên nhiều
lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp
muốn đứng vững và phát triển được thì phải đảm bảo một tình hình tài chính
vững chắc và ổn định. Doanh nghiệp có khả năng tài chính mạnh sẽ đảm bảo
cho những hoạt động sản xuất kinh doanh của mình diễn ra liên tục, là chất
keo để chắp nối, kết dính các quá trình và quan hệ kinh tế, là chất bơi trơn cho
doanh nghiệp vận động một cách hiệu quả.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ sản xuất: Cơ sở vật chất kỹ thuật
và công nghệ sản xuất trong doanh nghiệp là yếu tố quan trọng để doanh
nghiệp tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Trình độ kỹ thuật và
công nghệ ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng sản phẩm, ảnh hưởng tới mức
độ tiết kiệm hay lãng phí ngun vật liệu do đó sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả

sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật
cao, cơ sở vật chất kỹ thuật tốt, công nghệ sản xuất tiên tiến và hiện đại sẽ
giúp cho doanh nghiệp sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao năng suất


12

và chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, công nghệ sản xuất là ln thay đổi
từng ngày. Do đó, doanh nghiệp phải ln tự làm mới mình bằng cách tự
vận động và đổi mới, cập nhật những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ mới liên quan đến lĩnh vực sản xuất kinh doanh của mình để áp dụng
vào doanh nghiệp, đem lại hiệu quả cao nhất trong kinh doanh.
- Tổ chức cung ứng đầu vào: Ngành sản xuất kinh doanh địi hỏi phải có
ngun nhiên vật liệu, lao động và các yếu tố đầu vào khác. Các nguồn lực
đầu vào này có thể được cung cấp bởi cá nhân, tổ chức hoặc doanh nghiệp
khác. Việc đảm bảo chất lượng cũng như giá cả các yếu tố đầu vào của doanh
nghiệp phụ thuộc vào hành vi của nhà cung cấp. Nếu nhà cung cấp có lợi thế
và quyền lực trên thị trường thì sẽ có thể có những tác động quan trọng vào
việc ra quyết định cung ứng. Điều này khiến cho việc đảm bảo yếu tố đầu vào
của doanh doanh phụ thuộc vào nhà cung cấp là rất lớn, có thể ảnh hưởng đến
quy mơ và giá thành của yếu tố đầu vào; từ đó làm tăng chi phí, tăng giá
thành sản phẩm, giảm lợi nhuận từ đó giảm hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp và ngược lại.
- Nguồn tài chính: Đây là nhân tố gắn liền với việc nâng cao hiệu quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như có ý nghĩa sống
cịn đối với sự tồn tại hay phát triển của doanh nghiệp. Bởi vì điều kiện tiền
đề để doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh là phải cần có một số vốn
nhất định;ví dụ như nếu doanh nghiệp quyết định đưa một sản phẩm mới,
tiến hành đầu tư mới tài sản cố định (TSCĐ), thuê mướn thêm lao động,
thanh toán các khoản chi tiêu khác phát sinh trong quá trình sản xuất kinh

doanh.Tất cả các vấn đề này đều gián tiếp hay trực tiếp liên quan đến hoạt
động tài chính.
- Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm: Đối với doanh nghiệp, lợi nhuận là mục
tiêu hàng đầu. Mà lợi nhuận chỉ có được sau khi tiêu thụ sản phẩm. Tiêu thụ


13

sản phẩm là khâu cuối cùng tạo ra lợi nhuận đồng thời cũng là bước đệm xoay
vịng trong chu trình kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp có phương hướng sản xuất kinh doanh cho kì sau, quyết định
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, quyết định khả năng tài chính, nhịp
độ cung ứng nguyên vật liệu, tốc độ sản xuất... và cũng nhằm mục đích thúc
đẩy mạnh hoạt động bán sản phẩm và thu lợi nhuận. Chính vì vậy, tiêu thụ
sản phẩm là mục tiêu trước mắt và là phương tiện để đạt được mục đích của
doanh nghiệp. Để đạt được mục tiêu này, doanh nghiệp cần phải tổ chức được
mạng lưới tiêu thụ hợp lý, đáp ứng đúng nhu cầu khách hàng sẽ có tác dụng to
lớn trong việc đẩy mạnh hoạt động của doanh nghiệp; bên cạnh đó việc chú
trọng đến cách thức quảng bá, giới thiệu sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp
nhanh chóng mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, tăng sức cạnh tranh của doanh
nghiệp, tăng doanh thu quay vòng vốn nhanh... góp phần tăng doanh thu, lợi
nhuận và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.3.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp
- Khách hàng và nhu cầu của khách hàng: Nhân tố khách hàng và nhu
cầu của khách hàng quyết định qui mô cũng như cơ cấu nhu cầu trên thị
trường của doanh nghiệp và là yếu tố quan trọng hàng đầu khi xác định chiến
lược kinh doanh. Do đó doanh nghiệp phải tập trung tất cả vào khách hàng,
phục vụ khách hàng với mục tiêu cung cấp cho họ những dịch vụ hàng đầu
như: gía cả phải chăng, lựa chọn hàng hóa tùy muốn, thuận tiện, phục vụ tận
tình…Đây là nhân tố quan trọng cũng như áp lực đối với doanh nghiệp nhằm

nâng cao hiệu quả hoạt động
- Môi trường quốc tế và khu vực: Các xu hướng chính trị trên thế giới và
khu vực, các chính sách bảo hộ và mở cửa, hợp tác kinh tế, khối đồn kết kinh
tế - chính trị, tình hình chiến tranh, sự mất ổn định chính trị, tình hình phát
triển kinh tế của các nước trên thế giới và trong khu vực... có ảnh hưởng trực


14

tiếp đến hoạt động đầu tư, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như
việc lựa chọn và sử dụng các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp. Do vậy mà tác
động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Mơi trường kinh tế,
chính trị trên thế giới và trong khu vực ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động kinh doanh, góp phần giúp cho hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp đạt hiệu quả cao.
- Mơi trường nền kinh tế quốc dân:
+ Mơi trường chính trị, pháp luật:
Các yếu tố chính trị và pháp luật, bao gồm hệ thống các quan điểm,
đường lối chính sách của chính phủ, hệ thống luật pháp hiện hành, xu hướng
ngoại giao của chính phủ, … có ảnh hưởng ngày càng lớn đến hoạt động của
các doanh nghiệp. Chính trị và pháp luật là nền tảng cũng như cơ sở pháp lý
để các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường.
Sự ổn định chính trị tạo ra môi trường thuận lợi, sự lành mạnh trong
xã hội, ổn định kinh tế, tạo hành lang thơng thống cho các doanh nghiệp
phát triển.
Luật pháp đưa ra những quy định cho phép hoặc khơng cho phép, hoặc
những ràng buộc địi hỏi các doanh nghiệp phải tuân thủ khi tiến hành hoạt
động kinh doanh của mình, được hưởng quyền lợi đi đơi với việc phải thực
hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.
Chính phủ có vai trị to lớn trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông

qua các công cụ và chính sách của mình, đóng vai trị là người giám sát, duy
trì, kiểm sốt, khuyến khích, tài trợ, quy định ngăn cấm và đồng thời là nhà
cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp như cung cấp thông tin vĩ mô, các
dịch vụ công cộng... do vậy, hoạt động của chính phủ cũng có thể tạo ra cơ
hội hoặc rào cản cho doanh nghiệp.
Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp cần hiểu rõ mơi trường chính trị,


15

pháp luật, nhận ra những cơ hội và thách thức, từ đó điều chỉnh hoạt động
kinh doanh của mình cho phù hợp.
+ Môi trường kinh tế:
Đây là nhân tố quan trọng nhất có tác động trực tiếp đến việc ra quyết
định kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Các chính sách kinh tế của nhà nước, tốc độ tăng trưởng nền kinh tế
quốc dân, tốc độ lạm phát, thu nhập bình quân trên đầu người... là các yếu tố
tác động trực tiếp tới cung cầu của từng doanh nghiệp. Nếu nền kinh tế quốc
dân ổn định hoặc có tốc độ tăng trưởng cao, các chính sách của Chính phủ
khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất, sự biến động tiền tệ
là không đáng kể, lạm phát được giữ mức hợp lý, thu nhập bình quân đầu
người tăng... sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất, nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; và ngược lại khi nền kinh tế suy thoái, lạm
phát tăng nhanh làm cho sức mua của người dân giảm sút khi đó doanh
nghiệp sẽ gặp nhiều khó khăn và hiệu quả kinh doanh sẽ giảm.
+ Môi trường văn hóa - xã hội:
Mơi trường văn hóa - xã hội bao gồm những chuẩn mực và giá trị được
chấp nhận và tôn trọng bởi một xã hội hoặc một nền văn hóa cụ thể. Sự tác
động của các yếu tố văn hóa - xã hội như: những quan niệm về đạo đức, thẩm
mỹ, lối sống, về nghề nghiệp; những phong tục, tập quán, truyền thống;

những quan tâm ưu tiên của xã hội; trình độ nhận thức, học vấn chung của xã
hội... thường có tính dài hạn và khó có thể nhận biết hơn so với các yếu tố
khác, đồng thời có phạm vi tác động thường rất rộng, có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến các hoạt động kinh doanh. Yếu tố văn hóa - xã hội giúp xác định cách
thức người ta sống, làm việc, sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm và dịch vụ; vì
vậy doanh nghiệp cần phải phân tích kĩ yếu tố này nhằm nhận biết các cơ hội
và nguy cơ có thể xảy ra cho hoạt động kinh doanh của mình.


16

+ Điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái và cơ sở hạ tầng:
Các điều kiện tự nhiên bao gồm: các loại tài ngun khống sản, vị trí
địa lý, thời tiết khí hậu, cảnh quan, mơi trường…có ảnh hưởng đến nguồn
cung cấp đầu vào của doanh nghiệp, chi phí sử dụng nguyên nhiên vật liệu,
năng lượng; ảnh hưởng tới mặt hàng kinh doanh, năng suất chất lượng sản
phẩm; ảnh hưởng đến cung cầu sản phẩm do tính chất mùa vụ, … do đó ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong vùng.
Các vấn đề ô nhiễm môi trường, sản phẩm kém chất lượng, lãng phí tài
nguyên thiên nhiên cùng với nguồn lực có hạn ngày càng được cơng chúng
quan tâm nhiều hơn. Điều đó buộc các doanh nghiệp phải chú ý đến hoạt
động và hình ảnh của mình, phải quan tâm đến tình trạng mơi trường, các vấn
đề về xử lý phế thải, ô nhiễm, các ràng buộc về mơi trường,… Các yếu tố đó
có tác động đến chi phí kinh doanh, năng suất và chất lượng sản phẩm, ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp vì vậy các doanh nghiệp
cần phải có các nghiên cứu kĩ càng trước khi đưa ra các quyết định.
Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế có tính chất quyết định sự phát triển của
nền kinh tế cũng như sự phát triển của các doanh nghiệp. Hệ thống đường xa,
giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống ngân hàng tín dụng, mạng
lưới điện quốc gia,… ảnh hưởng đến chi phí kinh doanh, khả năng nắm bắt

thơng tin, khả năng huy động và sử dụng vốn, khả năng giao dịch thanh
tốn,… của các doanh nghiệp do đó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
+ Trình độ khoa học cơng nghệ:
Các yếu tố khoa học công nghệ bao gồm phương pháp sản xuất mới, kỹ
thuật mới, vật liệu mới, thiết bị sản xuất, các phát minh sáng chế, phần mềm
ứng dụng,… Đây là một trong những yếu tố chứa đựng nhiều cơ hội và thách
thức đối với các doanh nghiệp. Sự ra đời của công nghệ giúp các doanh


17

nghiệp có điều kiện ứng dụng các thành tựu để tạo ra sản phẩm, dịch vụ có
chất lượng cao hơn nhằm phát triển kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh. Tuy nhiên, sự bùng nổ của công nghệ mới càng làm cho vịng đời cơng
nghệ có xu hướng rút ngắn lại, điều này càng làm tăng thêm áp lực phải rút
ngắn thời gian khấu hao so với trước, đó là một thách thức lớn đối với hoạt
động kinh doanh của mình mà mỗi doanh nghiệp cần phải lưu ý trong q
trình hoạt động kinh doanh.
+ Mơi trường ngành:
Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành với nhau
ảnh hưởng trực tiếp tới lượng cung cầu sản phẩm của mỗi doanh nghiệp, ảnh
hưởng tới giá bán, tốc độ tiêu thụ sản phẩm,… Do vậy ảnh hưởng tới hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp. Sản phẩm thay thế cũng có ảnh hưởng rất lớn
đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi trong nền kinh tế thị trường
cạnh tranh gay gắt, hầu hết các sản phẩm của các doanh nghiệp đều có sản
phẩm thay thế; các sản phẩm đều có chất lượng, mẫu mã, bao bì, số lượng đa
dạng, đem lại nhiều sự lựa chọn cho khách hàng từ đó ảnh hưởng đến lượng
cung cầu, chất lượng, giá cả, chính sách tiêu thụ và tốc độ tiêu thụ sản phẩm
của doanh nghiệp.

Bất cứ một doanh nghiệp nào khi kinh doanh cũng đều cần phải quan
tâm đến nguồn lực cung ứng cho doanh nghiệp mình. Các nguồn lực đầu vào
của một doanh nghiệp được cung cấp bởi các đơn vị kinh doanh khác. Việc
đảm bảo chất lượng cũng như giá cả, thời gian cung ứng phù hợp của các yếu
tố đầu vào của doanh nghiệp là hết sức cần thiết và phụ thuộc vào hành vi của
người cung ứng. Nếu các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp khơng có sự thay
thế và do các nhà độc quyền cung cấp thì việc đam bảo yếu tố đầu vào của
doanh nghiệp phụ thuộc vào nhà cung ứng rất lớn, chi phí đầu vào của doanh
nghiệp sẽ cao từ đó hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sẽ giảm xuống; và


18

ngược lại.
Khách hàng của doanh nghiệp là một vấn đề vô cùng quan trọng và
được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm và chú ý. Mật độ dân cư, thu nhập
bình qn của người dân, tâm lý sở thích tiêu dùng,… đều ảnh hưởng lớn đến
sản lượng và giá cả sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu như doanh nghiệp
khơng có khách hàng, sản phẩm không tiêu thụ được, vốn của doanh nghiệp
sẽ bị ứ đọng, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Nhà cung cấp: Để quá trình sản xuất kinh doanh liên tục và có hiệu quả
thì cần phải có mối quan hệ mật thiết với các nhà cung cấp. Vì họ là những
người cung ứng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải
lựa chon những nhà sản xuất có uy tín, đúng giá cả và thời hạn để cung ứng
kịp thời cho quá trình sản xuất, giúp doanh nghiệp có nguồn lực đều đặn, rẻ
nhất, hiệu quả nhất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.
- Đối thủ cạnh tranh: Đối thủ cạnh tranh là những tổ chức, cá nhân có
khả năng thỏa mãn nhu cầu của khách hàng về các mặt hàng giống với mặt
hàng của doanh nghiệp hoặc các mặt hàng có thể thay thế lẫn nhau. Vì vậy, để

dành ưu thế thị phần, để cạnh tranh tốt thì doanh nghiệp phải khơng ngừng
nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá bán, khuýên mãi…Điều này tạo ra
khả năng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.2. NỘI DUNG PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ KINH DOANH
1.2.1. Đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh
Đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh nhằm mục đích giúp doanh
nghiệp biết được hiệu quả kinh doanh của mình ở mức độ nào, xu hướng
kinh doanh của doanh nghiệp cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp; thường được đánh giá thông qua những
chỉ tiêu sau[5]:


19

- Sức sinh lợi của tài sản: Trong quá trình tiến hành hoạt động kinh
doanh của mình, doanh nghiệp mong muốn lấy thu bù chi và có lãi, bằng cách
so sánh lợi nhuận với tài sản đầu tư, ta sẽ thấy khả năng tạo ra lợi nhuận của
doanh nghiệp từ tài sản; có thể xác định bằng cơng thức:
Lợi nhuận sau thuế TNDN

Sức sinh lợi của tài sản
=

(ROA)

Tổng tài sản bình quân

Sức sinh lợi của tài sản giúp cho doanh nghiệp có thể biết được trong
một kỳ kinh doanh, doanh nghiệp bỏ ra một đồng tài sản đầu tư thì thu được
bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ tiêu này có trị

số càng cao cho thấy doanh nghiệp làm ăn càng hiệu quả, chứng tỏ hiệu quả
sử dụng tài sản tốt và còn cho biết hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản để tạo
ra thu nhập cho doanh nghiệp.
- Sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu (VCSH): Nguồn vốn là một thành
phần quan trọng mà cả nhà quản lý doanh nghiệp và các nhà đầu tư đều quan
tâm và xem xét để có thể đánh giá việc sử dụng nguồn vốn của doanh nghiệp
như thế nào, ta đánh giá chỉ tiêu sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu (ROE). Sức
sinh lợi của vốn chủ sở hữu cho biết khả năng tạo ra lợi nhuận của vốn chủ sở
hữu mà doanh nghiệp sử dụng cho hoạt động kinh doanh, được xác định bằng
việc so sánh giữa lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp với lượng vốn
chủ sở hữu mà doanh nghiệp đã bỏ ra. Theo đó có thể thấy, trong kỳ kinh
doanh một đồng vốn chủ sở hữu thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế
thu nhập doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ khả năng sử dụng vốn
chủ sở hữu của doanh nghiệp là tốt, từ đó kéo theo hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp càng lớn và ngược lại.
Sức sinh lợi của
VCSH(ROE)

=

Lợi nhuận sau thuế TNDN
VCSH bình quân


20

Sức sinh lợi của vốn chủ sở hữu là một trong những chỉ tiêu tài chính
quan trọng nhất. Nó thường được xem là tỷ lệ tối thượng có thể được lấy từ
báo cáo tài chính của doanh nghiệp để đo lường khả năng sinh lợi của doanh
nghiệp đó đối với chủ đầu tư.

- Sức sinh lợi của doanh thu thuần (ROS): Để đánh giá khái quát hiệu
quả kinh doanh của một doanh nghiệp, ta không thể không xét đến bộ phận
doanh thu - là yếu tố mà bất kỳ một doanh nghiệp hay chủ đầu tư nào đều
trông đợi sẽ có hiệu quả. Ta đánh giá khái quát về doanh thu thông qua chỉ
tiêu sức sinh lợi của doanh thu để có thể biết được mỗi đồng doanh thu thuần
thu được trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Lợi nhuận sau thuế TNDN

Sức sinh lợi của doanh
thu thuần (ROS)

=

Doanh thu thuần

Sức sinh lợi của doanh thu thuần là một chỉ tiêu sử dụng rộng rãi để
đánh giá hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Nó khơng chỉ được sử
dụng như một cơng cụ để phân tích hiệu quả kinh doanh của một cơng ty mà
cịn để so sánh hiệu quả kinh doanh giữa các công ty tương tự nhau. Một ROS
tăng đối với các doanh nghiệp có hoạt động ngày càng trở nên hiệu quả hơn,
hoặc sẽ giảm khi có dấu hiệu khó khăn về tài chính. Hay nói cách khác, chỉ
tiêu này càng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng lớn.Một đồng
doanh thu thuần tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế
- Sức sinh lợi căn bản:
BEPR =

EBIT
Tài sản bình quân



21

Phản ánh khả năng sinh lợi trước thuế và lãi vay của doanh nghiệp cho
nên thường được sử dụng để so sánh khả năng sinh lợi trong trường hợp các
doanh nghiệp có thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và mức độ sử dụng nợ
khác nhau.
- Lãi cơ bản trên cổ phiếu (EPS): Trong phân tích hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp, ta cần xem xét chỉ tiêu lãi cơ bản trên cổ phiếu (EPS) để
đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Đây là phần
lợi nhuận mà công ty phân bổ cho mỗi cổ phần thông thường đang được lưu
hành trên thị trường. EPS được sử dụng như một chỉ số thể hiện khả năng
kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp, được tính bởi cơng thức:
Lãi cơ bản trên
cổ phiếu (EPS)

Lợi nhuận sau thuế - Cổ tức chia cho cổ phiếu ưu đãi
=

Số lượng cổ phiếu phổ thơng đang lưu hành bình qn

Hay có thể nói chỉ tiêu này phản ánh khả năng tạo ra lợi nhuận của các
cổ phiếu phổ thông đang lưu hành trong kỳ phân tích. Nó cho biết một cổ
phiếu phổ thơng đầu tư trong kỳ thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lãi
cơ bản trên cổ phiếu càng cao phản ánh năng lực của công ty càng mạnh, khả
năng trả cổ tức càng cao và giá cổ phiếu cũng có xu hướng tăng cao.
Như vậy có thể thấy, để phân tích được hiệu quả kinh doanh của một
doanh nghiệp, trước hết ta cần phải đánh giá được khái quát hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp đó thơng qua ba thành tố cơ bản là tài sản, vốn và
doanh thu để có cái nhìn tổng quan hơn khả năng thực tại và xu hướng kinh
doanh của doanh nghiệp đó. Tiếp theo sau đó ta sẽ đánh giá chính xác sự thay

đổi nhịp điệu, xu hướng của các thành tố, tìm ra nguyên nhân của sự thay đổi,
các yếu tố tác động đến sự thay đổi đó thơng qua việc đi vào phân tích chi tiết
từng thành tố trên.


22

1.2.2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn
Hiệu quả sử dụng vốn là vấn đề được quan tâm đặc biệt của chủ sở hữu
vốn và là thước đo năng lực nhà quản trị doanh nghiệp. Trong nền kinh tế
cạnh tranh như hiện nay, khi mà các nguồn lực ngày càng hạn hẹp đi và chi
phí cho việc sử dụng chúng ngày càng cao, vấn đề sử dụng hiệu quả nguồn
lực càng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn thì ta cần phải xem xét, đánh giá qua
các chỉ tiêu về vốn chủ sở hữu và vốn vay của doanh nghiệp.
Các nhà đầu tư thường coi trọng đến chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn chủ
sở hữu vì họ quan tâm đến khả năng thu được lợi nhuận so với vốn mà họ bỏ
ra để đầu tư, với mục đích tăng cường kiểm sốt và bảo tồn vốn phát triển.
Hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu được đánh giá thông qua tốc độ quay
vòng vốn của doanh nghiệp hay còn gọi là hiệu suất sử dụng vốn chủ sở hữu.
Trong hoạt động sản xuất hay trong một chu kỳ kinh doanh thì đồng vốn càng
có sự ln chuyển tốt ở nhiều hình thái khác nhau càng chứng tỏ việc sử dụng
đồng vốn có hiệu quả ở doanh nghiệp vì sẽ góp phần giải quyết về nhu cầu
vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nâng cao lợi
nhuận và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp; và ngược lại.
Hiệu suất sử dụng vốn chủ sở hữu là sự so sánh giữa mức doanh thu
thuần đạt được trong kỳ với vốn chủ sở hữu bình quân doanh nghiệp bỏ ra.
Nó phản ánh cứ một đồng vốn chủ sở hữu sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh
thu thuần. Chỉ tiêu này càng cao tức hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu càng
cao [16]

Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng VCSH =
VCSH bình quân
Đồng thời để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta
đặc biệt quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn vay. Việc phân tích hiệu quả sử


23

dụng vốn vay là căn cứ để các nhà quản trị kinh doanh đưa ra các quyết định
có cần vay thêm tiền để đầu tư vào hoạt động kinh doanh không, nhằm đảm
bảo và phát triển vốn cho doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng vốn vay nói riêng và hiệu quả sử dụng vốn nói chung
có thể được xác định thơng qua khả năng chi trả lãi vay của doanh nghiệp.
Khả năng này được phản ánh qua chỉ tiêu “Hệ số khả năng chi trả lãi vay”. Hệ
số khả năng chi trả lãi vay được tính bằng tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và
lãi vay trên lãi vay; phản ánh độ an toàn, mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng
thanh toán lãi của doanh nghiệp như thế nào [5].
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay

Hệ số khả năng chi trả lãi
vay của doanh nghiệp

=

Lãi vay

Thông qua chỉ tiêu trên, ta có thể đánh giá được khả năng chi trả lãi vay
của doanh nghiệp, từ đó đánh giá được hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Nếu hệ số khả năng chi trả lãi vay của doanh nghiệp bằng 1, khi đó

lợi nhuận của doanh nghiệp là bằng 0, tức doanh thu của doanh nghiệp chỉ đủ
bù cho chi phí để trang trải hoạt động của doanh nghiệp hay trong trường hợp
này doanh nghiệp khơng có lãi, khơng có tích lũy. Trường hợp hệ số này nhỏ
hơn 1, chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động chưa có hiệu quả, khơng có lãi hay
doanh thu khơng đủ bù đắp chi phí. Nếu hệ số khả năng chi trả lãi vay của
doanh nghiệp lớn hơn 1 có nghĩa doanh nghiệp hoạt động đã có lãi, có lợi
nhuận, đồng thời có được phần tích lũy phục vụ cho việc tái đầu tư và mở
rộng quy mô sau này của doanh nghiệp.
Tác giả luận văn cho rằng, mục tiêu đầu tiên và cũng là mục tiêu cuối
cùng của một doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh là tối
đa hoá lợi nhuận hay nói cách khác là tối đa hố giá trị doanh nghiệp. Để đạt
được mục tiêu này đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm các biện pháp nhằm khai
thác và sử dụng một cách triệt để những nguồn lực bên trong và ngoài doanh


24

nghiệp. Chính vì vậy vấn đề phân tích hiệu quả sử dụng vốn phải được doanh
nghiệp đặt lên hàng đầu, đó là mục tiêu trung gian tất yếu để đạt được mục
tiêu cuối cùng bởi vốn có vai trị mang tính quyết định đối với q trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.3. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản
Tài sản là cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp, phản ảnh năng lực
hiện có của doanh nghiệp đó. Hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp là
một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý tài
sản một cách tối ưu nhất vào hoạt động kinh doanh sao cho chúng sinh lợi
tối đa. Chính vì vậy, sử dụng tài sản hiện có một cách có hiệu quả là một
trong những giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Sức sinh lợi của tài sản (ROA): Để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản,

trước hết ta phải xem xét sức sinh lợi của tài sản (ROA) đã được tác giả luận
văn đề cập đến trong công thức phần 1.2.1. Đánh giá khái quát hiệu quả kinh
doanh. Đó là chỉ tiêu quan trọng để ta có thể biết được hiệu quả quản lý và sử
dụng tài sản để tạo ra thu nhập cho doanh nghiệp.
- Hiệu suất sử dụng tài sản: Bên cạnh phân tích sức sinh lợi của tài sản,
trong việc phân tích hiệu quả sử dụng tài sản, ta không thể không quan tâm
đến hiệu suất sử dụng tài sản. Đây là một chỉ tiêu tài chính quan trọng, là
thước đo khái quát nhất hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu
này được tính ra bằng cách lấy tổng doanh thu thuần doanh nghiệp đạt được
trong kỳ phân tích chia cho giá trị bình quân của tổng tài sản của doanh
nghiệp trong cùng thời kỳ đó [16].
Hiệu suất sử dụng tài sản

=

Doanh thu thuần
Tổng tài sản bình quân


25

Tỷ số này cho biết mỗi đồng tài sản tạo ra cho doanh nghiệp bao nhiêu
đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ các tài sản vận động càng
nhanh, góp phần tăng doanh thu và lợi nhuận, nâng cao hiệu quả kinh doanh
cho doanh nghiệp; và ngược lại.
1.2.4. Phân tích khả năng sinh lợi của doanh thu
Doanh thu và lợi nhuận là mục tiêu của doanh nghiệp và đồng thời
cũng là hệ quả của các quyết định quản trị, thể hiện hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp, là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định đưa ra các
quyết định trong tương lai. Hiệu quả kinh doanh và hiệu quả quản lý của

doanh nghiệp được phản ánh tổng hợp nhất qua các chỉ tiêu về khả năng sinh
lợi của doanh thu bao gồm sức sinh lợi của doanh thu thuần (ROS) theo công
thức được đề cập ở mục trên để có thể biết được mỗi đồng doanh thu thuần
thu được trong kỳ có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Bên cạnh đó, ta cịn xét thêm chỉ tiêu hệ số lợi nhuận gộp. Hệ số lợi
nhuận gộp được tính bằng tỷ số giữa lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch
vụ với doanh thu thuần của doanh nghiệp trong kỳ. Chỉ tiêu này cung cấp thông
tin cho ta biết trong kỳ kinh doanh, một đồng doanh thu thuần từ hoạt động bán
hàng và cung cấp dịch vụ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận nếu khơng tính đến
chi phí tài chính, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp [5].
Hệ số lợi nhuận gộp

Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ
=

Doanh thu thuần

Thông thường, hệ số lợi nhuận gộp cao sẽ tốt hơn, nhưng đồng thời cần
phải xem xét trên nhiều mặt của doanh nghiệp. Khi hệ số này giảm qua các
năm thì đó sẽ là tín hiệu cảnh báo cho doanh nghiệp; có thể là do điều kiện thị
trường, chi phí tăng hay mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Một
doanh nghiệp có hệ số lợi nhuận gộp cực thấp thì sẽ gặp nguy hiểm trong


26

trường hợp các điều kiện thị trường biến đổi. Ngược lại, một doanh nghiệp có
hệ số lợi nhuận gộp cao chứng tỏ doanh nghiệp có một lợi thế nhất định so
với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường.
Phân tích khả năng sinh lợi của doanh thu là khâu quan trọng trong

phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp bởi đây là mục tiêu hàng đầu
của chủ doanh nghiệp, chủ đầu tư. Là chỉ tiêu được đánh giá là trọng yếu để
giúp các đối tượng trên đưa ra các quyết định kinh doanh hoặc đầu tư; do đó,
việc phân tích từ khái quát đến cụ thể những diễn biến, thay đổi của doanh thu
trong những năm gần đây là điều hết sức cần thiết. Khi thực hiện bước này, ta
cần phải xác định được xu hướng và nhịp điệu tăng trưởng của sức sinh lợi
của doanh thu để phân tích một cách chính xác hơn. Để xác định xu hướng
tăng trưởng và nhịp điệu tăng trưởng, ta sử dụng các cơng thức sau [5]:
- Phân tích xu hướng tăng trưởng là việc phân tích ROS có chiều hướng
đi lên, đi xuống hay không thay đổi và ta sử dụng số tương đối động thái định
gốc theo công thức:
ROSi – ROS0
ROS0

x 100 ; (i = 1,n)

Trong đó: ROS0:Sức sinh lợi doanh thu của doanh nghiệp ở kì gốc.
ROSi: Sức sinh lợi doanh thu của doanh nghiệp ở kì phân tích.
- Phân tích nhịp điệu tăng trưởng tức là ta phân tích ROS ổn định, đều
đặn hay bấp bênh, khi đó ta sử dụng số tương đối động thái liên hồn với
cơng thức:
ROS(i+1) – ROS i
ROS i

x 100 ;

(i = 1,n)

Trong đó: ROSi:Sức sinh lợi doanh thu của doanh nghiệp ở kì phân tích.
ROS(i+1): Sức sinh lợi doanh thu của doanh nghiệp ở kì phân tích tiếp theo.

Đối với một doanh nghiệp, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của


27

mình là một điều hết sức quan trọng, và quan trọng hơn nữa là doanh nghiệp
đó cần phải đảm bảo được hiệu quả kinh doanh đó là bền vững, sự tăng
trưởng đó là bền vững. Chính vì vậy, bên cạnh việc phân tích các chỉ tiêu
phản ánh cần thiết thì các nhà quản trị cũng cần phải tiến hành phân tích xu
hướng và nhịp điệu tăng trưởng đối với các nội dung quan trọng của doanh
nghiệp mình. Điều này khơng chỉ giúp các nhà quản trị xác định được tình
hình kinh doanh của doanh nghiệp mình từ đó đề ra các chiến lược kinh
doanh phù hợp, mà còn là cơ sở để các nhà đầu tư các đơn vị liên kết kinh
doanh tin tưởng và sẽ quyết định hợp tác lâu dài hơn.
1.2.5. Phân tíchcác nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
- Vòng quay các khoản phải thu [5]
Doanh thu thuần
Vòng quay các khoản phải thu

=
Khoản phải thu bình quân

- Kỳ thu tiền bình quân[5]
Số ngày trong kỳ (365)
Kỳ thu tiền bình qn

=
Vịng quay khoản phải thu

- Vịng quay các khoản phải trả[5]

Doanh thu thuần
Vòng quay các khoản phải trả

=
Khoản phải trả bình quân


28

- Vòng quay của hàng tồn kho [5]
Giá vốn hàng bán
Vịng quay của hàng tồn kho

=
Hàng tồn kho bình qn

- Vòng quay vốn lưu động [5]
Doanh thu thuần
Vòng quay vốn lưu động

=
Vốn lưu động bình qn

Doanh thu thuần
Số vịng quay tài sản ngắn hạn

=

Giá trị tài sản ngắn hạn
bình quân


- Vòng quay tài sản[5]
Doanh thu thuần
Vòng quay tài sản

=
Tổng tài sản bình qn

1.3. Phương pháp phân tích hiệu quả kinh doanh
Phân tích hiệu quả kinh doanh là một nội dung khơng thể thiếu trong
q trình phân tích kinh doanh, do đó phương pháp phân tích hiệu quả kinh
doanh cũng chính là phương pháp phân tích kinh doanh của doanh nghiệp.
Phân tích hiệu quả kinh doanh thường sử dụng các phương pháp như: phương
pháp so sánh, phương pháp loại trừ, phương pháp hồi quy … Sau này Luận án
sẽ lần lượt trình bày một số nội dung chính của các phương pháp này.
1.3.1. Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất trong phân tích.
Phương pháp này được sử dụng để đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu


29

hướng biến động khái quát của từng chỉ tiêu trong khoảng thời gian ngắn
nhất về tình hình hoạt động của doanh nghiệp giữa các kỳ kinh doanh khác
nhau. Khi sử dụng phương pháp so sánh cần đảm bảo được những nội dung
sau đây [20]:
- Xác định gốc so sánh: để có thể so sánh được, cần lựa chọn chỉ tiêu để
làm căn cứ so sánh hay còn gọi là gốc so sánh. Tùy theo mục đích nghiên cứu
mà gốc so sánh được lựa chọn thích hợp. Về mặt thời gian: Gốc so sánh có
thể là tài liệu thực tế kỳ trước nhằm đánh giá sự biến động, tốc độ tăng trưởng

của các chỉ tiêu thực tế kỳ này; các mục tiêu đã dự kiến (kế hoạch, dự toán,
định mức) nhằm đánh giá tình hình thực hiện so với kế hoạch, dự toán, định
mức; hay các điểm thời gian (năm, tháng, ngày cụ thể...) nhằm đánh giá tiến
độ thực hiện nhiệm vụ hay mức độ đạt được của chỉ tiêu nghiên cứu trong
cùng khoảng thời gian. Việc lựa chọn gốc so sánh theo thời gian sẽ có thể
đánh giá kết quả đạt được, mức độ và xu hướng tăng trưởng của chỉ tiêu phân
tích. Bên cạnh đó, trong một vài trường hợp, để xác định xu hướng hay nhịp
điệu tăng trưởng của chỉ tiêu phân tích, gốc so sánh có thể được cố định tại
một kỳ cụ thể trong khi kỳ hay điểm so sánh liên tục thay đổi, gọi là so sánh
định gốc; hoặc gốc so sánh và cả kỳ hay điểm so sánh đều thay đổi liên tục,
gọi là so sánh liên hồn.
Về mặt khơng gian: Gốc so sánh được lựa chọn cũng có thể là chỉ tiêu
tổng thể nhằm đánh giá mức độ phổ biến của chỉ tiêu bộ phận; chỉ tiêu của
đơn vị khác có cùng điều kiện hay chỉ tiêu trung bình của ngành, khu vực
kinh doanh, hay nhu cầu đơn đặt hàng nhằm khẳng định vị trí của doanh
nghiệp và khả năng đáp ứng nhu cầu,.... Thơng thường gốc so sánh này doanh
nghiệp khó tiếp cận và có thơng tin, hơn nữa hiện nay tiêu chuẩn chung của
một ngành chưa được quan tâm đúng mức
- Về điều kiện so sánh: để có thể so sánh được, số liệu của các chỉ tiêu so


30

sánh phải đảm bảo tính thống nhất về nội dung kinh tế, về phương pháp tính
tốn, đơn vị đo lường, phạm vi, thời gian và quy mô không gian xác định.
- Dạng so sánh: Phương pháp so sánh được thể hiện dưới hai dạng khác
nhau. Dạng thứ nhất được gọi là so sánh bằng số tuyệt đối, kết quả so sánh
biểu hiện cho sự biến động về khối lượng, quy mơ của chỉ tiêu phân tích.
Dạng thứ hai được gọi là so sánh bằng số tương đối, cách so sánh này cho
thấy kết cấu, mối quan hệ, tốc độ phát triển, mức độ phổ biến của các chỉ tiêu

phân tích. Ngồi ra, nhà phân tích cịn sử dụng phương pháp so sánh có liên
hệ giữa chỉ tiêu phân tích với một chỉ tiêu kinh tế tổng quát khác để thấy rõ
khả năng tận dụng nguồn lực của doanh nghiệp. Ưu điểm của phương pháp so
sánh theo chúng tôi là đơn giản và dễ thực hiện, song khi sử dụng phương
pháp này để cho thấy rõ xu hướng phát triển của đối tượng phân tích thì cần
xem xét chúng qua nhiều kỳ liên tiếp hoặc có thể lâu hơn. Tuy nhiên, nhược
điểm của phương pháp so sánh đó là khi dùng phương pháp này để phân tích
thì các nhà phân tích và các nhà quản lý chỉ mới dừng lại ở việc đánh giá
trạng thái biến đổi tăng lên hay giảm xuống của các chỉ tiêu mà không thấy
được bản chất dẫn đến sự biến đổi đó, hay nói cách khác, phương pháp so
sánh chưa thể giúp xác định nguyên nhân để đề xuất giải pháp.
1.3.2. Phương pháp chi tiết
Mọi quá trình và kết quả kinh doanh đều có thể chi tiết theo nhiều
hướng khác nhau nhằm mục đích đánh giá chính xác từng khía cạnh kết quả
đạt được cũng như các chính sách kinh doanh đã áp dụng. Phương pháp chi
tiết được áp dụng dựa trên đặc điểm của những yếu tố cấu thành nên đối
tượng nghiên cứu, khi đối tượng phân tích được chi tiết hóa càng cao thì tính
chính xác của kết quả phân tích càng tốt. Mỗi một đối tượng phân tích kinh
doanh đều có thể được chi tiết theo nhiều hướng khác nhau, chẳng hạn[20]:
- Chi tiết theo các bộ phận cấu thành của chỉ tiêu: cách chi tiết này sẽ


31

giúp cho nhà phân tích biết chỉ tiêu phân tích được cấu thành từ những yếu tố
nào, mỗi yếu tố đóng góp đến kết quả chung ra sao, từ đó có các biện pháp
tương ứng với từng yếu tố. Chi tiết như vậy sẽ giúp doanh nghiệp có được
những biện pháp sát nhất với thực tế kinh doanh.
- Chi tiết theo thời gian: Cách chi tiết này dựa vào đặc điểm của kết quả
kinh doanh – đó là kết quả kinh doanh không chỉ là kết quả của một công

đoạn mà là kết quả của một quá trình kéo dài trong một khoảng thời gian nhất
định. Trong từng khoảng thời gian khác nhau, doanh nghiệp có những chính
sách kinh doanh khác nhau và đương nhiên kết quả đem lại cũng không thể
giống nhau. Cách chi tiết theo thời gian giúp doanh nghiệp đánh giá chính xác
và đúng đắn kết quả kinh doanh trong từng giai đoạn cụ thể, từ đó lựa chọn
được những quyết sách phù hợp cho từng giai đoạn.
- Chi tiết theo địa điểm và phạm vi kinh doanh: để chi tiết theo cách này,
cần dựa vào đặc điểm kết quả hoạt động kinh doanh do nhiều bộ phận, theo
phạm vi và địa điểm phát sinh khác nhau tạo nên. Chi tiết chỉ tiêu phân tích
theo hướng này, nhà quản lý doanh nghiệp có thể nhận thấy khả năng cũng
như những yếu kém của từng bộ phận, từng phạm vi hoạt động, từ đó sẽ có
những quyết định đúng nhằm khai thác các mặt mạnh cũng như khắc phục các
mặt yếu kém trong từng bộ phận và phạm vi hoạt động khác nhau. Theo
chúng tôi, ưu điểm nổi bật của phương pháp chi tiết là giúp nhà phân tích
đánh giá được cụ thể, chi tiết hiệu quả kinh doanh của từng bộ phận, từng
công đoạn, từng thời điểm kinh doanh. Tuy nhiên, cũng như phương pháp so
sánh, nhược điểm của phương pháp chi tiết là vẫn chưa giúp nhà phân tích
đánh giá được tồn diện các ảnh hưởng từ hoạt động kinh doanh đến chỉ tiêu
phân tích.
1.3.3. Các phương pháp phân tích khác
Ngồi các phương pháp phổ biến trên, phân tích hiệu quả kinh doanh


×